Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

NTV 7 - Nụ tím mồng tơi

Mực Tím Mồng Tơi 

Trái Mồng Tơi (Mp3) Chế Thanh

LK Bồn bồn trắng - Trầu ơi - Màu hoa bí - Mực tím mồng tơi -

Nụ tím mồng tơi....
Nụ hoa "tim tím", lá mượt mà,
Vẫn luôn thôi thúc khách phương xa...
Nhớ gian nhà nhỏ miền quê cũ,
Bên giậu mồng tơi sao thiết tha ?!

Chiều tím hoàng hôn trời xứ lạ,
Tím thẳm trong ta nỗi nhớ nhà !
Tím chiều nhuộm tím màu hoa mới....
Sao vấn vương hoài tím mồng tơi ?!

Tìm giậu mồng tơi nhớ thương thôi,
Như đi tìm lại tuổi thơ tôi.....
Vươn lên mạnh mẽ luôn tươi mát
Và bóng hình quê : giậu mồng tơi !

Thời gian trôi mãi tuổi thơ qua ,
Vẫn mong gặp lại những nụ hoa,
Tím màu thi vị miền quê cũ,
Bên giậu mồng tơi vui hát ca.....
...............
À ơi, đã gặp nhau rồi ,
Tình quê luôn vẫn muôn đời thuỷ chung......
NM
               
800px-Basella_alba-2.jpg picture by huutienvl


                                    Màu tím mồng tơi
Trên đất Pháp, tôi đã từng ăn canh rau mồng-tơi xanh nấu với tôm he. Đôi khi lười biếng, tôi đi ăn self-service, món légume ăn kèm với thịt vẫn là rau mồng tơi xanh nghiền trộn bơ lạt và kem tươi. Khó mà tìm được mồng tươi tím. Mồng tơi xanh to lá hơn, cọng bụ bẫm hơn, nấu canh tôm he cũng ngọt không kém mồng tơi tím. Vậy mà trong tâm hồn tôi, lá mồng tơi tím đã mọc rễ từ lâu lắm rồi, trải qua bao khúc quanh éo le của lịch sử và đã tỏa một màu tím thật lãng mạn và thật thi vị trong suốt thời thơ ấu của tôi.
    Bạn ơi, chắc bạn chưa quên lá mồng tơi tím ngoài bờ giậu khi bạn còn ở bên quê nhà? Dường như chỉ ở xứ miền nhiệt đới như xứ sở mình mới có mồng tơi tím mà thôi. Tôi còn nhớ vào thuở ba tôi về Ngã Ba Trung Lương (tỉnh Mỹ Tho) lập nghiệp, bà ngoại tôi bảo tôi và chị tôi nên gầy dây một giậu mồng tơi tím chung quanh khu trồng rau thơm. Chị em tôi chẻ nứa thành những thanh hơi mỏng để đan giậu. Chỉ chừng hai ngày thôi, bờ giậu thành hình với những thanh nứa đan nhặt với những ô hình mắt cáo. Chị tôi lôi từ gian bếp đen óng vì mồ hóng và khói bếp, lấy một cái gói nhỏ đựng trong mo cau. Mở gói giấy ra, tôi chỉ thấy những hột đen đen ngoài bọc một lớp vỏ nhăn nheo. Chúng tôi đào những lỗ nhỏ cỡ đồng xu và sâu ba phân, mỗi lỗ cách nhau nửa thước, rồi bỏ một hột mồng tơi trong đó. Ngoại tôi nói:
    - Bây giờ là vào giữa mùa mưa, các cháu không cần tưới làm gì. Mồng tơi tím dễ trồng lắm.
    Chúng tôi chỉ chăm bón những loại rau khác, hầu như quên lãng những hột mồng tơi gây giống đi.
    Mùa mưa tháng bảy kéo về. Những trận mưa kéo dài có khi suốt ngày, suốt đêm. Mưa ngập ở dãy cây đu đủ và làm cho mấy gốc đu đủ úng thủy chết đi. Rồi vào một ngày nắng đẹp, tôi bắt gặp trên lớp đất ướt mịn, những mầm cây lá non mơn mởn nhú lên. Những cơn nắng lũ đã làm cho hột mồng tơi nứt vỏ, những trận mưa rào ấp ủ cho mầm sống nhú lên. Rồi thì cùng với mưa nắng, sương buổi sáng làm cho mầm cây trưởng thành mau chóng; chỉ độ hai tuần thôi, nó đã thành một sợi dây leo bò dọc theo một thanh nứa, lá vẫn xanh mơn mởn để rồi cùng với cọng dây ửng lên màu tím và rồi tím sẫm dần. Lá mồng tơi có hai mặt: mặt dương quay về ánh sáng mặt trời nên có màu xanh của diệp lục tố, còn mặt dưới ẩn trong bóng râm thì có màu tím.
    Từ dây chính, len qua những nách lá, những vòi dây mồng tơi mọc dài ra thành những dây phụ bám ngang, bám dọc theo những thanh nứa đan hình mắt cáo, chỉ trong vòng một tháng thôi, bốn mặt giậu chung quanh khu trồng rau đã được lá mồng tơi mặt xanh mặt tím che kín rợp.
    Dù mùa mưa trôi qua, dù dầu giãi dưới những cơn nắng trong tiết trời khô ráo, dây mồng tơi vẫn mượt mà, tươi mát, thấm nhuần nhựa sống dồi dào.
    Thế là khu trồng rau của chúng tôi, nhờ giậu mồng tơi đã có một chỗ riêng biệt giữa những cây cỏ hoang dại mọc hỗn tạp. Ngoại tôi giậm thêm những cây bồ ngót để nấu canh tôm, giậm thêm những khóm cao kỷ để nấu canh thịt. Rồi thì cải ngọt, rau tần ô, rau diếp, rau thơm, ngò gai, rau cần tàu được trồng theo từng luống. Những loại rau này cần phải tưới nước và chăm bón cẩn thận. Riêng những dây mồng tơi thì không cần săn sóc, vẫn đâm tược nẩy vòi.
    Tôi đã từng say ngắm sự tăng trưởng của những dây mồng tơi ngoài giậu. Những ngày nắng ráo, lá mồng tơi trông thật mướt, mặt lá bóng láng rung rinh dưới những cơn gió nhẹ hiu hiu, lóe lên những chấm sao nhấp nháy. Tôi hái một vài lá vò sát trong lòng bàn tay, khoan khoái cảm nhận chất nhựa trĩn ướt của lá. Và có những đêm rằm, trời trong mây tạnh, tôi cũng đến thăm giậu, mê mải nhìn ánh trăng giát bạc và trắng thủy tinh trên những phiến lá lung linh, hư ảo.
    Ngoại tôi không nấu canh mồng tơi suông đâu. Bà cũng hái rất nhiều lá mồng tơi, rồi cùng với rau tập tàng, rau bồ ngót, rau cải trời, rau dịu để nấu canh tôm. Những con tôm he được ngắt đầu, bóc vỏ, bỏ đuôi, rút gân máu, đem quyết nhuyễn và tra thêm tiêu, hành lá, nước mắm... rồi vo từng cục tròn tròn, dẹp dẹp thả vào nồi nước sôi, trước khi bỏ rau mồng tơi và rau khác vào. Canh rau do đó, thật ngọt, được múc vào những chiếc tô sành sản xuất từ Lái Thiêu, với một nét họa phóng bút bằng tay.
    Mâm cơm thuở tôi còn thơ ấu chẳng mấy thịnh soạn. Cùng với canh rau, ngoại tôi kho cá bống trứng, hoặc cá rô mề, kho bằng tộ để cho cá được thấm tháp, mặn mòi hơn. Đôi khi trên mâm cơm có thêm món xào, nhưng độn rất nhiều giá hoặc rau càng cua hay rau cần ta. Mâm đựng thức ăn thì bằng thứ gỗ tầm thường, đũa vót bằng tre; chén dĩa và muỗng cũng bằng sành, cùng do các lò gốm Lái Thiêu sản xuất. Những thuở đó, ba má tôi rất yêu thương nhau, cùng chấp nhận cảnh nghèo để tách ra khỏi đại gia đình dưới sự quản trị nghiêm khắc của ông nội tôi. Má tôi tự hào là chồng mình đã bắt đầu sống cuộc đời tự lập. Rồi đó, công cuộc làm ăn của ba má tôi dễ dàng hơn, cảnh nhà được sung túc hơn. Bàn ăn phủ khăn trắng, chén dĩa sành được thay thế bằng đồ sứ mỏng tanh và bóng hơn, đũa tre được đổi thành đũa mun có đầu bịt bạc hoặc đũa sơn son. Vậy mà, canh rau mồng tơi vẫn được dọn thường xuyên. Bà ngoại tôi nói:
    - Sắp nhỏ hay nổi rôm sảy và đổ ghèn con mắt, phải cho tụi nó ăn canh mồng tơi hay ăn canh bồ ngót để cho tụi nó giải nhiệt.
    Bồ ngót nẩy lá không kịp theo nhu cầu những nồi canh rau trong gia đình tôi thuở đó. Chỉ có giậu mồng tơi mới cung cấp đủ món canh rau thường xuyên mà thôi. Mặc kệ nắng cháy hay tiết trời khô hạn, những giây mồng tơi vẫn thản nhiên hiến dâng lá và mầm sống phong phú. Chúng tươi mát, mềm mại như cô gái đẹp dậy thì. Chỉ cần trải qua một đêm sương là lá và đọt đã thấm nhuần chất nước trong mát rồi.
    Và thú vị hơn nữa, những trái mồng tơi tím thẳm, to cỡ đầu mút đũa, bóp dẹp trái mồng tơi giữa hai ngón tay, chất nước màu tím tươi tiết ra. Chị tôi hái rất nhiều trái mồng tơi để làm mực tím, viết một lá thư kể tội tràng giang đại hải cô bạn trong xóm mà nhờ tôi chuyển giao.
    Tôi còn nhớ rõ thuở đó, chị tôi cỡ bảy tám tuổi, để tóc và ăn mặc nam trang, theo lũ con trai chơi những trò chơi con trai. Lối xóm hầu như quên chị tôi là gái. Lúc nào cũng liếng thoắng nghịch ngợm, lấy mực mồng tơi vẽ lên mặt rồi đi dọa con nít. Những đêm rằm, chị thủ sẵn những bông nấm sáng (nấm lân tinh) đợi những bà hàng xóm đem bánh và trái cây ra sân cúng rằm, chị rên hừ hừ, rồi núp vào lùm bụi đối diện với sân, tay cầm nấm sáng quơ lên. Các bà tưởng là ma, la bài hải, rồi lết vào nhà, bỏ bánh trái lại. Chị chui ra lấy hết bánh trái và không quên bỏ lại vỏ trái cây và giấy phong bao bánh cho khổ chủ.
    Ba má tôi vì mãi lo làm ăn nên ít khi săn sóc và giáo dục chúng tôi. Như rau mồng tơi, chúng tôi tăng trưởng tươi mát khỏe mạnh. Những người ở xa mới tới xóm thường nhìn chúng tôi khen:
    - Hai đứa nhỏ coi " ngộ" quá chớ. Nhứt là cái thằng anh, vừa cao ráo, trắng trẻo, mắt sáng như sao.
    Bà lối xóm ở gần nhà chúng tôi nhất, nhún trề:
    - Đứa lớn là con gái đó đa. Con gái gì mà như quỉ sống, ma vương. Khạp nước trong của tui để dành nấu nước pha trà mà nó dám thọc chân dơ vô để rửa chớ.
    Tuy ghét chị tôi như vậy mà mỗi khi chị tôi mang qua tô canh mồng tơi do ngoại tôi nấu, bà không quên thưởng cho chị khi thì trái ổi, khi thì khúc mía, phong bánh in.
    Năm 1946, ba má tôi đem chị em chúng tôi đi chạy giặc. Với chiếc xuồng ba lá, ba má tôi vượt từ Cai Lậy (Mỹ Tho) qua Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ (Sa Đéc), vượt qua sông Bassac (Cần Thơ) rồi theo kinh Bảy Ngàn xuống tới Hỏa Lựu, Hóc Hỏa. Ở Hóc Hỏa ba tháng, gia đình tôi trôi xuống Chắc Băng, và ở tại xóm Cây Đa cách chợ Chắc Băng sáu cây số. Ở đây đất phèn, chẳng có rau cỏ chi cả. Chung quanh là đồng hoang, nắng cháy. Nhưng con kinh đào, chạy qua xóm có rất nhiều cá sặc rằn lẫn cá rô mề. Chị em tôi thường vào rừng tràm hái đọt choại về nấu canh hoặc luộc. Thèm canh rau mồng tơi và quê nhà ở Ngã Ba Trung Lương (Mỹ Tho) biết chừng nào!
    Vào năm 1946, vừa thấy tình hình yên ổn, má tôi đem chị em tôi hồi cư. Về quê cũ, gia đình tôi trở lại nếp sống đạm bạc như xưa. Má tôi bán bớt tư trang và những món đồ sứ. Canh rau mồng tơi được nấu thường xuyên, nhưng không còn nấu với tôm thịt, mà chỉ nấu suông và nêm thêm một chút mắm ruốc cho ngọt. Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Con lộ băng qua trước ngõ nhà tôi thường xảy ra những cuộc chạm súng kinh hồn.
    Chúng tôi nghỉ học. Tìm được tập giấy trắng và ngòi viết lá tre cũ, tôi hái trái mồng tơi pha chế thành mực tím chép những bài hát nổi tiếng đương thời. Trên nền giấy ố vàng, những hàng chữ gò gẫm, sắc nét và lối trình bày sạch sẽ cũng làm cho tập giấy có vẻ ngoạn mục riêng.
    Trong cuộc chạm súng ở trước nhà, tôi bị một vết đạn trên đầu. Sau hai tuần hôn mê ở bệnh viện Mỹ Tho, tôi được giải phẫu. Vừa khi tôi lành mạnh ăn giả bữa, chị tôi đem một " gà-men" đựng canh rau vào để tôi ăn cho ngon miệng hơn. Lúc đó, tôi ngạc nhiên quá đỗi, chị để bôm-bê và mặc quần sa-teng đen, áo bà ba lụa tím, đi guốc sơn đen. Áo lụa tím vẫn là màu mực mồng tơi mà tôi ưa chuộng.
    Rồi chúng tôi bỏ Ngã Ba Trung Lương, về Vĩnh Long sống nhờ ông nội chúng tôi. Chung quanh nhà, chúng tôi rào giậu mồng tơi, trồng bồ ngót, cao kỷ, bạc hà, cây lá giấm. Mâm cơm quê nội có bát dĩa sang trọng, nhưng thức ăn rất đạm bạc. Việt Minh đã sung công hết ruộng đất của ông nội tôi. Sản nghiệp của ông dần dần khánh kiệt. Với tài chế biến khéo léo, má tôi làm những món đạm bạc nhưng ngon lành và tinh khiết: canh rau nấu bột ngọt, cá cơm kho tương ăn với dưa leo và rau thơm, cá linh, cá rô kho sả ớt, con ruốc chấy tóp mỡ... Giậu mồng tơi quê nội đã giúp cho mẹ con tôi chịu đựng cái nghèo trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh suốt chín năm.
    Gia đình tôi lại bắt đầu sung túc khi ba tôi đi kháng Pháp trở về. Mâm cơm đã có những món xúp nấu với bột mì hoặc xúp nấu với cải bắp, khoai tây, hành tây và thịt bò, nhưng chúng tôi vẫn thích ăn canh mồng tơi, nhứt là để tưởng niệm bà ngoại tôi chết vào năm 1948.
    Từ năm 1967, chị tôi thực sự bước vào làng văn do sự giúp đỡ của ông bà Võ Phiến. Vừa viết văn, làm báo, vừa đi dạy Anh văn, chị tôi có nhiều tiền. Vậy mà chị vẫn ở trong căn nhà hẹp té ở gần tòa đại sứ Cam- bốt. Chị cho rằng chỉ ở trong cái nhà đó, chị mới làm ăn khấm khá. Tôi cứ ăn chực, sống nhờ chị để đi học, mà rồi cứ lận đận ở bực đại học hoài. Mâm cơm ở nhà thật thịnh soạn. Vậy mà vào những buổi xế nóng nực, uống nước cốt trái cây, uống bia và coca mà không đã khát, chị tôi dặn cô giúp việc:
    - Em nấu canh mồng tơi và kho cá bống trứng cho chị đi.
    Rồi tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức, khóa 26, bắt đầu từ khoảng đầu thu 1967. Vào Tết Mậu Thân, Việt cộng mở một cuộc tổng tấn công, trường hoãn việc huấn luyện. Các sinh viên sĩ quan phải ở trong tình trạng ứng chiến. Nhà bàn dọn cơm ăn toàn là thịt trâu nấu với khoai lang hoặc các thực phẩm đóng hộp. Không có chất rau cỏ trong người, chúng tôi (các bạn đồng khóa và tôi) cảm thấy táo bón, bực bội. Nhiều đêm, tôi nằm ngủ trong căn liều cắm bên giao thông hào, mơ thấy mình lạc vào những khu rừng xanh mát, có những bồn nước mưa trong vắt, có những rẫy trồng rau mơn mởn và tươi hơn hớn, nhứt là giậu mồng tơi với những phiến lá mặt tím, mặt xanh, lung linh hư ảo dưới ánh trăng huyền hoặc. Trong thời gian đó, chị tôi kẹt ở Lộc Ninh. Khi về được Sài gòn, có đến Thủ Đức thăm tôi, đem theo rất nhiều trái cây và rau. Tôi và các bạn bắc ba cục gạch, chất củi khô nhúm lửa rồi dùng nón sắt đun nước sôi, thả rau vào luộc hoặc nấu canh với bột ngọt. Bữa cơm rau mồng tơi đầu tiên trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân mới ngon lành làm sao! Anh bạn Q. đem cơm và nước tương ở nhà bàn về, cả bọn bốn đứa ngồi xúm xít bên nón sắt, chan canh vào cơm, rồi chấm rau vào nước tương, nhai rau ngau ngáu, húp nước canh xì xụp, cảm thấy gan ruột mình mát mẻ, mình được chút sinh tố tươi mát, mình được nhuận trường.
    Mãn khóa 26, tôi thực sự bước vào đời lính suốt bảy năm ròng, lê gót giầy saut khắp Quân Khu 3. Này Bến Cát, Lai Khê với bản doanh bộ Tư lệnh Sư Đoàn 5. Này Trị Tâm nằm trong đồn điền cao su Michelin. Này Tây Ninh có chợ trời Hiếu Thiện băng qua biên giới. Này Phú Giáo với thị trấn mới có những căn cứ Mỹ đóng. Này Củ Chi, nơi ổ giặc núp kín đang làm bàn đạp để tấn công Quân Khu 3, đêm đêm tôi có thể nghe tiếng chày giã lá bàng trong các xóm xa. Này Tống Lê Chân, căn cứ được mệnh danh là " con mắt hồng ngoại tuyến" đã từng dọ dẫm và ngăn chận sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ Quân Khu 3. Này Phước Long, ải địa đầu cực bắc đã chịu nhiều cuộc pháo kinh hồn cuối năm 1974 và lẫn trong rừng chồi có những sào huyệt của địch với những tên Chiến Khu D, mật khu Dương Minh Châu, vùng Tam Giác Sắt với chiến dịch mùa mưa, cao điểm Đông Xuân... Sau hết tôi về bộ Tư lệnh Quân Đoàn III và Quân Khu 3 ở Biên Hòa, làm việc trong ban Báo Chí.
    Tôi đã đi nhiều địa danh, đã theo những toán Dân Sự Vụ đưa đồng bào ở các vùng xôi đậu về khu định cư lánh nạn Cộng sản. Bước chân tôi đi trải qua những vùng rừng chồi rậm rạp, những cánh đồng nhiều hố bom, những ruộng dưa hấu bỏ hoang, những khu vườn đất còn khét pháo và cây cối loang lổ vết đạn. Vậy mà rau hoang dại vẫn sinh sôi nẩy nở. Nhiều nền nhà còn sót lại giàn mồng tơi tím. Dù không ai săn sóc, dù không khí nồng thuốc khai quang, dây mồng tơi vẫn mượt mà bám vào những nhánh cây khô, trườn mình lên nền đất để phơi bày những phiến lá mọng nước, rung lấp loáng dưới cơn nắng đổ lửa.
    Cuối xuân năm Ất Mão, sau khi Việt cộng xâm lăng toàn thể miền Nam, tôi bỏ xóm ở Phú Nhuận, về nhà chị tôi ở gần hồ tắm Thiên Nga tá túc. Anh rể tôi, nhà thơ Tô Thùy Yên đã đi học tập cải tạo. Chị tôi bị cấm hành nghề viết lách, bán dần từng món trong nhà. Giàn mồng tơi ngoài bờ rào và bên cửa sổ mọc xum xuê. Nồi canh mồng tơi thời kháng Pháp ở tại Ngã Ba Trung Lương có dịp nấu lại, và chẳng có tôm thịt mà chỉ mêm bằng vài thìa mắm ruốc, thêm một chút ớt bột và tiêu. Tôi cùng với chị tôi và các cháu cứ ăn canh mồng tơi, rau muống luộc, trứng luộc dầm với nước mắm từ bữa ăn này sang bữa ăn khác. Vậy mà chị tôi vẫn vui vẻ, hồn nhiên, nói khôi hài, kể chuyện tiếu lâm không ngớt. Trong khi đó, tôi lo sợ bị bắt vì không đăng ký học tập. Tóc tôi bạc đi nhiều mà quái lạ thay, tuy chị tôi lộ vẻ vui tưoi, nhưng tóc của chị bạc mau chóng. Nhưng khuôn mặt hai chị em tôi không già héo, dáng dấp vẫn dẻo dai. Nội lực, tiềm lực của chị em tôi làm sao cạn với trong tình thương đùm bọc của một số bạn bè? Dù qua biết bao nhiêu vận nước bi thảm, dù trải qua những tai ương, chúng tôi còn niềm tin yêu cuộc đời. Chúng tôi là những dây mồng tơi tím, mượt mà bò trên mặt đất mấp mô, lăn xả vào gai góc để trổ lá, đâm tược, tha thiết quấn vòi vào.
    Chúng tôi giờ đây dù kẻ ở bên quê nhà, người sống nơi tha hương vẫn bền lòng đợi anh Yên trở về trong một ngày nước nhà được thoát khỏi ách thống trị của Việt cộng. Anh Yên còn ở nhà, rất dở chịu đựng. Thế mà anh đã chịu đựng trong ngục tù lao động của Cộng sản suốt bảy năm ròng. Tin mới nhứt từ quê nhà đưa sang là anh vẫn khỏe mạnh. Có chạm trán và thử thách gian nan, tôi mới rõ phần tiềm lực sâu sắc nhứt của từng cá nhân. Tôi đã đương đầu với sinh kế gian nan trên cái xứ nổi tiếng về nạn thất nghiệp là xứ Pháp. Nếu anh Yên trong vòng kềm kẹp khắt khe của Cộng sản, vẫn là dây mồng tơi tím, trườn mình vào chông gai, thì trên đất Pháp, tôi cũng bò lên những nhiêu khê phiền toái của sinh kế, kiếm chút ít tiền để mua quà và thuốc men gởi về cho mẹ tôi, chị tôi và các cháu tôi.
    Có một thời gian, nằm trong căn phòng tại thành phố Meudon, cách Paris hàng mười cây số, trên ngọn đồi cao, đêm đêm vọng tiếng cú rúc ở bìa rừng, tôi hình dung lại giậu mồng tơi và tô canh mồng tơi tím nấu với vài thứ rau khác cùng tôm he. Tôi đã thấy rồi, qua hồi ức, trên những phiến lá óng mượt dưới ánh trăng, trong đáy bát canh cả một cuộc đời thăng trầm của gia đình tôi, những vận mệnh bi đát của quê hương tôi. Tuy vậy, cùng với mái tóc sớm điểm bạc, tôi đã giữ một chút tươi mát tận trong cõi tiềm lực thâm thúy, để còn hy vọng ngày về, để kể cho con cháu nghe lại một loại rau mát lành của quê hương từng nuôi sống gia đình tôi và gieo cho tôi ý niệm về cái ung dung, tươi mát của một tâm hồn thơ mộng không bao giờ hủy diệt trước nghịch cảnh.

Hồ Trường An 

Giậu mồng tơi

 - Tôi nhớ lắm cái bờ rào thời ấy, cái bờ rào cạnh chiếc ao con ngăn nhà tôi với nhà hàng xóm. Bao nhiêu trò chơi của lũ trẻ chúng tôi đã gắn liền với cái bờ rào này, dưới gốc cây dừa bóng mát, có khoảng đất trống phẳng lì.


Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn" 
Hai câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính đưa tôi trở về với hình ảnh thân thuộc, bình dị của làng giậu trước mảnh sân nhà, là ranh giới với nhà hàng xóm.
Ngày xưa, ở nông thôn, người ta phân chia ranh giới bởi những bờ rào. Những cái bờ rào vừa kín vừa hở, lũ trẻ chúng tôi muốn đến nhà nhau chơi thường chui qua bờ rào cho nhanh chứ ít khi đi qua ngõ; người lớn xin nhau nắm lá chanh gội đầu cũng đưa cho nhau qua khe hở bờ rào. Những lúc nhàn rỗi, ra ngồi bờ ao, cạnh bờ rào hóng mát, người ta trò chuyện với nhau đủ thức chuyện xa gần... Một thời như thế, nông thôn nhà tiếp nhà, vườn tiếp vườn chỉ cách nhau có cái bờ rào mong manh ấy. Cuộc sống thật yên bình, con người thật thân thiện.
Tôi nhớ lắm cái bờ rào thời ấy, cái bờ rào cạnh chiếc ao con ngăn nhà tôi với nhà hàng xóm. Bao nhiêu trò chơi của lũ trẻ chúng tôi đã gắn liền với cái bờ rào này, dưới gốc cây dừa bóng mát, có khoảng đất trống phẳng lì. Cái bờ rào với rất nhiều những loại cây, sinh ra đã là để làm bờ giậu.
Đó là những cây duối thân gỗ, cành lá rậm rạp, lá nháp xanh rì, hè về quả chín vàng như sao trời. Những cây vú vò không biết tự đâu cũng mọc lên quấn quít, quả căng hình bầu vú nho nhỏ xinh xinh, núm đỏ hồng, bứt khỏi cành nhựa tuôn trắng như sữa mẹ. Có lẽ vì hình quả như vậy nên nó có cái tên vú vò thật dễ thương. Những cây tre dây không gai, thân rỗng, cành mềm xanh mướt. Những cây dâm bụt hoa đỏ nhị dài, cánh kép buông xuôi trông như những chiếc đèn lồng và vướng vít là những sợi tơ hồng vàng ươm, những dây bìm bìm xanh mướt, hoa tím mỏng manh rung rinh như cánh bướm...
Lũ trẻ con chúng tôi thời ấy không bị bố mẹ quản lý chặt chẽ như lũ trẻ bây giờ, những trưa hè mặc sức lang thang, chơi những trò mình thích. Cái bờ rào đối với chúng tôi giống như một siêu thị đồ chơi... Chúng tôi say sưa chơi trò bán hoa quả.
Hoa, quả của chúng tôi có sẵn ở bờ rào: những quả duối vàng ngọt mát, quả vú vò dòn chát, hoa dâm bụt đỏ tươi, hoa bìm bìm tím ngát... Chơi chán thì ăn một cách ngon lành mặc dù đã được người lớn dặn dò: Không được ăn linh tinh vì rắn nó hay phun nọc độc... tuổi thơ tôi đã ăn bao quả duối, quả vú vò như thế, có sao đâu...!
Mỗi ngày, chúng tôi nghĩ ra một thứ trò chơi, những trò chơi mà cái bờ rào đã cung cấp. Tôi nhớ lắm cái trò câu công cống. Tuổi thơ tôi đã câu được bao con công cống chỉ để mà chơi. Bạn đã bao giờ chơi trò câu công cống chưa? Cần câu là những nõn tre dây chúng tôi lấy ở bờ rào, đầu non cắm xuống những lỗ nhỏ tròn vo dưới đất, tổ của những con công cống (sâu đất), cắm nõn tre xuống, lấy tay vỗ nhẹ xung quanh miệng lỗ, miệng khe khẽ hát: công cống, cống công muốn ăn lá non chui lên mặt lỗ... khi nào thấy nõn tre xoay xoay là khi công cống đã cắn mồi, nhẹ nhàng nhấc lên sẽ được một chú công cống bé nhỏ, trắng nõn.
Cái nõn tre dây ấy đối với lũ con gái chúng tôi còn là đồ trang sức. Chúng tôi xâu nõn tre thành những khuyên tròn, tầng tầng lớp lớp, nhỏ bé khác nhau rồi đeo vào tai trông như cách trang sức của trẻ con dân tộc vậy.
Thú vị nhất là chơi đánh chuyền. Que chuyền là những cành tre dây nhỏ, xanh óng, quả chuyền là bưởi non rụng cạnh bờ ao..., con trai thì đánh khăng, chơi gụ, nguyên liệu cũng từ bờ rào, bờ giậu mà ra (que khăng là một đoạn thân tre dây nhỏ, gụ đẽo từ gốc duối, cành xoan...). Tuổi thơ của chúng tôi đã trôi qua một cách hồn nhiên, giản dị, tự do, thân thiện với thiên nhiên, thân thiện với nhau để rồi dù có đi đâu về đâu chúng tôi cũng không bao giờ quên có một thời bình yên như thế.
Tôi thầm cám ơn cái bờ rào, cái bờ giậu tuổi thơ đã cho chúng tôi sự tự do trong cách chơi, cách cảm để tôi thấy thấm thía hơn sự đổi thay của cuộc đời... khi không còn cái bờ giậu mong manh ngày xưa ấy.
Xã hội thay đổi, nông thôn giờ đã khác xưa. Nhiều người làm ăn khấm khá cũng xây nhà ống như chốn thị thành. Bờ rào, bờ giậu giờ thay bằng tường bao đầy ngăn cách. Con người cũng sống khép kín hơn. Con lợn, con gà không được tự do lang thang như trước... Và lũ trẻ chẳng có bờ rào mà chơi như chúng tôi xưa...!
Phạm Thị Liên

                Rau mồng tơi - Vị thuốc thanh nhiệt 

Rau mồng tơi đã quá quen thuộc với chúng ta. Đối với người dân vùng nhiệt đới, mùa hè nóng khát phải có các món canh rau như mồng tơi. Nói đến mồng tơi, người ta nghĩ ngay đến tác dụng nhuận tràng "trơn ruột" để chữa táo bón thường ngày khỏi phải vội dùng những thuốc nhuận tràng của Tây y vốn không tránh khỏi những tác dụng phụ, nhất là đối với người già, trẻ em. Nhưng còn nhiều công dụng của rau mồng tơi mà ta cần biết để tận dụng.
Rau mồng tơi còn có các tên mùng tơi, tầm tơi, tên Hán là lạc quỳ, chung quỳ, yên chi thái, đằng thái. Tên khoa học Basella rubra Lin, họ mồng tơi. Mồng tơi tính hàn, vị chua, tán nhiệt, mát máu, lợi tiểu, giải độc, làm nhuận da, hoạt trường, không độc. Theo Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh còn có tác dụng hoạt thai làm dễ đẻ.
Trong mồng tơi chứa chất nhầy pectin rất quý để phòng chữa nhiều bệnh, làm cho rau mồng tơi có tác dụng nhuận tràng, thải chất béo chống béo phì, thích hợp cho người có mỡ và đường cao trong máu. Tác dụng trừ thấp nhiệt, làm cho người lao động ngoài trời nắng nóng duy trì được sức khỏe, phòng chống bệnh tật như mỏi mệt háo khát, bứt rứt.
Sau đây là một số cách dùng rau mồng tơi
Thanh nhiệt giải độc: Có nhiều cách từ đơn giản đến phức tạp. Ta đã có những cách thông dụng như canh rau mồng tơi, hoặc kèm rau đay, mướp, cua, tôm... ăn với cà pháo muối giòn thì ngon tuyệt, lại mát ruột ngon miệng, ăn được nhiều cơm mặc cho trời nóng bức...
Hoạt trường thanh nhiệt dưỡng âm giúp da tươi nhuận: Rau mồng tơi luộc chấm hoặc trộn vừng đen đã rang tán bột.
Chữa đầy bụng: Rau mồng tơi 50g, rau đay 50g, khoai sọ 1 củ (bóc vỏ thái nhỏ) nấu canh ăn vài ba ngày. Hoặc dùng 4 loại rau sau đây với lượng bằng nhau nấu canh: mồng tơi, đay, rau khoai, rau má.
Chữa táo bón lâu ngày gây thoát giang: Lá mồng tơi, lá vông non mỗi thứ 30g, rễ đinh lăng 20g, củ mài 12g (thái mỏng sao vàng), vừng đen 30g (rang nổ) sắc với 600ml nước còn 300ml. Người lớn chia 2 lần, trẻ em tùy tuổi dùng ít hơn.
Chữa khí hư, suy nhược: Gà ác 1 con, lá mồng tơi 1 nắm, đậu đen 1 nắm, ninh nhừ ăn nóng cả nước và cái. Tuần ăn 1-2 lần cách nhau 3-6 ngày. Khi thấy có kết quả cho thêm một nắm đậu nành, 2 nắm lạc. Món này giúp chị em bồi dưỡng sau đẻ và làm cho da hồng hào, tóc đen mượt. Người bị đau dạ dày, ợ chua ăn món này cũng tốt.
Để da tươi nhuận hồng hào: Dùng rau mồng tơi nấu canh với cá trê vàng, mỗi tuần ăn 1 lần.
Chữa tiểu tiện buốt nóng: Lá mồng tơi 1 nắm, giã nhuyễn, lấy nước cốt pha thêm nước, chắt lấy nước, uống nóng với ít hạt muối. Bã đắp vùng bàng quang.
Nhức đầu do đi nắng: Lá mồng tơi giã nhuyễn lấy nước uống, bã đắp vào 2 bên thái dương băng lại.
Tráng dương, trị "yếu sinh lý": Rau mồng tơi, rau ngót, rau má. Mỗi thứ 1 nắm, 1 bộ lòng gà hay vịt, đủ cho 1 người lớn ăn 1 bữa. Nấu canh, ăn vã hoặc ăn với cơm. Tuần ăn vài lần. Nếu uống kèm nước cơm rượu, hiệu quả càng lớn.
Canh rau mồng tơi phối hợp với tôm: Tôm tươi bóc vỏ bỏ đầu ướp hành muối xào săn, chế nước dùng sôi cho rau mồng tơi sôi lại. Tác dụng bổ dương cường thận.
Chữa di mộng tinh: Rau mồng tơi, đậu nành, lạc. Mỗi thứ 1 nắm, nấu với 1-2kg xương lợn (xương ống tốt hơn), hầm kỹ xương lợn trong nồi áp suất rồi mới cho đậu lạc và cuối cùng cho rau mồng tơi. Có thể cho thêm tiêu bột, nước tương, nước mắm. Ăn nóng, ăn xong uống nước nóng.
Chữa hoạt tinh: Trường hợp tinh xuất quá nhanh và sau giao hợp thường bị mệt mỏi đuối sức, xanh xao. Rau mồng tơi 1 nắm, rau dền tía 1 nắm nấu với 1 đôi bầu dục để nguyên lớp mỡ và vỏ bọc (không bóc vỏ) cho gia vị. Ăn nóng. Ăn xong uống nước trà gừng nóng sẽ tăng hiệu quả. Trước khi đi ngủ ăn 1 thìa vừng đen (đã rang thơm) nhai kỹ nhuyễn rồi nuốt. Xong uống 1 chén nước cơm rượu, càng có hiệu quả cao hơn.
Chữa đầu vú sưng, nứt, trĩ, mụn nhọt, bỏng: Lá mồng tơi rửa sạch giã nhuyễn với ít muối đắp lên chỗ tổn thương. Da mặt khô nhăn nẻ, tay chân bị cước cũng có thể dùng lá mồng tơi như vậy. Chú ý rau mồng tơi phải rửa sạch.
BS. Phó Thuần Hương
 
Tình giậu mồng tơi
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn”. Mới nghe tưởng đâu tôi đang ngân nga bản tình ca của Nguyễn Bính, nhưng thật ra là mượn thơ ông ấy để nói chuyện của tôi.  
Đúng là nhà tôi với nhà nàng cách nhau cái “giậu mùng tơi”. Cứ mỗi chiều hai bà mẹ yêu dấu lại sai tôi và cả nàng ra hái mùng tơi về nấu canh.

Thực ra cái giậu mùng tơi ấy là của nhà nàng, nhà tôi chuyển lên Tây Nguyên sống cạnh nhà nàng khi tôi 14 tuổi. Và dĩ nhiên vì tình làng xóm thì cái giậu ấy trở thành của chung hai nhà. Tôi không biết nhà nàng chăm sóc như thế nào mà lá mồng tơi lúc nào cũng xanh mươn mướt. Nhiều bận hai nhà ăn không hết, mẹ nàng còn hái cho mấy nhà hàng xóm, hay đem ra chợ bán. 
Lúc tôi mới đến, tôi chẳng để ý gì đến sự có mặt của nàng. Chỉ đến một chiều, tôi đang lui cui hái mấy quả mùng tơi chín về giả làm mực để chơi thì nghe tiếng nàng quát inh ỏi bên tai “ Tên kìa, làm gì đấy! Định ăn trộm rau nhà người ta à”. Tôi vì quá giật mình và cũng vì cái giọng oanh vàng của nàng và theo phản xạ tự nhiên ôm tất cả quả hái được bỏ trong áo. Hậu quả áo tôi đẫm một màu tím và cái mông cũng thêm mấy làn răn. Tôi và nàng quen nhau như thế.
Rồi tôi cũng có dịp sang nhà nàng chơi khi bố mẹ đi làm cả ngày và gửi tôi bên nhà nàng. Bữa trưa tôi cũng ăn cơm ở nhà nàng, có lẽ từ những bữa cơm trưa như thế tôi đã thấy quí đứa con gái chanh chua kia, để khi lớn lên trong mắt tôi chỉ biết có nàng và giờ đây nàng là mẹ của các con tôi.
Bữa ăn hồi ấy đạm bạc lắm, chỉ có bát canh mùng tơi nấu suông, có hôm thêm quả trứng gà đập vào hay một ít tép khô nhưng sao ngon và ngọt ngào thế!  Món tôi ghiền nhất là mùng tơi nấu mướp hương, có thêm ít tôm khô nữa. Canh vừa ngọt, vừa mát lại thơm hương mướp, mỗi khi nàng nấu canh sôi tôi cứ ngồi bên hít hà mãi cho đỡ cơn thèm. Những món ăn ấy được nấu bằng bàn tay của con nhóc mới 14 tuổi mới nể chứ, mỗi lần nàng nấu ăn tôi cũng ngồi chổm hổm bên cạnh giúp nhặt rau, đẩy củi. Nhà nàng có mỗi nàng, nhà tôi có mỗi tôi nên các cụ hai bên thấy chúng tôi thân thiết với nhau đòi kết thông gia.
Có một chuyện buồn cười mà tôi và nàng mỗi khi nhớ lại cả hai đều bật cười. Đó là ngày tôi quyết định tỏ tình với nàng sau...3 tháng ăn nhờ ở đậu. Ngày ấy, tuy mới 14 tuổi những nàng trong rất đẹp gái và ra dáng thiếu nữ. Mấy người bạn của mẹ nàng đến chơi cứ khen nàng vừa đẹp người lại đẹp nết ai cũng có ý sau này gả con trai cho nàng. Tự nhiên tôi thấy bực bội khó chịu trong người, thế là tính anh hùng rơm trong tôi trỗi dậy. Mà có lẽ cũng nhờ một chút bồng bột con nít ấy mà giờ ngày nào tôi cũng được ăn canh mùng tơi.
Nàng đang quét sân sau nhà, tôi tức tốc chạy ra kéo nàng lại gần giậu mùng tơi, nắm chặt tay nàng và quả quyết “ Tao,  Thắng Sún, thề sau này chỉ làm chồng của mày, My Móm. Mày cũng chỉ được làm vợ tao thôi!Vì...vì tao yêu mày!” Nàng nhìn tôi há hốc mồm, rồi vùng tay ngúng nguẩy bỏ đi “Đồ điên”. Không kịp để nàng phản ứng gì thêm và cũng để chữa thẹn tôi chỉ vào giậu mùng tơi “ Khi nào giậu mùng tơi này không còn nữa tao mới bỏ mày”.
Cũng may, mẹ nàng vì quí giậu mùng tơi nên sau nhiều năm có xây nhà, làm sân vẫn giữ lại chứ không phá nếu không chắc tôi cũng không lấy được nàng. Hay là nàng có bày tỏ gì với các cụ chuyện hai đứa thề thốt ở đây chăng?Ngày cưới nhau nàng cứ cười khúc khích “Tui cũng yêu ông, Thắng Sún”. Tôi chỉ biết đỏ mặt cười trừ với nàng...
Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao Nguyễn Bính có bài thơ hay đến vậy...Có lẽ ông cũng tỏ tình ngốc xít giống tôi.
ST