Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Lời ru của mẹ

TIẾNG VÕNG TRƯA HÈ

Lời ru của mẹ
Con về tìm tiếng võng đưa,
Tìm câu mẹ hát năm xưa ngọt ngào...
Lời ru của mẹ - ca dao ,
Dạt dào tha thiết biết bao ân tình...
Dẫu đời dâu bể điêu linh,
Trong tim vẫn giữ bóng hình mẹ xưa,
Nhớ từng nhịp võng đong đưa ,
Nhớ lời mẹ hát ầu ơ ví dầu !!
Gió hè lay ngọn sầu đâu, 

Theo lời ru nhẹ con sâu giấc nồng...
Hết xuân rồi lại sang đông.
Con chừ khôn lớn không còn mẹ ru !
Ngàn năm đến tận thiên thu, 

Ầu ơ của mẹ : lời ru tuyệt vời !!
NM

                    Đâu rồi võng đay quê tôi ?

Bước chân vào ngõ tre làng
Lòng buồn nặng trĩu nghe nàng ru con
Bước lên thềm đá rêu mòn
Lòng buồn nặng trĩu nghe buồn võng đưa
(Ca dao)
Quê mẹ tôi ở bên dòng sông Đáy. Con sông xanh biếc, hiền hoà, bãi sông trù phú, mùa nào cũng mướt xanh. Trước kia, loại cây được trồng nhiều nhất là đay, để cung cấp nguyên liệu cho làng có nghề làm võng. Nghề làm võng đay đã có thời mang lại no ấm cho làng tôi. Con gái quê tôi đến tuổi lấy chồng, thường được cha mẹ cho tết võng bán lấy tiền làm vốn riêng. Cô nào chăm chỉ, khéo tay thì hay có võng bán, được tiền, lại được tiếng đảm đang, càng đắt chồng.
Cây đay thân tròn màu xanh, nhỉnh hơn ngón tay cái, mọc thẳng đều tăm tắp ở bãi sông. Khi cây cao quá đầu người, chặt về, ngâm xuống ao khoảng bảy ngày thì vớt lên, cạo lớp vỏ mỏng màu xanh bên ngoài, dùng tay tước ra nhiều lớp. Lớp ngoài cùng cứng, còn sần lên chút mấu, chỉ để bện thừng hay bán cân làm dây buộc. Các lớp trong màu vàng nhạt, nõn nà, dài cả sải tay đem phơi khô, gấp thành từng sấp vài cân, chợ phiên nào cũng bày bán cả dãy. Lõi cây đay còn lại dùng để đun, cháy rất đượm. Mỗi lần nhớ về quê là tôi lại nhớ tới những câu thơ của Nguyễn Bính:
Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Để tôi mơ mãi mơ nhiều:
Tước đay se võng nhuộm điều ta đi

Để sợi võng mềm nuột, phải đập đay rất kỹ. Chiều chiều, làng trên xóm dưới vang lên tiếng đập đay thì thụp. Người đập đay thường ngồi bệt, để đòn kê là một miếng gỗ to, dày như bắp vế giữa hai chân, một tay xoay trở bó đay nõn buộc lơi, tay kia cầm cái vồ bằng gỗ có chuôi, đập nhát nào ra nhát ấy. Có người lại hai tay hai vồ, tay thuận tiếng đập chắc, tay trái điểm nhẹ hơn; tiếng đục, tiếng thanh gối nhau nhịp nhàng, rất vui tai. Trẻ con lại thích đập đay chung, hai đứa hai vồ ngồi dãi thẻ hai bên đòn kê, bó đay đập mịn tơi vẫn chưa hết chuyện. Nhà bác tôi có tảng đá xanh chôn trước cổng, người trong xóm hay mang đay ra đập nhờ, chỉ nghe tiếng vồ là bác biết nhà nào, người nào đang đập đay. Qua biết bao năm tháng, tảng đá xanh đã nhẵn lỳ, những đòn kê bằng gỗ bị mòn võng xuống, còn các cái vồ cũng ngấm mồ hôi, lên nước bóng loáng.
Người quê tôi chăm lắm, đi làm thì thôi, về đến nhà là lập tức ngồi vào se võng, vào nhà ai cũng thấy vài cái võng làm dở móc trên cột. Thường mỗi người làm một võng để các sợi võng, mắt võng được đều tay, võng mới đẹp. Chỉ khi làm quại võng, cổ võng mới nhờ những người khoẻ tay làm giúp.
Hồi đó chưa có điện. Xong bữa cơm chiều ở ngoài sân, dọn dẹp, thắp cái đèn hoa kì lên là cả nhà ngồi vào làm võng. Các cô gái hay hẹn nhau mang võng của mình đến một nhà, móc chung vào cột, vừa làm, vừa chuyện râm ran tới khuya. Những ngón tay mềm như múa, những cái bóng rung rinh trên vách trong ánh sáng mờ mờ của đèn dầu. Con gái quê tôi ngón tay chẳng nuột nà vì phải đập đay, se đay. Dùng ngón trỏ và ngón cái se riêng hai nhúm đay theo chiều kim đồng hồ, rồi bện hai nhúm đó với nhau ngược chiều kim đồng hồ, mới được một li của sợi võng. Mấy sợi võng dài độ ngón tay lại tết thành một hoa thị. Cứ thế, một chiếc võng đay, với hàng trăm ô mắt cáo đều tăm tắp, sợi võng mịn màng, không nhìn thấy mối nối nào đã được kết nên bởi những bàn tay khéo léo, nhẫn nại, chịu thương chịu khó của người quê tôi.
Phiên chợ, người quanh vùng đổ về. Bên cạnh các sản phẩm cây trái, rau quả, lợn gà là võng và đay. Người làng mang những chiếc võng của mình làm ra, bẽn lẽn đón nhận khen chê của thiên hạ, nhận chút tiền công, còn vốn lại mua đay, quay vòng chờ phiên chợ khác.
Bây giờ, chợ họp mỗi ngày , nhưng tìm một chiếc võng đay cũng khó, chỉ thấy võng dù, võng nilon, võng xếp. Quê mẹ tôi giờ đã thành Hà Nội, rất nhiều dự án lớn đang được triển khai trên những cánh bãi trồng đay ngày xưa. Tảng đá xanh để đập đay giờ cũng chìm vào lòng đất. Cả làng hầu như chẳng ai dùng võng nữa. Ngôi nhà cổ của ông bà ngoại tôi, với luỹ tre xanh mát sau nhà, với những cột gỗ lim đen bóng giờ nhường chỗ cho ngôi nhà lớn ba tầng hiện đại, đẹp mà sao vẫn thiêu thiếu một cái gì… Nhớ ngày xưa, ông tôi hay nằm võng đọc Kiều sang sảng, cuốn sách in bằng chữ Nôm trên giấy bản. Nhớ những trưa hè, mấy chị em ngủ chất chồng trên võng, tiếng võng đưa kẽo cà kẽo kẹt, tiếng bà ru như thật, như mơ
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về…
Chữ Thu Hằng

"Lời Ầu À Ơi Của Mẹ" Dân Ca Nam Bộ

Tiếng Võng Buồn - Lam Tuyền

  Tiếng võng xưa
Êm êm kẽo kẹt võng đưa,
Thanh bình thay tiếng gà trưa quê nhà !
Đâu rồi năm tháng đã qua ?
Đâu rồi tiếng ngoại à ơi sớm chiều !!
NM 


 
  
 
 
 
Võng dây chuối, nét duyên quê miền TÂY 
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, chắc chắn ai cũng có một hoặc nhiều lần nằm đong đưa trên võng có tiếng ru hời của bà, của mẹ giữa trưa hè xạc xào gió thổi qua hàng chuối, văng vẳng tiếng gà gáy trưa. Để rồi khi lớn lên đi vào đời đôi lúc có phút giây thanh thản ta lại có một thoáng hoài niệm về tuổi thơ bên cánh võng vời vợi lời ru.
Hồi còn nhỏ xíu, tôi ở với ông, bà ngoại nơi làng quê thân yêu. Ông, bà ngoại tôi là những nông dân cần cù, chất phác và hết mực yêu thương con cháu. Tuổi thơ của tôi không yên bình khi quê tôi là vùng "giải phóng" và là vùng "phi pháo tự do" của chính quyền Sài Gòn. Bà ngoại tôi không biết chữ nhưng thuộc rất nhiều bài thơ, bài vè và những câu ca dao... Bà có thể nằm võng ru tôi bằng cả truyện thơ Lục Vân Tiên hay Phạm Công Cúc Hoa! Bà tôi lại khéo tay làm được tất cả mọi thứ bánh, đan sọt, thúng mủng, lờ bắt cá, rổ, rá...đặc biệt nhất là đan võng.
Võng ngoại tôi đan - có nơi gọi là thắt võng - nguyên liệu là những sợi dây chuối vốn có rất nhiều trong vườn của làng quê Nam bộ. Đó là những tàu lá chuối già, héo rũ trở thành những sợi dây chắc chắn nhưng mềm mại. Những chiếc võng trong nhà đều do ngoại tôi đan (thắt) lấy chứ không có mua, những chiếc võng vừa dài, vừa rộng lại vô cùng chắc chắn. Nếu có đứt một, hai "tao" thì bà lại thay bằng những sợi dây chuối mới, bà thắt cho tôi một chiếc võng bé xíu, vừa với khổ người nhỏ bé của tôi, chặt hai con "găng" bằng cây ổi sau hè xỏ vào hai đầu võng. Tôi thì khoái nằm võng lớn - mà lại nằm theo chiều ngang của chiếc võng - nên chiếc võng mà ngoại thắt cho tôi ngoại tôi đem treo giữa hai cây trứng cá bên hiên nhà, để khi nào nóng nực thì tôi ra ngoài đó ngủ.

Trong miền ký ức của tuổi thơ, tôi nhớ hoài hình ảnh bà tôi vừa ngồi nhặt thóc, vừa cầm sợi dây chuối - mà một đầu cột vào cánh võng - để đong đưa và hát ru tôi ngủ. Giọng của ngoại ngọt ngào, kèm theo tiếng gió thổi xạc xào lướt qua bụi chuối sau hè, tiếng võng đưa kẽo cà, kẽo kẹt nên bà ru chưa được mấy câu ca dao là tôi đã đi vào giấc ngủ yên lành, không mộng mị của cái tuổi thơ hồn nhiên vô tư lự. Thường thì ở nông thôn nhà nào cũng có nhiều cột có thể dùng để giăng võng, dây dùng để giăng võng có khi là dây chuối bện ba "tao", bốn "tao", khi là dây "luộc" (dây thừng) hoặc bằng hai cái vỏ xe đạp cũ, võng nào cũng có hai con "găng" xỏ vào hai đầu võng rồi mới tròng vào dây giăng võng, mỗi lần đưa là tiếng võng phát ra "kẽo cà, kẽo kẹt" dễ làm người ta ngủ say. Lại thêm võng giăng dây dài nên lực quán tính tăng, mỗi lần đưa thì võng đong đưa rất lâu, chứ không ngừng lại đột ngột. Từ khi ngoại tôi bị cụt mất cánh tay phải do pháo từ chi khu Chợ Gạo bắn vào, bà yếu đi và không còn thắt võng nữa! Lớn lên, tôi vào quân ngũ, mỗi lần dừng quân nằm trên chiếc võng "ni-lông" đong đưa giữa những tán cây, tôi lại nhớ ngoại đến trào nước mắt...
Bây giờ, cuộc sống hiện đại với nhiều tiện nghi đến cả những nhà tường không có một cây cột cũng giăng được võng. Đó là những chiếc võng xếp hiệu Duy Lợi, Duy Phương hay Duy... gì gì đó đong đưa trên những giá võng bằng kim loại. Tiện thì có tiện với những ngôi nhà "tường đúc, mái bằng" trong thành thị , nhưng lại thiếu tiếng kẽo kẹt của cánh võng đưa nên ngủ cũng không ngon giấc và thiếu lực quán tính của dây giăng nên chỉ đong đưa vài cái rồi ngừng, vì vậy phải luôn tay đưa võng. Tôi đã từng mắc võng ru con - sau này ru cháu ngoại - ngủ trên những chiếc võng xếp đó nên tôi thấy mỗi khi đong đưa có cảm giác như thiếu một cái gì đó rất đỗi thân quen. Có lẽ đó là tiếng kẽo kẹt của nhịp võng đưa, tiếng gió thổi xạc xào qua bụi chuối sau hè, tiếng gà gáy trưa của một thời tuổi thơ nơi làng quê yêu dấu.
Ôi! Sao mà tôi nhớ tiếng võng đưa kẽo kẹt và tiếng ngoại ru hời quá đi thôi, nhớ đến quặn cả lòng!

  Hoàng Đức
  

Con Sáo Tình Quê - Bích Phượng

Đong đưa cánh võng

Ru Con Tình Cũ - Ngọc Lan 

Tìm đâu ?
Tìm đâu câu hát ru hời ?
À ơi nhịp võng chơi vơi trong chiều .....
Cánh diều bay vút phiêu diêu,
Đưa câu mẹ hát ầu ơ giọng buồn !
Lời ru dào dạt trào tuôn,
Bao lời nhân nghĩa, thuỷ chung nao lòng...
Thương cho phận sáo sang sông,
Mong con say ngủ, chờ chồng nơi xa !!

NM

me ru võng con 1
Tìm đâu câu hát ru hời
1. Ghé thăm người bạn văn, thấy bạn đang ngồi trông cháu ngoại. Đứa bé chừng hơn mười tháng tuổi, bụ  bẫm và dễ thương như một thiên thần. Mừng bạn nhà có thêm cháu ngoại. Ngắm nhìn bé đang say ngủ trong chiếc nôi khá sang trọng, đong đưa nhà nhẹ, ngạc nhiên nhìn kỹ, hóa ra nôi được ru tự động bằng cái mô tơ điện gắn ở đầu nôi. Đúng là các cháu thời @ có khác, ngày xưa muốn ru nôi, phải đưa bằng tay đến… mệt cả người. Chưa hết, bên cạnh chiếc nôi, còn để cái đầu đĩa mới cáu cạnh, đang phát ra những bản nhạc thiếu nhi vui nhộn của bé Xuân Mai. Bạn buông mùng cho cháu, và kéo tay tôi đến ghế ngồi. Câu chuyện bỗng xoay quanh việc chăm sóc trẻ con và ru… con ngủ!
2. Ngày xưa khi chúng tôi còn bé, mẹ rồi chị, rồi bà… cơ cực vất vả lắm. Ẵm bồng, bú mớm rồi ru cho ngủ. Cái nôi, cái võng kẽo kịt đong đưa nhờ vào bàn tay của mẹ, lắm khi mỏi tay vẫn không rời tao võng, tao nôi, bởi sợ con bị đánh thức nửa chừng. Bận bịu công việc thì… cột một sợi dây từ võng, vừa làm vừa kéo dây, có khi kẹp vào hai ngón chân để đưa. Nhưng muốn dỗ con, cháu ngủ thì phải hát ru, tức “À ơi ơi à…” hoặc “Aàu ơi, ví dầu…”. Trẻ thơ được thấm hồn mình vào lời ru của mẹ, của chị hay của bà mà say sưa ngủ và khi lớn lên, câu hát ru xưa tự trong tiềm thức bất chợt trở về, khiến ta cứ bồi hồi mãi không thôi…

3. Bạn và tôi, tôi và bạn đắm chìm vào những câu hát ru xưa ví như

 “Ví dầu cầu ván đóng đinh
  Cầu tre lắt lẻo gập gềnh khó đi
 Khó đi mẹ dắt con đi
 Con thi trường học mẹ thi trường đời…”,

Có nhưng câu ca tụng lòng yêu nước, chí khí anh hùng của tiền nhân như  
“À ơi, ơi à… Con ơi con ngủ cho ngoan
 Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
 Muốn coi lên núi mà coi
 Coi bà Triệu Âu cưỡi voi đánh cồng…”
,

 Nhiều câu là tính nhân nghĩa, thủy chung, hoặc trách cứ nghe nao cả lòng
“Trồng trầu thì phải khai mương
 Làm trai hai vợ phải thương cho đồng…”

hay
“Ví dầu tình bậu muốn thôi
 Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra…”,

 hoặc như
“Ầu ơ… Gió lay bụi chuối sau hè
 Anh mê vợ bé bỏ bầy con thơ/ Con thơ tay bế tay bồng…” vv…

 Khoan hãy bàn đến tính “giáo dục” của bài ca dao bất chợt người mẹ hát ru con ngủ, những đêm xa nhà, trằn trọc khó ngủ, nghe tiếng võng nhà ai kẽo kẹt, lời ru con khê nồng trong đêm mới thấy hết “Mẫu tử tình thâm”, chợt nhắc ta nhớ mẹ nhớ nhà đến da diết.

4. Chợt hỏi con gái của bạn: “Con có thuộc bài hát ru con nào không?”, cháu đỏ mặt cười trừ, tay chỉ vào cái đầu hát đĩa. Bạn lắc đầu ngồi trầm ngâm. Bỗng nhớ ra lây thật lâu rồi, tôi không còn nghe ai hát ru con như ngày xưa nữa. Nếu có chỉ là hát… tân nhạc theo cái điệu Bolero mà ru con. Đâu rồi những câu hát ru lời ngày xưa? Tôi chợt hỏi, lòng chùng lại như sợi dây đàn vừa lỏng phím…
Trần Hoàng Vy


Điệu Ru Trên Võng

Ru Lại Lời Ru

Tiếng mẹ ru

Tiếng mẹ ru con, tiếng võng đưa,
Dịu dàng âu yếm giữa hè trưa...
Nâng niu giấc ngủ cho con trẻ,
Dẫn dắt con vào cổ tích xưa !...
NM

Tiếng võng đưa
Ngọc Đào
Kính tặng thân mẫu Diệu Tường (Vu Lan 93).
Tiếng võng đưa kẽo kẹt nhịp nhàng lẫn trong tiếng hát ru ngân nga giữa buổi trưa hè hay đêm trường tĩnh mịch ở thôn quê nghe mênh mông rạt rào tình cảm biết chừng nào...
Gió mùa thu mẹ đưa con ngủ
Năm canh dài thức đủ năm canh.
Từ bao đời ở khắp ba miền đất nước, bà ru cháu, chị hát đưa em, mẹ dỗ con ngủ trên chiếc võng đong đưa với những câu hát ru truyền miệng :
Ầu ơ... ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi, khó đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
(Hát đưa em miền Nam)
À ơi... ru con cho thét cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua với chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
(Hát ru miền Trung)

À á ơi... cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được con chắm con trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn.
(Hát ru miền Bắc)

Những câu hát ru mang lời lẽ mộc mạc nhưng thiết tha tình cảm cũng như chính cuộc đời của bà mẹ Việt Nam quanh năm làm lũ tảo tần hy sinh cho chồng con, cho gia đình :
Con cò lặn lội bờ sông
Mẹ đi tưới nước cho bông có đài
Trông trời, trông đất trông mây
Trông cho lúc chín, hột sây nặng nhành
Trong cho rau muống màu xanh
Để mẹ nấu một bát canh đậm đà.
 

Nắng sớm mưa chiều, đêm trường cô tịch, bóng mẹ hiền in xuống tao nôi, tóc mẹ chảy dài theo nhịp võng, tiếng ầu ơ lan tỏa trong không gian :
Mưa giông sấm chớp đùng đùng
Mẹ ôm con nhỏ trong lòng mẹ ru
Ngủ cho yên, ngủ cho say
Tiếng ru theo tiếng võng đay ngọt ngào...

Tiếng hát ru là những bài học nhân nghĩa đầu đời mà mẹ truyền lại cho con qua tiếng võng kẽo cà kẽo kẹt, qua tiếng tàu chuối lạch bạch đập sau hè 
Con hỡi, con hỡi, con ơi
Bú no con ngủ, mẹ ru hời hời
Con nằm con nín con chơi
Làm thinh con hãy nghe lời mẹ ru...

Tiếng hát ru đưa chúng ta trở về những ngày thơ ấu. Ôi hạnh phúc biết bao cho đứa trẻ nào được nằm trong vòng tay mẹ trên chiếc võng đong đưa. Giòng sữa thơm ngọt từ bầu vú ấm áp, bàn tay xoa đầu êm ái dịu dàng và tuyệt vời hơn cả là giọng ru ngọt ngào truyền cảm của mẹ đã sớm đưa con trẻ vào giấc ngủ thiên thần: 
Con ơi con ngủ cho say
Ôm con mẹ gối cánh tay con nằm
Mẹ cho con gác lên chân
Có hơi ấm mẹ con càng ngủ ngon
Tiếng ru gởi gắm tình thương
Mang bình yên đến cho con, mẹ mừng.
Đã lâu lắm rồi chúng ta không còn được nghe những lời hát ru của mình. Cuộc sống cơ cực nhọc nhằn hay cả cuộc sống vinh hoa phú quý, công hầu khanh tướng đã đẩy chúng ta xa dần những câu hát ru mang nặng tình người của mẹ thuở nào. Nhất là từ một đêm tối mịt mù, chúng ta bước chân xuống thuyền, mắt tràn ngấn lệ từ giã quê hương yêu dấu, từ giã mẹ già bóng xế để mong tìm đến bến tự do...
Đi đâu để mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa chén trà ai dâng ?

Phương tiện hỗ trợ cho tiếng hát ru là cái nôi, chiếc võng. Làn điệu hát ru bao giờ cũng mang mục đích làm sao cho đứa bé bùi tai dần dần đi vào giấc ngủ muồi. Thính giả tí hon này chưa thể hiểu được nội dung của lời hát ru mà chỉ bị tác động bởi tiếng ru được diễn tả bằng một thứ âm nhạc ngân nga, êm đềm. Trong khi đó nội dung lời ru dường như dành cho người hát ru, hoặc cho người xung quang đó thưởng thức hay nhắn gởi người vắng mặt.
Tiếng hát ru gợi nỗi nhớ quê hương, tiếng hát ru mang nỗi lòng của mẹ, tiếng hát ru chuyển tín hiệu tình yêu và tiếng hát ru ấy là đạo lý con người.
Không biết tiếng hát ru bắt đầu từ thuở xa xưa nào, chắc phải là lâu lắm và phải là từ một bà mẹ cất lên giọng hát đầu tiên. Nhất định phải bắt đầu là một bà mẹ mới diễn đạt được tính chất êm đềm truyền cảm như vậy. Và cũng chỉ có hình ảnh người mẹ ẵm con, cho con bú, dỗ con ngủ mới diễn tả được nét đẹp duyên dáng thiêng liêng của người phụ nữ.
Có thể nói cuộc đời của người mẹ Việt Nam từ thời xưa đã được dàn trải bàng bạc qua hình ảnh những lời hát ru thâm trầm, tha thiết.
Cha mẹ đông con, cảnh nhà đạm bạc người con gái sớm ý thức bổn phận làm chị của mình với đàn em nhỏ dại :
Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Con tầm đỏ chín, con dê đã muồi
Nông tầm đã chín để nuôi
Con dê đã muồi làm thịt em ăn

Không có vú mẹ đứa em cũng thường làm tình làm tội chị, nó đâu chịu ngủ dễ dàng như thường được nằm trong cánh tay của mẹ. Chị lại cố hết sức cất cao giọng:
Ầu ơ... em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép tôi rày mang ơn.

Đứa em lại chòi đạp, giẫy nẩy, khóc ré lên. Thương em đứt ruột, chị ôm em lên vừa xoa dầu vừa vỗ đít nó. Mắt chị bắt đầu đỏ hoe...
Bồng em ra ngõ đứng trông
Trông non, non ngát, trông sông, sông dài
Trông mây, mây kéo ngang trời
Trông mẹ, trông đứng, trông ngồi mẹ ơi.

Tháng năm trôi qua, người con gái bây giờ đang độ tuổi cập kê. "Phụ mẫu sở sanh để cho phụ mẫu định", phận gái mười hai bến nước, người con gái chỉ biết thỏ thẻ cùng mẹ:
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má ở đâu...

Áo mặc sao qua khỏi đầu, người con gái vừa khóc vừa lạy cha mẹ trong đêm xuất giá để hôm sau : 
Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái theo chồng nuôi con.
Tình chồng nghĩa vợ dù có mặn nồng đến đâu cũng không làm sao quên được hình ảnh cha mẹ, anh chị em nơi quê nhà:
Ngó đâu ngó đó thì vui  
Ngó về quê mẹ bùi ngùi nhớ thương.
Người con gái năm xưa bây giờ đã làm mẹ. Không gian lại có thêm tiếng võng đong đưa, tiếng hát ru con của người mẹ trẻ:
Bướm vàng đậu ngọn mù u  
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn...
Từ lúc mang thai đến khi sinh con, người mẹ trẻ mới xót xa thấm thía hiểu được công lao trời biển của cha mẹ mình thuở trước:
Có con nghĩ mẹ thương thay
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau.
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa.
Công cha đức mẹ cao dầy
Cưu mang trứng nước những ngày con thơ.
Những khi trái nắng trở trời
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vã triền miên
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Tình yêu, cuộc sống gia đình cũng có lúc trải qua sóng gió. Tiếng hát ru con của người vợ trẻ nghe buồn vời vợi, xót xa đến tận cùng:
Ru con con ngủ cho rồi
Mẹ ra chỗ vắng mẹ ngồi than thân.
Trách ai tham đó bỏ đăng Thấy lê bỏ lựu, thấy trăng quên đèn.
 Bởi anh tham trống bỏ kèn
Ham chuông bỏ mõ, ham đèn phụ trăng.

Than thở thì như vậy nhưng bản chất của người phụ nữ Việt Nam thường là ôn hòa chịu đựng, cốt để gia đình được yên ấm rồi tìm cách khuyên lơn thuyết phục chồng "cải tà quy chánh" :
Mực văng vô giấy khó chùi 
Vô vòng chồng vợ sụt sùi sao nên.
Hạc chầu thần đứng trước cửa thềm
Đôi ta chồng vợ như đá gập ghềnh chưa chêm
Đá gập ghềnh anh vịn em chêm
Hai đứa mình chồng vợ lấy lời êm ở đời.
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa cả đời không khê.
Cũng có khi đứa trẻ ngủ yên giấc rồi thì người cha giúp mẹ đưa võng vì mẹ còn có trăm thứ việc phải lo, phải làm. Đôi lúc đứa trẻ giựt mình ọ ẹ thì kẹt lắm cha mới ậm à, âm ự "ầu ơ... ví dầu" nho nhỏ trong miệng. Cha ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về. Tội nghiệp có thể cha ngượng không dám cất tiếng hát tự nhiên sợ người khác nghe, cũng có thể cha đâu có thuộc bài hát như mẹ. Cùng lắm là cha cứ hát đi hát lại mấy câu ngồ ngộ, vô thưởng vô phạt :
Ầu ơ... ví dầu chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới đất khỉ ngồi trên cây.
 

hoặc :
Chiều chiều vịt lội cò bay
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.

hay :
Con mèo con chuột có lông
Ông tre có mắt nồi đồng có quai.

Người cha thuộc dân tộc Stieng ở Tây Nguyên cũng ru con bằng lời ru mộc mạc biết bao :
Cha ôm con vào lòng
Cho con miếng cơm cháy
Mà sao con vẫn khóc...
 

Cơm cháy thì làm sao con trẻ nhai được ? Thật không có sự ngây ngô vụng về nào hơn cái anh đàn công dỗ con khi bà xã đi vắng. Cuối cùng rồi anh chồng cũng phải thú nhận. Một sự thú nhận chân thành dễ thương làm sao và cũng để khẳng định : tiếng hát ru là ưu tiên dành cho phụ nữ :
Mà sao con khóc hoài
Cha cũng không thể thay
Vì không có vú mẹ.

Đặc Điểm Âm Nhạc Trong Bài Hát Ru
Trong kho tàng âm nhạc dân gian, hát ru là một thể loại đặc biệt. Lời hát ru được liên kết thành nhóm dựa vào những câu ca dao thuộc thể thơ lục bát - một thể thơ đặc thù Việt Nam, và song thất lục bát ở dạng nguyên thể hoặc biến thể. Đồng thời cách ngắt câu, dùng chữ đệm khác nhau tùy theo miền làm nổi bật thể chất âm nhạc một cách thần tình.
Tiếng đưa hơi, đệm lót của hát đưa em miền Nam là "Ầu ơ...". Với những âm tiếng do nguyên âm cấu tạo, tiếng đưa hơi đệm lót của hát ru miền Nam cho phép kéo dài, ngân nga giọng điệu, tạo nên sự êm ái tha thiết, tăng hiệu quả truyền cảm của lời ca. Tiếng đưa hơi đệm lót của hát ru miền Nam xuất hiện ở 3 vị trí : đầu, giữa và cuối câu hát. Vị trí đầu có tính chất bắt buộc. Hai vị trí sau thì linh động tùy theo người hát.
Người Việt Nam khi sống xa quê hương - nhất là những người ngoài bốn mươi, mỗi lần có dịp nghe tiếng hát ru (trong một đêm văn nghệ hoặc từ một bande nhạc) cất lên đều xúc động nghẹn ngào.... Nếu lời hát ru bắt đầu bằng tiếng đệm "Ầu ơ... ví dầu" thì người miền Nam bùi ngùi chảy nước mắt. Nếu là "À ạ ơi... thì người miền Bắc xúc động.
Miền Nam do nhiều sắc dân pha trộn qua bao thế hệ làm nảy sinh một âm giai đặc thù miền Nam. Và chỉ có người miền Nam mới dùng thang âm này trong cổ nhạc miền Nam. Đó là thang âm ngũ cung, khởi thủy từ dây Oán trong nhạc đàn tài tử miền Nam. Đến khoảng 1920 trở thành dây vọng cổ.
Hò Xự Xang Xê Cống Líu
Qua thang âm này, Xự phải lên hơi cao gọi là "Xự già", còn Cống thì bớt xuống một chút gọi là "Cống non". Thang âm này không thấy trong nhạc miền Trung hay miền Bắc và chỉ hiện hữu từ hơn 60 năm nay thôi.
Với thang âm đặc thù đó, bài "Ầu ơ... ví dầu" đã được người dân quê sáng tác, phản ánh chân thật chất nhạc địa phương, làm rụng rời người nghe, làm ấm lòng trẻ thơ say trong giấc ngủ hồn nhiên, miệng vẫn còn ngậm vú mẹ. Bài ru con đều dựa vào tiết tấu tự do, có nghĩa là không có tiết tấu rõ rệt, tùy theo người hát có giọng dài hay ngắn mà ngân nga. Người phụ nữ miền Nam tánh chất phác thật thà, nghĩ sao nói vậy, cho nên khi ru con ngủ thường gởi tâm sự của mình vào lời để tả nỗi lòng:
Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông...

Đến bài ru miền Trung, chúng ta nhận thấy một đặc tính khác trong việc sử dụng thang âm. Bài ru con này có 2 thang âm khác nhau. Thang thứ nhứt là thang âm ngũ cung giảm dạng, có nghĩa là thang âm này dù ngũ cung nhưng chỉ có bốn cung mà thôi (echelle pentatonique defective).
Hò Xang Xê Cống Líu
Kế tiếp là thang âm thứ nhì, thang âm tứ cung đặc biệt của miền Trung, nhất là trong loại ru con :
Hò Xang Xê Oan Líu
Sự phối hợp và dung hòa của hai thang âm kể trên làm cho bài hát ru con miền Trung có một sắc thái âm nhạc và làn điệu phong phú mà 2 loại ru Nam và Bắc không có.
Bài hát ru miền Bắc sử dụng thang âm ngũ cung ré, mi, sol, la, si, ré :
mà đa số các điệu hát dân ca miền Bắc đều dựa trên đó cả. Chẳng hạn như bài Cò Lả, điệu Trống Quân, một số bài bản trong dân ca Quan Họ, trong hát Chèo, hát Giậm, Xoan, Phường Vải... (theo "Đặc điểm âm nhạc của các loại hát ru con VN" - Nhạc sĩ Trần Quang Hải).
Hát Ru Con : Tình Thương Và Nghệ Thuật
Đố ai ngồi võng không đưa
Ru con không hát ầu ơ đôi bài

Hai câu ca dao trên đây đã gợi lên rõ nét sự cần thiết của hát ru trong sinh hoạt gia đình và khung cảnh diễn xướng của nó. Phương tiện hỗ trợ chính cho bà mẹ trong việc ru dỗ con ngủ là chiếc võng. Hầu hết các nhà ở thôn quê từ giàu đến nghèo đều có ít nhứt một chiếc võng : võng bố, võng bàng, võng lác, võng tre, võng dừa. Người mẹ thường mắc võng trong phạm vi nhà bếp để khi con ngủ thì mẹ nối sợ dây dài, vừa đưa võng vừa làm việc.
Trên võng có trải một chiếc chiếu manh đệm bàng cho êm lưng con trẻ. Hai mí võng được căng rộng bằng hai càng tre. Một sợi dây giăng ngang phía trên mặt đứa trẻ, cột vào giữa chừng hai đầu võng. Máng lên đó cái chăn tắm hoặc cái khăn rằng đỏ để khi chiếc võng đong đưa thì khăn phất qua phất lại xua ruồi muỗi.
Tôi có diễm phúc được sống những ngày thơ ấu đầy kỷ niệm êm đềm nơi quê ngoại. Ngôi nhà của ngoại tôi ở tại đầu rạch Cái Sâu, trên sông Cao Lãnh (Đồng Tháp Mười). Căn nhà bếp nền đất được ngoại tôi nới rộng thêm gian nhà sàn nhỏ sát cạnh bờ sông. Ở góc sàn có mắc một cái võng. Đây là nơi mát mẻ, thật lý tưởng cho giấc ngủ của trẻ thơ. Các cậu, dì và mẹ tôi đã từng được ngoại ru cho ngủ ở đó. Rồi cứ như vậy tiếp nối đời con, đời cháu....
Quan sát quá trình người mẹ ru trẻ ngủ, chúng ta nhận thấy có 2 giai đoạn kế tiếp nhau :
Giai đoạn một : Khi Trẻ Chưa Ngủ
Người mẹ cần phải hát to và nhanh, võng cũng đưa mạnh. Điều cần thiết nhứt lúc này là làm sao cho trẻ nín. Muốn vậy cần phải tạo ra một môi trường cho trẻ ưa thích để giấc ngủ mau đến. Võng phải đưa mạnh cho trẻ mát. Tay mẹ xoa trán, xoa lưng cho trẻ dễ chịu. Lời hát của mẹ cần liền mạch, nhanh, dường như không có chỗ nghỉ dài. Đối với trẻ lúc này âm thanh lời hát cũng là một trò chơi thích thú. Nhịp bài hát dồn dập. Lời bài hát chạy theo nhịp điệu. Nhịp điệu bám sát động tác đưa võng. Chính vậy mà lời hát ở giai đoạn này thường bất chấp sự ghép vần và bất chấp cả tính thống nhất của nội dung :
Má ơi con vịt chết chìm,
Thò tay vớt nó, con cá lìm kìm nó cắn tay con.
Cắn con máu chảy re re,
Cây me có trái, chi Hai có chồng.

Hoặc :
Anh đi ghe cá mũi son,
Bắt em đương đệm cho mòn móng tay.
Móng tay móng ngắn móng dài,
Trồng một cây xoài hái chín trái chua
.

Giai đoạn hai : Khi Trẻ Bắt Đầy Ngủ Yên
Tiếng ru của người mẹ chuyển sang âm diệu dịu dàng tha thiết, chậm rãi. Võng cũng đưa nhẹ để giấc ngủ trẻ thêm sâu. Lúc này trẻ đến với cái ngủ, còn người mẹ thì thức với những tâm sự sâu lắng nhất, âm vang nhất trong tâm hồn mình...
Ngó lên nuột lạt trên nhà
Đếm bao nhiêu nuột thương cha mẹ già bấy nhiêu.
Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Ngãi nhân mỏng dánh như cánh chuồn chuồn
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay.
Tưởng giếng sâu, tôi nối sợi dây dài
Ngờ đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây.

Nội Dung Lời Hát Ru
Dân tộc Việt Nam có được một kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú và quý giá qua các làn điệu dân ca.
Miền Nam : vọng cổ, điệu hò, điệu lý...
Miền Trung : Nam Ai, Nam Bình, hò Huế...
Miền Bắc : hát ví, cò lả, trống quân, quan họ...
Mỗi giọng điệu có cái hay riêng, có nét đặc sắc riêng, có cá tính địa phương riêng.
Đặc biệt hát ru thì cả 3 miền đều có.
Khi chúng ta nói hát ru là bài học nhân nghĩa đầu đời là vì nội dung của lời hát ru ở khắp 3 miền đất nước đều ẩn chứa đầy đủ Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Những đức tính cao quý từ bao đời đã được người Việt chúng ta làm nền tảng xây nên tòa nhà văn hóa dân tộc.
Xin cám ơn những người đã sáng tác ra những lời hát ru truyền cảm.
Cám ơn những bà mẹ đã nuôi dưỡng, dạy dỗ con trẻ bằng những lời hát ru ngọt ngào đầy nhân tính để từ đó đất nước và dân tộc có được những vị anh hùng, anh thư, những người con trung hiếu làm rạng danh nòi giống.
Cám ơn những người đã có công góp nhặt, ghi lại những câu hát ru làm ấm lòng người trong cảnh ly hương biệt xứ.
Nội dung những lời hát ru có thể xếp theo từng chủ đề.
Lời Của Ông Bà, Cha Mẹ
Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên
Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên
Làm người phải biết tổ tiên ông bà
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
Cây khô đâu dễ mọc chồi
Mẹ già đâu dễ sống đời với con.
Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây;
Đờn đứt dây còn xoay còn nối
Cha mẹ chết rồi con phải mồ côi.
Thà ăn bắp hột gà vôi
Còn hơn giàu có mồ côi một mình.
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi
Con thi trường học, mẹ thi trường đời.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông
Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi !
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha thác gót con như bùn.
Mưa giông sấm chớp đùng đùng
Mẹ ôm con nhỏ trong lòng mẹ ru.
Ngủ cho yên, ngủ cho say
Tiếng ru theo tiếng võng đay ngọt ngào.
Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ.
Ngó lên nhang tắt đèn mờ
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ quạnh hiu.
Mẹ gà con vịt chíu chiu
Quạ nuôi tu hú, còn diều ai nuôi ?
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già đau răng.
Con khôn cha mẹ nào răn
Tỷ như quả bưởi ai lăn nó tròn ?
Lụt nguồn trôi trái bòn bon
Cha thác mẹ còn chịu cảnh mồ côi;
Mồ côi khổ lắm ai ơi
Đói cơm không ai biết lỡ trời không ai phân.
...
Chị Ru Em
Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Buồn ăn bánh đúc, bánh đa
Củ từ, khoai nướng, xu xoa, báng giò.
Ru em em ngủ cho rồi
Chị đi rửa chén, chị ngồi vá may
Ru em em ngủ cho say
Để cha đi cày, để mẹ trồng khoai.
Em tôi khát sửa bú tay
Ai cho bú thép tôi rày mang ơn.
Ru em em ngủ cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi an trầu
Mẹ đi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau chợ Dã, mua trầu chợ Dinh.
Chiều chiều con quạ hát đình
Cá rô đi đám, cá kình đi coi.
Hai tay cầm bốn tua nôi
Em nín chị ngồi, em khóc chị đưa
Em ngủ thì chị thêu thùa
Mẹ cha lặn lội nắng mưa dãi dầu.
...
Ru Cho Tình Yêu
Cây oằn vì bởi tại hoa
Anh thương em vì hết, mê say vì tình
Thương em thương bóng, thương dáng, thương dạng, thương hình
Thương từ lời ăn tiếng nói
Anh thương mình khéo tay.
Khăn rằn quấn cổ bay bay
Thấy em ốm ốm mình dây anh ưng liền.
Đừng lo em xấu em đen
Nước kia dù đục lóng phèn lại trong.
Trầu vàng nhỏ lá, rau giấp cá nhai dòn
Đội ơn phụ mẫu sanh em mặt tròn dễ thương.
Cầm lược thì nhớ tới gương
Cầm khăn nhớ túi đi đường nhớ nhau.
Niềm kim thạch, nghĩa cù lao
Bên tình bên hiếu ở sao cho tuyền.
Lao xao sóng bổ dưới thuyền
Vắng em một bữa ai cho tiền cũng không ham.
Thấy em nhỏ thó lại có hường nhan
Chưn mày tầm con mắt lộ
Nơi xứ này không ai ngộ bằng em.
Hồi nào mặt mũi tèm lem
Bây giờ em trổ mã anh thèm anh ve.
Nhứt nhựt bất kiến như tam thu hề
Thăm anh một chút em trở lụn về
Kẻo con trăng kia nó lặn tư bề tối tăm.
Con trăng lu cũng tiếng con trăng rằm
Anh thương em vì lời ăn tiếng nói chớ đâu phải vì chỗ ăn nằm mà thương.
Tôi hiểu bịt vàng em hứng ngọn mù sương
Sắc cho anh uống đêm thương ngày sầu.
Con cá vẩn vơ núp tại bóng cầu
Chờ em khác thể sao hầu chờ trăng.
Đôi ta như thể đôi tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong.
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên bán quán, ngồi trông bộ hành
Chẳng qua duyên nợ trời sanh
Tham vì nhân nghĩa, lợi danh không màng.
Chiều chiều đưa bạn lên đàng
Trăm năm xin nhớ nghĩa đá vàng đừng phai.
Nhớ anh em chỉ nằm dài
Ăn cơm thì nghẹn nước mắt chảy hoài không khô
Nhớ mình đi ra đi vô
Gan teo từng đoạn, con mắt mờ kéo mây.
Lồng đèn treo cột đáy, gió xoay lồng đèn xoay
Dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Lòng thương người nghĩa cha mẹ rầy cũng thương.
Chữ thương vô giá quá chừng
Trèo cao quên mệt, băng rừng quên gai
Hai đứa mình như áo cắt chưa may
Thương ngày nào đỡ ngày nấy, chớ chông gai không chừng.
Cơm sôi lửa cháy gạo chảy tưng bừng
Anh thương em như lửa nọ cháy phừng
Dù cho núi lở tan rừng anh cũng thương.
Anh về em một ngó chừng
Ngó sông sông rộng ngó rừng rừng cao.
Đôi ta như lúa phơi màu
Đẹp duyên thì lấy ham giàu làm chi.
Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Thấy miệng em cười hữu ý anh thương.
Mưa trong đám sậy mưa luồn
Giơ tay hứng nước rửa buồn cho em.
Chiếu bông mà trái gốc dền
Muốn vô gá nghĩa biết bền hay không.
Trăng kia khi khuyết khi tròn
Lời thề biển cạn non mòn chớ quên.
Dầu lửa mà đốt một bên
Lửa đốt mặc lửa không quên nghĩa nàng.
Dựng buồm chạy thẳng Nam Vang
Làm thơ nhắn lại em khoan lấy chồng.
Tiếng ai như tiếng chuông đồng
Boong boong như tiếng vợ chồng say men;
Tiếng vang như tiếng chuông rền
Phải chăng là tiếng bạn quen thuở nào.
Gặp anh trước hỏi sau chào
Năm nay anh có nơi này hay chưa
Có rồi năm ngoái năm xưa
Năm nay vợ bỏ như chưa có gì.
...

Lời Ru Chồng Vợ
Hồi nào anh ngủ em ngồi
Con muỗi bay qua em đập nhớ mấy hồi gian lao.
Hồi nào tui mạnh mình đau
Tui bắt từng con cá ruộng nấu canh rau, tui nuôi mình.
Đêm nằm tui bỏ tóc qua mình
Thề cho bán mạng kẻo tình nghi oan.
Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau.
Củi đậu nấu đậu ra dầu
Tôi với mình không trọn nghĩa, nguyện cạo đầu đi tu.
Bình khuôn còn cẩn xa cừ
Vợ hư để vợ, đừng từ mẹ cha.
Nên thì lập kiểng trồng hoa
Không nên, đá kiểng trồng cà dái dê.
Không nên anh trả tôi về
Dưỡng nuôi từ mẫu trọng bề làm con.
Ví dầu họa phước vô môn
Sang giàu dễ kiếm người khôn khó tìm,
Tàu ra khơi sợ nỗi chìm
Hai đứa mình phải giữ cho trọn niềm phu thê.
Chuyện chi anh bắt em thề
Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai
Bởi chàng vợ một vợ hai
Luông tuồng chẳng biết tới rày vợ con.
Người còn thì nghĩa cũng còn
Miễn tình chồng vợ vuông tròn thì thôi.
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa cả đời không khê.
Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông.
Chiều hôm thổn thức mong chồng
Thấy trăng lên núi mà lòng em đau
Em đau vì bởi em nghèo
Chồng em giỏi giắn lại đeo chữ bần.
Chừng gần ngoài Huế cũng gần
Chừng xa cách một tấm trần cũng xa.
Khi giận thì rầy thì la
Đến khi hết giận rằng ta yêu mình.
Chồng giận thì vợ làm thinh
Vợ giận chồng hỏi rằng mình giận ai
Vợ rằng giận trúc giận mai
Vợ chồng ai nỡ giận dai bao giờ.
Vợ chồng muốn vợ chồng đời
Trách ông tơ bà nguyệt xa rời mối dây
Ơn cha nghĩa mẹ cao dày
Tình chồng nghĩa vợ thảo ngay trọn đời.
Có con hơn của anh ơi
Của như bọt nước hợp rồi lại tan.
Không chồng đi dọc đi ngang
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.
...
Ru Cho Tình Đời, Tình Người
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi
Nhường nơi bạn dựa, nhường lời cho bạn phân.
Một mai lỡ bước sẩy chân
Tới chừng tỉnh ngộ thì thân đã già.
Người ta ba thứ người ta
Người thì tiền rưỡi, người ba mươi đồng.
Con chim ham ăn còn mắc cái tròng
Người mà ham của mắc vòng gian nan.
Chưa giàu chớ học làm sang
Lên thang từng nấc tuột thang mấy hồi.
Tiếc công trao đổi phấn dồi
Tiếc công tạo lập, tiếc lời giao ngôn.
Thế gian dại dại khôn khôn
Sống mặc áo rách chết chôn áo lành.
Sá gì một nải chuối xanh
Năm bảy người dành cho mủ dính tay.
Sông sâu anh cấm sào dài
Con voi trắc nết thằng nài phải khôn.
Trăng kia khi khuyết khi tròn
Người đời lúc thạnh e còn lúc suy.
Hững hờ một nết làm sai
Thì trăm nết khác cũng ngoài công phu.
Chó nghe lời phỉnh, tiếng phờ
Thò tay vô lờ, mắc kẹt cái hom.
Kiến leo cột sắt sao mòn,
Tò vò xây tổ sao tròn mà xây.
Gừng già gừng lụi gừng cay
Anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân.
Ví dầu đèn tỏ hơn trăng
Trăng soi bảy phủ, đèn chong một nhà.
Thua thì thua mẹ thua cha
Cá sanh một lứa ai mà thua ai.
Rượu lạt uống riết cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
Vàng mười đem thử lửa than
Người khôn thử ý, bạn loan thử lời.
Chim khôn tránh bẫy tránh lờ
Người khôn tráng tiếng hồ đồ mới khôn.
Gánh nghèo mà đổ lên non
Con lưng mà chạy lon ton theo hoài.
Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn chưa nói dang tay đỡ lời.
Chớ thấy áo rách đã cười
Cái giống gà nòi lông nó lơ thơ.
Làm giàn cho bí leo chơi
Chẳng may bí đẹt, mồng tơi leo cùng.
Mua nồi phải nhớ mua vung
Kéo tơ nhớ ngãi con tằm ngày xưa.
Trời còn khi nắng khi mưa
Người ta cũng có sớm trưa thất thường.
Người trên ở chẳng kỷ cương
Khiến cho kẻ dưới dọn đường mây mưa.
Thương thay thân phận cây dừa
Non thời khoét mắt, già cưa lấy đầu.
Ra khơi mới biết cạn sâu
Ở hoài trong rạch biết đâu mà dò.
Ra đi mẹ có dặn dò
Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua.
Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô sợ đắng, nhả ra bạn cười.
Rượu kia nào có say người
Hỡi người say rượu chớ cười rượu say.
Say là say nghĩa say nhờn
Say thơ Lý Bạch, say đờn Bá Nha.
Đất xấu làm hại kiếp hoa
Sợ nghèo làm hại con nhà thông minh.
Kiểng hoang mấy chẳng ai nhìn
Kiểng vài trong chậu kẻ rình người bưng.

Những ngày cuối đông kéo dài..... Hàng cây mimosa bên đường bắt đầu điểm hoa vàng. Người Phật tử đang chuẩn bị đón ngày Đại Lễ Vu Lan báo hiếu. Đóa hoa hồng thắm sẽ nở trên áo người may mắn được còn mẹ. Màu hoa trắng nhạt sẽ ở trên áo của người con bất hạnh sớm mất mẹ hiền.
Còn mẹ hay không còn thì hình ảnh và tình thương bất diệt của mẹ vẫn sống mãi trong lòng người con. Mối tình nào rồi cũng phai mờ trong tim ta, trong ký ức ta nhưng tình mẹ thì không thể quên được. Tình mẹ đã có trong ta từ thuở tượng hình, đến với ta qua hơi ấm thịt da, qua bàn tay trìu mến, qua dòng sữa bổ dưỡng, qua giọng ru ngọt ngào. Thật đúng như Phật ngôn : "Mẹ là Trời Phạm Thiên, là vị tiên ban đầu, là bậc tiên sư, là người đáng cúng dường".
Người Việt Nam chúng ta dù gặp phải cảnh ngộ nào, dù ở bất cứ nơi đâu trên mặt địa cầu cũng luôn thiết tha với đạo lý, với truyền thống tốt đẹp về đạo hiếu. Lòng hiếu đó là lòng Phật. Hạnh hiếu đó là hạnh Phật....
Người Phật tử đã thương nhớ, nghĩ và viết về mẹ : "Ta còn có mẹ, mẹ hát đưa ta, tiếng hát xa xưa buồn quá đỗi, nhà ai giã gạo trưa hè. Mẹ hát à ơi ! Võng rời kẽo kẹt, da trời xanh ngắt của đông. Người đâu có biết, mẹ bồng ta cả tuổi ban đầu. Câu hát ngày xưa chín vàng chín đỏ. Ba mươi tuổi đời lăn lóc đong đưa. Ba mươi tuổi đầu mẹ còn coi nhỏ, đưa từng trái bắp củ khoai. Ngày đó ta về mẹ còn vuốt tóc.... Người biết không, ta khóc ròng".
Mẹ ơi, dù tháng năm có theo mùa trôi đi, dù đang sống cuộc đời ly hương viễn xứ, tiếng hát ru của mẹ thuở nào vẫn còn đọng mãi trong lòng con với bao kỷ niệm của tuổi ấu thơ, kỷ niệm về một hình ảnh thiêng liêng tuyệt vời nhất : Mẹ.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.