Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Nhạc - Thơ - Văn 30/4 Chuyến đi cuối cùng


     Trận chiến cuối anh vẫn không khoan nhượng...
   Tưởng chừng như mình giữ được quê hương ?!
 Nào có hay cùng lũ lượt lên đường,
 Bỏ tất cả gia đình và lý tưởng !
   NM
 
 30 tháng tư, chuyến đi cuối cùng
Chiều tối dần, váng trời đỏ bầm in bóng xuống mặt nước. Khúc sông vắng đến rợn người, không bóng xuồng ghe tới lui như mọi ngày? Không gian lặng lẽ, tiếng chim đôi lúc rộn ràng trên các ngọn cây ven bờ.
Mọi người im lặng, lúi húi lo công việc của mình. Sơn cần mẫn chùi từng chỗ của khẩu đại liên 50 hai nòng trước mũi .Giây đạn giăng sáng ngời màu đồng, chạy từ hông súng xuống hầm tàu. Có tiếng động lịch kịch dưới hầm máy. Trung Sĩ Hoàng ở trần trùn trụt, châm nhớt lại máy, và tháo từng chiếc bơm nước lau chùi .
Hùng đang dọn dẹp lại hầm tàu. Hắn khuân từng thùng đạn xếp lại ngay ngắn vào hốc khoan . Các chiếc nồi đen khói, móm mép, cũng được xếp vào góc hầm. Hình như mọi người đều đang có những suy nghĩ riêng tư, không có tiếng trò chuyện, đùa cợt như mọi lúc . Bầu không khí nằng nặng ...
Buổi chiều, máy vô tuyến nhận được các công điện, hổn tạp, phát đi tổng đài. Nào là lệnh di tản, nào là tin đồn bộ tư lệnh Sài Gòn đã ra đi...Cả những tiếng nói lạ lẫm, giọng Bắc sệt, không biết thế nào đã len được vào tần số, kêu gọi các người lính VNCH hãy buông súng ...
Con sông đã tối đen. Màn đêm đã phủ trùm mọi thứ. Đom đóm lập lòe sáng rực trên các ngọn bần . Thỉnh thoảng có tiếng cú kêu rùn rụt trên bờ . Vũ ra lệnh dời tàu vào một dòng rạch nhỏ, đậu ẩn mình dưới hàng trâm bầu rậm rạp. Tàu tắt máy nằm im lìm, không động đậy trong bóng đêm, như một con quái vật đen ngòm . Mọi thứ đèn được tắt, anh em hút thuốc phải che nón sắt hoặc xuống dưới hầm. Đây cũng chỉ là một chuyến kích đêm như thường lệ, nhưng sao đêm nay mọi người linh tính sẽ có chuyện lạ ... Đêm không trăng, dày đặc. Chi chít những ánh sao, như những đốm kim cương rắc trên nền trời nhung đen huyền.. Thỉnh thoảng có tiếng cá ăn mồi, kêu đánh chụp trên sông, chắc nó phải lớn lắm đây ! Vũ nằm ép mình trên chiếc ghế bố vải phía sau tàu, mồ hôi chảy rịn nhơm nhớp. Không khí vẫn hầm hập nóng dù đã đêm xuống từ lâu . Tiếng hai người lính đổi ca gác, nói chuyện thầm thì với nhau trước mủi tàu. Tiếng dế kêu rã rít trong bờ cỏ, ngay ngái mùi bùn, mùi lá mục, mùi rong khô phảng phất trong đêm.
Vũ nhìn chiếc kim dạ quang trên đồng hồ tay, đã gần 12 giờ khuya ...Đôi mắt díu lại, Vũ mơ màng chìm vào giấc ngũ đầy mộng mị .
Chàng thấy mình đang đi vào cánh rừng, hoa mọc san sát hai bên ven suối . Chợt có tiếng người gọi tên chàng mơ hồ, rồi lại thật rõ - Vũ ơi !!!Chàng lắng tai nghe và nhận ra đó là giọng của Nguyên. Tiếng kêu của nàng từ bên kia sườn đồi vẳng sang. Vũ băng ngang con suối để đi về hướng đó. Nhưng lạ lùng thay, chàng bước tới đâu thì con suối rộng ra đến đấy . Chàng đi mãi những không qua được bờ bên kia. Sau cùng con suối đã trở thành mênh mông trước mặt. Những dãy đồi lờ mờ xa thẩm không còn hình dáng, và trong gió tiếng Nguyên gọi xa dần, xa dần rồi mất hẳn ...Vũ chợt bừng mở mắt, mồ hôi đọng ướt lạnh dưới lưng. Chàng ngơ ngác trong ít giây, rồi đứng lên nhìn quanh . Bóng người lính gác ngồi thu lu bên hông tàu, chiếc poncho trùm kín. Sương đã lên từng mảng trên sông . Đúng lúc ấy, Vũ nghe có tiếng động lỉnh kỉnh, tiếng chân bước huỳnh huỵch trên bờ đất. Như có dòng băng lạnh chạy dọc theo xương sống, phản ứng tự nhiênVũ ngồi thụp xuống và trừng mắt nhìn lên bờ trước mặt . Trong nhấp nhoáng sáng của nhiều ngọn đuốc, ẩn hiện sau các bờ vườn, những bóng người lô nhô xuất hiện đi về hướng bờ sông đối diện. Vũ tháo chiếc ống dòm treo trên thành tàu, dán mắt quan sát. Trên bờ sông, chàng thấy hàng chục chiếc xuồng đang lao chao đón người lên. Trong khi rất nhiều bóng đen khác đang đi tới lui dọc triền nước. Vũ khều vai người lính gác vừa đi giựt lùi lại ngồi xuống bên chàng:
- Em xuống hầm tàu đánh thức anh em dậy. Bảo họ vào nhiệm sở tác chiến ngay lập tức.
Người lính vừa tụt xuống hầm, Vũ bò men theo thành tàu, leo vào ụ súng đại liên 50 đôi trước mũi. Chàng khe khẻ kéo tấm bạc che sương ra khỏi súng, đưa tay sờ soạng bật mở nút an toàn, và quay mũi súng chỉa về bờ bên kia. Lòng chàng hồi hộp, như báo một điều gì không ổn sắp xảy ra ...
Chợt có tiếng con chim vạc kêu khàn khàn trên sông, trong khoảnh khắc mọi việc chợt như khựng lại. Trung sĩ Hoàng nằm bên Vũ từ lúc nào, nói thì thào vào tai:
" Anh em đã sẵn sàng, ông thầy ra lệnh chơi nghen!Vũ lo lắng chỉa mũi súng bắn hỏa châu lên trời, nín thở vài giây rồi mím môi bóp cò. Phụt một tiếng dài, làn khói trắng xẹt lên cao rồi một nổ nhẹ vẳng xuống. Đóm hỏa châu sáng chói bùng lên rực rỡ, kêu lè xè ...Chỉ đợi có thế, dàn súng đại liên đôi trước mũi tàu gầm lên dữ dội, con tàu run lên nhè nhẹ vì sức dội . Dưới ánh hỏa châu, những bóng đen bên bờ sông náo loạn như bầy ong vở tổ . Những chiếc xuồng cuống cuồng bơi ngang bơi dọc, đạn vãi trắng xóa nước từng chùm trên bờ sông, cộng thêm những cột nước phụt cao từ đạn M79 bắn từ tàu. Trong hổn loạn ấy. ánh sáng chợt phụt tắt.
Bóng đêm lại ngùn ngụt cảnh vật, soi những làn đạn lửa đan tréo ngang dọc. Vũ vội vã bắn thêm một trái hoa châu khác lên trời. Ánh sáng chói chang lại bùng lên,nhưng lần này trước mắt Vũ bờ sông đã vắng bóng người, chỉ còn lại những chiếc xuồng vất bỏ ngỗn ngang, hay trôi lập lờ trên nước ... Thay vào đó là rất nhiều đốm lửa bắt đầu chớp nhoáng liên tục từ các bờ cây, một vài lắn khói ngoằn ngoèo bắt đầu xẹt ra từ bờ và nổ bùng quanh tàu. Tiếng súng nổ liên tục từ bờ, địch đã bắt đầu phãn công dữ dội. Tàu Vũ đã bị lộ ví trí, và địch nhắm vào để bắn điên cuồng.
Núp sau phòng lái thép, Vũ hổn hển gọi điện về căn cứ báo cáo và xin yểm trợ pháo binh, vì vào giờ này trực thăng đã ngưng hoạt động. Nhìn đồng hồ, đã gần 3 giờ sáng. Vũ biết là trực thăng giờ này đã ngủ kỷ. Chỉ còn trông chờ vào các đơn vị pháo binh thôi . Quả thật như thế, ngay khi ấy chợt nghe tiếng xì xào như gió rít trên không trung, rồi một tiếng nổ bùng dữ dội giữa lòng sông. Một cột nước khổng lồ bốc lên cao, rồi rơi xuống lộp bộp trên tàu Vũ. Vũ mừng rỡ, và vội vàng gọi về tổng đài xin điều chỉnh tọa độ đạn rơi. Dần dần những tiếng nổ trải dài trên bờ kinh bên kia, từng loạt cây cối gục ngã ào ào vì đạn pháo. Lỗ tai lùng bùng vì những tiếng nổ kinh thiên động địa, mọi người trên tàu ngừng bắn, nhỏm đầu lên xem pháo nổ. Những cụm lửa bùng lên lóe mắt, tiếp theo là tiếng nổ ầm dữ dội. Những chiếc xuồng bốc chảy, vụn nát ngỗn ngang. Không còn nghe tiếng súng của địch nữa, tất cả là một vùng địa ngục khói lửa mù mịt. Không khí khét lẹt mùi thuốc nổ ...Chợt có tiếng súng nổ liên hồi, ở ngay phía bờ vườn nơi tàu Vũ đang ẩn núp. Tiếng đạn đập chan chát vào vách thép. Lại có tiếng kèn vang vang lẫn tiếng hô xung phong rùn rợn. Vũ chợt hiểu đây là cánh quân đã lọt qua được bờ sông, và đang tấn công tàu. Các ổ súng trên tàu vội vàng quay mũi về bờ vườn, và thêm một trái hỏa châu khác được bắn lên. Trong ánh sáng chập chờn của trái sáng, mọi người trên tàu nhìn thấy các bóng đen đang di chuyển và chạy về hướng tàu. Các khẩu súng đồng loạt nhả đạn. Nhiều bóng đen ngã xuống, nhưng chúng vẫn tiếp tục tiến về phía tàu Vũ, đen ngòm người từ chân vườn . Con tàu nằm bất động giờ đã trở thành là một mục tiêu cố định cho địch nhắm bắn. Những trái B40 nổ bùn bụt quanh tàu, cắt những tàn cây đổ ràn rạt lên tàu. Vũ ra lệnh cho tàu nổ máy, và lùi thật mạnh ra khỏi bờ kinh. Nhưng con tàu chỉ nhúc nhích chầm chậm, và lắc lư giần giật trong tiếng máy hụ ào ạt. Tàu đang bị vướng cạn vì nước đã xuống thấp từ hồi khuya. Vũ thét vang thúc đẩy mọi người cùng nhảy xuống hợp lực đẩy phụ tàu . Trong tiếng súng nổ dồn dập, trong tiếng đạn réo vèo vèo bên tai, chân đứng ngập trong bùn ướt, mọi người từ từ đẩy được con tàu ra và cùng nhảy lên. Máy tàu rú lên như mừng rỡ, kéo con tàu thụt lùi thật nhanh ra giữa dòng sông. Con tàu vừa quay mũi lại để chạy ra vàm sông, thì tai Vũ chợt nghe ầm mốt tiếng dữ dội. Con tàu nghiêng qua một bên vì sức nổ, rồi khập khiểng chạy. Vũ chợt thấy chung quanh im lặng, tai không còn súng nổ, cảnh vật chập choạng, mờ ảo các ánh lửa nhảy múa, rồi tất cả mờ dần. Trong chập chờn, Vũ lại nghe tiếng của Nguyên gọi tên mình thảng thốt. Chàng chồm dậy, nhưng toàn thân mềm nhũn, bất động ...Ra đến vàm sông lớn, tàu quẹo theo bờ phải để chạy về căn cứ. Trời đã mờ mờ sáng, từ chân trời một thứ ánh sáng mờ tím đã rạng lên, óng ánh. Tàu khập khiển chạy, lửa cháy trên ú súng trước mũi đã được dập tắt từ lâu. Xác đoàn viên Sơn, người lính xạ thủ, đã được kéo ra từ những móp méo của vách thép, quấn kín trong tấm poncho đặt nằm phía sau buồng lái. Vài người lính được băng bó sơ sài, vẫn còn ngồi ứng chiến sau các ổ súng. Viên trung sĩ Hoàng cúi xuống nhìn Vũ, miệng hỏi
- Ông thầy thấy ra sao rồi ?
Nhưng mắt Vũ vẫn nhắm nghiền, vẻ mặt hằn nổi đau đớn tột độ. Đầu chàng được quấn trong một lớp băng trắng xóa, máu thắm đỏ đến vòng ngoài...Có tiếng máy tàu rầm rì vang lên từ xa, và trong ánh sáng của bình minh, bóng một đoàn tàu đang lầm lì chạy bên kia bờ. Trung sĩ Hoàng vẫy tay mừng rỡ, và chớp đèn liên lạc. Chắc các chiếc tàu đi tiếp viện mình đây rồi ! Nhưng trước ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, đoàn tàu kia vẫn âm thầm chạy ngang, không một dấu hiệu gì chứng tỏ họ đã thấy chiếc giang đỉnh đang bị thương tích ...
Khi mặt trời đã lên đến ngọn cây, thì tàu về đến căn cứ. Trung sĩ Hoàng vội vã cho tàu cập pontoon, rồi hối thúc các anh em còn lại lấy băng ca khiêng Vũ, và vài anh em bị thương khác lên bệnh xá của trại. Trong khi vội vã, họ không để ý là ponton tàu vắng vẻ, không còn một chiếc tàu nào cập bến như thường ngày. Và cả căn cứ cũng vắng lặng, không một bóng người lai vãng ...Chiếc cửa bệnh xá mở rộng, trên lối đi còn vương vải nhiều đồ vật, dụng cụ, thuốc men. Chứng tỏ một tình trạng hổn độn đã xảy ra đêm qua ...Trung Sĩ Hoàng chợt hiểu mọi chuyện. Hèn gì tàu đã không còn liên lạc được với căn cứ, sau khi họ rút chạy về. Và đoàn tàu tàu mà họ gặp trên sông, đó là đoàn di tản của căn cứ. Thế những sau họ không cho toán mình biết tin ? Chắc muốn bảo mật đây !!!
Giữa lúc mọi người đang giận dữ và hoang mang trước tình thế, thì có tiếng động rồn rập, và tiếng người lao xao tước cổng. Hạ sĩ Hùng đến đứng phía sau vọng gác nhìn ra, thì thấy một toán người lạ với súng ống, mặc đủ loại quần áo hổn tạp, đang nhốn nha đứng trước cổng . Hạ sĩ Hùng kề tai Hoàng nói nhỏ, rồi cả bọn rón rén khiêng hai chiếc băng ca, theo được vòng phía sau căn cứ đi xuống cầu tàu. Tàu từ từ lùi ra khỏi cầu, và theo giòng nước đi về hướng biện* * *Gió rì rào thổi lạnh, mở bừng mắt ra và sau một vài giây định thần, Vũ ngạc nhiên thấy chung quanh mình là biển cả ngợp trời. Nhiều chim hải âu đang bay lượn chung quanh, cất tiếng kêu quang quác. Phía trên là một chiếc lều vải đang kêu phần phật trong gió, và tiếng máy rì rầm đang chạy. Có nhiều bóng người lao nhao chung quanh, và tiếng của Hoàng reo to: " Ông thầy tỉnh lại rồi !".
Chiều di tản 30 tháng Tư, 1975
Phong Vũ

Anh Còn Nợ Em  

Anh nợ em...

Anh nợ em một mảnh đời cơ cực,
Sống lang thang, một kiếp sống đa đoan...
Em hy sinh và em đã cưu mang,
Cho anh có một cuộc đời đáng sống!
Ôi mênh mông tình em như biển rộng...
Biết khi nao mới trả được tình em,
Xuân qua mau và Đông đến bên thềm....
Và em hỡi khi nào ta hội ngộ ?!
NM          

ANH NỢ EM
Một 
Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau khi vị Tổng Thống vài ngày của miền Nam ra lệnh cho quân đội buông súng đầu hàng địch, để mặc cho Cộng Sản miền Bắc cưỡng chiếm toàn miền Nam. Nguyên buông súng nhưng cha chàng không cho chàng đầu thú để đi học cải tạo vài tuần sẽ về, như cán bộ Cộng Sản nói. 
Kinh nghiệm sống của ông cho biết rằng đó là cái bẫy Cộng Sản đưa ra để bắt hết quân dân cán chính bỏ tù, và sẽ giết họ dần mòn trong im lặng dưới cái danh nghe rất kêu: "Trại học tập cải tạo" để che mắt nhân dân miền Nam và quốc tế. 
Cuối tháng 11/1975 vào một buổi sáng cả nhà vừa thức dậy, cha Nguyên gọi chàng ra phòng khách, dúi cho chàng cái túi có hai bộ quần áo vải, và một số tiền. 
Bằng giọng nói như ra lệnh, lạnh như băng:
- Con phải kiếm đường đi khỏi Ban Mê Thuột ngay hôm nay, Ta nghe phong phanh, chúng nó đã biết con ở đâu. Chúng nó sẽ bắt con bất cứ lúc nào..!
Nguyên nhìn cha, ngại ngùng đưa tay nhận món tiền không cần đếm, chàng đút vội vào túi quần, trong khi mẹ chàng vừa bước vào đứng bên cạnh cha nước mắt dàn dụa trên mặt. Nguyên nhìn hai đấng sinh thành trong tuổi già, chàng cúi nhìn xuống đất lắc đầu:
- Con không đi đâu, con trốn vào rừng, tối về nhà vì thày mẹ già rồi. Đâu có ai bên cạnh, các em con đứa đi tù, đứa mất tích chưa về...! Không biết tụi nó ra sao...!
Cha Nguyên quắc mắt nhìn chàng, giọng nói gắt trong sự đau xót tột cùng : 
- Vì con là Không Quân Kiểm Báo, rồi cứ ở phố la cà hết quán cà phê này tới nơi nhẩy đầm khác. Bạn bè của con cả tỉnh Ban Mê Thuột nhỏ bé này đều biết con là ai, thì con khỏi cần trốn vô ích. Những bạn học của con tại Ban Mê Thuột này cũng có người theo Cộng Sản nằm vùng! Nếu con muốn ta đi lượm xác con sau khi tụi nó bằm con ra từng mảnh! Thì con ở lại Ban Mê Thuột !
Bây giờ có hai điều: Một là con trốn đi, và chết đâu cũng được, nhưng không thể chết ở Ban Mê Thuột. Hai là con tự tử, thày không muốn con chết trong tay Cộng Sản để rồi không thấy xác. Nếu không có gan tự tử thì cầm gói này, và lấy chiếc Honda của thằng Thanh đi ngay lập tức.
Nguyên nhìn cha, chàng biết rằng cha rất cương quyết vì cha chàng đã sống trong thời Thanh Niên Tiền Phong ở chiến khu Bắc Việt, đã bị tù đày trong trại tù Lý Bá Sơ, Khu Tư, và đã chạy Cộng Sản cả nửa đời, kinh nghiệm về Cộng Sản của ông là máu và nước mắt, là hận thù chém giết không ngừng của chế độ mất bàn tánh con người không gia đỉnh, không tổ quốc, không tôn giáo. 
Nguyên nhìn qua mẹ và các em gái, đang khóc trong góc nhà, chàng gạt nước mắt giật cái túi trên tay cha , cúi đầu chào mẹ, và bỏ lại các em chạy vội ra chiếc Honda đang dựng ở hiên nhà. Nguyên đạp cho máy nổ rồi phóng thật nhanh mất dạng.
Nguyên xuống Nha Trang tìm người bạn tên Quang ở Trụt gần Cầu Đá, nhưng người bạn chàng đã đầu thú, và bị bắt mang đi mấy tháng chưa về, gia đình không biết tin tức. Cha mẹ Quang có đi hỏi tin tức về Quang, được cơ quan công An ở Trụt trả lời : Mai mốt anh Quang sẽ về. Nhưng càng chờ càng mất niềm tin, nên cha mẹ Quang rất buồn, và trở nên bất tín đám Cộng Sản tàn ác, trong chế độ bao cấp, khủng bố và không giữ chữ tín với dân chúng.
Nguyên ở Trụt vài ngày trong nhà cha mẹ Quang, rồi dùng Honda về Sài Gòn qua ngả Phan Rang, Phan Thiết, và Long Thành vào trại Bùi Phát tìm Ông Đạm, với hy vọng ông Đạm sẽ chứa chàng vài ngày, vì ngày còn đi học Văn Khoa chàng đã ở trọ nhà ông , nhưng ông Đạm đã trở nên lạnh lùng không tiếp chàng vồn vả như xưa:
- Tôi không thể chứa cậu trong nhà, cậu phải rời khỏi nhà tôi ngay đêm nay, nếu không gia đình tôi sẽ chết với tụi Công An Cộng Sản trong khóm phường, tụi nó như lũ quỷ dữ sống lại...!
Tôi thương cậu như con, nhưng tình thế này tôi không thể làm gì hơn… Vợ tôi nghĩ tới cảnh đấu tố ngoải Bắc, nên khi Sài Gòn vửa bị cưỡng chiếm đã mang bệnh qua đời rồi !

Nguyên nhìn ông Đạm hiểu hoàn cảnh của ông, do đó Nguyên xin ra đàng sau rửa mặt , lấy bộ quần áo rách thay để ngụy trang, bước ra phòng khách chào ông Đạm, và lên xe đi thẳng ra ngoài đường Trương Minh Giảng, lên bến xe Bình Tây mua vé xe xuống miền Nam, và trèo lên xe ngồi vào ghế cuối chỗ tối, và cố giỗ giấc ngủ vội trong lo sợ bị phát giác, sau khi đã cho chiếc Honda của chàng lên nóc xe. 
Trong suốt đọan đường từ Ban Mê thuột tới Sài Gòn, nơi nào Nguyên cũng ghé mắt rất nhanh liếc qua những trạm gác giữa đường để tránh né đám Công An Cộng Sản nhiều như rươi, độc ác như lũ cướp ngày ở mọi nơi. Chúng bắt người đánh đập vô cớ không cần luật lệ, khám xét bơi móc tất cả những hàng hoá trên nóc xe, và ngay cả những gói đồ hành khách ôm trên tay để tìm những gì chúng muốn lấy, muốn khám để bắt đóng thuế, nhất là chúng tìm vàng và tiền Mỹ kim cất giấu trong người nạn nhân. 
Người dân bỗng trở thành nô lệ, sợ hãi từng giây phút trong cuộc sống dưới sự độc tài của kẻ cưỡng chiếm, tàn ác hơn thời phong kiến và khát máu hơn hẳn thời bị Pháp đô hộ, và đã có vài người chết dưới mũi súng của Công An trước sự ngạc nhiên ngơ ngác khiếp đảm của đám đông dân chúng ngay tại cửa chợ hay bến xe. 
Nhưng nếu muốn qua khỏi trạm kiểm soát chàng chỉ bỏ vào tay những kẻ mặt người tim thú máu lạnh gác chốt ngoài đường lộ vài ngàn, hay bắt tay người kiểm soát viên trong trạm gác mặt lạnh như muốn giết người là yên lành được đi qua không cần kiểm soát. Cũng vì thế chàng đã phải nhịn ăn để dành tiền cho việc đóng lộ phí chẳng đặng đừng dưới sự bóc lột của Công An Cộng Sản. 
Khi tới Cẩn Thơ, Nguyên đã hết tiền và đói, chàng bắt buộc phải bán rẻ chiếc Honda để mua chén cơm đỡ bụng rồi thất thiểu xuống đò, mà chàng chẳng biết con đò sẽ đi về đâu, vì chàng cũng không có chủ đích đi đâu, chàng là kẻ chạy trốn vòng vòng trong chiếc cũi không lồ đang nhốt người dân cả nước, và tình nguyện chết đâu cũng được nhưng đừng chết trong tay Cộng Sản, như lời cha chàng đã dặn.
Cứ thế đời Nguyên trôi theo những nắm cơm xin dọc đường, tối ngủ chợ hay chỗ nào cũng được, miễn là không có ai dòm ngó. Nhưng chàng luôn di động hết vùng này tới vùng khác, không có chỗ nào nhất định, thất thiểu như một kẻ điên. Thực ra chàng đã cho mình là kẻ điên với quàn áo rách hở lưng, rách túi, dơ bẩn hôi hám cũng may chàng chưa mắc bệnh nhưng đã còm cõi coi không ra Nguyên của mấy ngày tháng trước 30 tháng 4 với đầu tóc rối bời bết bụi không gội, râu ra lung tung và đôi mắt trũng sâu đen quầng vì thiếu ngủ lẫn với lo sợ từng giây.
Có lần trong lúc hoang mang, mềm lòng trong cơn đói, Nguyên nhẩy đại xuống thuyền từ chợ lồng Rạch Giá, rồi vì mệt và đói chàng đã ngủ quên, khi thuyền đậu vào bến đã tối, chủ thuyền đuổi chàng lên bến, Nguyên mới biết chàng đã bỏ Rạch Giá và xuống Chợ Mới, Cà Mau. Nguyên giật mình khi nghĩ tới hai câu nói về Cà Mau trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm: 
Muỗi kêu như sáo thổi .
Đỉa lội như bánh canh
Nguyên than thầm :
- Chắc bỏ xác ở Cà Mau này vì muỗi, chết đâu không chết, chết vì muỗi thì nhục thật..!
Nguyên đã rúc vào đống rơm để tránh muỗi giữa cánh đồng ngủ vài đêm khi mới đặt chân tới Cà Mau, và mấy tháng chàng đánh liều vào ngủ chung với trâu trong cái mùng che cả chòi của vài nhà giàu trong vùng. Giường là những nắm rơm chàng trải phủ lên những đống phân khô, nhưng đôi khi chàng không ngủ được vì muỗi đã đổ xô tới bám đầy vào chân, tay khi chàng ngủ quên trong khi mệt mỏi lo âu, tay chân thò ra khỏi mùng, và những chỗ hở trên thân vì quần áo rách. Những lần như vậy, Nguyên bắt buộc phải ngồi dậy lấy mấy cành tre tươi nhiều lá đuổi muỗi liền tay cho chính mình và cho cả trâu, vì nếu muỗi cắn trâu, trâu sẽ không ngủ, nằm đứng không yên và lấy đuôi quật lung tung, mùng sẽ rách và muỗi được dịp tràn vào trong mùng cho tới khi trời sáng, nhưng khi trời sáng vừa ló rạng chàng lại phải lẩn vào những ruộng lúa nước để tránh chủ trâu và bắt cá, rắn, hay chuột đồng ăn thay cơm, khi buồn ngủ chàng nằm đại ra bờ ruộng, hay thửa đất khô giữa trời đất thênh thang chẳng ai để ý tới.
Đã mấy tháng ! Nguyên không thể sống như vậy được lâu, vì chàng cảm thấy đôi khi bị sốt nóng lạnh, và thèm cơm, chàng cố gắng mấy ngày bắt cho được mấy con cá nóc lớn sách ra Chợ Mới với dụng ý đổi lấy vài viên thuốc trụ sinh, hay chén gạo. 
Nguyên vừa xách xâu cá nóc từ phía Sông Rạch Hào tới gần Chợ Mới vào buổi sáng sớm. Chàng đã ngạc nhiên nhìn con đường từ cầu tàu ngó qua Ty Công Chánh chạy đến rạp hát Huệ Tinh đã rộn rịp khách mua, người bán tấp nập. Mắt chàng đã chợt nhìn thấy một dáng dấp nữ sinh gánh một bên là nồi cháo, và bên khác là rổ bát đũa, thìa và nồi nước rửa chén. Nguyên thèm cháo nuốt nước miếng, nên đi theo cho tới khi vào tới đầu chợ, người bán hàng mới bỏ gánh cháo xuống. Nguyên không thể chờ được nữa, chàng chồm tới nói với cô bán cháo:
- Xin lỗi cô, tôi đói quá và thèm cháo quá, cô làm ơn cho tôi đổi sâu cá này lấy tô cháo được không ?
Cô bán cháo vừa ngước mặt lên nhìn Nguyên, và đưa một cái liếc xéo thật dịu kín đáo như thầm hiểu trạng huống của Nguyên trong ánh mắt. Cô nhỏ nhẹ:
- Được chứ anh. Sâu cá này đổi được hai tô cháo dưa muối, anh chịu không?
Nguyên vội vàng đưa sâu cá nóc cho cô bán cháo rồi ngồi bệt xuống nền đất bụi.
- Một tô cũng được, miễn là tôi có tô cháo.
Cô hàng cháo, liếc nhìn Nguyên rồi mở nồi, lấy tô múc cho Nguyên một tô đầy, trong khi múc cháo cô hỏi Nguyên bằng giọng Ca Mau đặc quánh.
- Anh nghèo đến độ không có tiền mua cháo à?
Nguyên đưa hai tay cẩn thận đỡ tô cháo và gật đầu. Chàng lấy thìa múc cháo húp lấy húp để, húp xong tô cháo, Nguyên thấy tỉnh người ra và lấy tay dơ lau miệng, chàng hỏi.
- Tôi còn tô nữa phải không ?
- Phải rồi, anh muốn tô nữa tôi múc cho anh.
Nguyên lắc đầu.
- Không tôi để dành ngày mai, ngày mai cô có tới đây không?
- Ngày nào tôi cũng tới đây bán cháo dưa muối. Mai anh tới đây tôi sẽ trả lại anh tô cháo còn nợ anh. 
Bất chợt nàng dịu giọng lại chỉ mình Nguyên nghe trong cái ồn ào của buổi chợ sớm:
- Tuy nhiên anh phải cẩn thận kẻo nguy hiểm lắm.
Nguyên nhìn cô bán cháo trân trân bằng đôi mắt cám ơn, và đưa mắt lấm lét nhìn chung quanh, chàng vội vàng gật đầu nói nhỏ :

- Cám ơn cô, nhưng tôi muốn đổi cá lấy vài viên thuớc cảm trụ sinh chữa bệnh.
Cô bán cháo liếc nhanh mọi người, nàng gật đầu với Nguyên, nói nhỏ: 
- Trời đất, thuốc bây giờ đắt lắm, vài con cá của anh đâu có được một viên !
- Thì tôi cứ đưa cá cho cô, khi nào đủ một viên thuốc, thì cô đưa thuốc cho tôi .
Cô bán cháo vừa múc cháo bán cho khách, vừa liếc mắt nháy thật nhanh về Nguyên.
- Thôi cũng được, mai anh mang cá ra chỗ này, tôi sẽ đưa thuốc cho anh. Nhà anh ở xa đây không? Anh phải đi đi, mau lên...!
Nguyên lắc đầu.
- Tôi nghèo không có nhà.
Chợt cô bán cháo nhìn thẳng vào mặt Nguyên, nói như ra lệnh sau cái nháy mắt thật dài:
- Anh làm ơn đi chỗ khác ngay, để tôi bán hàng. kẻo Công An thấy đông người như họp chợ, họ tới bây giờ thì khốn.! 
Nguyên vội vã bỏ cô hàng cháo khập khễnh, lủi thủi cúi mặt đi vội vàng, mắt ráo hoảnh nhìn quanh như chạy trốn, và biến mất vào đám dừa nước dày đặc mênh mông của Cà Mau bên đê sông Rạch Hào cách chợ vài cây số.
Nguyên vừa đi, lòng thầm nghĩ "không biết cô bán cháo này có ý gì, sao lại nháy mắt với mình, rồi lại đuổi mình đi ! lạ thật,,, Kệ mẹ nó... Tới đâu hay đó... đằng nào cũng chết, nhưng không chết đói là được. Đi bắt cá mai mang đổi lấy thuốc rồi sẽ hay." 
Hai
Sau hơn ba năm sống trong bếp của gia đình Nga ít đi ra ngoài với danh nghĩa anh của Nga bị tàn phế từ nhỏ và luôn mặc quần dài để ngụy trang như chân bị tật nguyền. Mỗi lần chẳng đặng đừng Nguyên phải ra ngoài, chàng phải chống một cây gậy và đi cà thọt, đôi khi gỉa bộ té như đứng không vững.
Nguyên hiểu đưọc rằng Nga trước ngày 30 tháng 4 nàng là học sinh lớp 12 Trường Trung Học An Xuyên, cô học trò miền tỉnh nhỏ ưa ăn trái cóc ở xe bán hàng rong trước rạp Huỳnh Long , xem hát tại rạp Huê Tinh và hay qua phiá sau chợ để thơ thẩn đi bộ trên Công trường Bạch Đằng hứng gió ngàn từ biển thổi về. 
Sau ngày 30 tháng 4 Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam nàng phải theo cha mẹ bỏ Tỉnh An Xuyên về miền quê mua đất gần sông Rạch Hào như một cách chạy trốn chương trình kinh tế mới đánh phá tư sản của Cộng Sản, Nga có người anh cả Biệt Động đã tử trận tại Khe Sanh, và người anh kế lính dù bỏ thân tại An Lộc. Cha mẹ Nga đã già, ông bà sống bình dị qua ngày sẽ không ai để ý bắt bớ hoặc đấu tố vì ông bà sống nghèo, hơn nữa ông bà không muốn bỏ quê hương có nắng bụi mưa sình của xứ An Xuyên để chạy ra nưóc ngoài như một vài người bạn của ông bà đã ra đi bằng thuyền qua Thái Lan trong ngày mất miền Nam. Nhưng trong tâm thức, ông bà lo cho tương lai Nga sau này, và luôn thở dài khi thấy vai nữ sinh bây giờ nặng gánh cháo trắng dưa muối mỗi ngày đi bộ trên lộ xa...!
Cũng vì thế Nga đành phải ở lại với cha mẹ, và gánh cháo dưa muối nàng thường gánh ra đầu chợ bán là một sự ngụy trang để sống trong cảnh quan tha, ma bắt dưới chế độ tàn ác khủng bố, giết chóc của Công An Cộng Sản giữa ban ngày. 
Một chiều Nguyên đang ngồi ngoài hè sau đánh vẩy mấy con cá nóc mẹ của Nga mới mua về, bỗng nghe tiếng Nga khóc trong bếp và có tiếng nói của mẹ Nga:
- Nếu con không bằng lòng lấy nó, thì chết cả nhà đó.
Tiếng Nga gằn giọng :
- Thà chết con cũng không lấy thằng cán bộ mất dậy đó.
- Nhưng nó đã tới nhà và ra lệnh cho cha, con phải làm như ý nó muốn.
Nguyên sực nhớ tới gã cán bộ sáng nay tới nhà trong khi Nguyên trốn yên lặng trong góc bếp. Chàng nghe loáng thoáng những câu nói hống hách của hắn, và tiếng thở dài van xin của cha mẹ Nga :
- Ông phải nhớ điều tôi nói, nếu không là chết cả nhà ! Cả thằng con què của ông tôi cũng không tha đó, nghe chưa!
- Dạ
- Tôi còn biết rằng ông có hai người con trai đi lính ngụy. Đó là có tội với nhân dân ông hiểu không!
- Dạ
- Vậy thì ông bà phải làm điều tôi muốn, ông bà phải làm hiểu chưa!
- Dạ, xin ông bỏ qua cho cháu, nó còn nhỏ quá mà!
Nguyên chợt hiểu thì ra thằng cán ngố mất dạy Bắc Kỳ trên phường vừa tới hồi chiều. Mấy tháng nay hắn thấy Nga đẹp, có duyên nên hắn đã mê, và sàm sỡ với nàng mấy lần. Hắn cũng đã nhiều lần ghé nhà thăm hỏi cha mẹ nàng, nói ngọt như mía lùi, và lễ độ như con cháu, ai dè hắn manh tâm theo dõi gia đình nàng, sau khi hắn biết mọi chi tiết, hắn trở mặt khủng bố, dọa nạt ép cha mẹ Nga gả nàng cho hắn! 
Nguyên bực tức bổ mạnh con dao đang đánh vẩy cá xuống con cá trên miếng gỗ làm con cá bị chặt đôi với nỗi uất hận của chàng, trong khi tiếng Nga khóc lớn hơn làm chàng đau lòng. Nguyên thầm nghĩ rồi chửi thề :
- Đồ chó chết, để tao xem mày là ai ! Có ngày mày vào đây một mình là bố sẽ giết mày, chôn xuống mương luôn, rồi ra sao thì ra, đàng nào tao cũng sẽ chết vì tụi mày không sớm thì muộn. Nhân lúc này đánh đổi có sao đâu!
Ngay đêm đó trong khi Nguyên đang trằn trọc trong góc bếp với những ý nghĩ về Nga, và cách nào thủ tiêu thằng cán bộ chính trị chủ tịch phường. Chàng nghe tiếng chân Nga trong đêm khuya đi tới phía góc bếp nơi chàng đang nằm, nhưng chàng nằm như ngủ lặng yên xem Nga làm gì. Nga dừng lại bên mùng, nàng đứng suy nghĩ vài giây rồi cúi xuống vạch mùng định rúc vào trong, nhưng sau đó nàng đứng dậy bước nhẹ ra khỏi bếp. Nguyên mở mắt theo dõi thấy nàng có vẻ băn khoăn suy nghĩ, khóc thầm và bước vào phòng nàng sau khi khép nhẹ cánh cửa không cho có tiếng động… 
Đêm nào cũng vậy, cứ nửa khuya là Nga lại ròn rén đi xuống bếp, đứng bên cạnh mùng chổ chàng nằm khoảng vài phút, rồi lại nhẹ nhàng trở về phòng, và mỗi lần nhìn hành động của Nga, chằng định lên tiếng hỏi, nhưng chàng lại cố giữ im lặng đề phòng, và nghĩ cách thoát ly khỏi nhà Nga, vì chàng nghĩ có thể Nga đã muốn đuổi chàng ra khỏi nhà, ví muốn giữ sự an bình cho cha mẹ nàng, hoặc có thể Nga đã đổi lòng không muốn giúp chàng như nàng đã hứa.
Sau vài tuần Nguyên thức trắng suy nghĩ phương cách thoát ly khòi nhà Nga, và để phòng bất trắc có thể sẩy ra, sự lo âu sợ trong bóng tối có kẻ rình rập giăng bẫy bắt chàng, Nguyên đã mệt mỏi ngủ quên. Nga đã thực sự cương quyết đưa tay vén mùng từ từ rúc vào ngồi nhìn Nguyên co quắp ngủ trong bóng đêm, nàng định đưa tay đánh thức Nguyên nhưng lại rụt tay lại chui ra khỏi mùng về phòng. 
Một buổi tối, Nguyên cầm con dao nhọn nấp sau cách cửa bếp, yên lặng nghe ngóng tiếng thằng công an phường trong phòng khách vọng xuống bếp. Chàng biết chắc rằng hai tháng sau ông bà Chương sẽ chọn ngày gả Nga cho hắn, và Nga cũng bằng lòng lấy hắn hầu cha mẹ được yên thân trong tuổi già. Bất chợ Nga bước qua chỗ Nguyên nấp, và đưa tay nắm tay Nguyên kéo ra khỏi chỗn chằng nấp :
- Anh làm gì vậy ? Không được làm bậy đó nghe… Tay chân của nó giết cả nhà đó. Đêm nay em sẽ nói chuyện với anh, nhớ thức nghe. Sau câu nói Nga vỗ vai Nguyên với ánh mắt buồn trong thương yêu nàng dặn :
- Anh nhớ thức chờ em … nghe.
Nguyện gật đầu :
- Anh chờ em… nhưng chuyện gì vậy ?
Nga bỏ Nguyên vội vã bước trở lại vào phòng khách theo tiếng gọi của ông Chương cha nàng, nhưng không quên đặt ngón tay trỏ lên môi như thầm dặn chàng giữ im lặng:
- Dạ… Con đây… 
Nguyên nghe ông Chương nói với Nga :
- Con đưa anh cán bô ra cổng về, rồi đóng cồng chặt lại nghe. 
- Dạ….
Ba
- Anh Nguyên... Anh Nguyên... Dậy em muốn nói chuyện quan trọng với anh. Nguyên bàng hoàng bật dậy quơ vội cái áo định chạy ra ngoài vườn sau, trong khi Nga cần tay chàng trong bóng tối kéo lại, nàng dịu giọng :
- Không có gì đâu anh Nguyên, Anh chạy đi đâu vậy? Em muốn đánh thức anh dậy nói vài điều với anh thôi mà.
Nguyên ngại ngùng:
- Sao cô không thắp đèn lên, ngồi thế này hai bác biết hiểu lầm kỳ lắm, tôi mặt mũi nào còn có thể trốn ở đây. Tôi đã nhờ vả cô và hai bác...! Hai bác đã coi tôi như con ruột cô biết không ?
Nga gật đầu, giọng buồn phiền:
- Chính vì thế em mới xuống đây với anh, không sao đâu anh, em đã nói với cha mẹ em rồi.
- Em nói cái gì? Nguyên ngạc nhiên hỏi.
- Chuyện em yêu anh, muốn lấy anh làm chồng. Nga gục đầu vào vai Nguyên sụt sùi, nàng nói tiếp : 
- Em ao ước có anh bên cạnh sống với ba má em, nhưng không được rồi anh. Trước khi em làm vợ hờ của hắn, em phải lấy anh.
Nguyên chạy vội ra khỏi mùng:
- Cô Nga nói gì lạ vậy! Tôi nhất định không làm chuyện này đâu, mặc dù tôi cũng yêu cô từ lâu rồi, nhưng nhất định là không được. Tội cho em...!
Nga níu tay Nguyên ngã và lòng chàng khóc sụt sùi.
- Anh Nguyên, em yêu anh, nên em mới chứa anh trong nhà, cha mẹ em đều biết chuyện này mà, và bằng lòng gả em cho anh từ lâu rồi. Em chỉ chờ thời gian anh nói ra và xin cưới em với ba má . Nhưng không ngờ xảy ra chuyện trớ trêu này. Em phải cứu cha mẹ em, thằng khốn nạn đó nó làm thật đó. Em đã thấy nó hại nhiều người rồi! Em không muốn cha mẹ em đi tù, hay đuổi đi kinh tế mới vì em. Hoặc nó sẽ giết anh đó. Em bằng lòng cho anh mà!
- Nhưng hai bác biết thì nguy lắm ! Khổ cho em... em hiểu không ?
- Chuyện chẳng đặng đừng rồi anh... Nếu cha mẹ em biết cũng thế thôi...Ông bà đâu có muốn nó hại đời em...! Thà rằng em trao tặng anh tất cả rồi mai ra sao em không cần biết tới nữa.
- Nga! Em nói gì vậy?
Nga úp mặt vào vai Nguyên nức nở:
- Cũng đành như thế thôi anh à. Em yêu anh lắm, anh biết không ?
- Anh biết. Anh cũng yêu em, nhưng hoàn cảnh anh không thể giúp em được gì cả. Chỉ có cách anh giết nó!
Nga vội bịt miệng Nguyên:
- Anh đừng nói vậy! Em sợ lắm! Giết nó rồi anh sẽ ra sao...!
- Không, anh phải giết nó, nó hại đời em.
Nga rúc vào lòng Nguyên:
- Nó chẳng làm gì em được đâu, Em yêu anh, em muốn anh yên thân sống với cha mẹ em, và em cho anh tất cả mà...! Em đã thưa với bá má em rối !
Nguyên ôm chặt Nga trong lòng, với giọng đau đớn tột cùng:
- Em nói với ba má chuyện gì?
- Chuyện em yêu anh…. và hy sinh cho tình yêu chúng mình.
- Anh đâu có thể sống như vậy được hả em. Đời anh phải nương tựa vào người đàn bà anh yêu hay sao?
Nga ôm Nguyên và hai kẻ yêu nhau đều khóc sụt sùi trong đêm tối, Nga vuốt tóc Nguyên thì thầm: 
- Vậy thì từ nay mỗi tối em đều xuống bếp ngủ với anh.
- Không được đâu em.
- Không, em đã nhất định rồi. Tử nay em sẽ sống với anh cho tới khi em về với hắn. Em sẽ xa anh đó, anh biết không?

Bốn

Vài tháng sau khi về làm vợ gã cán bộ chính trị phường, tên Hùng, Nga cố gắng âm thầm dùng quyền lực, tiền bạc của gã cán bộ để tìm lối thoát cho Nguyên ra khỏi Việt Nam bằng đường biển. 
Một đêm tối trời, có mưa lâm râm Nga tất tả chạy xe Honda về nhà, nàng xông thẳng vào bếp giữa nửa đêm không thắp đèn, nàng kéo Nguyên dậy, và nói trong vội vàng thúc dục:
- Anh Nguyên, anh phải theo em đi ngay, có thuyền đợi ngoài biển rồi.
Nguyên ngạc nhiên.
- Thuyền nào ?
- Thuyền chạy ra nước ngoài đó, anh đi theo em ngay, bỏ lại tất cả.
- Ba má em ?
- Ba má để em lo....!
Nguyên như kẻ mất trí chạy theo tay kéo của Nga ra sân trước , và như cái máy chàng theo lời Nga ngồi lên sau chiếc xe Honda, trước sự ngạc nhiên của ba má Nga, nhưng họ chỉ im lặng nhìn theo chiếc xe rồ ga chạy nhanh trong đêm mưa, rồi âm thầm khép cánh cửa lại không lời từ biệt. 
- Ôm chặt lấy em.
Nguyên ôm qua bụng Nga và nhận thấy bụng Nga có vẻ khác thường, nhưng chàng đã không có thì giờ hỏi Nga, và cố gắng nghe những lời chỉ dẫn của Nga nói nhỏ trong mưa để cho nàng được yên lòng.
- Nhất định anh phải nghe em, anh phải đi ...! Nếu thoát được cố gắng sống nghe anh...! Anh thương em thì anh phải sống nghe chưa...!
Nga hối hả phóng xe chạy quanh co trong đêm, khi tới sông Rành Hào nàng thắng gấp xe, tắt máy bước khỏi xe một quãng xa. Nga dừng lại ôm lấy Nguyên khóc sụt sùi, nàng chỉ chiếc ghe trong khi với Nguyên:
- Anh đi được bằng an, em chờ tin anh...! Có thế nào chăng nữa cũng đừng uổng phí đời anh nghe chưa! Anh phải chờ em...!
- Trong lúc Nguyên bịn rịn, Nga kéo Nguyên sát vào mặt nàng rồi hôn chàng thật lâu, sau đó vung tay đẩy Nguyên xuống chân đê sông Rạch Hào, và bảo chàng chạy tới chiếc ghe đang bập bềnh trong đêm đang có bóng nguời lom khom bước xuống. 
- Anh xuống ghe kia đi đi...đi đi anh, ghe lớn đang chờ ngoài khơi... anh đi bằng an. Thôi em về đây... Nếu thoát được chờ em qua... Em sẽ tìm anh..

Năm

- Dady...! Dady...! Con vừa nhìn thấy một bà gần giống như hình ba bỏ trong bóp, trên bàn thờ, và một người khác nhìn đàng sau giống hệt dady lắm. Con tưởng là dady nên chạy theo gọi, nhưng không phải. Mắc cở quá chừng hà...!
Nguyên trố mắt nhìn đứa con gái đầu mười tuổi của chàng, nó đang vừa thở vừa nói. Chàng ngồi xổm để nhìn vào mặt con, quở mắng :
- Con đi đâu để ba má tìm khắp nơi ? Cứ tưởng con bị bắt cóc rồi.
Bất chợt Hellen quay mặt nhìn mẹ, nói:
- Mẹ à, con nhìn thấy một nguời giống dady ghê lắm, nên con chạy theo gọi. Ông ta quay lại, mặt cũng giống dady làm con hết hồn. Con mắc cỡ, bây giờ dady lại la con kìa..!
Nguyên ngạc nhiên, kéo Hellen tới gần an ủi và dò hỏi:
- Con gặp hai người đó ở đâu ?
- Trong parking chợ Lion mà dady vừa dắt con ra đó.
- Con gặp ở đâu?
- Con đã nói ở ngoài parking chợ đó mà. Người đàn ông giống dady ghê lắm. Nhưng trẻ hơn dady đó !
Nguyên chợt nghĩ tới Nga, chàng lay vai con gái, hỏi vội vàng trong khi đưa mắt nhìn quanh parking trước cửa chợ Lion.
- Hai người đó đâu rồi con ?
- Họ vừa lên xe đi rồi... Đó chiếc xe màu xám vừa quẹo ra đường King đó dady..!
Nguyên nhìn theo tay chỉ của Hellen, đầu chàng bỗng trở lên nặng trĩu, rối bời những hình ảnh của Nga, những ngày chàng sống ẩn nấp trong nhà nàng, nhất là những đêm bên nàng trong xó bếp, và ngày nàng đẩy chàng xuống chân đê sông Rạch Hào để xuống thuyền chạy ra biển.
Hai mươi lăm năm, Nguyên sống trên đất Mỹ, mười lăm năm bặt tin Nga, chàng chỉ biết Nga đã có một con trai sau hai năm chàng sống ở trại tỵ nạn Song Kha TháiLand. 15 năm không tin tức gì về Nga sau khi chàng đã tìm lại sự cân bằng tâm hồn và công việc hàng ngày tại hãng IBM. Chàng cố gắng làm để hy vọng có ngày đoàn tụ với Nga, nhưng tin tức về Nga đã không còn cách nào có thể gặp lại, mặc dù chàng đã có vài lần về tìm Nga, nhưng mọi người biết về gia đình Nga đều nói nàng đã vượt biển với thằng con sau khi cha mẹ nàng qua đời, và từ đó biệt tích không về lại căn nhà nàng bỏ lại. 
Chàng nghĩ rằng mẹ con của Nga đã chết trên biển, và chàng đã lập bàn thờ cho Nga ở trong nhà trước khi lấy Khanh. Chàng đã nói với Khanh : Nga là người vợ trước đã qua đời trong khi vượt biển từ Cà Mau. 
Sao bây giờ Nguyên bỗng dưng lại có người giống chàng, một ý nghĩ bất ngờ le lói về Nga! Nguyên thầm nghĩ : Biết đâu đó là Nga và đứa con của chàng đã tạo ra từ xó bếp, mặc dầu Nga không nói lúc chia tay 25 năm trước.
Nguyên thầm ao ước:
- Nga à! Có phải em và con không !!!? Sao tình chúng ta luôn oan nghiệt thế này! Em cứ như cái bóng bỗng xuất hiện trong đời anh rồi mất hút để anh mong, và tìm kiếm cả đời...! Nếu thực sự là em và con, em làm ơn xuất hiện cho anh gặp, anh vẫn luôn yêu em, vẫn còn nhớ những ngày tháng cũ bên nhau. Nhớ sự hy sinh của em....! 
Nguyên vội quay đi nơi khác đẻ tránh cặp mắt ngạc nhiên của Hellen đang nhìn chàng, và gạt vội vài giọt nước mắt thầm kín chạy trên má ! Chàng thở dài nhủ thầm.
"Nga! Em à...! Anh còn nợ em ...!"
San Jose May 6, 2008
ChínhNguyên   
 

Bóng Người Đi

Một Phi Vụ ‘Tấn Kích’
Đoạn ký sự này viết phỏng theo Hồi ký của ẩn sĩ T.T.H để tưởng niệm ngày đau buồn của dân tộc, 30/4/75.
Năm lên 8 tuổi. T. theo ông nội di cư vào Nam, còn cha T. dùng dằng không muốn rời xa nơi phần mộ tổ tiên và quê hương yêu dấu. Một vài người bạn thân đang có thế lực tại địa phương tìm đến ông và khuyên ông nên theo gia đình vào Nam. Ông thuộc thành phần Trí, Phú, Địa, Hào yêu nước, ở lại rất nguy hiểm.
Ông giật mình, vội vã tìm cách đào thoát xuống Hải Phòng để vô Nam. Nhưng đã quá trễ vì tất cả các nẻo đường đều bị cộng sản phong tỏa chặt chẽ.
Tại sân đình làng, ông bị lăng mạ, sỉ nhục, vu cáo, hành hạ và ném đá cho đến khi bị gục chết. Tin buồn sét đánh này đã được một người cùng quê vượt biên vào Nam may nắm thoát hiểm, báo cho gia đình biết
Bảy năm sau, trong bữa tiệc mừng chàng thi đậu Tú Tài, ông nội chàng đã kê cho chàng nghe câu chuyện đau buồn của cha chàng.Nghe tin đó, chàng rụng rời tay chân và quyết tâm phải trả thù nhà.
Chàng ghi tên gia nhập Không quân Quân lực VNCH. Ông nội chàng tuy thương cháu nhưng trước quyết tâm của T. cụ ngậm ngùi lại bàn thờ con lâm râm khấn vái, rồi gạt lệ tiễn cháu vào quân trường rèn luyện, nuôi chí phục thù rửa hận cho người cha yêu quý và những người dân vô tội cũng như góp phần bảo vệ miền Nam tự do.
Sau gần một năm rèn luyện, chàng đậu thủ khoa và được gửi đi tu nghiệp phi hành tại ngoại quốc. Khi trở về, chàng trở thành một trong những phi công đầu tiên điều khiển loại chiến đấu cơ tối tân A37 mới được trang bị cho Quân lực VNCH.
Và chỉ vài năm sau, chàng đã là một phi đội trưởng xuất sắc, hoàn thành các phi vụ khó khăn nhất, gây kinh hồn thất đảm cho các đơn vị công quân tại các vùng chiến khu D, U Minh và Rừng Sát….
Tết Mậu Thân năm 1968, Việt cộng vi phạm lệnh "ngưng bắn", xua quân bí mật thâm nhập và tấn chiếm các thành thị ở miền Nam.
Tin tình báo của ta khá mau lẹ và từng phi tuần được tung ra đánh vào các mật khu và các điểm tập trung của chúng. Trong nhiệm vụ "truy diệt", phi đội do T. chỉ huy đã làm cho các đơn vị cộng quân và căn cứ, địa đạo của chúng tan ra từng mảnh, trong phi vụ chót, đánh vào "R" Trung ương Cục giải phóng miền Nam, căn cứ của giặc như nổ tung dưới làn bom đạn của các chiến sĩ Không quân Quân Lực VNCH.
Chúng ỷ vào hầm sâu kiên cố chống trả bằng đủ loại hỏa lực và trong đợt vòng lại để tiêu diệt ổ kháng cự lớn nhất của địch, tung quả bom trúng đích nhưng máy bay của T. cũng bị trúng một trái SA7.
Trúng hỏa tiễn phi cơ rung mạnh, lửa phà vào phòng lái, khắp mình mẩy bị thương. T. chỉ kịp ấn nút thoát hiểm, xa xa còn nghe tiếng nổ kinh hồn của kho quân lương vũ khí của giặc, rồi thiếp đi không biết gì nữa….
Tôi đang ngồi làm việc tại văn phòng thì ngoài cổng gác báo tin có một cụ già đến thăm. Khách là một ông cụ cao niên, có lẽ phải gần 80 tuổi, râu tóc bạc phơ nhưng còn hồng hào, khỏe mạnh. Ông cụ cho biết là ông nội của T..người mà tôi gặp tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Sư đoàn 21 vào năm 1967 trong khi tôi cùng phái đoàn Bộ TTM đi thanh tra tại các đơn vị và các tiểu khu thuộc vùng IV.
Trong khi uống cà phê sáng,chúng tôi gặp nhau, rồi có lẽ vì cơ duyên hay vì "méo mó nghề nghiệp", tôi đã bấm tử vi và coi qua "tướng diện" cho T.
Tôi chỉ nói một câu là, sang năm (Mậu Thân) T.sẽ vượt qua một đại nạn một cách hi hữu, nhờ âm đức gia đình, nhưng phải chú tâm làm phúc, sắp xếp lại nơi cư trú cũng như các vật dụng bài trí trong nhà như bếp núc, bàn thờ, giường nằm…và chăm sóc các mộ phần trong gia đình.
Khi về Sài Gòn T. đã kể lại chuyện này cho cụ nghe. Nay T. bị mất tích trong phi vụ hồi đầu tuần nên cụ đến kiếm tôi mong tôi giúp giải đoán xem số mạng của T. ra sao? Có hy vọng gì không?
Tôi bấm quẻ, suy nghĩ và nói:
-Thưa cụ, theo số tử vi và theo quẻ ứng thì T. có gặp nguy hiểm nhưng sẽ đươc bình an và trong 7 ngày sẽ có tin lành. Xin cụ yên tâm nhưng nhớ khấn nguyện Ơn trên che chở và luôn nhớ tạo phúc lành.
Trong lúc đó, trong khu rừng đầy lan nở và hương thơm của "nhãn", nghe tiếng chim hót líu lo. T. giật mình thức giấc. Chàng thấy mình đang nằm trên giường, trong một căn phòng sáng sủa và xinh xắn, thiết trí như một phòng trong bệnh viện: Hai chân, hai tay và mặt đều bị băng kín, cử động khá khó khăn. Vừa lúc đó, cửa phòng hé mở và có tiếng nói của một cô gái:
-"Ồ! Ông đã tỉnh lại. Xin đừng cử động mạnh, để tôi mời bác sĩ".
T đoán chừng đã được đơn vị bạn cứu đưa về Quân Y Viện.
Vừa nghĩ đến đó thì bác sĩ vô đến. Ông coi mạch, xem xét các vết thương và nói:
-"Ông bị ngất đi khoảng 24 tiếng. Tỉnh lại là thoát hiểm rồi. Uống thuốc và săn sóc đều đặn thì chỉ 2 ngày sau là ông có thể về lại gia đình".
Cô y tá xinh đẹp đến chế thuốc và giúp chàng uống thuốc ngay sau đó.
Chàng ngạc nhiên vì thuốc đều là bột mịn hoặc nước có mùi hoa, cỏ rất thơm. Chàng hỏi thăm:
-"Thưa cô đây là đâu, bệnh viện nào?"
Thì cô y tá chỉ mỉm cười và nói:
-"Xin ông cứ yên tâm tỉnh dưỡng. Đây không phải là thành phố nhưng rất an toàn và bảo đảm có thể giúp ông phục hồi như cũ".
Nghe tiếng chim hót, suối reo và ngửi mùi thơm của nhãn và lan, T. nghĩ chả lẽ mình vẫn ở trong rừng.
Hai ngày sau, chàng được tháo băng, cung cấp y phục và được trả lại các vật dụng đầy đủ kể cả súng ống, bản đồ và địa bàn…
Ra khỏi phòng chàng không khỏi băn khoăn vì lối chữa trị thần kỳ ở đây, chàng còn ngạc nhiên hơn nữa vì chung quanh là một khu nhà xây dựng trên các cây đại thụ, thân lớn cả chục người ôm mới xuể, nằm giữa rừng hoa lan.
Thật là "sơn kỷ, thủy tú" như đã được diễn tả trong các truyện liêu trai mà chàng thích đọc khi còn đi học. T. Cám ơn bác sĩ và xin gọi điện thoại để đơn vị đến đón. Bác sĩ mỉm cười và nói:
-"Đây tiện đường xe đò. Để cô Lan đưa ông một quãng ra tỉnh lộ. Rồi ông có thể đáp xe "Lô" hoặc xe nhà binh về tỉnh. Chúc ông mạnh khỏe."
Từ giã bác sĩ, T. và cô y tá băng qua một cánh rừng nhãn. Mùa này mà lại có "nhãn trái mùa" rất thơm ngon. Cô y tá hái một chùm tặng chàng, nói là để làm quà cho gia đình. Qua rừng nhãn chỉ độ 5 phút là đã tới tỉnh lộ, xe cộ qua lại đông đảo. Chàng lên xe mà vẫn còn lưu luyến cảnh vật và cô y tá diễm kiều tên Lan.
Chàng nghĩ: sẽ thưa với ông nột và Đại Tá phi đoàn trưởng sắp xếp thời giờ và thuốc men mang đến tạ ơn Y Viện đã cứu sống chàng. Chàng ngạc nhiên tự hỏi: Không biết máy bay của chàng rớt thế nào mà đến nay chàng ở lại gần đường Tỉnh lộ này.
Khi nhận được điện của Tiểu khu báo. Bộ Tư lệnh Không Quân đã phái một sĩ quan cao cấp đem trực thăng đến đón T. Tại BTL Không Quân. T. được đặc cách thăng cấp thiếu tá kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu, vì chiến quả chàng đã được trong chiến dịch phản công địch vừa qua.
Ngày hôm sau . T và ông nội của anh lên thăm và cám ơn tôi. Họ có ý mang các y cụ và dược phẩm lên tặng Y Viện đã cứu sống T…
Vốn tính cần thận, trên đường đi, T. ghé qua trung tâm hành quân tiểu khu để xem lại an ninh lộ trình và địa điểm sẽ đến. Phòng 2 tiểu khu cho biết, sau trận Mậu Thân, giặc đã kiệt quệ không dám quấy nhiễu xe cộ qua đường nữa.
Tuy nhiên, họ ngạc nhiên khi T. nói đến Y Viện ở khu vực này. Du, trưởng phòng 2 tiểu khu hỏi lại:
-"Thiếu tá có chắc là có Y Viện này không? Thôi, để tôi cho một toán thám báo đến đó trước cho chắc ăn."
T. cám ơn và đi cùng với toán thám báo phòng 2 tiểu khu.
Đến nơi, chàng xem lại kỹ các dấu đánh trên thân cây, cùng bản đồ mang theo và chắc chắn là không thể sai lầm được. Nhưng chàng vô cùng ngạc nhiên, vì toán thám báo đã vào sâu trong rừng, trở ra cho biết là không hề thấy rừng lan, rừng nhãn cũng như Y Viện, nhà cửa nào cả.
Sợ họ lầm, đi lối khác, T. lại cùng họ đi vô lần nữa nhưng chàng đã thất vọng, vì sự tình đúng y như thế. T. xin lỗi, cám ơn họ và thầm nghĩ:
"Chả lẽ mình gặp Tiên".
Chàng thẫn thờ ra về mà lòng vẫn còn mang nặng dấu ấn của tai nạn và sự ân điển vừa qua, nhất là hình bóng "Liêu Trai" của cô gái y tá tên Lan.
Chàng hy vọng, lời cô gái nói sẽ thành sự thực: "ông cứ yên tâm. Có duyên ông sẽ còn gặp lại chúng tôi."
Từ đó, sau mỗi phi vụ, T. lại đảo khắp vùng để tìm khu rừng nhãn và Y Viện huyền bí đó. Bẵng đi 4 năm, gần Tết năm Nhâm Tí 1972, T. về Sài Gòn và ra chợ Hoa Nguyễn Huệ mua đào và mai về để ông nội chưng Tết.
Đang ngắm hoa, chàng chợt thấy mùi hương năm nào, mùi hương lạ lùng của lan rừng và mùi thơm nhãn chín. Chàng đưa mắt tìm loại hoa đó thì lại thấy một cô gái mặc áo dài "trắng hoa lan rừng" đang đứng xem hoa, cách đó không xa. Chàng đến gần, thì đúng là cô y tá tên Lan.
Nhìn chàng, cô mỉm cười nói:
-"Chào ông, chắc ông ngạc nhiên khi gặp lại tôi. Đúng là "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ". Ơ đây, không tiện nói chuyện, mời ông lại nhà hàng "Thanh Thế" tốt hơn."
T. hồi hộp đi theo nàng và thầm nói:
-"Hôm nay, cô không thể biến đi được." Đến nơi, nàng gọi hai ly "cà phê sữa". Hai người vừa uống cà phê vừa nói chuyện Tết nhất năm nào, một Mậu Thân đầy kinh hoàng máu lửa, thật khó quên. Thấy nàng vui chuyện, T. vội nêu lên thắc mắc mà chàng ấp ủ mấy năm qua.
Nàng nói:
-"Thưa ông. Năm ấy (Mậu Thân) chúng tôi biết ông có trở lại nhưng vì không có cơ duyên nên không thể gặp được. Tôi nói thật, xin ông đừng ngạc nhiên. Thật ra, chúng tôi là một lớp người khác biệt, tuy vẫn sống trong vũ trụ nhưng theo một chiều không gian khác biệt vượt ra ngoài vòng sinh tử và không gian, thời gian như loài người vẫn sống. Chúng tôi có một ân điển huyền diệu mà sau này ông sẽ biết. Có điều thực tế, xin ông đừng buồn là 3 năm nữa miền Nam Việt Nam sẽ gặp một kiếp nạn, khổ đau kéo dài.
Ông có cơ duyên với chúng tôi, nên khi nào cây nhãn ông đã trồng trổ bông, ông sẽ nhận được thông điệp qua cánh bướm vàng thơm mùi "nhãn lan". Đó là lúc ông có thể đến với chúng tôi. Xin tạm biệt."

T. đang ngẩn ngơ thì cô đã đứng dậy và biến mất trong đám đông người đi chợ tết. Mùi hương lạ tan dần, T. thẩn thờ đứng dậy ra về, quên trả tiền hai ly cà phê sữa.
Khi nghe T. kể lại chuyện này, tôi bán tín bán nghi và tự nghĩ: "Chả lẽ chuyện Từ Thức nhập thiên thai" là có thực hay hiểu biết của loài người còn giới hạn?
Sáng ngày 30-4-1975 tức là ngày 20 tháng 3 năm Ất Mão, vừa trở về sau một phi tuần "chặn diệt" một đại đơn vị cộng quân đang lăm le tiến xuống vùng IV, Trung tá T. được mời đến họp tại trung tâm hành quân quân đoàn IV.
Theo báo cáo tổng kết thì sáng nay, không hỏa lục của ta đã tiêu diệt trọn Bộ Chỉ huy đầu não và các đơn vị được coi là tinh nhuệ nhất, các đại đơn vị cộng quân miệt Long Khánh cũng bị hai quả CBU cách đây ít ngày. Hiện nay, thực lực của cộng quân không có gì đáng ngại.
Tan buổi họp, nhìn đồng hồ đã 9 giờ, T.trở về văn phòng duyệt các công việc hành chánh. Vừa ngồi xuống ghế, đột nhiên T. thấy có mùi "Hương lạ kỳ thưở nọ và một con bướm vàng chập chờn nơi cửa sổ."
Chàng buồn bã trở về phòng riêng. Với tay mở chiếc radio ở trên bàn ngủ. Tiếng nhạc vừa dứt, tiếng cô xướng ngôn viên yêu cầu đón nghe thông điệp quan trọng của chính phủ. Đó là bản văn soạn sẵn lời tuyên bố bàn giao chính quyền cho Cộng sản, kẻ giặc thù.
T. bực tức tắt radio, vói tay lấy đồ trang bị và tự lái xe ra sân bay. Máy bay đã được trang bị đầy đủ, sẵn sàng tác chiến. Chàng nổ máy, vút lên trời cao, bay về hướng Sài Gòn.

Trên quốc lộ 1, xe tăng cộng quân, lần lượt bò ra tập trung để kéo về Saigon biểu dương lực lượng. T.cho máy bay lướt xuống thả hết hai giàn bom. Từng tiếng nổ rung trời và từng chiếc T.54 bị bốc khỏi mặt đường tan xác. T. lượn một vòng, rồi lướt theo cánh bướm vàng vào vùng "Thất sơn huyền bí" mất dạng.
 Song Lộc

 Trở lại,
Tôi trở lại mong tìm quê hương cũ,
Của tuổi thơ thân thiết lẫn ngọt ngào....
Đi trên quê mà cứ ngỡ chiêm bao ?!
Còn đâu nữa, quê tôi giờ cằn cỗi !!
Bốn mươi năm , dân tôi nào có tội ,
Hoà bình rồi có thật sự ấm no ?
Hết thật rồi những ngày tháng âu lo,
Hay vẫn thế thân cò quen lặn lội...?!
Chừng nào hết những mảnh đời đen tối,
Cho dân tôi còn có được ngày vui,
Trở về quê lòng cay đắng ngậm ngùi,
Đông sao mãi một mùa trên quê nội !?
 NM
Nỗi buồn
Một
     Sau khi tới Hà Nội ngày 15 tháng 11năm 2006 và  trọ tại Hotel Khải Hoàn phố Cửa Đông, buổi chiều cùng ngày tôi gọi điện thoại thăm Bác Hai Hán, người đã đồng chí với cha tôi trong VNQĐD chống Việt Minh và Thực Dân Pháp vào những năm 1945-1950.
Bác rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói của tôi Bắc, Nam không rõ ràng của miền nào.
- Chào ông, Tôi Hán đây! Xin lỗi ai đấy giọng nói tôi chưa nghe bao giờ ?.
    Tôi yên lặng vài giây vì xúc động khi nghe được tiếng bác Hán, và sực nhớ tới những ngày còn bé tôi luôn được cha sai canh cổng mỗi lần bác tới nhà, để bác và cha tôi họp trong buồng ngủ của cha mẹ tôi. Sau khi họp bác ra phòng khách ăn cơm và nói những chuyện không đầu đuôi hầu chờ đêm xuống lẻn ra cổng lẫn vào bóng tối.
    Tôi chưa nhìn thấy bác nhưng qua giọng nói, tôi biết bác đã như con ngựa già đứng bên máng cỏ trong sự chán nản bức chế của chế độ Cộng Sản, mà bác đã sống một đời như tù lỏng.
    Bác đang chờ thời gian ra đi vĩnh viễn bỏ lại chuỗi ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết năm xưa. Cái tuổi mà cha tôi và bác thời 25, 30 tuổi với nhiều mộng ước đầy ắp trong lòng như mọi người dân Việt yêu nước mong cho quê hương được an bình thịng vượng, và trở thành con  rồng kinh tế muốn vượt mây bay vào trời Đông, nhưng thế thời đổi thay và lòng người oan nghiệt, cha tôi đã ra đi nơi xứ  lạ để lại lời trối trăn cuối cùng vẫn là quê hương nghìn trùng muốn quay đầu lại.
Bác Hán còn đó với những năm dài sống dưới chế độ khủng bố hà khắc nhà tù cả nước nhưng vẫn giữ lòng như tre trúc, một mai bác cũng héo tàn với ước mong đã vượt khỏi tầm tay.
    Tôi cũng vậy lại bước theo chân cha, và bác Hán, nửa đời mang ước vọng tay súng chinh nhân, nhưng nửa đời mang thân tầm gởi sống nhờ xứ ngoại...!  
    Đời rồi cũng tàn phai theo ngày tháng, cái trí dũng cũng bạc nhược theo đôi chân mỏi lưng còng, cha tôi, bác Hán và tôi sẽ chẳng còn gì đẻ níu kéo, họa chăng chỉ còn nỗi nuối tiếc kỷ niệm xưa, tuy nhiên Bác Hán đã phải sống dưới chế độ Cộng Sản từ ngày 1954 tới bây giờ như con hổ trong cũi của Thế Lữ.
    Tiếng bác bên kia đầu giây có vẻ vội vàng:
-           Vâng, tôi Hán đây. Có nghe được không?
-           Dạ, cháu nghe được. Chào bác Hai Hán.
    Bác Hán ngạc nhiên, khi nghe tiếng người lạ gọi tên ông trong những ngày tuổi trẻ.
-           Ai đấy? Sao tiếng nói lạ quá...! Sao biết tên củ của tôi vậy ? Cháu nào vậy ?
Tôi nhỏ nhẹ nói chậm để bác nghe rõ, vì tôi nghĩ bác đã lãng tai:
-           Dạ cháu là con ông Ký Tình. Cháu tên Trống
    Vừa nghe tới hai chữ Ký Tình, bác dường như mừng với những câu hỏi liên tục :
-           Thằng Trống... lạy trời ? Cháu ở đâu vậy? cha cháu ra sao ? khoẻ không ? Sao cháu biết số phone của bác ? Chắc cháu lớn lắm rồi nhỉ ? Ta đang ngồi chờ cha của cháu về...!
Tôi bùi ngùi xúc động nghe bác nói chờ cha tôi về. Tôi nghẹn ngào rơi nước mắt trả lời bác Hán:
-           Cha cháu mất ba năm nay rồi..!
    Bên đầu giây bác Hán bỗng yên lặng và dường như máy điện thoại bị rơi xuống sàn nhà vì có tiếng động mạnh. Tôi nghe tiếng thở dài của bác, và sau đó là tiếng nói trĩu buồn buông suôi...! 
-           Chết trong Nam à ? Vậy mà ta cứ ngồi chờ mãi..!
-           Không, cha con mất tại Mỹ.
-           Ồ...! Bố con cháu bỏ làng đi ngày đó, ai ngờ đi xa quá nhỉ...! Xa quê hương, làng nước chắc buồn lắm cháu nghỉ...!
-           Dạ, bố cháu nhắc bác hoài...!
-           Mẹ cháu còn không ?
-           Dạ, mẹ cháu hiện nay đang sống tại BMT, với các em của cháu.
-           Không sống ở Mỹ à ?
-           Dạ, mẹ cháu sống ở Mỹ hơn hai mươi năm, sau khi cha cháu mất mẹ cháu đòi về Việt Nam.
-           Ồ...! Quê hương mình vẫn hơn...! Quê người lạc lõng mẹ cháu về là phải. Thế cha cháu nằm bên đó thì sao ?
-           Cháu đang nghĩ tới mang xác cha cháu về quê như lời trối lại của cha cháu...!
-           Cháu làm được như vậy thì cũng tốt đó. Ta sẽ đi nay mai chẳng biết chừng...! Ta hết kẻ để chờ rồi...! Bạn bè đồng chí không còn ai...!
    Tôi nghe tiếng thở dài bên kia đầu giây, sau sự im lặng vài phút bác tiếp:
-           Bác với bố cháu thương nhau lắm. Thời hoạt động bố cháu làm thư ký nên bố cháu có cái tên là Ký Tình, nhưng bố cháu tên thật không phải là Tình đâu.
-           Dạ, cháu có nghe bố cháu kể lại.
-           Bố cháu nhắc tới ta cho cháu nghe là phải, ta cũng nhắc tới bố cháu luôn, đồng chí liên tâm mà...! Ta chỉ mong thấy bố cháu một lần, ai ngờ bố cháu đi trước ta rồi. Chắc chết chúng ta sẽ gặp nhau...!
-           Dạ.
-           Thôi nhé...! Nói điện thoại bác phải nói lớn mệt lắm, cháu tới nhà bác, rồi bác cháu mình nói chuyện nhé.
-           Dạ.
-           Cháu có biết địa chỉ không ?
-           Đạ cháu có địa chỉ của bác  
-           Ai cho cháu vậy ?
-           Anh Lương.
-           Lại thằng Lương, con thằng Tựa...! Bốn anh em chúng nó là Cộng Sản, có quân hàm lớn đó cháu biết không ?
-           Dạ, mẹ cháu nói.
-           Ừ... Thôi, ta già rồi, nhìn thấy chúng nó lớn lên từ nhỏ, nên không đành từ chúng nó, hơn nữa chúng là con cháu cả, cũng như cháu vậy đó.
      Chúng không làm gì bác vì bác gìa rồi, nhưng  cháu thì phải coi chưng đó nghe. Nếu cháu theo chân cha cháu mà chúng biết được thì nguy.
    Tôi nghĩ tới mấy người anh họ, mấy mươi năm mới gặp qua lời giới thiệu của mẹ khi vừa gặp họ ở BMT,
vì khi tôi bỏ làng họ chưa sinh ra. Anh em gặp nhau, kể cho nhau nghe vài chuyện bâng quơ thiên hạ sự xã giao không  dính líu gì tới chính trị.  Tôi tiếp họ bằng những ly trà đàm đạo thân mật chuyện gia đình trong Nam, ngoài Bắc và nước Mỹ, và sau khi họ về nhà mẹ vẫy tôi lại gần, bà ôm đầu tôi và ghé tai thi thầm :
-           Con phải cẩn thận nghe. Tụi nó quỉ lắm đó, chớ có tin cái thứ Cộng Sản bất nhân ! Cha con còn bị cha của tụi nó muốn giết thì con tụi nó nể nang gì con...!
    Tôi không muốn bác Hán phải lo lắng nên gỉa bộ cười qua ống nghe và nói: 
-           Bốn người Anh Khuông, Lương, Kho, Nhạn là anh em họ phía bên mẹ của cháu, chắc không có chuyện gì đâu. Giọt máu đào hơn ao nước lã mà bác..
-           Đúng, tụi nó là anh của cháu đó, tuy nhỏ tuổi hơn cháu, nhưng chớ tin nghe cháu, Khác nhau chính kiến khó nói chuyện lắm, nhất là những thằng Cộng Sản như bốn an hem nó. Cha chúng nó đòi xử tử cha cháu ngày đó, nên cha cháu mới đành bỏ làng, cháu biết không ? Thôi bác gác máy, cháu tới bác nói cho nghe, nói qua điện thoại không tiện đâu. À quên thằng Khuông có biết cháu về VN và đang ở Hà nội không?
-           Cháu vừa gợi điện thoại cho anh Khuông.
-           Cháu bảo nó chở tới ta nhé, nhớ đó.
    Tôi gấp lại cell phone trong khi lòng trùng xuống với những kỷ niệm như một phiến buồn đè nặng trên lưng mà tôi không thể hất ra để đứng dậy..!
    Lời nhắn nhủ của mẹ, câu dặn dò của bác Hán cho tôi để làm kinh nghiệm sống đối với những người con của bác Tựa cuốn xoáy trong trí, và hầu như đã bắt buộc tôi phải có sự lựa trọn tình thân anh em hay thù hận nối dòng...!
    Tôi sực nhớ câu ông nội dặn khi tôi vừa tám tuổi : "Cháu phải nhớ, chớ coi con cháu thằng Tựa là anh em, dù ông đã mất đi...!"
    Tôi thở dài tự nói thầm : Ông à, chắc con không thể giữ lời hứa với ông ngày đó rồi...! Mỗi thế hệ mỗi đổi thay... Con không thể mất đi tình người, anh em như thủ túc mà...! Cha con cũng nói rằng : Chú, Bác của con có thể giét cha, nhưng cha không thể làm những gì chúng có thể làm, vì cha còn tình người...!
    Tài xế của anh Khuông mặc bộ đồ bộ đội, anh ta có vẻ cố tình giữ yên lặng và khoảng cánh giữa tôi và anh ta. Tôi hỏi điều gì anh ta trả lời, không hỏi anh ta yên lặng làm bổn phận như người máy. Suốt quãng đường từ Hotel Khải Hoàn tới Phố Huế  anh ta chỉ nói có hai chữ dạ, vâng và lái xe đưa tôi tới nhà bác hai Hán vào buổi chiều sau ngày tôi điện cho bác Hán. Tôi tặng người tài xế của anh Khuông năm đô la để nhìn hành động của anh trước khi tôi bước xuống xe để vào nhà bác Hán. Tôi thấy mắt anh ta sáng lên, miệng anh ta lúc này mới mỉm cười thân thiện và cúi đầu nói được câu ngắn gọn:
-           Cám ơn ông, Nhưng ông đừng cho ai biết chuyện này. 
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta, và lập lại hai chữ của anh Luông thường nói với tôi để nói với anh tài xế tên Thụ .
Ai mà nói chuyện này với ai..! Chú cứ "vô tư" đi.
-           Dạ.
-           Anh lái xe về nhà đừng đi đâu nghe, kẻo anh Khuông cứ tưởng tôi lấy xe của anh đi chơi phố.
-           Dạ, cháu không dám lái xe này đi phố đâu. Ông biết được thì chết cháu ngay.
Bác Hán đã đứng ở cửa nhìn tôi mừng rỡ, bác vừa chậm chạp bước tới bên tôi vừa nói :
-           Nó không dám mang xe đi chơi đâu, cho kẹo nó cũng không dám ăn huống chi mang xe đi chơi.
      Bác với tay vẫy anh Thụ, nói tiếp:- Thôi Thụ à, cháu mang xe về trả cho thằng Khuông nghe, thằng Trống ở đây nói chuyện cà kê với ta lúc nào về sẽ gọi xe taxi, khỏi đón.
    Tôi bước vội tới ôm lấy bác Hán như ôm cha tôi với vài giọt lệ xúc động lăn dài trên má. Bác thấy vậy vỗ lưng tôi an ủi:
-           Tủi thân làm gì con...! Bác cháu mình có duyên gặp lại nhau ngày hôm nay là quí rồi, chỉ tiếc vắng cha cháu. Ngày đó cháu nhỏ tí, đen đủi, nhanh như cắt,  nay tóc con đã bạc rồi...! Con giống cha quá, ta nhìn là nhận ra ngay.
Tôi quay nhìn xung quanh, và thấy có vài người gọi bác bằng cha. Tôi ngạc nhiên hỏi.
-           Ủa, Bác gái có mấy anh sao ? Con nhớ ngày đó bác gái muốn nhận con là dưỡng tử mà...!
Bác hai Hán nét mặt bỗng trùng xuống, thở dài:
-           Bà ấy qua đời lâu rồi, sau khi gia đình cháu suôi Nam. Ta trốn Cộng Sản bặt tin trong khi muốn tìm cha cháu, thì nghe cha cháu đã dẫn gia đình suôi Nam rồi.  Bác thất trí, buồn phone đi lung tung trong khi bà ấy kiếm ta rồi mang bệnh mất giữa đường. Ta quay về tìm bà thì đã trễ rồi.! Các em sau này là con của người vợ kế của bác.
-           Bác à, anh Khuông bận nên anh xin lỗi bác, để bữa khác anh tới thăm bác.
Bác hán khoa tay nói:
-           Nó không tới càng hay. Bận cái gì...! Bận việc kéo bè kéo đảng với nhau để ăn cướp chứ có gì đâu, ta sống cả đời với chế độ này, chúng nó làm gì ta cũng  hiểu...!. Ngày mai là ngày ông Bush qua họp APEC, nên nó bận là phải rồi, bận đi xin ăn đó mà...!
    Sau khi ngồi xuống ghế trong phòng khách và hỏi thăm bác vài câu về sức khoẻ và gia đình, tôi chợt nhớ tới chuyện hôm qua bác Hán nói bác Tựa muốn xử tử cha tôi nên tôi tò mòø :
-           Hôm qua nghe Bác nói anh Khuông là con bác Tựa. Nhà bác Tựa ở gần cổng nhà bà ngoại cháu phải không ?
-           Đúng rồi, cháu nhớ dai thật.
-           Lúc cháu bỏ làng đã chín mười tuổi rồi, cháu còn nhớ nhiều lắm đó bác.
-           Quê mình nghèo, làng lại nhỏ có bao nhiêu người đâu mà không nhớ...!
-           Bác Tựa là anh họ mẹ của cháu. Như bác nói hôm qua, tại sao bác Tựa lại muốn xử tử cha cháu vậy ? Cùng gia tộc mà...!
    Bác Hán nhìn ra ngoài trời qua khung cửa sổ, nắng chiều nhạt nhòa, có hơi ẩm của gió thu Hà Nội lùa nhẹ vào phòng, trong khi Phố Huế ồn ào tiếng động cơ của xe gắn máy, và đường như thành phố lớn nhỏ gì của VN cũng đều bị tra tấn bằng những tiếng động cơ này suốt ngày qua đem. Bác quay lại nhìn tôi với đôi mắt buồn vời vợi, lắc đầu bác nói:
-           Trong làng chỉ có bố cháu và bác theo cách mạng chống Việt Minh, thực dân Pháp, vì ta và cha cháu ăn học ở Hà-Nội, trong khi cả làng trai tráng đều học ở làng hoặc huyện tới lớp nhất là hết về làm ruộng nên họ nghe Việt Minh tuyên truyền đi làm du kích, trong đó có chú Quân của cháu và thằng Tựa là chủ chốt đầu đàn. Như cháu đã biết thằng Quân đã chỉ súng lục vào đầu bố cháu trong khi anh em cãi vã nhau, có điều thằng Quân không bóp cò thôi.
-           Chuyện này cháu biết, vì lúc đó cháu ở bên bố cháu mà.
-           Còn thằng Tựa, lúc đó nó là tiểu đội trưởng du kích huyện     Phú Xuyên, nó ra lệnh cho thằng Quân bắn bố cháu, thằng Quân nghĩ sao không bắn, và bỏ đi mất tích sau 1954 nó mới về, vì cha cháu bỏ Pháp về làng, rồi lại mang cháu vào Nam.
-           Cái thời cha cháu và bác bỏ làng vào thành kể ra thì dài lắm, nhưng đại khái là thằng Tựa cho kẻ dưới quyền theo dõi bác và bố cháu sau khi thằng Quân không bắn anh ruột của nó. Bác và bố cháu biết nên chẳng ngủ nơi nào một đêm thẳng giấc. Một đêm bác và bố  cháu bất ngờ bỏ làng nửa đêm trốn lên Hà-Nội. Thằng Tựa biết thì đã trễ mặc dù nó đã cho tiểu đội dưới quyền
     nằm nấp sẵn tại ngã ba của ba làng Bái Vàng, 
     làng Vân và làng Hoàng Nguyên.
-           Vậy tại sao bác và cha cháu thoát khỏi chỗ ngã ba đó ? 
   Tôi buột miệng hỏi.
Bác hai Hán gật gật đầu có ve thú vị khi nghĩ về cuộc chạy đua với tử thần đầy nguy hiểm bởi chính anh em mình gây nên.
-           Cũng may bác và bố cháu đã không đi lối đó, bác và cha cháu đi qua lối làng Trằm lên đê Yên Phụ, nhẩy xuống thuyền trực sẵn ngược dòng vào Gia Lâm, rồi đi bộ qua cầu "Đuy-Me" vào Hà Nội.
-           Bác và cha cháu gan thật.
Bác Hán bật cười, sau đó nói trong khi bác lên cơn ho :
-           Cha cháu gan hơn ta...! Nếu không có cha cháu thì ta đâu có bỏ làng Thành Lập mà đi. Cha cháu rủ ta bỏ làng đấy chứ...! Thằng Tựa biết bác và bố cháu đã đi, nhưng nó không biết bác và cha cháu đi lối nào, nên nó vội vã chẳng nói gì với toán du kích huyện, cứ thế đuổi theo lên lối ngã ba làng nhưng không ngờ khi nó tới ngã ba thì chính toán du kích của nó bắn nó tử thuơng trong lúc sương mù không nhìn thấy chính xác là ai. Nhờ đó mấy thằng con  của nó lên tướng lên tá gớm thật...!
     Tôi ngạc nhiên hỏi:
-           Tại sao, bác Tựa chết vì du kích bắn lầm mà các anh con bác lại lên cấp bậc mau lẹ trong chế độ Cộng Sản.
-           Cháu không biết là phải. Tụi CS siêu tra ba đời làm cách mạng theo đảng. Mấy đứa nó khai là bố nó bị giết trong khi thi hành nhiệm vụ bắt Việt Gian. Đảng CS tin đó là thật nên tụi nó được nâng đỡ từ 1954 tới nay. Tài cán gì...!
-           Anh Khuông nói với cháu anh có qua Liên Sô và Tiệp Khắc học Đạo Diễn quay phim. Chắc anh phải khá lắm chứ.
Bác Hán Lắc đầu.
-           Học mà có hành hay không chứ. Nó về VN sau khi du học có làm đuợc cuốn phim nào đâu. Toàn là nghe cấp trên mang phim tài liệu đem bán rẻ cho Hòa Lan rồi chia nhau tiền, bây giờ nếu cần tới là lại phải trả tiền mướm đắt gấp mấy lần đem bán...! Ngu ơi là ngu...!        
-           Cháu đã nghe anh nói bỏ nghề đạo diễn rồi mà...!
-           Đúng..! Mà phim CS quay ai mà coi, toàn chuyện bịa đặt để tuyên truyền không à..! Ta kiên nhẫn coi phim CS làm mấy chục năm rồi, chẳng có gì mới mẻ cả, chỉ những tung hô bác Hồ, chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bám hào quang của Điên Biên Phủ. Nếu có hô hào và bắt buộc chiếu ngoài trời để tâm lý chiến thì dân mới đi coi, bình thường đâu có thì giờ mà coi. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc coi cái gì chứ.
-           Dạ
Bỗng bác Hán hỏi tôi, sau khi tôi đứng dậy chào bác ra về.
-           Bao giờ con về lại bên Mỹ.
-           Dạ, có lẽ sau khi hết ngày khế ước du lịch này là con về Sài Gòn sửa sọan về Mỹ.
Giọng bác Hán bất ngờ trùng xuống.
-           Thôi, lần này là lần cuối bác cháu mình gặp nhau, đó là cái phước của bác cháu minh rồi. Con luôn giữ lòng nghe, bác có thể ra đi bất cứ lúc nào. Con về lần sau có thể không gặp bác nữa đâu...!
-           Dạ, con nhớ những gì bác đã nói với con hôm nay...!
    Tôi quay người bước vội qua cửa phòng khách, bước khỏi hiên nhà và rẽ phải để đi bộ về bờ hồ Hoàn Kiếm. Tôi biết bác Hán đứng nhìn theo bước chân tôi chạy trốn, bởi tôi biết rằng tôi không thể ôm hận thù cả cuộc đời được như bác, và mẹ tôi...!
một thế hệ đã dần đi vào quá khứ nhưng cố ôm lấy dĩ vãng đau thương...!
    Tất cả rồi cũng tàn, tham vọng bá vương rồi cũng bị hủy diệt theo thời gian và lòng yêu chuộng nhân bản. Cát bụi vẫn là cát bụi phù du..! Tôi chỉ là viên gạch về lại quê hương làng cũ muốn xây lại êm ấm tình anh em dòng họ, một ước bọng nhỏ nhoi mà tôi không muốn mất đi...! Xin lỗi cha mẹ, xin lỗi bác Hán, đường con đi sự thật quá dài và khó khăn trong khi oan nghiệt chính kiến trùng trùng nghiệt ngã trong dòng họ. Ai sẽ chĩa mũi súng vào đầu ai đây, và ai sẽ bóp cò súng đẻ giết lẫn nhau...! 
   Anh em là thủ túc, dân tộc là phương tiên đựa vào để sống còn, và cá nhân là cứu cánh thực hành những điều nhân bản phải có để con người vươn lên trong tự do toàn thiện., Con muốn xoay lại tư thế và tư duy trong lòng các anh em để xây dựng một thế hệ trong sáng hơn...!
    Bất ngờ trước mặt tôi là bờ hồ Hoàn Kiếm đông người qua lại, với những ánh đèn màu muôn sắc soi xuống dòng nước lung linh huyền diệu, thấp thoáng giữa hồ trong sương thu và ánh đèn lấp lánh trong sóng nước là đền thờ Lê-Lai yên lặng soi hình đã bao năm...! Lê Lai cứu chúa...!
Hai
   Tôi theo anh Khuông về làng, Làng Thành Lập và làng Vân cách nhau con đường cái lớn xe hơi có thể đi vào giữa hai làng.
    Nếu đi từ Hà-Nội trên quốc lộ số một và lái nửa vòng cua ở lối thoát gần cầu Guột, rẽ trái chui qua cầu về làng cách Hà Nội khoảng 15 cây số.
Hơn năm mươi năm, nhưng tôi còn nhớ con đường lớn ở giữa hai làng Thành Lập, và làng Vân đã lót gạnh để dùng chung hầu chuyên chở  ngũ cốc từ ruộng về nhà bằng xe bò hoặc gánh, và chiều về những con trâu, bò được những đứa bé dắt hay cưỡi trên lưng về chuồng cũng trên con đường này. Theo thời gian gạch trên mặt đường đã không còn, thay vào mặt đường là một lớp nhựa mỏng trải lên trên những đá sạn nhỏ , nên nhiều chỗ đã rộp trơ đất đã không được sửa chữa, và hẹp lại vì đôi chỗ đã lở lấn vào mặt đường.
    Tôi lạc lõng đi tìm từng lối mòn cũ sau khi hỏi anh Khuông cái đình có cây đa rợp cả góc sân ở giữa làng Vân, cái giếng nước cả hai làng đều gánh về nhà dùng ở đầu làng và Khải bạn tôi con Ông trưởng bạ Tỵ, và được anh Khuông trả lời:
-           Đình Làng Vân, cái giếng thì còn đó, nhưng  Khải đã chết lâu rồi, để lại bốn con và vợ Khải là dì Tám con Ông Xã Cách ông cậu họ của mẹ tôi.
    Tôi bùi ngùi nhớ tới Khải, người bạn thủa nhỏ cùng ngõ, nhưng khi mười tuỏi Khải đã vì muốn lấy công với cán bộ du kích khi thiếu nhi họp kiểm thảo hàng tuần mỗi chúa nhật tại sân nhà thờ . Khải đã tố cáo tôi lẻn vào vườn nhà ông Vường hái trộm ổi cho nó ăn. Tôi đã sững sờ nhìn sác mặt đanh lạnh của nó và cố cãi :
-           Khải, mày xui tao vào vườn hái ổi cho mày ăn sao mày lại tố tao ? 
-           Tao xui mày, nhưng tao không hành động, còn mày hành động, do đó mày có tội. Khải nhìn tôi trả lời không có một chút sượng sùng.
    Tôi chỉ mặt Khải, vừa khóc vừa nói :
-           Mày là thằng phản tao.
Thế  là từ đó tôi và Khải chơi với nhau bằng sự lừa dối nhau và e dè bị Khải mang tôi ra đấu tố trước mặt bạn bè cùng lứa.
    Bất ngờ chiến tranh ập tới với bom, đạn pháo đổ vào làng, và tôi theo mẹ bỏ làng không về từ đó. Dường như  mỗi bước chân tôi đi là mỗi ngày một xa dần quê hương, mặc dù long tôi đôi khi quay về với nỗi nhớ mơ hồ hình ảnh cũ.
    Trươc mặt tôi là con đường cữ, những lối mòn xưa nhưng kỷ niệm cũ đã không còn bởi vì tôi đã không còn tìm ra những gì tôi cất dấu trong tâm khảm, thực thể cũng như những giấc mơ hồng làm tôi ngỡ ngàng. Bạn bè nhiều đứa đã ra đi vĩng viễn, những thằng còn lại trông già trước tuổi tới mười năm.     
    Đứa nào da cũng nhăn nheo bọc xương khô đét như cành củi, trong bộ quần áo có mấy miếng vá chằng chịt khác màu nhau, đôi mắt sâu mất thần mệt mỏi trên khuôn mặt gầy gò lồi lõm khắc khổ và mái tóc thưa vài sợi bạc trắng, và mỗi lần tình cờ tôi gặp một người gạn cũ trên đường, là mỗi lần tôi nhìn thấy nụ cười của họ méo xẹch như muốn khóc cho nỗi cơ hàn mà họ đã chịu đựng bao năm, tôi lại dúi vào túi rách của họ vài đồng đô đẻ an ủi và cũng đẻ giữ lại tình bạn của thơi quần xà lỏn chăn trâu năm xưa.
    Tôi là kẻ chỉ đủ ăn nơi xứ ngoại tầm gởi, nhưng đã trở thành áo gấm về làng trong cặp mắt than phục của dân tron glàng và bạn bè thơ ấu cũ, sự thể này đã làm tôi đau long và xót dạ khi nhìn thấy những nóc nhà tranh xiêu vẹo nghèo nàn vẫn còn đó trong làng tôi.
    Mấy ươi năm sống dưới chế độ Cộng Sản làng tôi vẫn không thay đổi được cái cốt lõi đi chân đất, cuộc sống trong căn nhà lụp sụp, bữa cơm độn khoai sắn nấu bằng rơm khô, và những trai gái trong làng đều quằn lưng cúi xuống trên cánh đồng lúa cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng thình người trong họ vẫn vươn lên trong những cuộn khói lam chiều bằng bạc bốc ra từ nóc rạ.  
    Tôi đi theo con lộ làng tìm tới ngôi nhà thờ ngày xưa  tôi thường theo ông nội mỗi buổi sáng chúa nhật. Mái ngói và tường nhà thờ đã đen vì rêu theo năm tháng lên dầy. Tháp chuông cao vút còn đó yên lành trong bao năm chiến tranh, và con sáo sậu đang đậu trên cây thập tự gía đứng dương cổ hót vang tìm bạn.
    Lòng tôi bỗng dâng nên nỗi nghẹn ngào khi nhìn  những đứa trẻ vô tư chơi trên sân, tuổi thơ tôi ngày trước diễn ra y hệt như nhóm trẻ đang vui đùa, chạy nhẩy và gọi nhau inh ỏi vang xa cả xóm bên cạnh nhà thờ. Tuy nhiên lối chơi của chúng tôi ngày đó khác với lối chơi bấy giờ của đám trẻ đang chơi trước mắt tôi.
    Chúng tôi chơi những trò chơi tập trận gỉa, tập làm du kích bắn Tấy và tập làm kẻ đưa thư mật trong đám đông và cuối cùng trả lời những câu hỏi của anh chị du kích về gia cảnh cha mẹ đang sống do cán bộ du kích hướng đẫn. Đôi khi vắng cán bộ chúng tôi trở về với những trò chơi trẻ con như bịt mắt bắt dê, nhảy dây  v.v..  Nhưng bây giờ chúng đang chơi đấu võ, vật lôn, đánh khăng và chửi lộn tục tỉu với tiếng hô bắn súng bằng miệng đùng đùng giữa buổi chiều không có tiếng chuông ngân để gọi tín hữu đọc kinh niệm. Chúng đã làm tôi nghĩ tới những tối trăng rằm học tập kiểm thảo tố giác lẫn nhau, để lấy điểm với mấy anh chị cán bộ du kích quân ngày đó. Những đứa trẻ làng ngây thơ đã được những bà mẹ quê đẻ ra để học đòi chiến tranh, và theo sự tuyên truyền đi tới giết người không ngần ngại như bác Tựa đã không biết gia tộc là gì.  Họ vinh danh những đứa trẻ nào dám mang chuyện gia đình cha mẹ ra nói trong buổi học tập, và hô hào chúng tôi phải tranh đua với nhau trong sự đẽo súng gỉa bằng cây để thực tập bắn thực dân Pháp. Họ dạy chúng tôi làm cách nào dò hỏi tin tức để báo cáo cho du kích quân và họ đã dạy chúng tôi ca những bản nhạc tuyên truyền, nhưng sau khi về nhà cha mẹ chúng tôi lại chỉ dẫn phản ngược lại đường hướng cán bộ du kích chỉ dạy, do đó lòng chúng tôi chẳng được yên bình trong yêu thương mà toàn những nghi ngờ đố kỵ lẫn nhau.
Vùng trời Đông anh hùng tươi sáng vùng lên...
Đàn bồ câu trắng bay về trong nắng mới...
Đàn bồ cấu xiết tay nhau...
Súng búa liềm trên đường tranh đấu...
tới hoà bình... Nhà máy vang rền lúa vàng...
Đảng Lao Động Việt Nam là dòng máu...
toàn dân đấu tranh...!
    Bây giờ những đứa trẻ trước mặt tôi đã không hát những bản nhạc tuyên truyền đấu tranh cách mạng để kêu gọi giới trẻ hy sinh vì nước nữa, vì hiện tại đã không còn chiến tranh và quân thù mà chỉ còn dân nghèo với ách thống trị của đảng Cộng Sản trong đời sống người dân, do đó người Cộng Sản đã chuyển hướng tuyên truyền mị dân và dạy những đứa trẻ hát những bản nhạc ca ngợi Hồ Chí Minh như một vị thánh, như người cha của dân tộc và vinh danh HCM như một huyền thoại trong nhân gian miền quê hầu người dân dễ tin để tiếp tục hy sinh cho đảng. Cũng như cán bộ chính trị làng đã dạy cho các em luôn luôn có đảng và vì đảng để làm bất cứ chuyện gì với thực chất tam vô trong chính sách mị dân của họ.   
    Những bạn xưa của tôi bây giờ đã vắng bóng, chỉ còn tôi đứng cô đơn tưởng lại hình bóng mình qua lũ trẻ dại dột ngây thơ quê mùa như tôi ngày cũ.
    Tôi nhìn đường thẳng của hai cánh cửa chính của nhà thờ với hai cánh nặng nề đã khép, tự nhiên tôi mỉn cười bước tới đẩy thử xem cánh cửa có mở ra như thủa nhỏ tôi cũng đã làm để lẻn vào trong nghịch ngợm, phá phách một mình một cõi không ngưng tay với chiếc quần sà lỏn đen đủi dơ bẩn không áo, và mớ tóc rối bù bên trong nhà thờ. Tôi đã dùng cây sào thắp nến trên các bệ thờ cao để bắt những con chim sẻ non đậu trên đầu, tay các bức tượng. Tôi đã ham đưổi theo những con chim yếu ớt , cố tình đập những những con chim sẻ đang hớt hãi bay và đậu trên đầu, tay các bức tượng trên cao, nên vô tình đã làm đầu và tay các bức tượng vỡ nát rơi xuống sàn gạch làm vang lên những âm thanh lạnh sắc trong khung cảnh tĩnh mịch của trưa hè quê nội .
    Ngày đó tôi đã bị ông trùm coi nhà thờ bắt tại trận và dẫn tay trao cho mẹ vì lỗi lầm phá nơi tôn nghiêm. Tôi đã bị mẹ bắt nằm xuống giữa sân nhà phạt trận đòn để đời trước khi mẹ tôi đi Hà Nội mua những bức tượng khác đem về trả lại cho nhà thờ.
    Sau đó tôi bị đau nặng cho nên mẹ đã nói rằng : Chúa phạt thằng quỉ con phá nơi thờ phượng nhà chúa.
Mẹ tôi lại phải cõng tôi đi thăm thày thuốc bắc bên làng Vân và sáng chiều đi nhà thờ đọc kinh xin lỗi chúa cho tôi được bình phục trở lại.
    Tuổi thơ tôi là cái ao sâu trước sân nhà thờ và cây gạo trổ bông đỏ. Trước khi tôi biết bơi trong ao, tôi đã nghe anh Kềm, người bạn lớn tuổi bắt con chuồn chuồn ngô cho cắn vào rốn để tập bơi, và sẽ dễ dàng bơi giỏi hơn mọi người.
    Tôi nghe lời anh đi săn bắt bằng được con chuồn chuồn ngô đang đậu trên ngọn cây bắp, can đảm kéo trễ quần sà lỏn, nhắm mắt, cắn môi, nhăn mặt dí miệng con chuồn chuồn ngô lớn bằng ngón tay cái  cho cắn vào rốn đến chảy máu. Ấy thế mà tôi vẫn giả bộ anh hùng trước đám trẻ cùng lứa, và nụ cười mỉm hóm hỉnh của anh Kềm để can đảm nhảy xuống ao tập bơi.  Nếu không có anh Kềm ngồi trên bờ chắc tôi đã bị chết đuối ngay chiều hè đó.
    Cái ao bên cạnh nhà thờ còn đó trước mặt tôi nhưng anh Kềm đã không còn và bạn bè nghich ngợm phá làng của tôi ngày cũ cũng đã chẳng có ai bên tôi trong nỗi buồn vời vợi hôm nay.
    Cây gạo hoa đỏ trên bờ ao cũng mang vào lòng tôi nhiều kỷ niệm vui buồn. Thủa vàng son tuổi dại tôi cùng Mến cô bé gần nhà thường dẫn nhau chạy tới gốc gạo để ngước cổ nhìn hoa rơi, và đuổi theo hứng từng cánh hoa rụng, vì nếu để hoa rớt xuống đất là hoa sẽ nát và tung ra chung quanh những giọt nước đỏ như máu.. Khi hứng được nhiều bông, chúng tôi xếp lại làm trò chơi bán hàng, hoặc trò cưới hỏi vợ chồng trẻ con với đám trẻ cùng trang lứa ngay bên gốc gạo.
Gốc gạo già đã bị đào từng rễ vất đi, và Mến cũng chẳng còn là cô bé thơ ngây ngày cũ để làm vợ tôi trong tuổi dại khờ.
    Mến cũng đã già và 5 con đã lớn lên trong chế độ Cộng Sản, nên chúng cũng chẳng biết gì về tình bạn của mẹ. Đôi vai Mến gầy cũng như tất cả dân miền Bắc đã gánh cả đời chế độ khắc nghiệt và cuộc sống đói khổ của
những năm chiến tranh kéo dài trên quê hương với hy vọng người dân có ruộng để cày sau khi đánh đuổi thực dân Pháp như Hồ Chí Minh đã nói trong ngày tuyên ngôn độc lập tại Ba Đình.
    Khi Cộng Sản đã cưỡng chiếm được Miền Nam, và thống trị cả nước, người dân miền Bắc tưởng sẽ đầy đủ vui sướng, tự do hạnh phúc hơn, và không còn hy sinh cho đảng CS.
     Không ngờ người dân quê miền Bắc nghèo lại nghèo thêm và lại phải hy sinh thêm cho đảng Cộng Sản nhiều hơn trước, vì cảnh Công An trị bá đạo lạm quyền trong luật lệ tàn nhẫn của CS để cướp đất ngang nhiên của dân nghèo để làm giầu...! 
    Giai cấp đấu tranh của Engels, Karl Marx và Mao đã được thẩm thấu qua chính sách của Mao trạch Đông và Hồ Chí Minh đang áp dụng trên quê hương họ.
    Trước 75, dân nghèo miền Bắc đưọc đảng hướng dẫn tranh đấu bằng đấu tố giữa nhân dân với nhau để tàn sát tiểu tư sản và địa chủ hầu vươn lên thế giới đại đồng. Tiểu tư sản và địa chủ chết, dân bần cùng không còn ai để tranh đấu, đảng CS không còn mục tiêu để mị dân, họ đưa dân vào miền Nam gây chiến tranh bằng câu châm ngôn giải phóng dân tộc đuổi Mỹ như trước 54 chống Pháp làm thiệt mạng mấy triệu dân lành trong ý đồ bá đạo. Sau khi cưỡng chiếm miền Nam họ xoá sạch những gì miền Nam xây dựng để đi tới bao cấp cho những người mà họ cho là có công với nhân dân và dân nghèo toàn diện đất nước.
    Dân làm chủ mọi thứ theo chính sách miệng lưỡi CS, nhưng dân vẫn nghèo mạt rệp, trong khi các đảng viên chính trị bộ của đảng CS là nô bộc của dân lại giàu sụ và trở thành tư bản đỏ.
    Cuối cùng đảng CS  đem người dân nghèo ra đấu tố để cướp quyền căn bản công dân và tự do ngôn luận của họ, Việt Nam trở thành nhà tù lớn nhất thế giới.
 Một đường lối tranh đấu giai cấp bánh vẽ chỉ có trong chế độ Cộng Sản ...!
Ba
   Tôi đứng tiếc nuối kỷ niệm vàng son trong nắng thu về chiều, thỉnh thoảng có những làn gió hiu hắt từ đồng ruộng thổi ngang qua mang theo hơi ẩm và mùi hăng hắc của lúa gịa chưa khô trên cách đồng đang gặt.  
Tôi về đây gánh theo đời tuổi dại
Nhớ ngày xưa cô bé đã chơi chung
Nhìn hoa gạo chạy theo tay chụp bắt
Ôm vào lòng sắc máu vỡ tơ nhung
Gốc gạo già, thời gian đà thay đổi
Đã đâu rồi hoa đỏ rụng trên không !
Trong nắng chiều xa bay con chim sáo
Cánh vỗ dập dồn vội vã sang sông
Kỷ niệm đời vỡ tan ra từng mảnh
Vội vơ vào sắp lại dấu yêu xưa
Ôi thời gan chắt chiu nơi quê nội
Hoa gạo giờ tan rã cánh trong mưa
Năm mươi năm kỷ niện xưa còn nhớ
Phím tơ chùng tóc đã trắng còn đâu.!
Buồn đổ lệ bước đi lòng để lại
Giữa hoàng hôn quê cũ một phiến sầu.!
    Tay cầm chiếc máy JVC hard disk Camcorder Everio, mắt nhìn vào đám cò trắng đang ồn ào kiếm ăn trên vũng ruộng nước ngập tới mắt cá chân, và thỉnh thoảng có con giật mình vì tiếng động đâu đó đập cánh bay vút lên, rồi lại từ từ hạ xuống. Tôi cũng đã làm chúng bất ngờ bốc cách bay tới ruộng nước khác cách xa tôi vài trăm mét, vì tôi bị ngã trên bờ ruộng hay vô tình để chúng nhìn thấy.
    Tôi cố gắng quay những cánh cò trên quê hương
để làm kỷ niệm già lỡ mai không về, trong khi tuổi đời cũng đã gần thất thập chi thiên mệnh. Tôi cố chộp bắt những hình ảnh quê tôi vào lòng, thì tôi lại càng làm vỡ tan những yên tĩnh của đồng nội, vỡ tan những ký ưc xưa rối bời trong trí bởi xúc động như sóng vỗ dồn dập ùa về khi chiều nắng đã chênh chếc phía tây. Những con chim đang lượm những hạt thóc rơi trên ruộng khô thấy tôi chúng bỏ chạy, hay tung cánh bay đi, hoặc kêu vang gọi nhau tìm nơi an bình khác.
Tôi càng kiên nhẫn bám sát đàn cò để thâu vào ống kính, thì những cánh cò lại luôn luôn chú ý tới tôi, chúng bắt đầu cảnh giác nhau bằng những tiếng kêu khác lạ như báo động cho nhau biết là có tôi đang theo chúng, rồi bỗng chốc chúng đồng loạt kêu vang, tung cánh vút lên trời trong chiều vàng bay về phía chân trời thật xa, chúng bỏ lại tôi bơ vơ nhìn những ruộng lúa vàng ngả ngọn trên cánh đồng đã có những đám mây xám kéo về.
    Tôi lang thang giữa cánh đồng lúa chín mênh mông đứng dõi mắt thật xa để tìm nóc nhà thờ hầu lấy phương hướng về làng.
    Tôi đang vấp ngã ì ạch và lảo đảo trên những bờ ruộng trơn chợt vì sấp nước, và tôi đã cười lớn để phục tôi 
sao ngày xưa tôi chạy trên những bờ ruộng lúa này không bị ngã ...hay thế!
    Bỗng có một bà cầm cái cuốc chạy tới bên hỏi tôi :
-     Ê Trống, mày còn nhớ tao không ?
Tôi chợt liếc nhanh bà ta với chân lấm tay bùn cầm cái cuốc và quần áo chẳng lành, đội chiếc nón hơi rách cạp, và tóc cũng đã hoa râm, với da nhăn cằn cỗi. Tôi đoán chừng bà ta khoảng 70.
-     Tôi không còn nhớ bác là ai, tôi xin lỗi bác. Sao bác biết tên tôi ? Tôi lúng túng trả lời.
    Bà ta bật cười :
-    Xin lỗi cái con khỉ. Tao thấy có người lạ về làng và hỏi thăm mới biết mày về làng đấy chớ. Mày còn nhớ quê là hay lắm, nhiều người đi rồi không về. Họ quên luôn, hay chết mất xác nơi xứ người..!
-   Tôi về đây lần này là lần thứ hai. lần trước tôi về có khoảng một tiếng đồng hồ rồi đi ngay. Bác là ai vậy sao tôi không nhớ được...!
-     Vậy à...! Chăc tao gìa lắm rồi nên mày nhận không ra ...!
    Tôi nhìn kỹ người lạ một lần nữa,i lắc đầu.
-           Thú thực tôi không biết bác là ai. Tôi bỏ đi lâu quá rồi. Đối với ai trong làng này đều lạ đối với tôi.
-           Hồi còn nhỏ tao và mày ưa chơi bắt ú tim ở sân nhà thờ.
-    Mày không nhớ tao thật à ?
   Tôi thắc mắc nhìn lại bà ta lần nữa để tìm kiếm trong
kỷ niệm thủa nhỏ, may ra nhận được người lạ là ai.
Nhưng tuyệt nhiên tôi không tìm ra một chút gì gợi nhớ cho tôi. Tôi lắc đầu. 
-     Thật tình tôi không nhớ bác là ai.
    Bà ta lại cười một cách thân mật :
-    Bác cái đếch gì! Mày quên cũng phải thôi...! Tao quê mùa tối ngày trong làng không đi ra khỏi ruộng lúa. Tao nhỏ tuổi hơn mày. Tao là cái Sao con ông Chương ở làng Vân có cây nhãn trước nhà, mày thường tới trèo lên hái nhãn cho tao ăn.
-     Mày nhớ chưa ?
    Tôi nhíu may suy nghĩ, và hình ảnh ngày xưa tuổi dại hiện ra.
-    Ồ ra Sao... Mấy cháu rồi...! Xin lỗi nghe, tôi quên Sao thật đấy...!
    Tiếng Sao cười vang.
-     Ba đứa, hai trai một gái, chết thằng lớn trong Nam đi bộ đội, tao tìm không ra xác nó, còn hai đứa đã có gia đình rồi.
-     Tụi nó làm gì ?
-     Một thằng đi bộ đội ở trên tỉnh, đứa con gái lấy chồng ở làng Thành Lập con trai thằng Khải đấy, Mày nhớ thằng Khải con ông Bạ Tỵ không ? Tao tất cả sáu cháu rồi. Mày thì sao ?
-     Từ ngày bỏ làng ra đi tôi vẫn không có gì cả... Chạy dài như Sao thấy đó.
-     Nhưng mày sưóng hơn tao. Mày đi đủ nơi, biết được mọi thứ, còn tao cứ ở cái quê nghèo này hoài...!
-     Số trời mà.
Nói xong tôi dúi vào tay Sao 20 chục đô la. Mặt Sao buồn hẳn lại lẩm bẩm như khóc.
-     Tao hỏi thăm mày không phải là xin tiền đâu ! Tao mừng được gặp lại bạn cũ thế thôi. Tao sống nghèo ở đất này quen rồi...! Sao mày lại đưa tiền cho tao, mặc dầu tao nghèo.
Tôi bùi ngùi.
-     Tôi tặng Sao đó mà...! Hơn nữa tôi bận lắm không nhớ ai để đi thăm, gặp nhau ngay trên cánh đồng quê này là may rồi...! Cố gắng sống nghe Sao... Ngày mai tôi đi rồi...
Sao luồn 20 đô la vào túi aó, sau lời cám ơn rồi trố mắt nhìn tôi.
-     Mày đi bao giờ mày lại về ? Chắc khi mày về làng lần nữa thì tao đã chết rồi.! Đám bạn của mày và tao đã chết gần hết rồi...!
Tôi cúi đầu giấu nỗi buồn, nói với Sao.
-     Thôi chào Sao nghe...! Mong rằng mình sẽ gặp lại.
-     Mày đi bằng an nghe Trống...
    Tôi cúi đầu bước đi thật nhanh như chạy trốn những kỷ niệm chợt bùng lên trong trí nhớ mà ở đó có Sao, có Mến, có Khải...có những người bạn trẻ vui đùa tắm ao tắm sông... và có cả ông bà nội ngoại ngày xưa...!
Quê tôi đó...! Quê tôi nghèo nàn và oan nghiệt như một vết đâm lút cán vào hồn tôi với những gì tôi tìm thấy và nghe được...
    Những con cò mang xác người thực sự đã không còn hoà bình trên đồng nội, mà thực ra họ đang chết dần mòn trên chính mảnh đất yêu thương cằn cỗi từ thủa nào cha ông để lại, nay họ cố giữ nhưng không biết
bao giờ sẽ phải buông tay vì kiệt sức ...!
Ôi tự do và hạnh phúc...!
Tôi vẫn thế bước đi hồn bỏ lại
Lệ không dâng sao mắt lại chợt cay
Không thổn thức sao trong lòng sóng động
Đông không về sao có gió heo may...!
Viết để nhớ lại một ngày về làng Thành Lập
Chinh Nguyên
Biển đời Sắc tức thị Không,
Mà sao vẫn cứ thong dong hại người ?
Thời gian rồi mãi dần trôi....
Tích cho lắm của, tội rày càng to !
Đưa người qua một chuyến đò,
Người về phố thị, ta rời bến mê !!
Hai người đôi ngã tìm về,
Đó miền đất hứa, đây bờ an vui...
Sớm hôm kinh kệ trau dồi,
Cầu mong giải thoát cõi đời : Bến mê !!
NM

Truyện Bí Mật Của Một Câu Kinh Phật

Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài: “Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam,khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam , chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, thì kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.
Người chị của chủ nhà đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện.Chị ta xin phép vài phút để lên lầu,lát sau đi xuống,tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể.Mọi người yên lặng, lắng nghe.
“Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Ðám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!

Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường.Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét: “Tất cả đứng yên! Ðưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ”.
Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán “Ðứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước: “Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về”.
Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”. Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Ðang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Ðộ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Ðó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên: “Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với”. Có tiếng đàn ông nói lớn: “Vào đi! Ðừng sợ!”.
Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam.Tôi bước vào nhà.Nhàkhông rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng,có trải chiếu tươm tất.Ông ta chỉ chiếc ghế: “Ngồi đấy đi!”. Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần: “Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn”.
Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc…nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức.Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh: “Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Ðừng sợ. Ðể tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Ðói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn”.
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà: “Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi”.
Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng: “Cô ngủ trên giường nầy.Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm”. Tôi nói: “Dạ. Cám ơn!” rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra. “Ngủ có được không?” – “Dạ. Ði mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng”. Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.
– “Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận”.
Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi “Ðừng quên cái xách tay”. Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách cầm và đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.

Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo.Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều.Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta,ba bánh dùng chở khách).Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ.Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi.Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam,nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu,miệng dạ nhịp,rồi đến nói với tôi:“Mời cô lên xe.Xe chạy ngay bây giờ”.
Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay. “Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận”.
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm. Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau,tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc.Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến. Chị ta cầm lá thư đưa lên “Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Ðể tôi đọc cho quí vị nghe.
“Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?Tôi cho bà rõ.Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng, chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu…Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò. Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được …
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi …
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng… Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát. Chúc bà sức khỏe.”
Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói: “Thư chỉ viết thế thôi”. Chúng tôi hỏi: “Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?”.
– “Ðúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi”.Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia,nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Ðiều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Ðức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm”.
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ. Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Ðông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư P.T. để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư P.T. xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Ðế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ nhưng sư P.T. thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay.Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe vàhỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhàsư suy nghĩ một lúc và nói: “Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túyởđây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Ðức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau: “Hi sinh đời bố, củng cố đời con” là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu “Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Ðó là “Ðạo Thờ Ông Bà”. Ông công an cộng sản nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, “quả báo nhãn tiền”, con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng “Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”.
“Ða số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Ðà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm “Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa, ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát. Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Ðúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông sư ”. Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập.
-“Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy.Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?”.
Nhà sư cười: “Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi. Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ “tham”? Chữ “tham” đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được? Còn hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng”.
– “Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?”.
Nhà sư lắc đầu: “Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng lại giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo”.
– “Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?”.
Nhà sư lắc đầu: “Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy”.
Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư … Ðộ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi: “Tìm được câu kinh nào chưa thầy?”.
Sư lắc đầu và cười: “Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Ðể nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Ðề Bà Ðạt Ma (Devadata-suta) có câu: “Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo”. Trong kinh Pháp Cú(Damma-pada) cũng có câu:“Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, nhưng không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”.
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối: “Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó”. ( Hết )
Phạm Thành Châu