Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Nhạc - Thơ - Văn BÂNG KHUÂNG HOA BƯỞI TRẮNG

Bâng khuâng.....
Thoảng trong gió nồng nàn hương hoa bưởi,
Xen chút tình thơ dại thuở ngây thơ....
Trót thầm thương nên em cứ đợi chờ,
Bao ngày tháng âm thầm hoa rơi rụng !!

Chầm chậm bước qua ngõ hoa thơm lựng,
Hoa trắng rơi, rơi phủ lối đi xưa....
Em ngu ngơ giữa nắng sớm chiều mưa,
Lòng mong ước giấc mơ ngoài tầm với !

Gốc bưởi còn đây sao anh không tới ?
Hoa trắng buồn chợt xám buổi chiều đông !
Nén đau thương lệ buốt xót xa lòng,
Anh có tiếc hoa xưa nay cằn cỗi ?!
NM

BÂNG KHUÂNG HOA TRẮNG     

  Chiều nay, không như mọi chiều. Nắng hửng vàng. Cây lá lao xao. Bà con trong xóm rộn ràng kéo nhau ra ngõ. Họ tụm năm, tụm ba bàn tán về Đạm và  chiếc xe sắp được đem ra chạy thử.

Đạm mồ côi mẹ từ năm lên mười. Để có người chăm sóc con, ba Đạm đã đi thêm bước nữa. Nhưng, bà mẹ kế của anh lại thể hiện đúng với câu: "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng”. Không ngày nào láng giềng không nghe những câu mắng nhiếc của bà dành cho Đạm hoặc tiếng khóc tức tưởi của anh. Bà mẹ ghẻ có trăm nghìn lý do để đánh đập con chồng. Ba Đạm chắc biết nhưng ông làm ngơ. Để mặc con  héo hắt, Đạm trở nên lầm lì, ít nói. Anh thường lén ra sau vườn bưởi nhà tôi ngồi khóc. Lúc đó, tôi còn bé nhưng đã biết cảm thương người bạn xấu số. Tôi nép sau một gốc cây trộm nhìn anh gục đầu vào đôi tay nức nở. Hoa bưởi rắc lưa thưa trên mái tóc và rải đầy hương hoa quanh chỗ anh ngồi. Chờ cơn uất nghẹn qua đi, tôi mang đến cho anh vài mẫu bánh. Đạm vừa nhai ngấu nghiến vừa hỏi: "Có phải mẹ Bằng Lăng làm bánh nầy không?”. Tôi gật đầu xác nhận. Đạm lại khóc. Anh than thở: "Mồ côi cha, ăn cơm với cá, mồ côi mẹ, lót lá mà nằm!”. 
Tôi muốn cãi: “Còn cha gót đỏ như son. Đến khi cha chết, gót con đen sì! Cha hay  mẹ mất đều khổ”. Nhưng tôi kịp nén. Tôi không muốn làm buồn lòng anh vì cái khổ của tôi.  Cha tôi qua đời từ khi tôi mới được sáu tuổi. Mẹ tôi phải chịu biết bao đắng cay khi sống chung với bên chồng. May là ông ngoại tôi năn nỉ, ỉ ôi, xin rước mẹ con tôi về. Từ đó, mẹ đỡ khổ hơn nhưng cũng không tránh được vất vả. Hết công việc đồng áng, đến chăm lo vườn tược rồi lo cho ông ngoại và tôi. Bao nhiêu là việc! Có lần Đạm hỏi: "Sao mẹ Bằng Lăng không lấy chồng khác?”. Tôi cũng không biết vì sao. Về hỏi mẹ. Bà ôm tôi vào lòng, mắt ngân ngấn nước: "Con ơi, con không nghe người ta bảo sao? Trời mưa bong bóng phập phồng, mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”. Tôi đã ngốc nghếch cãi lại: "Con ở với ngoại”. Cốc nhẹ vào đầu tôi, mẹ nói: "Cái con nầy, sao cứ xúi mẹ lấy chồng hoài vậy hả? Con không cần mẹ nữa hả?”. Tôi ôm chầm lấy mẹ: "Không, con yêu mẹ lắm nhưng nếu mẹ muốn có chồng thì cứ có, mẹ nhé!”. Mẹ phì cười: "Ừ, con không sợ dượng ghẻ sao? Chưa chắc người ta yêu quý con. Con còn bé, làm sao hiểu được”
 Tôi lờ mờ nhận ra cái khổ trong tiếng “ghẻ” đi kèm theo chữ “dượng”. Biết đâu, lúc đó tôi cũng chạy đi tìm một gốc bưởi và ngồi khóc dưới hoa. Tôi hết dám nhắc mẹ lấy chồng và cảm thấy an vui, hạnh phúc bên mẹ.
Trong khi Đạm ngày một khổ hơn. Người mẹ kế có thai rồi sanh khó. Đứa bé vừa lọt lòng mẹ, đã tắt thở. Tưởng bà sẽ yêu quí Đạm. Nào ngờ, bà ngày càng thích hành hạ anh hơn. Tan học về, Đạm phải đi chăn trâu. Anh dắt trâu vượt qua mấy đám ruộng, đến tận một đồng cỏ bao la ở bìa làng. Trời nhá nhem tối mới quay về. Thức ăn mang theo chỉ có nắm cơm nho nhỏ với ít muối mè. Nghe tôi kể, mẹ tội nghiệp, bảo tôi dúi cho anh vài củ khoai lang hay chuối nấu lúc anh cưỡi trâu ngang nhà. Có khi ức quá, tôi xúi anh: "Cứ dắt trâu ra sau đình làng. Ở đó, cỏ mọc dày đặc. Miễn trâu ăn no thì thôi, đi làm chi xa dữ vậy? Đừng thèm nghe lời bà ta!”. Đạm cười buồn: "Đạm cũng thích đi xa như vậy, ở đó, dễ thở hơn!”. 
Khó khăn thế mà Đạm vẫn học giỏi như thường. Bài nào anh cũng thuộc nên được thầy và  bè bạn yêu quý. Có ai bảo: "Tội nghiệp!”. Đạm lại chối: "Thật ra, tôi cũng chẳng khổ tí nào. Phải chăn trâu thì mang theo vở, lúc nó ăn cỏ thì mình học”. 
Không biết ai mách lẻo mà mụ dì ghẻ ra tay độc ác. Bà ta tậu thêm con trâu nữa rồi bảo anh chăn luôn một thể. Thấy Đạm dắt trâu ngang nhà, lúng ta lúng túng với hai con trâu lớn gấp mấy lần Đạm, ông tôi rủa thành lời: "Tội nghiệp thằng nhỏ. Đúng là gái độc không con mà!”. Hôm đó, chẳng biết vì mãi lo học bài hay vì con trâu lạ chưa quen chủ nên nó dùng sừng chém một nhát vào bụng Đạm. Máu ra lênh láng, anh bất tỉnh tại chỗ. May sao nhờ mấy đứa mục đồng khác nhìn thấy. Chúng hô hoán, những người ở gần đó chạy tới đưa anh đi cấp cứu. 
Sau lần bị nạn, suýt chết, dường như trời rủ lòng thương anh. Bố Đạm  đã hồi tâm, tỉnh trí. Ông nhận ra thiếu sót của mình về cái bổn phận làm cha. Ông đã vô  tình đẩy Đạm vào đường cùng và hoàn cảnh gia đình thêm bế tắc. Ông dắt Đạm lên tỉnh học nghề thợ đồng. Anh rời xa sách vở, cầm lấy cây búa và cái mỏ hàn từ dạo ấy. 
Thời gian thầm lặng trôi qua. Xuân đến rồi đi bao lượt. Hoa bưởi vườn nhà tôi bao lần rắc trắng mảnh sân con, hương đưa ngọt lựng. Chỗ anh ngồi học bài ngày xưa, bây giờ vắng ngắt. Thi thoảng, tôi ra đó ngồi học bài. Chữ nghĩa chẳng làm sao lọt vào trí nhớ mà mớ kỉ niệm buồn bã ấy tự bao giờ đã len vào kí ức, bắt tôi mãi nghĩ về anh.
Tôi đã lớn dần cùng với những đổi thay của quê hương. Cánh đồng cỏ bạt ngàn ngày nào anh dong trâu tìm đến bây giờ là trung tâm của thị trấn. Một bệnh viện, vài cơ quan, năm bảy cửa hàng và một mái trường mà tôi đang công tác ở đó. Nó cũng đứng cùng một dãy. Ngày ngày, tôi đi về giữa hai hàng me rợp mát, trong cái nhộn nhạo, tất bật của một khu phố đông người như kẻ mộng du, chẳng có chút  quan hệ đến sự tiến bộ của loài người. Tôi âm thầm sống với những ước mơ nhỏ bé. Nhưng, nó cũng bay vụt khỏi tầm tay với của tôi. 
Khi anh lành nghề trở lại làng quê, ba anh mất. Trước khi chết, ông cầm lấy tay anh khẩn khiết, yêu cầu, gửi gấm người vợ kế và đứa con nhỏ. Đứa em gái xinh đẹp nhưng ngớ ngẩn, ngờ nghệch. Cô bé đi, đứng và lớn bình thường nhưng chẳng biết suy nghĩ như bao kẻ khác. Tỉ như trong mái tóc dài, mượt mà kia là một cái hộp rỗng. Hoặc giả là một bộ óc trắng bệt. Nó chỉ có thể làm cho em gái anh biết nâng bát cơm, há miệng nhai và nuốt để rồi lớn dần. Hay nói cách khác, cô bé sống đời thực vật qua dáng dấp một con người. Đạm yêu quí em gái anh vô cùng. Giọt máu của cha và người mẹ kế của anh đã tụ hình  khi anh rời làng mạc để học nghề. Đứa em như một mầm xanh  muộn màng  và bất hạnh. Cô em gái vô hồn đã xóa dần ranh giới lạnh lùng, xa cách của người mẹ ghẻ với đứa con chồng. Sự tàn độc của bà như đã phai tàn trong anh. Bây giờ, từng phút từng giây, anh tội nghiệp  bà mẹ già nua, héo hắt, khổ đau vì con, vì những khiếm khuyết mà con gái bà phải gánh chịu. Hẳn bà  đang chết dần mòn trong nỗi ân hận không bờ bến. “Gieo gió thì gặt bão”. Đêm nào bà cũng gõ mõ, tụng kinh. Rằm nào bà cũng đi lễ phật ở mấy ngôi chùa trong thị trấn. Bà sám hối. Có lẽ đã muộn nên con gái bà cứ mãi sống hồn nhiên như cây cỏ. Mặc cho nước mắt người mẹ tuôn rơi, mặc cho bao nhiêu tiền bạc, công sức lao động của anh đổ ra để chạy chữa cho bé. Nó vẫn mê mê muội muội. 
Cũng như tôi, anh sống như người nằm mơ trổi dậy hoạt động. Ngày ngày, anh gò, uốn, sửa chữa những mảnh thiếc, nhôm vô tri thành vật dụng. Anh làm cho những chiếc xe bị hỏng trở nên hữu ích. Và, gần đây, anh góp nhặt từ những vật dụng, phụ tùng xe hơi phế thải của người ta bỏ lại, anh lắp ráp, biến chúng thành một chiếc xe bốn bánh, có đầu máy ô tô. Dáng dấp cũng không khác những chiếc xe cùng loại. Tuy toàn là đồ cũ nhưng điều đáng nói là nó được hình thành từ bàn tay lao động và bộ óc sáng tạo của anh.
Hôm nay anh đem ra chạy thử. Người làng xem đó là một kỳ công. Họ chờ đợi tiếng máy nổ và những vòng bánh lăn đều. Mẹ tôi cũng ra ngõ. Bà cứ kéo chiếc khăn lên lau mắt. Mẹ tôi thương anh mồ côi và mẹ hiểu tôi hơn ai hết. Mẹ thường bảo: "Mẹ giữ vườn bưởi này cho con. Mai này lấy chồng, có nơi trồng trọt”. Rồi khi  anh quay về, mở xưởng sửa xe, tiếng đập thùng thiếc loảng xoảng, ánh lửa hàn lập lòe ngày đêm không nghỉ. Có người đến hỏi mua đất, mẹ không bán và bảo tôi: "Vườn bưởi này  chứa biết bao kỷ niệm vui buồn của con mà. Quá khứ dù ra sao, vẫn đẹp!”. Chẳng biết mẹ giữ đến bao giờ. Tôi vẫn một mình đi về lặng lẽ. Còn anh, mãi mê oằn vai bổn phận.
Tiếng máy nổ xình xịch vang lên. Tiếng cười của lũ trẻ làng giòn tan trong chiều quê yên ả. Chiếc xe lao đi, quầng khói đen ngòm bay ngược ra sau. Người mẹ kế nhìn theo, hớn hở. Đứa em gái ngờ nghệch bỗng vỗ tay cười. Còn tôi, lẻn ra sau vườn bưởi nhà mình. Tôi tìm gốc bưởi ngày xưa, ngồi xuống, úp mặt vào đôi tay. Cây đã già cỗi, không trổ nhiều hoa để rải hương theo gió. Quanh tôi, rêu xanh bốc mùi ngai ngái. Và, mơ ước của tôi xám một màu ảm đạm   
Nguyễn thị Mây ( Trà Vinh) 

Bông Bưởi Hoa Cau



Hương bưởi
Đi trong mưa bụi của mùa xuân, nhìn cây lá xanh mơn mởn mà chợt nhớ đến câu: “Tháng hai trồng cán mai cũng sống”. Đúng là kỳ diệu thật. Chợt sững lại khi nghe mùi hoa bưởi đâu đây, thơm quá. Nhìn quanh nào có thấy gánh hàng hoa nào đâu? Đi qua quãng phố hẹp ấy dăm lần, lòng tôi đầy thắc mắc tự hỏi phải chăng đó là ảo giác...

Thế mà rồi một hôm, tình cờ nhìn sâu vào trong ngõ nhà ấy, thấy một cây bưởi đơm hoa. Cây bưởi cao chỉ hơn đầu người tí chút, lá hơi cằn. Vậy mà hoa của nó cũng đủ để làm thơm cả một quãng phố. Cũng thật lạ, ở thành phố tấc đất là tấc vàng, nhưng nhà đó lại bỏ trống một khoảng sân nhỏ, và chỉ trồng có vài cây chanh, với một cây bưởi...
Cũng từ hôm ấy tôi để ý, thì ra ngoài đường lúc này cũng có hàng rong gánh hoa bưởi đi bán. Đi đến đâu, mang mùi thơm thanh khiết đến đó. Đang mùa mưa xuân, ngoài đường không có bụi. Những cánh hoa trắng muốt như tươi lâu hơn trong cái tiết trời se lạnh và làn hơi nước mỏng như sương. Đám nhụy vàng điểm xuyết cho cánh hoa bưởi, bên cạnh màu xanh ngọc của đài hoa, trông thật thích mắt.
Mùi hoa bưởi làm tôi nhớ lại nồi chè của bà nội. Bà nấu khoai lang với mật. Ruột khoai vàng ruộm, đánh tơi ra, trông giống như chè đậu xanh. Thế rồi thêm chút mật mía, ít thôi cho hơi ngọt. Bà cứ thế cho thêm vài cánh hoa bưởi vào nồi chè và để nguội. Múc ra, bát chè sánh mượt trông đã muốn ăn. Làm bánh trôi, bánh chay ăn Tết Mùng Ba tháng Ba, bà cũng ướp hương hoa bưởi. Và ngon nhất là những khẩu mía lùi ướp hoa bưởi của bà. "Ngọt như mía lùi là thế này đấy con ạ!". Bà nhìn tôi nhón từng khẩu mía được bà chẻ nhỏ cho dễ ăn, vừa giải thích. Ngọt thật. Mía được nướng qua bếp củi, rồi mới đem tiện thành khúc, chẻ nhỏ ra. Rồi thì ướp những bông hoa bưởi tươi vào. Ngon chẳng có gì sánh bằng, khiến tôi cứ hít hà nhấm nháp từng khẩu một.
Bà vẫn bảo, mẹ của bà mất sớm nên bà thiệt thòi, chẳng được học nhiều nữ công gia chánh. Những món ăn bà làm đãi tôi, chỉ từ tình yêu thương của Người với đứa cháu sớm- là tôi. Chả thế mà có lần, bà đúc trứng cho tôi ăn với nhân hạt gấc, vì nghe người ta nói làm vậy sẽ trừ được giun... Nghe mẹ tôi kể lại, tôi bị "say" hạt gấc. Mẹ với bà tôi đâm ra giận nhau mất mấy ngày...
Thế mà, những món ăn của bà, đến giờ tôi vẫn còn nhớ.
Tôi nhớ buổi sớm, bao nhiêu con chim gì cứ hót líu lo, lảnh lót ngoài vườn, nhảy cả xuống những cành thấp mà nô đùa. Tôi nghe bà gọi: " Vy ơi, dậ... ậy đi con, sáng rô...ồi!". Giọng người Kẻ Noi ở ngoại thành Hà Nội, cao vống lên như có nhạc. Bây giờ ở quê tôi cũng còn ít người nói tiếng làng, đa số người ta nói "tiếng Hà Nội".
Tôi mở mắt nhưng còn chưa vội thưa, cứ để bà gọi tới hai ba câu, mới dạ rõ to rồi bật dậy ra chum nước để rửa mặt. Nhưng rồi thể nào tôi cũng rời chum nước để chạy ra ngoài bờ ao. Ngoài ấy có một cây bưởi rất to, năm nào cũng cho những quả to, đẹp và ngon, thường dành để ăn Tết. Đêm qua, hoa bưởi rụng trắng cả gốc cây. Bông hoa mập mạp (đã bảo cây bưởi ấy rất to và khoẻ mà), cánh hoa cong cong như nét môi cười. Tôi cẩn thận lượm từng bông hoa, đầy tay rồi cho vào vạt áo. Bỗng giật mình vì nghe tiếng bà mắng: "Sao không rửa mặt đi kẻo mắt mũi kèm nhèm? Ai cho ra cầu ao nhỡ ngã xuống thì sao?".
Rồi bà cũng cho tôi giữ đám hoa bưởi ấy lại để chơi đồ hàng. Có điều, tôi cứ rứt từng cánh hoa ra để làm gạo, làm cơm... Bà lại bảo: "Để cái bông hoa lên đĩa cho nó thơm, nghịch thế làm gì hả con?". Những bông hoa mà bà để lên cái đĩa nhựa trên chiếc bàn gỗ góc nhà, toả hương thơm dịu khắp phòng, làm tôi thấy nhà của bà tôi thật thơm tho, dễ chịu....
Dừng xe mua một gói đầy hoa bưởi. Bây giờ mua cái gì cũng bỏ vài túi nilon, nhưng còn may là người ta gói hoa bưởi bằng lá chuối. Vốc hoa trắng ngần trong tay tôi, như ẩn hiện hình bà nội với cái dáng cao cao, đầu chít khăn mỏ quạ. Thế mà có lúc, tôi đã chẳng còn nhớ hoa bưởi trổ vào mùa nào, thơm vào mùa nào. Cuộc sống hiện đại đúng là cuốn người ta theo như cơn lốc. Chỉ đến một ngày, một cây bưởi còi cọc ở một nhà cùng phố nhà tôi, bỗng nở hoa, dịu dàng, thơm ngát.../. 
Nguyễn Thúy Hoa (VNQĐ)

Bên dòng Đồng Nai

Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong đổ lộn sông ngoài.
Thương người xa xứ lạc loài tới đây...
Con sông từ thượng nguồn vượt qua bao ghềnh thác vẫn cố giữ một dòng, vậy mà về hạ lưu bỗng dưng rẽ làm đôi. Cũng may hai nhánh sông kịp tìm nhau sau đoạn đường ngắn.
Cuộc chia tay ngắn ngủi của dòng sông đã tạo ra cồn đất nhỏ này, người ta gọi tên là cù lao Phố, vì dưới thời Đức ông Trần Thượng Xuyên là một thương cảng sầm uất.
Tôi thích cù lao Phố mỗi lúc chiều xuống, thành phố nơi tôi mới về sống quá ngột ngạt, đầy tiếng ồn và bụi bặm. Tài sản duy nhất còn sót lại của vùng đất một thời lừng lẫy sau bao biến cố lịch sử là dòng sông Đồng Nai, dòng sông độ lượng nuôi sống hàng triệu con người dọc lưu vực, mặc cho con người đối xử tàn tệ với nó như thế nào! Cuối tuần tôi thường ngồi uống cà phê ở quán Hải Âu để tìm chút không khí trong lành.
Quán nằm sát mé sông, không gian thoáng đãng và êm đềm. Tôi ngồi từ lúc mặt trời vừa xuống để ngắm cây cối bên cù lao dần phủ lớp nắng vàng rực rỡ, ngồi cho đến khi toàn bộ vùng đất nổi lên giữa hai nhánh sông chuyển dần qua màu tím thẫm. Vào giờ ấy, bao giờ quán cũng đón một người đàn ông đã đứng tuổi, ông vào quán kêu ly cà phê đen không đường và nhìn đăm đắm qua bên kia sông. Ông hút thuốc không đầu lọc, thứ thuốc lá thịnh hành hồi thập niên tám mươi, bây giờ ít người hút. Bộ quần áo ông mặc trên người đã bạc màu nhưng sạch sẽ và được ủi kỹ nên trông khá tươm tất. Sợi dây nịt da mềm oặt có lẽ được dùng hơn chục năm nay, trông như cái bảng đen cũ kỹ tróc sơn.
Tôi quan sát tỉ mỉ và cố đoán ông làm nghề gì nhưng không thể đoán được, thầy cũng không phải, thợ cũng không đúng. Gương mặt ông lúc nào cũng ưu tư và đầy nếp nhăn, hẳn là một người khó tính. Tôi bắt chuyện với ông nhờ vào lần tôi bỏ quên bật lửa và mượn của ông. Hóa ra ông khá cởi mở, chứ không như tôi tưởng. Bên cù lao Phố, nơi ông sinh ra, lớn lên, hạnh phúc và khổ đau có nhiều chuyện vui, buồn từ ngày tổ tiên vào đây lập nghiệp. Cuộc đời trải qua bao thăng trầm nhưng cái bật lửa ông luôn nhớ mang bên mình, vì rằng theo lời truyền lại của dòng họ thì nhờ câu chuyện này mà cụ tổ của ông đã còn mạng sống mà lập nghiệp tại vùng đất nổi duy nhất của miền Đông Nam bộ. Ngày xưa, trước khi Đức ông Trần Thượng Xuyên đặt chân đến đây, cù lao đã có người ở. Dân ngoài Quảng đi thuyền mấy ngày đêm gặp con sông lớn, ngược nước độ nửa ngày, thuyền đến vùng sông rộng và êm như mặt hồ, nước lại sâu, ghe thuyền có thể vào tận bờ. Trên đất liền, đất đai trù phú cây cối xanh tốt, trên trời cò bay trắng như mây, dưới đất từng bầy nai đủng đỉnh xuống bến sông uống nước. Dân di cư biết đây là đất lành bèn trụ lại lập nghiệp. Cù lao là vùng đất khởi đầu khi dân ngũ Quảng đặt chân đến xứ này lập nghiệp. Cù lao còn lạ ở chỗ, dù cho nước sông dâng cao đến mấy cũng không ngập. Cụ tổ nhà ông là thanh niên miệt ngoài, tổ chức nông dân khởi nghĩa trả thù bọn cường hào ác bá, bị thất bại đã một mình một ngựa rong ruổi phương nam... Câu chuyện về cụ tổ mà ông kể cho tôi nghe có thể ông thêu dệt thêm, nhưng khá hấp dẫn, nên tôi nghĩ cần ghi lại, biết đâu sau này có dịp dùng tới. Việc ghi chép những câu chuyện dân gian là kinh nghiệm quý báu của một đàn anh truyền lại cho tôi. Chuyện ông kể như sau...
***
Trước khi mặt trời khuất sau ngọn núi, Nguyễn phải vượt qua được khu rừng này. Đây là khu rừng nổi tiếng nhiều cọp nhất miền Đông Nam bộ. Hơn mười ngày ròng rã Nguyễn băng rừng chạy về hướng nam. Sư phụ của chàng, vị sư già chùa Quảng Long, giúp chàng trốn thoát khỏi sự truy nã của quan quân. Ông nói với Nguyễn:
- Hướng nam là con đường sống duy nhất. Cứ theo con đường này mà đi, không được quay trở lại với bất cứ lý do gì.
Ông đặt vào tay chàng con ngựa ô hoang dã của vùng sơn cước mà ông đã thuần phục và dặn:
- Con hãy đi mãi, đi cho đến khi nào con tuấn mã này gục ngã, con có thể định cư ở đó. Hãy cưới vợ, sinh con, mở mang bờ cõi, hãy quên mọi hận thù. Đừng làm chuyện dại dột nữa, dòng họ chỉ còn một mình con.
Nguyễn quỳ lạy thầy, rồi lên đường nam tiến. Hàng chục ngày đường, chàng chỉ men theo cánh rừng, đi đường chính, chàng sợ quan quân bắt gặp. Trong hành trang mà người thầy kính yêu chuẩn bị cho Nguyễn, có một thứ ông dặn chàng phải hết sức cẩn thận giữ gìn: cái vật tạo ra lửa mà vị sư già tốn khá nhiều công sức để chế ra. Ngày ấy, muốn có lửa, mọi người phải dùng con dao chẹt vào đá để lửa bắt qua bùi nhùi. Dựa trên nguyên lý ấy, vị sư già chế ra cái bật lửa mà chỉ cần quay nhẹ thanh sắt, viên đá sẽ phát những tia lửa mạnh, có khả năng đốt cháy dây bùi nhùi rất nhanh. Nhờ cái vật kỳ diệu ấy cùng lưỡi kiếm sắc và cánh cung trên vai, chàng đã sống được những ngày qua. Ban ngày chàng đốt lửa nướng thịt, ban đêm chàng đốt lửa xua đuổi thú rừng. Bất kỳ giống thú dữ nào thấy ánh lửa cũng tránh xa. Vị sư già vừa là cha, là mẹ, vừa là thầy của chàng. Lớn lên Nguyễn mới biết, thầy đã cứu chàng, giọt máu duy nhất của dòng họ một thời lừng lẫy, thoát khỏi họa tru di vì tội phản loạn. Ông chăm sóc, dạy dỗ cho Nguyễn chu đáo, nhưng dứt khoát không cho chàng xuống tóc, ông bảo chàng còn một sứ mệnh quan trọng phải thực hiện trong cuộc đời này. Khi Nguyễn được truyền dạy những tuyệt kỹ võ học "Thiếu lâm Bắc phái", ông mới tiết lộ cho chàng biết thân phận của mình. Ông cho Nguyễn xuống núi và dặn chàng hãy cố duy trì dòng họ của chàng, một dòng họ oanh liệt không đáng bị diệt vong.
Khi xuống núi, ông trao cho Nguyễn một bức thư và dặn chàng tìm đến nhà thầy đồ Ngạn, để đưa tận tay cho người. Sau khi đọc thư, thầy đồ Ngạn bảo con gái thu xếp cho Nguyễn một căn phòng bên nhà ngang. Thầy đồ Ngạn là bạn tâm giao của sư thầy, mỗi lần ông lên núi đánh cờ và đàm đạo với sư thầy Nguyễn vẫn hầu bên cạnh. Nay không hiểu sao sư thầy lại cho Nguyễn về ở với thầy đồ Ngạn. Suốt đêm Nguyễn trằn trọc trong căn nhà vách đất.
Chàng không ngủ được vì ánh mắt long lanh và đôi má ửng đỏ của nàng Gấm lúc dọn phòng cho chàng. Từ nhỏ đến giờ sống trong lời kinh tiếng kệ, Nguyễn chưa có dịp đứng gần một cô gái, hóa ra ngoài vẻ duyên dáng, phái nữ còn có mùi thơm kỳ diệu, Gấm ra khỏi phòng từ lâu mà trong phòng còn phảng phất mùi hương. Nguyễn nghĩ, chả trách sao trong sử sách chàng đọc có biết bao nhiêu anh hùng mất nước vì mỹ nữ. Sáng hôm sau, thầy đồ Ngạn gọi Nguyễn lên nhà trên, chàng quỳ bên án thư. Sau khi miễn lễ, ông nói:
- Theo lời giao ước giữa ta với thầy con, kể từ hôm nay con là rể nhà này. Nhà ta có ba mẫu ruộng, con hãy học cách trở thành nông dân, sau khi thành thạo, con gái ta thuộc về con.
Nguyễn mấp máy:
- Thưa thầy...!
Ông khoát tay:
- Những điều con đã học được ở sư thầy để làm người, chứ không phải để làm quan, con phải nhớ sứ mệnh của mình mà sư thầy đã dặn dò, hãy phục hồi lại dòng họ, tên con là Phan Nguyễn, nhưng con họ Nguyễn chứ không phải họ Phan, nhớ lấy điều này!
Nguyễn vâng dạ lui ra. Lúc đầu chàng cũng buồn, những năm tháng trui rèn võ nghệ và học chữ thánh hiền, Nguyễn không ngờ cuối cùng trở thành một nông dân. Chàng nén tiếng thở dài khi nghĩ về nàng Gấm, dù sao thì Nguyễn cũng có một người vợ đẹp... Thế rồi từ đó, Nguyễn trở thành chàng trai cày. Hằng ngày, sau giờ lao động vất vả, Nguyễn được chăm sóc bởi bàn tay dịu dàng của người con gái xinh đẹp nhất làng. Thời hạn ở rể ba năm đã gần hết, Nguyễn mơ ngày chàng cùng Gấm nên vợ, nên chồng. Nhưng số mệnh đã không cho chàng sống một cuộc đời bình lặng. Một hôm, đang cày nốt đám ruộng, bỗng trong làng có tiếng la hét, ngôi nhà của cha vợ lửa bốc ngùn ngụt. Nguyễn vứt cày chạy về, quan quân lố nhố trước hiên nhà, Gấm bị ba bốn tên lính vác bỏ lên xe ngựa. Cha vợ Nguyễn nằm gục trên vũng máu, một tên quan đặt chân lên người ông, ngạo nghễ nói với dân chúng:
- Những kẻ âm mưu phản loạn phải chết!
Không kiềm chế được, cụ hương trưởng buột miệng:
- Muốn chiếm đoạt con gái và đất đai của người ta, nên mới vu vạ, chứ thầy Ngạn mà phản loạn gì, quan quân gì mà tàn ác vậy?
Xoẹt... lưỡi gươm sáng loáng bay qua cổ cụ già khi cụ vừa dứt câu, cụ gục xuống đôi mắt mở trừng trừng.
Â...y! - Nguyễn hét lên một tiếng lớn, chàng giật phắt lưỡi gươm từ tay một tên lính, ánh gươm loang loáng như sao băng, tên tiểu quan gục ngay tại chỗ bởi nhát gươm thần tốc. Bọn lính tháo chạy tán loạn, nhưng trước khi rút đi chúng kịp mang theo nàng Gấm và giết chết một số dân làng. Với lòng căm phẫn cực độ, sau khi chôn cất cha vợ, Nguyễn tụ tập dân làng rút vào núi lập căn cứ, chuẩn bị đối phó với tên tuần phủ tàn ác mà chàng biết thế nào hắn cũng trả thù dân làng. Cuộc khởi nghĩa kéo dài chưa được một tháng thì tan rã. Những người nông dân không quen xa rời ruộng đồng và chưa được rèn luyện đã dần bỏ ngũ. Trận quyết chiến cuối cùng với quân của quan phủ, quân Nguyễn đã thất bại thảm hại, may mắn chàng thoát chết...
Miên man với chuyện cũ, Nguyễn đã ra đến bìa rừng. Hoàng hôn vừa buông xuống, trước mặt chàng là làng mạc, chàng đã đến được nơi có người ở. Lác đác khói lam dè dặt bay lên từ những nóc nhà tranh ven sông. Dòng sông rộng mênh mông, ghe thuyền tấp nập, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy bóng một quân lính nào của triều đình.
Nguyễn an tâm buông cương, có lẽ đến nay chàng đã thoát khỏi vùng tầm nã của tên quan phủ. Dừng ngựa bên sông, Nguyễn định bụng sẽ vào nhà chùa nào đó xin nghỉ qua đêm. Không biết đây là xứ nào mà con gái ăn mặc rất lạ, áo quần gọn gàng khỏe mạnh, không mớ bảy mớ ba như quê chàng. Họ chèo thuyền trên sông, chở đầy những chiếc nồi đất, lại có thuyền chở nhiều loại trái cây trông rất lạ. Dưới sông bỗng vang tiếng hò lanh lảnh: À... ơi... Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai... Nước sông trong đổ lộn sông ngoài. Thương người xa xứ lạc loài tới đây... Một chiếc thuyền khác lại vang lên câu hò: À ơi... Đồng Nai gạo trắng nước trong... Ai đi đến đó, lòng không muốn về... Những câu hò dìu dặt làm xao động lòng chàng trai trẻ, thì ra đây là xứ Đồng Nai, một nơi mà trước đây lúc còn hầu rượu sư thầy, chàng nghe thầy đồ Ngạn nói loáng thoáng về vùng đất trù phú. Sau khi bình luận ông thường ngâm nga: Làm trai cho đáng thân trai. Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng. Đang phân vân không biết đi về đâu trong lúc trời tối dần, bỗng một cụ già lại gần hỏi chàng với giọng thân thiện:
- Con từ đâu tới mà trông xơ xác thế kia?
Nguyễn lễ phép thưa:
- Dạ con từ xứ Quảng đến đây!
Đoạn chàng tóm tắt hoàn cảnh của mình cho cụ nghe, cụ vuốt râu cười:
- Thế thì con nên ở lại đây mà lập nghiệp, miền đất này bao dung lắm, chứa chấp hết thảy ai muốn đến với nó...
Nói xong ông đưa chàng xuống thuyền, chở qua bên kia sông. Nơi ông lão ở là cù lao màu mỡ, cây cối xanh tốt. Thuyền cập bến, ông nói:
- Đất ở đây còn rộng lắm, con tha hồ mà khai phá làm ruộng làm nương.
Nguyễn trở thành công dân vùng cù lao từ đấy. Sau bảy năm cật lực khai phá, chàng đã tạo nên một cơ ngơi khá khang trang, Nguyễn khai phá cả một vùng đất mênh mông, khu vườn của chàng trồng đầy đủ cây trái miền Nam.
Ông lão đưa Nguyễn về đây đã gả cô con gái út cho chàng. Lễ cưới xứ này diễn ra nhẹ nhàng, chứ không lễ mễ như ở quê chàng. Nhẹ nhàng như ngày đầu về đến căn nhà của ông, ông nói với bà: "Tôi đã tìm được chồng cho con Út rồi bà ơi!". Bà hỏi lại: "Người tốt chứ?". Ông cười khà: "Chỉ cần nhìn qua là biết người tốt". Vợ chàng không đẹp bằng Gấm nhưng nàng rất khỏe mạnh và mắn đẻ, nàng sinh cho chàng cả thảy bốn trai, ba gái, đứa nào cũng tròn trúc như trái bưởi và khỏe mạnh như cá sấu sông Đồng Nai. Dòng họ Nguyễn được phục hồi ngay trên mảnh đất nằm giữa dòng sông này...
***
Ông kể say sưa cho đến khi trăng ngả qua bên kia cầu Gành, rọi dải ánh sáng vụn vỡ xuống dòng sông, bên sông leo lét những ngọn lửa nhỏ phát từ những cây đèn bão của đám người câu đêm. Quán đã vắng khách, cô phụ bàn lục đục dọn dẹp, chúng tôi ra về.
Chuyện của ông còn dông dài về việc khai phá đất đai, chuyện cụ tổ đánh cướp, bắt sấu… Những chiến công của cụ tổ nghe khá hiển hách. Thường thì khi kể lại những câu chuyện xa xưa, hàng trăm năm, người ta hay tô vẽ, thậm chí bịa đặt thêm cho nó có vẻ huyền thoại hơn, nên tôi chỉ chắt lọc những điều tôi cho là thật. Đêm ấy, tôi thức thêm vài giờ để ghi lại. Buông bút, tôi rút điếu thuốc, quờ tay trên bàn tìm cái bật lửa, mới chợt nhớ, trong câu chuyện ông chưa hề đá động gì đến cái bật lửa, mà ông cho rằng: "Nhờ nó cụ tổ của ông còn mạng sống!". Đêm ấy, câu chuyện của ông đi vào giấc mơ của tôi. Không hiểu thần kinh của tôi có vấn đề gì mà hễ ban ngày cứ đọc một cuốn sách, hay nghe một câu chuyện lạ, là y như rằng đêm tôi nằm mơ về chuyện ấy. Giấc mơ luôn xuất hiện những tình tiết kỳ quái. Trong giấc mơ, tôi thấy tôi chính là chàng trai họ Nguyễn kia, tôi cũng cưỡi ngựa, đeo kiếm ở cái thời xa xưa ấy, lạc vào một xứ sở hoang sơ.
Con tuấn mã có vẻ mỏi mệt, bờm rủ xuống, hai bên mép sùi bọt, nó âm thầm rảo bước trên con đường rừng mấp mô, hun hút và tối tăm, tôi buông cương để con ngựa dưỡng sức. Bỗng khu rừng âm u rộ lên những tiếng hú dài, tôi rút soạt lưỡi gươm ra khỏi vỏ, lưỡi gươm loáng lên ánh thép xanh rợn người. Những bóng người đen đúa từ các cánh cây bám theo các sợi dây rừng, thoăn thoắt bay đến trước mặt. Không nói không rằng, họ phóng những ngọn lao bằng tre rừng vạt nhọn về phía tôi. Họ hành động như thể tôi là con thú chứ không phải con người. Phản xạ sinh tồn, tôi vung gươm, những bóng người ngã gục, lưỡi gươm chạm đến đâu, máu loang đến đấy.
Những tiếng hú mỗi lúc càng thê lương và ma quái hơn. Tôi giật mạnh dây cương, con tuấn mã thu tàn lực vọt lên phía trước, dường như nó cũng biết chủ nó đang rơi vào con đường chết. Những bóng đen trần trụi ngày càng đông, chúng bám theo những sợi dây rừng đuổi theo con ngựa. Tôi rạp người trên mình ngựa vượt khỏi cánh rừng âm u, trước mặt là trảng cỏ tranh vàng úa, khô như rang, lũ người rừng vẫn nườm nượp đuổi theo sau lưng. Trong giây phút nguy cấp ấy trong đầu tôi bỗng bật lên chữ "lửa". Đúng rồi, ngọn lửa có thể làm chùn bước lũ mọi rợ này, tôi nhảy xuống ngựa và đánh lửa. Ngọn lửa bùng lên, đám cỏ tranh cháy hừng hực, ngọn lửa tràn như những con sóng dữ, liếm dần đám cỏ tranh... Ngọn lửa phủ kín cả khu rừng, phủ luôn cả người tôi, nóng hầm hập, tôi vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám cháy. Còn lũ người nhe hàm răng trắng ởn, đạp lên ngọn lửa mà đi, họ cười khùng khục tiến dần về phía tôi, miệng đỏ như máu...
Tôi bật dậy, mồ hôi đẫm người, ướt như tắm, trong giấc mơ tôi là chàng Nguyễn khỏe mạnh kia, nhưng thực tế tôi là kẻ ốm yếu, hằng đêm vẫn thường bị những cơn ác mộng hành hạ như vậy. Đó là di chứng của trận ốm thập tử nhất sinh, do sốt rét rừng hồi năm tám mươi, tôi theo cha tôi vào rừng đốt than. Bữa ấy, trời mưa rầm rãi, bầu trời nứt toác ra, nước trút xuống như thác đổ, người tôi mềm oặt tựa cọng bún tàu ngâm nước, cha tôi tưởng tôi đã chết, ông cõng xác tôi về để trước hiên nhà, chờ trời tạnh thì mang đi chôn.
Mẹ tôi đi đào củ chụp về, bà ôm tôi vào lòng gào khóc, có lẽ do được hơi ấm của mẹ truyền qua, tim tôi đập trở lại. Cha mẹ băng mưa, đưa tôi đến trạm xá. Tôi sống lại với thể chất èo uột. Những cơn ác mộng của tôi làm mẹ lo lắng, bà đi hết chùa này đến chùa kia, thậm chí bà đến cả cha đạo để xin nước thánh cho tôi uống nhưng cũng không xua được những cơn ác mộng hành hạ tôi hàng đêm. Sau này lớn lên, tôi quen dần và những giấc mơ giúp tôi giải tỏa ấm ức hằng ngày mà cuộc sống mang lại cho tôi. Đêm nào không nằm mộng, ngày hôm sau người tôi uể oải và không làm được việc gì cho ra trò.
Hôm sau, trở lại quán, tôi hỏi ông về chuyện cái bật lửa mà ông chưa kể cho tôi nghe. Ông trầm ngâm nhìn tôi:
- Tôi xin lỗi là không tiết lộ chuyện ấy được, đó là một câu chuyện buồn, một bí mật chỉ có những người trong dòng họ tôi biết mà thôi, xin anh thông cảm.
Tôi chợt nhớ giấc mơ của mình, đó là một giấc mơ ghê rợn, nó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài.
Ông rút một điếu thuốc không đầu lọc châm lửa, rồi cứ thế cầm trên tay cho tàn dài trắng xóa rớt xuống dòng sông, nhìn ly cà phê đen nguội ngắt, ông thở dài tâm sự:
- Anh ạ, chuyện như thế, dòng tộc tôi sinh sống đã nhiều đời trên mảnh đất này, trải bao thăng trầm lịch sử, mảnh đất cụ tổ khai phá chia năm xẻ bảy, nhưng vườn bưởi ven sông nơi đặt nhà thờ cụ tổ thì luôn được gìn giữ truyền lại cho nhánh nhứt của dòng họ, đến đời tôi thì mất anh ạ!
Ông đưa cả ly cà phê đen không có đường uống một lần như người ta uống rượu, rồi kể về chuyện cuộc đời của ông, lần này tôi cũng ghi lại, nhưng để dùng làm tư liệu viết báo. Câu chuyện của ông nếu đúng như lời ông kể thì ông bị oan!
***
Theo lời dạy của cha, Nguyễn Trí theo học ngành sư phạm, chưa hết năm thứ nhất trường đại học sư phạm thì có lệnh "tổng động viên". Hằng ngày, bọn cảnh sát dã chiến và quân cảnh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, học sinh các trường đại học đều phải tham gia lớp dự bị sĩ quan. Trí bị bắt đưa vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Cha anh đã phải cắn răng cắt ba mẫu đất trong khu đất hương hỏa, chạy cho Trí khỏi phải đi quân dịch.
Miếng đất nằm bên bờ sông, hằng năm đón nhận phù sa từ thượng nguồn đổ về nên trái bưởi to như đầu người, ngọt lịm. Ngài tỉnh trưởng nhiều lần đánh tiếng muốn mua một vài mẫu để xây biệt thự cho cô vợ bé, ông nhất định không bán. Nhưng lần này ông đành xuôi tay. Anh ruột của Trí đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trên rừng Mã Đà, ông cố giữ thằng con trai duy nhất để sau này có người thờ cúng tổ tiên.
Ba tuần trong quân trường,  Trí được cho về địa phương với cái giấy miễn dịch của ngài tỉnh trưởng cấp. Bây giờ ngài tỉnh trưởng đã mãn nguyện, một nửa khu vườn của dòng họ Nguyễn đã thuộc về ngài. Sau bốn năm dùi mài kinh sử, Trí tốt nghiệp sư phạm với tấm bằng loại ưu. Anh xin về dạy ngay trên cù lao, nơi ngày xưa ông sơ, ông cố, ông nội anh đã từng dạy học. Ngày ba mươi tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, cùng đội ngũ thầy cô giáo, Trí nô nức đón mừng niềm vui đất nước giải phóng. Lúc đầu Trí cũng lo không biết mình còn được đứng trên bục giảng nữa hay không, nhưng ít hôm sau ủy ban quân quản mời thầy cô giáo tập trung cải huấn, để chuẩn bị khai giảng năm học mới.
Trí vui mừng khôn xiết, thế là anh vẫn được chính quyền cách mạng tin dùng. Cuộc đời của Trí hẳn sẽ êm ả trôi đi với "bảng đen phấn trắng, hoa phượng sân trường" nếu anh không quá cả nể. Gia đình có truyền thống cách mạng, anh ruột là liệt sĩ nên thầy Trí được đưa vào diện quy hoạch. Ông bí thư chi bộ xã năm lần bảy lượt mời thầy Trí tham gia chính quyền địa phương và rồi anh tham gia chính quyền mới. Buổi sáng làm việc ở xã, buổi chiều đứng lớp, ban đêm dạy bổ túc cho cán bộ, thầy Trí rất khổ sở với lớp học "không biết ai lấy nỏ thần của An Dương Vương!”. Thời bấy giờ các thầy cô giáo gọi các lớp bổ túc như thế, nó xuất phát từ câu chuyện lan truyền trong giáo giới. Chuyện rằng: Thầy giáo dạy văn, tranh thủ sau giờ giảng thử kiểm tra kiến thức đám học trò, thầy hỏi: - Các anh chị có biết ai là người lấy cắp nỏ thần của An Dương Vương không? Sau một hồi im lặng, một học viên đỏ mặt đứng lên quát: Thầy hỏi thế là có ý gì? Lớp chúng tôi toàn cán bộ đi học có ai tham nhũng như thế đâu!!!
Lớp thầy Trí chủ nhiệm, do đồng chí chủ tịch xã làm lớp trưởng, ông là người "triệt để cách mạng" nên học hành khá nghiêm túc, chỉ tiếc lâu quá không cầm viết nên bàn tay cứ cứng quèo. Lớp trưởng có giọng nói oang oang như chuông đồng, giờ làm việc cũng như giờ học, lúc nào ông cũng kè kè cây súng ngắn bên hông, trông phát khiếp!
Ba Chuông có sở thích uống máu bò nóng, trong xã có ai làm đơn xin mổ bò, ông xin họ cho ông bát tiết đầu tiên, ông xuống tận nơi cầm bát tiết nóng uống đánh ực rồi đưa tay chùi hai mép. Trẻ con trong xã khóc nhè dỗ không nín, bà mẹ hét lên: "Ông Ba Chuông kìa!" thế là trẻ nín khe, đố đứa nào dám tỉ tê.
Khi có ai làm cho ông giận dữ, ông hăm dọa bắn nát óc người đó, nhưng chưa ai thấy ông bắn bao giờ. Có lần đám thanh niên đánh nhau, can không được ông rút súng nhưng không bắn mà chọi vào giữa đám trẻ, khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Khẩu súng văng ngay vào hũ nước mắm của bà Tư bánh bèo, làm ông phải chùi rửa hàng giờ liền. Tính tình bộc trực và đôi khi thô lỗ nên ông không được lòng cán bộ trong xã. Ông Ba Chuông rất kính trọng thầy Trí, việc gì cũng hỏi ý kiến thầy, thầy góp ý, ông cẩn thận ghi chép vào sổ tay.
Dạo ấy mọi thứ đều quốc doanh hóa, muốn giết thịt con heo cũng phải xin phép, nhưng ở cù lao Giêng, ông Ba Chuông cho phép nhân dân tự do mổ bò, mổ heo để cung cấp cho dân trong xã. Nhiều cuộc họp trong ủy ban ông bị chỉ trích về tội hữu khuynh! Ba Chuông đứng lên gay gắt:
- Thời chiến tranh dân đói đã đành, bây giờ hòa bình dân muốn ăn miếng thịt cũng không được hay sao?
Buổi chiều ngồi uống rượu với thầy Trí, ông kể:
- Thầy biết không, hồi trong căn cứ Bàu Hàm giặc bao vây ba tháng, anh em ăn chuối xanh vàng cả mắt, tôi mò về ấp mang theo khẩu B40 dộng thẳng mấy quả vô trong đồn bọn địa phương quân, bọn chúng sợ vỡ mật, tôi vào ấp nhờ cơ sở của ta móc nối với vợ của ông tướng Sài Gòn mua cả đoàn xe cam nhông gạo. Lúc ấy, phải linh động như thế mới thắng được giặc chứ cứng ngắc như giờ có mà ăn cám!
Đùng một cái ông Ba Chuông bị bắt về tội tổ chức vượt biên, khi bị còng tay, ông nói với thầy Trí:
- Tôi bị oan, tôi không có sao đâu thầy đừng lo!
 Hai hôm sau, thầy Trí cũng bị còng tay vì có chứng cứ thầy là đồng bọn của Ba Chuông. Sau hai năm bị giam cầm vụ án sáng tỏ, ông Ba Chuông và thầy Trí được tha về. Ông Ba Chuông hằng ngày chèo thuyền đi câu lươn ven sông không màng chuyện thế sự. Khu vườn thầy Trí đã được trưng dụng gần hết chia cho cán bộ xã. Mấy năm liền hỏi xin lại đất nhưng cán bộ xã cứ hẹn lần.
Thầy vác đơn kiện khắp nơi, tỉnh chuyển về huyện, huyện chuyển về xã, xã bảo để chờ xem xét. Không được bố trí công tác, không có việc làm, thầy Trí ngồi nhà viết đơn thuê cho dân cù lao. Văn hay chữ tốt, được dân tin cậy nên thầy viết hàng chục lá đơn từ chuyện tố cáo cán bộ xã tha hóa đến chuyện ly dị của những cặp vợ chồng "cơm không lành canh không ngọt". Năm sau thầy Trí bị bắt lại vì chuyện xúi giục dân chúng gây rối! Bảy tháng tám ngày ở tù thầy lại được cho về với lệnh tạm tha! Không bỏ cuộc, thầy tiếp tục theo kiện đòi lại mảnh đất hương hỏa. Hàng chục năm trôi qua, nợ nần chồng chất, thầy Trí bỏ xứ về thành phố làm đủ nghề để kiếm tiền sinh sống và kiên trì đi tìm công lý...
***
Mấy năm sau khi nghe câu chuyện của ông, tôi không dám ra quán Hải Âu uống cà phê, vì ngày ấy, tôi bốc đồng hứa với ông rằng tôi sẽ viết một bài báo bảo vệ cho ông. Thực hiện lời hứa, tôi đã bỏ ra nửa tháng trời tìm hiểu viết bài phóng sự có tựa là: Hành trình đi đòi lại mảnh đất hương hỏa của một công dân. Nhưng khi nộp bài, đồng chí tổng biên tập báo, nơi tôi công tác, phê ngay hàng chữ đỏ chót trên góc: Không có căn cứ, không sử dụng! Năm lần bảy lượt ông đến tòa soạn tìm, tôi mắc cỡ lẩn tránh.
Thời gian trôi qua với bao nhiêu chuyện sôi động xảy ra quanh mình, tôi dần quên ông. Hôm nay, tôi qua cù lao vì nhiệm vụ đưa đoàn nhà báo tỉnh bạn đi du lịch vườn. Vài năm gần đây, trái bưởi Biên Hòa phục hồi danh tiếng, nhờ nông dân bên cù lao trồng lại những giống bưởi một thời làm rạng danh đất Biên Hòa. Chính quyền địa phương đưa chúng tôi đến khu vườn mà theo họ là lý tưởng nhất trong vùng. Khu vườn rộng trên ba mẫu đất nằm sát bên sông.
Chúng tôi đi thuyền đến khu vườn. Những cây bưởi đường lá cam, trái tròn căng mọng láng sà xuống tận mặt nước. Một cán bộ xã cho biết chủ nhân của khu vườn được nhân dân trong vùng tôn xưng là hảo hán miệt vườn. Ông là người đầu tiên quyết tâm phá bỏ tất cả các cây trồng khác trong vườn để trồng bưởi. Tôi khá ngỡ ngàng khi gặp lại ông, người chủ vườn bưởi nổi tiếng đất cù lao. Khi đoàn khách tham quan ra về tôi xin phép nán lại để xin lỗi ông chuyện ngày xưa. Ông đưa tôi ra bờ sông, với tay hái trái bưởi vỗ nhè nhẹ và bảo:
-  Trái này không có hột!
 Rồi ông nhanh nhẹn gọt vỏ, múi bưởi mọng nước lộ dần. Ông nói:
- Cuối cùng tôi cũng tìm được công lý anh ạ! Chờ anh không được, tự tôi ra Hà Nội tìm đến tận văn phòng thanh tra nhà nước. Rất may thanh tra đã về tận nơi xem xét giải quyết, ba tháng sau tôi được giải oan, nhà nước trả lại khu vườn cho tôi. Ngành giáo dục có mời tôi dạy lại nhưng tôi nghĩ mình đã già rồi, kiến thức mai một không theo kịp bọn trẻ nên ở nhà làm vườn.
Nghe chuyện của ông tôi chợt thấy mình hèn, bấy lâu nay tôi cứ ảo tưởng nghề làm báo của mình là nghề có thể cải tạo được xã hội. Thực ra tôi chưa bao giờ theo cái gì cho đến cùng. Bài viết xong đăng được thì đăng, không thì thôi, tôi chưa bao giờ quan tâm đến số phận những con người trong bài viết của mình. Mới mấy năm không gặp, ông giàu lên trông thấy, ngôi nhà hai tầng trắng lóa giữa vườn bưởi chi chít quả. Hệ thống tưới trong vườn, ông bố trí hệ thống phun sương bằng máy, ánh mặt trời xuyên qua lớp nước tạo nên vô số cầu vồng lấp lánh như bồng lai tiên cảnh. Tôi rút điếu thuốc đưa lên môi, ông nhanh nhẹn bật lửa mồi cho tôi và nói:
- Tôi bỏ thuốc lâu rồi, nhưng lúc nào cũng có cái bật lửa trong túi anh ạ.
Trên sông, một giọng hò lanh lảnh cất lên: Hò ơi! Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai... 
Nguyễn Một

Hoa Bưởi Đợi Chờ 

Mẹ ơi,... 

Điều giản dị đến giờ con mới hiểu,
Là tình yêu của mẹ thật bao la...
Mẹ theo con dẫu tận phương trời xa,
Mẹ cần kiệm suốt đời cho con trẻ !
Mẹ mất đi, con ngộ ra mọi lẻ :
Thiên đường xa đâu có bóng mẹ qua...
Mẹ là quê hương, mái ấm tình nhà,
Không có mẹ, con không còn tất cả !!
NM

"Mùa đông này con không về" 

“- Ở  bên đó, con mặc đủ ấm không? Mùa đông châu Âu chắc lạnh, đúng không con? Mẹ hình dung tuyết rơi trắng xoá, nghĩ tới con là mẹ thấy lạnh. Lạnh không phải do gió rét tuyết rụng mà cái lạnh của người mẹ thương con thân gái dặm trường, một mình lủi thủi...”, cứ mỗi lần nhớ đến câu nói nhỏ nhẹ như gió thoảng của mẹ, tôi lại nấc lên. Và động tác mẹ đưa tay vuốt tóc tôi, ánh mắt mẹ nhìn thẳng vào mắt tôi như mỗi khi tôi ấp úng chuyện gì, cứ khắc sâu vào ký ức tôi. Và mỗi lần như vậy, tôi lại ao ước được rụi mặt mình vào bộ ngực lép kẹp của mẹ mà khóc, khóc thoả thích. Vì chẳng bao giờ tôi được khóc như vậy ngoài đời. Mẹ sẽ lại bối rối, ghì chặt tôi vào lòng. Bình an làm sao khi được ru dỗ trong vòng tay xương xẩu của mẹ! 

 Là một phụ nữ luôn xông xáo trong công việc, nhiều đồng nghiệp nam đôi khi còn nể tính quyết đoán của tôi, bao bản hợp đồng tầm cỡ quốc tế, trị giá cả nhiều triệu đô la do tôi ký duyệt. Cuộc sống của gần ngàn con người nhiều khi phụ thuộc vào chuyến công cán của tôi. Những lúc đó tôi năng nổ hoạt bát, đầy bản lĩnh... Vậy mà mỗi khi ngồi trước mẹ, tôi lại khóc, khóc toáng, khóc nức nở, khóc sụt sịt hụ hị như một đứa trẻ. Trước mẹ, tôi vẫn là một đứa bé gái như ngày nào...

Bố tôi mất khi tôi mới 8 tuổi, mẹ ở vậy thờ chồng, tần tảo nuôi con. Quê tôi thuần nông, đa phần nghèo. Những năm trời hạn hán, lũ lụt mất mùa, mẹ lần hồi mò cua, mò ốc bán lấy tiền lo cho tôi ăn học. Có những đêm mưa bão, nhà dột, nước nhỏ tong tong khắp nơi, xuống cả giường, hai mẹ con ôm nhau thu lu trong tấm áo mưa. Có những ngày con gái nhức đầu, sốt nóng, mụn han nổi đầy mình, mẹ lo lắng không ăn không ngủ, tìm lá giã đắp lên trán con cho cơn sốt dịu đi. Khi con gái khỏi bệnh lại là lúc da mặt mẹ vàng võ, tóc như điểm thêm vài sợi bạc. Thời gian lần hồi, xuân qua, hè tới, thu sang, đông về, tôi lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và sự đùm bọc của xóm làng. Hiền lành, thông minh, chịu khó, lại thương mẹ rất nhiều, nên tôi học hành chăm chỉ. Từ lớp một đến hết cấp III, năm nào tôi cũng được xếp loại khá, hoặc xuất sắc. Mỗi điểm 10 trong vở là món quà biếu mẹ. Hết cấp III, tôi thi vào đại học. Trước khi làm hồ sơ dự thi, mẹ con tôi đã bàn bạc suốt một thời gian dài để lựa chọn. Mẹ muốn tôi theo ngành sư phạm, về thành phố học năm năm, ra trường, con xin về dạy ở trường cấp III phố huyện, vậy là mẹ con lại được gần nhau. Sau này lấy chồng sinh con thì mẹ trông cho, tha hồ mà làm việc! Về điểm này tôi chỉ nghe mà không đáp lời mẹ. Trong thâm tâm, tôi muốn sau khi học xong, tôi sẽ đi thật xa để khám phá những miền đất lạ, muốn tìm hiểu tại sao những người dân quê tôi luôn chăm chỉ, cần kiệm mà vẫn lam lũ quá. Đợi khi công việc ổn định, tôi sẽ đón mẹ đi cùng.
Người xưa có câu “chẳng ai hiểu con bằng mẹ!”, thấy nét mặt con gái trầm ngâm, mẹ cũng không nói gì nữa. Một làn gió thoảng mang theo mùi hoa sứ, hoa cau và cả những bông nhài đang hé nở gần bể nước, khiến nét mặt hai mẹ con tươi tỉnh hẳn trong mùi hương man mác. Vầng trăng non lấp ló đầu ngọn tre như muốn góp chuyện cùng chúng tôi. Đâu đó cũng vẳng lại tiếng xào xạc của các cành tre va nhau. Cuối cùng mẹ nói:
- Con lớn rồi, mẹ có lẽ sẽ để con quyết định hướng đi cho đời con. Mẹ chỉ khuyên con nên suy nghĩ thật kỹ trước khi làm điều gì, và một khi đã chọn thì phải đi tới đích, dù đường con đi có nhiều chông gai trắc trở và mưa gió nhọc nhằn. Việc càng khó mà thành công thì niềm hân hoan của ta sẽ tăng bội phần. Nhưng phải liệu cơm gắp mắm con ạ...
Hồi đó còn ít tuổi, nghe mẹ nói vậy, tôi sung sướng nhẩy lên ôm cổ mẹ. Vậy là mẹ đã để tôi quyết định... Tôi đâu hiểu rằng đằng sau những câu nói ấy là sự hờn dỗi man mác của người mẹ hiền. Rồi tôi làm hồ sơ thi trường Đại học Ngoại giao. Với số điểm thi tốt nghiệp phổ thông Trung học gần đạt tối đa 38/40, ngưỡng cửa trường Đại học đối với tôi không quá xa vời! Và tôi đã là niềm tự hào của mẹ, và bà con lối xóm. Hơn nữa lại được coi là “tấm gương” cho bọn trẻ làng tôi. Tôi vui và cảm thấy phải cố hoàn thành “trách nhiệm vẻ vang” của mình!
Rời miền quê yêu dấu về thành phố, tôi bỡ ngỡ trước đủ thứ. Ngày đầu tiên đi từ ký túc xá tới giảng đường, tôi đã bị trộm cắt dây chằng lấy mất chiếc cặp trên porte-bagage. Chiếc cặp da mới tinh do Chi đoàn thanh niên làng tặng tôi nhân ngày tựu trường Đại học. Đó là một trong những kinh nghiệm khó phai trong đời tôi khi sống xa nhà, xa mẹ! Và nó sẽ giúp tôi khá nhiều trong cuộc sống đô thành, tha hương của tôi sau này. Xe cộ nơi phố thị lúc nào cũng hối hả, ánh đèn nhấp nháy.., phải mất nhiều tuần tôi mới quen được.
Ở kí túc xá, cuộc sống thật tự do, thành phố thủ đô quả là hấp dẫn với đầy đủ sắc màu khêu gợi, chào mời... Song chí tôi đã quyết, tôi biết thân phận mình không thể so bì với các bạn học khác. Tôi chỉ trông chờ vào chính mình, vào cái đầu, lòng kiên trì và nghị lực của mình. Những buổi tối khi các bạn cùng phòng tíu tít với các nam thanh nữ tú đến từ các trường lân cận, hoặc đồng hương thì tôi vùi đầu vào vào các cuốn sách dày cộp “Chính sách ngoại giao”, “Tiểu xảo của các giám đốc kinh doanh”,Cẩm nang đối ngoại của các Đại cao thủ ngoại giao Trung Hoa”, “Đường dẫn tới thành công”... hoặc những cuốn từ điển tiếng Anh chuyên ngành to sụ mà cuối mỗi buổi học tôi không còn sức mà vác nữa! Hoặc những ngày nghỉ cuối tuần, khi các bạn cùng phòng tất bật chuẩn bị pic nic, đi dã ngoại thì tôi lại khom người trên chiếc xe cà tàng mà mẹ đã phải bán gần một tạ lúa mới mua được, vượt gần 40 cây số để về nhà với mẹ. Thường tối tôi mới về đến nhà. Bữa cơm đã sẵn sàng, canh cua nấu mướp hương lẫn rau dền mẹ hái trong vườn. Nồi cá kho cạn với tương và gừng, đôi khi mẹ kho với lá cúc tần thơm thơm hăng hắc - những thứ mà tôi luôn cảm thấy thiếu trong những chuyến công cán nước ngoài sau này. Lần nào cũng vậy, cứ về tới cổng là tôi đã thấy mẹ đứng đó, ngày đẹp trời cũng như khi mưa phùn gió bấc. Đôi khi tôi có cảm giác là mẹ đứng đó cả tuần để chờ tôi về vậy! Mẹ tíu tít đỡ xe đạp, mùa hè thì lấy quạt quạt cho tôi, mùa đông thì đốt lửa cho tôi sưởi, xoa bàn tay ấm nóng lên mặt, lên hai bàn tay, lên cả hai bàn chân của tôi đã tê cứng từ lúc nào. Vào ngày mùa tôi có cả ngày chủ nhật để giúp mẹ. Mẹ không muốn tôi làm nhiều vì sợ con gái mệt. Lúc rảnh rỗi, mẹ đi lấy các loại lá thơm nấu cho tôi gội đầu. Mẹ vẫn thường nói “cái răng cái tóc là góc con người”. Mẹ cười hài lòng khi thấy tóc tôi vẫn dài, óng mượt chứ không như mấy chị ở xóm Ngoài, vừa lên thành phố học đã vội cắt ngay “đầu tém” cho hợp mốt. Mẹ lẩn mẩn ngồi tết tóc tôi thành đôi sam gọn gàng, và kể cho tôi nghe chuyện tình của bố mẹ cũng được bắt đầu bằng hai cái dải sam dài của mẹ.
Thời gian trôi đi nhanh chóng. Năm học đầu kết thúc, điểm tổng kết của tôi cao gần nhất lớp, suất học bổng vẫn được duy trì và còn có một phần thưởng nho nhỏ. Tôi dùng số tiền thưởng đó mua quà biếu mẹ - một chiếc khăn nhung đen tuyền mà mẹ vẫn hằng ao ước! Năm thứ 2, thứ 3, thứ 4 qua đi lúc nào tôi cũng không còn nhớ nữa, tôi vẫn về thăm mẹ hàng tuần đều đặn, và... một mình. Mẹ bóng gió chuyện bạn bè, tôi hiểu mẹ muốn nói gì, mẹ muốn tôi có bạn trai? Tôi lảng. Tránh trả lời và tránh cả ánh mắt mẹ. Thấm thoắt tôi đã làm luận văn tốt nghiệp. Bản luận văn dài hơn trăm trang được tôi viết bằng tất cả nhiệt huyết, tâm hồn và sự hiểu biết qua 5 năm miệt mài đèn sách và những đợt thực tập. Trong thâm tâm tôi viết cho cả mẹ - một người tảo tần hôm sớm và đã cho tôi cả tuổi xuân của mình.
Bản luận văn của tôi được hội đồng giám khảo đánh giá cao và cho điểm tối đa. Đúng vào thời kỳ đất nước áp dụng chính sách mở cửa, nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, họ đến tận các trường đại học tìm kiếm nhân tài. Điểm tốt nghiệp cao lại nói khá tiếng Anh, tôi được tuyển mộ vào một công ty liên doanh. Lúc đầu tôi chỉ làm trợ lí Tổng giám đốc. Công việc của người trợ lí khác xa với đời sống sinh viên. Những tháng đầu tôi vẫn dành thời gian về thăm mẹ. Nhưng những lần về thăm cũng thưa dần. Tôi không nói nhưng mẹ hiểu. Mẹ vẫn hì hụi giã cho tôi từng hộp muối vừng, từng lọ ruốc thơm nức, mặc cho tôi nói rằng bây giờ đã đi làm và có lương, và thường là yến tiệc, hoặc nếu không thì lại cơm bụi. Là thư ký kiêm phiên dịch, nên mỗi khi Tổng giám đốc đi công cán tôi phải tháp tùng ông. Mẹ im lặng nhưng ánh mắt nhìn tôi như sâu thẳm hơn, mẹ muốn nói gì trong cái nhìn ấy! Thấy vậy, tôi vui vẻ chất hết các thứ mẹ chuẩn bị vào túi, hứa với mẹ sẽ nấu ăn. Chào mẹ và lại ra đi. Về thành phố bị cuốn hút vào công việc, tôi cũng chẳng còn thời gian để mở những hộp muối vừng và ruốc, đến lúc nhớ ra thì tất cả đã mốc, phải đổ đi. Những lúc ấy tôi thật sự ân hận và giận mình, thề sẽ không quên nữa. Nhưng các lần sau vẫn vậy. Tự hứa rồi lại tự quên. Còn mẹ vẫn chu đáo lo cho tôi như ngày xưa. Vẫn cần mẫn nấu cho tôi từng nồi nước lá thơm để gội đầu...
Do nhu cầu công việc, Giám đốc cơ quan đã trích tiền mua cho tôi một chiếc xe máy Dream II mới tinh để đi làm, tôi sung sướng về khoe ngay với mẹ. Tôi chở mẹ đi chợ huyện. Mẹ hãnh diện và tự hào với bà con lối xóm, với cả một số người mà mẹ biết trong thâm tâm vẫn ngấm ngầm coi khinh mẹ con tôi...
Tôi cố gắng đi học buổi tối để lấy bằng thạc sĩ Kinh tế. Hai năm sau, tôi bảo vệ thành công. Công việc của tôi tiến triển, thành công không ngừng tựa như một sự cổ vũ, và thế là tôi lao vào công việc không biết mệt. Tôi thông hiểu về kinh tế, nắm bắt được thị trường, và nhất là biết khi nào nên dừng đầu tư. Ngay khi bất động sản vừa hé rộ, tôi đã thu gom chút tiền để dành, thậm chí đi vay lãi để đầu tư. Chỉ trong vòng vài năm, tiền của tôi đã lên hàng tỷ. Rồi lại gặp dịp chứng khoán Việt Nam bắt đầu mở, nở rộ. Bảng biểu toàn màu xanh. Tôi lại đầu tư vào lĩnh vực này. Hồi đó, ngoài công việc được giao mà tôi luôn làm tròn, thì niềm đam mê của tôi là kiếm tiền. Tôi luôn tậu cho mình những thiết bị công nghệ hiện đại nhất để có thể truy cập mạng Internet khi ở bất kỳ đâu. Tôi cập nhật chứng khoán hàng giờ, thậm chí hàng phút. Chỉ bằng vài cái bấm chuột trên bàn phím, vài phút đồng hồ, tôi đã kiếm được nhiều chục triệu đồng. Tiền tôi thu về không biết bao nhiêu mà tính. Tiền hút tôi còn hơn cả tình yêu! Bởi tôi không có thời gian dành cho thứ mà tôi cho là lãng mạn viển vông ấy!
Khi chứng khoán và bất động sản bắt đầu chững, tôi dừng ngay! Khi ấy số tiền tôi có đã khá đủ để tậu được một căn nhà theo ý mình. Một biệt thự khang trang, tự tôi thuê vẽ thiết kế. Căn nhà ba tầng xinh xắn quay ra đón gió Hồ Tây, trang nhã với phong cách Đông – Tây kết hợp, có khu vườn nhỏ sau nhà, mà tôi cho sửa sang để vừa trồng hoa, lại vừa có một nơi nho nhỏ để trồng rau. Tôi đã nghĩ đến mẹ. Khu này sẽ là niềm vui tuổi già khi mẹ nhớ quê. Rồi tôi mời mẹ ra ở với tôi. Lúc đầu mẹ mừng lắm, vậy là mẹ con tôi lại được gần nhau. Nhưng tôi đi làm tối ngày, ngày nghỉ cũng phải theo sếp trong những phi vụ làm ăn. Được mấy tuần, rồi tôi thấy mẹ buồn. Mẹ muốn về quê. Mẹ ôn tồn giải thích:
- Không phải là mẹ giận con mà không muốn ở đây! Mẹ nhớ làng nhớ xóm, nhớ ruộng vườn, vả lại ở quê mẹ còn có bạn bè, ở đây... con đi làm suốt ngày, mẹ lại không quen ai, thôi cứ để mẹ về quê đi con...!
Tôi chẳng còn lí do gì để giữ mẹ lại. Thời gian cứ trôi. Công việc của tôi hết sức thuận lợi. Tôi được cử đi công tác dài hạn ở nước ngoài, trợ lý cho trưởng chi nhánh Paul Lee, người Úc. Trước khi đi, cơ quan cho tôi được nghỉ phép một tuần. Cả một tuần này tôi dành trọn cho mẹ. Hai mẹ con tôi tíu tít bên nhau, mẹ nấu cho tôi những món ăn mà tôi yêu thích. Tôi thoả thuê đi dạo giữa cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, lúa xanh mướt đang thì con gái, gió thổi rì rào, những con chim chìa vôi bay lên bay xuống chao đảo giữa không trung. Tôi thấy mình giống như đứa trẻ ngày nào theo mẹ ra đồng cấy lúa. Tôi chúa là sợ rắn, bữa ấy đang hì hục tát nước bằng chiếc bát con mà mẹ mang theo để uống nước, bỗng một con rắn nước xuất hiện, bơi loe ngoe bên cạnh. Tôi hét toáng làm tất cả mọi người đang làm việc trên cánh đồng phải ngẩng lên. Mẹ đang cấy cạnh đó bỏ ngay nắm mạ, chạy lại ôm chặt tôi vào lòng. Kể từ bữa đó, đố ai gọi được tôi đi xa khỏi mẹ. Mới đó mà đã hơn hai chục năm! Trong mỗi bữa ăn mẹ ý tứ nhắc đến chuyện lập gia đình bằng cách kể cho tôi nghe những chuyện đại loại:
- Con còn nhớ cái Linh không, bạn học cùng con thời cấp III đấy, con nó vậy mà đã 10 tuổi rồi, thằng Hiền con bà Bổi ở thôn Hạ, đi bộ đội về lấy vợ, vợ nó vừa sinh con trai. Hoặc, cái Yến, con bà Lanh ở xóm Phố, đi học đại học ở Hà Nội sau con hai năm, tốt nghiệp ra trường, hôm vừa rồi, đám cưới tổ chức linh đình lắm, cả làng ai cũng khen...
Một tuần trôi vùn vụt, từ biệt mẹ tôi lên đường.
Niềm háo hức khám phá miền đất lạ qua đi nhanh chóng sau những tuần đầu đặt chân đến xứ người. Một vùng đất mà trước đây tôi chỉ được biết qua sách báo hoặc màn ảnh nhỏ. Thay vào đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ mẹ. Nhớ những buổi chiều mùa thu nắng vàng xuộm tưới ướt rượt những ngọn cây cổ thụ, nhớ những buổi chiều tan tầm thả xe chạy dọc đường Cổ Ngư mà danh tiếng đã đi vào câu hát. Tôi nhớ bóng áo dài trắng thấp thoáng của những thiếu nữ vừa tan trường... Ôi nhớ và nhớ! Tôi chẳng còn cách nào khác là lao vào công việc. Lấy công việc để xua đuổi nỗi nhớ. Và tôi sợ... Sợ khi tan sở phải về căn hộ thênh thang do công ty trả tiền thuê hàng tháng. Để tránh rảnh rỗi và hoài niệm quê hương có dịp trỗi dậy, tôi lao vào đọc sách và củng cố ngoại ngữ. Dần dần tôi quen với công việc. Thấm thoắt một năm trôi qua, tôi về nước. Ngay chính bản thân tôi cũng không ngờ kết quả một năm làm việc của tôi được Tổng giám đốc đánh giá rất cao, ông muốn tôi quay lại tiếp tục phụ tá cho Paul Lee.
Kể sao cho hết niềm vui khi hai mẹ con gặp lại nhau. Tôi kể cho mẹ nghe tất cả, cả nỗi nhớ mẹ đến công việc của tôi được Tổng giám đốc đánh giá cao. Mẹ mừng lắm nhưng mắt lại óng ánh những giọt lệ. Tôi hỏi làm sao mẹ khóc, mẹ bảo: “... Ấy là tại mẹ vui quá, khi thấy con gái mẹ trưởng thành rõ rệt, bõ công ngày xưa mẹ chắt bóp dành dụm để nuôi con ăn học...”. Khi tôi thổ lộ với mẹ ý định của Tổng giám đốc, mẹ buồn hẳn, lần này mẹ nói thẳng:
- Mẹ không muốn con đi đâu hết, con gái lớn phải lấy chồng sinh con mới là lẽ tự nhiên! Con giờ đã ngoài ba mươi rồi, phải ở nhà lấy chồng, đẻ cho mẹ vài đứa cháu ngoại rồi đi đâu hẵng đi.
Tôi hứa với mẹ sẽ để tâm đến chuyện này, song không thể ngay lập tức. Rồi công việc vẫn là công việc. Tôi lên máy bay, để lại phía sau bóng mẹ già lầm lũi, tóc đã bạc rất nhiều. Lúc chia tay mẹ ở nhà chờ, tôi mới chợt nhận thấy sao mẹ già nhanh đến vậy. Mẹ vẫn cười nói cho tôi vui lòng, nhưng tôi chắc chắn là trong lòng mẹ đang buồn lắm, mấy bận tôi nhận thấy mẹ len lén quay đi, kéo vạt áo chấm nước mắt. Mẹ đã bằng lòng cho tôi đi, nhưng với điều kiện phải về Hà Nội làm việc mỗi khi mùa đông về. Vì theo mẹ mùa đông bên ấy, tuyết rơi trắng xoá, thân gái đơn côi, cộng thêm căn bệnh viêm tiểu phế quản từ nhỏ, mỗi khi trái nắng trở trời con hay bị khụt khịt, thì chịu sao thấu. Do vậy, được sự nhất chí của Tổng giám đốc, tôi lại về Hà Nội mỗi khi mùa đông tới.
Thế rồi Paul Lee bỗng nhiên đổ bệnh. Hiểm nghèo. Ông từ chức về nước chữa bệnh. Tôi không thuộc dạng “té nước theo mưa”, lấy bất hạnh của người khác làm cơ hội cho mình, nhưng Tổng giám đốc đã đề bạt tôi làm trưởng chi nhánh đại diện, thay Paul Lee. Bởi theo ông, không ai có thể hiểu đối tác bản xứ và xử lý công việc tại quốc gia này hiệu quả hơn tôi.
Cho đến mùa hè năm ấy - một mùa hè nghiệt ngã nhất đời tôi.
Tôi đang thảo kế hoạch làm việc với đối tác, chuẩn bị cho buổi ký một hợp đồng lớn. Cô thư ký người bản xứ chạy như tên bắn vào phòng tôi, quên cả gõ cửa, nói rằng có điện thoại từ Việt Nam sang mà không phải người của công ty. Rằng người ấy không nói tiếng Anh,  tiếng Pháp, chỉ gào lên trong máy tên của tôi. Bỗng nhiên tôi linh cảm có chuyện không lành với mẹ. Không đợi cô thư ký nối máy, tôi chạy bổ tới điện thoại bàn cô. Tôi nhận ngay ra giọng anh Tiến, hàng xóm của mẹ con tôi, anh báo mẹ tôi ốm nặng, tôi nên thu xếp về ngay. Tôi chỉ kịp nói “vâng” rồi ngã khuỵu xuống. Trời đất như quay cuồng đảo lộn trước mắt tôi, trong giây lát tôi cảm thấy như có cả hàng trăm hàng ngàn tấn sỏi đá xối ào ào vào tôi. Rồi bỗng dưng, cả không gian dường như im ắng, một sự im ắng chết chóc, một sự im ắng trước cơn bão dữ dội, một sự im ắng của thời kỳ tạm ngưng chiến giữa một trận đấu giáp lá cà thảm khốc. Cuộc đấu giữa một nữ doanh nhân rắn rỏi can trường và một cô bé yếu đuối trước mặt mẹ hiền của mình! Tôi bỗng cảm thấy bảng lảng, tôi như bị tan rữa thành từng mảnh vụn, bay loảng đi...
Tình trạng của tôi hẳn khiếp đảm, cô thư kí nhạy cảm mang tới cho tôi một cốc nước lạnh, rồi lại chăm chú nhìn tôi. Tôi không còn nhớ thời gian đã trôi như thế nào, và tôi ở trong tình trạng như vậy bao nhiêu lâu. Khi tôi trở về với thực tại thì thành phố đã lên đèn, cô thư ký vẫn ngồi bên bàn làm việc như muốn canh chừng tôi, vì lẽ chưa bao giờ cô thấy tôi trong tình trạng như vậy. Tôi cảm thấy bối rối vì do tôi mà giờ này cô vẫn còn ở đây, tôi muốn nói một câu gì đó tựa như một lời xin lỗi, nhưng miệng tôi khô khốc, đắng ngắt. Tôi chỉ có thể nói mà lại như ra lệnh: “Mẹ tôi ốm nặng, tôi muốn có vé máy bay về Hà Nội càng sớm càng tốt. Việc còn lại, cô thu xếp với đối tác, đề nghị họ hoãn ngày ký hợp đồng...”. “Vâng” - cô trả lời như một cái máy rồi quay sang máy vi tính, lần tìm địa chỉ các hãng máy bay.
Tôi đứng lên, vớ áo vét, xách cặp ra về dưới ánh mắt lo lắng của cô thư ký. Tôi run rẩy đi trong dòng người ngược xuôi hối hả. Tôi quan sát họ: kẻ mặt mũi đăm chiêu toan tính, kẻ mặt tươi như hoa, rạng rỡ dáng chừng vừa trúng sổ số cào, hoặc vừa được nghe công bố lên lương, còn một số khác thì vội vã, rảo bước chắc muốn về nhanh với tổ ấm gia đình.... Nhìn bước đi, cách ăn mặc của từng người, tôi có thể đoán ra nghề nghiệp của họ. Bỗng dưng một cảm giác lạnh lẽo, tê tái khiến tôi rùng mình. Tôi bước nhanh, tìm một quán cà phê gần nhất bên đường. Chưa bao giờ tôi thấy cô đơn và buồn tủi như lúc này. Tôi thật côi cút giữa xứ người xa lạ, nước mắt cứ thay nhau chảy thành dòng dồn dập trên má tôi. Tự nhiên, hơn bao giờ hết tôi cần sự đông người, cần hơi ấm của đồng loại bao quanh tôi!
Sự cần mẫn của cô thư ký đã có kết quả. Trưa hôm sau tôi đã có vé máy bay về nước.
Trong máy bay tôi thầm cầu nguyện cho mẹ tai qua nạn khỏi. Chưa bao giờ tôi lại cần sự giúp đỡ của Trời Phật như lúc này. Máy bay cần mẫn thực thi cuộc hành trình dài của nó. Mọi người xung quanh tôi náo nức. Đây đó vài đoàn khách sang Việt Nam du lịch. Họ nói với nhau về chương trình, về những nơi họ sẽ đến thăm. Những người đã từng đến Việt Nam hào hứng kể say sưa về danh lam thắng cảnh. Cạnh tôi cũng có một cặp Việt Kiều về nước để ăn cưới cô em út của người đàn ông. Họ ôn lại những kỷ niệm ngày cưới, tuần trăng mật nên thơ dịu ngọt của tình yêu chín muồi... Các cô tiếp viên hàng không đi lại, hỏi chào vui vẻ, phục vụ hành khách chu đáo... Tất cả đều trượt lượt qua tai, qua mắt tôi, tôi chẳng còn nghe thấy gì và hiểu gì hết. Trước mắt tôi luôn hiển hiện hình ảnh mẹ quanh năm lam lũ nắng cũng như mưa, vất vả để tôi được như bây giờ. “Mẹ ơi”, - tôi thầm nấc lên, và kiểm lại tất cả mọi hành vi, cách ứng xử, xem có làm điều gì phật lòng mẹ không! Không vừa ý mẹ ư? Chắc có nhiều lắm! Ngôi biệt thự xinh xắn gần Hồ Tây. Mùa hè gió thổi bốn phía, mùa đông tôi đã cho lắp máy sưởi trong mọi phòng, nhưng mẹ ra ở một vài ngày rồi lại về. Bao nhiêu quần áo đẹp tôi mua biếu, mẹ đều xếp gọn trong hòm chỉ có ngày lễ, tết, hội làng mới bỏ ra mặc. Cô tiếp viên mời đồ ăn, tôi lắc đầu nói không. Nhìn bầu trời qua cửa sổ nhỏ xíu gắn trên thành máy bay, tôi thấy những đám mây nhuộm đỏ của chiều hoàng hôn đang tắt dần, những tảng mây đặc xịt, tầng tầng lớp lớp chồng chất lên nhau. Tự nhiên tôi thấy ngạt thở, tôi thấy những đám mây bồng bềnh kia bỗng biến thành những núi đá lởm chởm tua tủa đâm thẳng lên bụng máy bay. Có lẽ bị kiệt sức do cả đêm không ngủ, tôi thiếp đi. Trong mơ tôi thấy mẹ, tươi cười đứng đón tôi ở cổng, vẫn chỗ cũ như trăm ngàn lần mẹ vẫn đứng. Nhưng lần này, mẹ không đỡ xe cho tôi như thường lệ mà quay đi, ánh mắt như hờn như trách. Tôi cố gắng gọi nhưng mẹ không quay lại. Bóng mẹ lẩn sau những tảng mây trắng. Những đám mây trắng biến thành những tảng đá ngăn cách mẹ con tôi. Tôi thét lên đạp lia lịa vào tảng đá. Bỗng mẹ lại hiện ra, đứng chênh vênh trên đám mây bồng bềnh và gọi tên tôi. Tôi vừa mừng vừa sợ, tíu tít gọi mẹ, chạy theo mẹ... Rồi tôi như kẻ bước hụt, vùn vụt lao xuống như lao vào một lỗ sâu không đáy. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nước mắt đầm đìa, mồ hôi hột chảy ròng ròng trên trán, trước mặt tôi là một cô tiếp viên. Thấy tôi mở mắt, cô hỏi:
- Chị không sao chứ, chị nói mơ nhiều quá, nên em lay chị dậy. Vả lại, máy bay dừng tiếp nhiên liệu, chị có muốn xuống đi dạo một chút không? - cô bối rối giải thích khi thấy tôi thất thần nhìn cô đăm đăm. Tôi trả lời rằng mọi sự đều ổn, và tôi muốn ở lại máy bay, và nếu có thể làm ơn cho xin một cốc nước lạnh.
Về tới Hà Nội, xe cơ quan đón tại sân bay. Tôi bảo cậu lái xe chạy thẳng về quê. Xe chạy vù vù mà tôi vẫn có cảm giác như rùa bò. Lúa hai bên đường xanh ngắt, nền trời thăm thẳm không một gợn mây. Như mọi lần thì tôi đã vứt bỏ cái đầu óc tính toán của nữ doanh nhân để trở về với vẻ lãng mạn của tâm hồn nghệ sĩ. Buổi sớm cuối hè chớm thu, đâu  đó lác đác có người đội nón trắng đi thăm đồng, từng đàn cò sải cặp cánh dài chập chờn trên làn sóng xanh... Lúc này, với tôi, tất cả đều vô nghĩa! Mẹ của tôi hiện giờ ra sao rồi? “Mẹ ơi, con gái mẹ đang trên đường về thăm mẹ đây, cầu cho mẹ đừng có mệnh hệ gì, mẹ nhé!”...
Xe tới đầu làng, tôi cuống cuồng mở cửa xe chạy ngay. Cậu lái xe loay hoay tìm nơi đậu xe rồi cũng lao vụt theo. Dọc đường làng, tôi gặp rất nhiều người, nhưng không ai vui vẻ, cười nói với tôi như thường lệ, mà chỉ nhìn tôi với cặp mắt đầy ái ngại cảm thông. Đám trẻ không ùa ra như mọi lần khi chúng thấy tôi, mà chỉ nhìn rồi rì rầm bàn tán. Linh cảm báo cho tôi biết có chuyện chẳng lành. Thấy mọi người ra vào tấp nập trong nhà tôi, tôi chỉ kịp gào lên gọi mẹ rồi ngã quỵ xuống. Anh Tiến, chị Hường, bác Cả, bà Tình, bác Kính... những người hàng xóm thân thiết dìu tôi vào nhà. Qua hàng nước mắt lã chã, tôi thấy mẹ nằm đó, trên giường. Im lìm. Bất động. “Mẹ ơi, chẳng lẽ mẹ đã bỏ con mà ra đi thật rồi sao, mẹ ơi!” Tôi không thể tin, tôi không thể chấp nhận sự thật nghiệt ngã đau đớn nhường này!
Mẹ tôi nằm đó, hai tay ấp trên ngực, mắt nhắm nghiền, khuôn mặt bình thản như người nằm ngủ.
Sau tang gia, anh Tiến gọi tôi sang nhà kể hết sự tình về chuyến ra đi của mẹ. Cũng bình thường và giản dị như cuộc đời mẹ vậy. Rằng hôm đó, như thường lệ, mẹ đội nón ra đồng Thượng thăm thửa ruộng mà cứ hễ nước vào nhiều là bị úng, nên luôn phải canh chừng cửa khâu, tàu tát mà bà con ai đó ở thửa cao, tháo nước vào mà không để ý. Mẹ đi xem khu lúa ấy có bị ngập không. Về nhà mẹ khoe là lúa đã đứng cái, chuẩn bị vào đòng. Mẹ vừa trò chuyện với anh qua bức tường nhỏ ngăn cách hai gia đình vừa quét những chiếc lá rụng xuống từ hai cây bưởi trước cổng:
“- Hai cây bưởi năm nay sai quá, không biết cô Thương có kịp về mà ăn không! Vậy là chúng đã được gần 40 năm rồi! Tôi còn nhớ dạo tôi sắp sinh em nó, ông nhà tôi mang ở đâu về hai cây bưởi này, nói là để sau này, mắc võng cho con bé chơi, vừa có bóng mát, vừa có hương thơm...” Rồi bỗng nhiên anh thấy tiếng bà im bặt, tưởng bà đang mải làm gì, 5 phút sau đi ra giếng nước, anh chợt thấy bà một tay ôm cây bưởi, một tay ôm ngực thở hổn hển. Anh vội dìu bà vào nhà, xoa dầu, đánh cảm... Định gọi xe đưa bà đi viện, nhưng bà ngăn lại:
- Vô ích thôi! Đến giờ tôi đi gặp ông nhà tôi rồi, tôi muốn được ở lại trong ngôi nhà của mình. Anh chị làm ơn thay cho tôi bộ quần áo màu cánh chả - bộ quần áo cưới do ông nhà tôi may tặng ngày xưa, chít cho tôi chiếc khăn nhung đen và khoác ngoài chiếc áo vét màu hoàng yến. Khi nào em Thương về, các anh chị nói hộ là mọi thứ tôi để trong hòm kia, và đây là chìa khoá. - Bà lần trong cạp quần, chiếc chìa khoá được cài kỹ bằng chiếc kim băng.
Cùng với sự giúp đỡ của mấy người hàng xóm thân cận, anh chị thay quần áo cho mẹ. Chỉ trên dưới chục tiếng đồng hồ, sau lúc anh nhìn thấy mẹ ôm gốc bưởi, mẹ ra đi. Thanh thản, nhẹ nhàng, chẳng hề rên la đau đớn. Sự ra đi của mẹ tựa như một chuyến viễn du!
Cầm chiếc chìa khoá trong tay, tôi nghẹn ngào cảm ơn tất cả mọi người đã kề cận cạnh mẹ tôi trong giờ phút cuối đời. Tôi lại nghĩ về mẹ: suốt cuộc đời, mẹ đã dành hết tình yêu cho bố con tôi. Ngay cả trước lúc lâm chung, mẹ vẫn nói về chồng về con. Bộ quần áo mẹ mặc để ra đi cũng mang sự hiện diện của bố con tôi. Chiếc khăn nhung đen tôi mua tặng mẹ, khi nhận phần thưởng dành cho sinh viên xuất sắc năm thứ nhất, chiếc áo vét màu hoàng yến do tôi mua trong lần đi công tác đầu tiên ở nước ngoài.
Run run mở chiếc hòm gỗ mộc, tôi tìm thấy những bộ quần áo gấp thẳng nếp do tôi mua tặng, nhiều mét vải hoa rực rỡ mà ngày nào mẹ bảo rằng đó sẽ là quà cưới khi tôi lấy chồng để may riđô hay vỏ chăn. Những chiếc tã lót xinh xắn, trắng tinh mà mẹ vẫn giữ từ thời tôi để sau này cho các con tôi, cả những chiếc tất tay, tất chân nhỏ xíu, chiếc mũ len chỉ nhỉnh hơn hai bàn tay khum lại.... Và dưới cùng là một chiếc hộp nhỏ trạm trổ, một lá thư gập bốn để cạnh. Tôi mở ra đọc, chỉ vẻn vẹn mấy chữ: “Quà cưới cho con gái”. Trong hộp là các đồ trang sức bằng vàng 24k: một đôi hoa tai, một chiếc dây chuyền, một chiếc lắc đeo tay và hai chiếc nhẫn. Ngoài chiếc lắc tay, số còn lại, tôi biết đó là đồ trang sức của bố đã tặng mẹ. Trong những năm tháng mất mùa nghèo đói, tôi ngỡ mẹ đã bán đi, vậy mà... Mẹ ơi, cả đời tần tảo, chắt bóp để để lại cho con. Tôi biết để có được chiếc lắc tay năm chỉ vàng này, không biết bao lần mẹ đã đi mót từng bông thóc còn sót lại trên cánh đồng sau mùa gặt, mò từng con cua, con cá để bán. Mẹ đâu biết rằng mỗi lần ký một bản hợp đồng trị giá hàng triệu đô la, tôi lại được hưởng phần trăm hoa hồng... Tôi thầm nguyền rủa mình đã quá ích kỷ, chỉ nghĩ tới bản thân mình, tôi chưa làm được một điều gì để báo hiếu cho mẹ! Ngay cả niềm vui được làm bà ngoại tôi cũng không thể đem đến. Nhìn những món đồ bé bé, xinh xinh mà mẹ tôi âu yếm giữ gìn từ bấy lâu nay, tôi hiểu mẹ đã ao ước có cháu ngoại đến nhường nào. Cho đến lúc này, nhìn hình bóng mẹ qua làn khói hương, tôi mới sâu xa thẩm thấu một điều tưởng như đơn giản, mà tôi đã phải trả giá quá đắt để hiểu. Rằng tiền bạc có thể kiếm được bằng nhiều cách, từ kiểu âm thầm như chú kiến nhỏ nhoi tha lâu đầy tổ, như mẹ hiền tần tảo sớm chiều... Cũng có những kẻ kiếm tiền bằng đâm thuê chém mướn, trộm cắp. Rồi có những kẻ kiếm tiền bằng trí thông minh, nắm bắt rõ thương trường, hoặc qua những bản hợp đồng với số tiền phần trăm hoả hồng kếch sù... Còn tình mẹ, chỉ có một mà thôi. Giờ đây mẹ đã vào cõi vĩnh hằng, tôi biết tìm đâu được hình bóng mẹ trong cái thế giới đông đặc người nhưng hết sức hoang vu này.
Cúng năm mươi ngày cho mẹ xong, tôi uỷ thác mọi chuyện hương khói cho anh Tiến mà lúc này tôi coi như anh cả. Tôi lại ra đi để tiếp tục con đường của mình bằng cách tự biện bạch, vì mẹ đã từng nói “... dù sao cũng phải đi cho hết con đường mình đã chọn, cho dù con đường ấy chông gai và mưa gió nhọc nhằn! ”
Hôm nay, ngày tết. Nếu là xưa kia thì mẹ con tôi đang vui vầy bên nhau. Buổi sáng mùng một lành lạnh, hai mẹ con sắp lễ, tôi đội mâm ra đình và khu miếu cổ để mẹ lễ thần Thành hoàng. Tôi nhớ con đường làng tĩnh lặng, sương còn đậu long lanh trên các cành cây, thi thoảng chúng tôi cũng gặp vài gia đình đội mâm đi lễ như chúng tôi. Và buổi trưa, chúng tôi ngồi bên nhau trong mùi hương trầm thoang thoảng. Bà con lối xóm đến chúc mừng năm mới, người người vui vầy bên chén rượu đầu xuân... Còn lúc này, trên xứ người, ngoài kia tuyết đang rơi. Tôi cảm thấy lạnh, mặc dù trong phòng gắn máy sưởi. Tôi nghĩ tới mẹ đang nằm một mình trên cánh đồng hoang vắng, sương đêm liệu có làm ướt áo mẹ. Ngay cả lúc chết mà mẹ vẫn lẻ loi đơn chiếc, một mình lụi hụi trên con đường hun hút. Mẹ vẫn lo cho tôi bị lạnh, vẫn nhắc tôi mặc nhiều áo ấm khi đông về. Giờ đây ai lo cho mẹ, che cho mẹ mỗi khi gió táp mưa sa sập sùi trên cánh đồng ấy. Tôi muốn gào lên muốn thét lên để thức tỉnh một số người đang u mê như tôi đã từng u mê với những đồng tiền đầy cám dỗ, mà quên đi một chân lý: Ai cũng chỉ có một mẹ mà thôi. Mẹ lúc nào cũng bình thường giản dị, như chân lý vĩnh hằng. Chẳng ta thán than phiền, chẳng đòi hỏi, nhưng ta phải tự mà ngộ ra! Tôi nhận ra là mình đã có tất cả: Tiền bạc, địa vị... Tất cả ư, không đâu! Tôi đang thiếu một điều bình thường nhất, điều mà bất kỳ người đàn bà bình thường nào trên trần gian đều có được, nhưng với tôi hiện giờ lại thật xa vời...
Tôi đến bên cửa sổ, ngẩng nhìn trời cao và thầm cầu nguyện cho linh hồn mẹ được phiêu diêu. Trên cao ấy, mẹ cho dù có trách con gái đã không ở bên mình trong giây phút lâm chung, nhưng tôi tin rằng mẹ vẫn luôn dõi theo mỗi bước tôi đi và tự hào về tôi! Tôi chợt nghe thấy miệng mình lẩm bẩm: “Mẹ ơi, mùa đông này con không về!”.
Hiệu Constant
(Nguồn: Văn nghệ số 42/2014)