Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Nhạc - Thơ - Văn Theo nghiệp


 Nhân tháng cúng Tổ nghiệp nghệ sĩ, xin được gợi nhớ về quê ngoại cùng những giai điệu réo rắt của cải lương Bạc Liêu....và những kỷ niệm của thời hoa mộng không thể nào quên !! NM
Truyền thuyết về Tổ cải lương

Những hình ảnh về lịch sử của cải lương VN xưa 

50 Bài Tân Cổ Giao Duyên Tuyển Chọn


Nghiệp Tổ
Theo Tổ nghiệp sống cuộc đời ca hát,
Trao thế gian tiếng khóc, nụ cười vui...
Hò xự xang xê cống, khúc dâng đời,
Khi ta khóc, người cười tuôn giọt lệ !?

Bao nghịch cảnh, bao cảnh đời dâu bể,
Kiếp lầm than, oan trái cũng là đây....!!
Lúc anh hùng vị ngộ lắm chua cay,
Gương bất khuất kiên cường ta có đủ !

Trên sân khấu dọc ngang, tan sóng dữ,
Ngoài biển đời, thuyền nhỏ khó vượt qua...
Đi muôn phương đâu biết bến bờ nhà ?!
Nhưng vẫn nguyện suốt đời theo Tổ nghiệp !!
NM
 
Theo nghiệp
(Tặng anh em đồng nghiệp)
Sáng nay thằng Hoàng lại đi bán cái điện thoại NOKIA cũ rích của nó để lấy tiền uống cà phê. Cũng chẳng có gì tiếc! Vì máy không còn tiền sử dụng cách đây gần cả tháng rồi. Thậm chí nó còn thấy vui trong bụng vì đã lừa bán được với giá hời. Nó vào quán kêu một ly đen pha sẵn và nửa bao thuốc lá “con ngựa trắng”. Nhoẻn miệng cười tình với cô phục vụ bàn rồi điệu đàng hẩy nhẹ cái bao cho điếu thuốc tự động văng ra, đưa răng cắn một điếu, hơ nhẹ vào ngọn lửa xanh lơ vừa hiện lên từ cái zip-pô sờn bóng, một làn khói nhỏ bay lên thơm nức mũi. Bập môi rít một hơi thật dài rồi ngừng lại ép chặt khói thuốc vào phổi, từ miệng nó từng vòng tròn chữ o nối nhau bay ra lờ lững trôi rồi tan dần trong không khí. Tợp một ngụm cà phê, chờ cho cái vị đắng ngấm vào trong khoang miệng rồi mới từ từ để trôi xuống cổ, thằng Hoàng ngửa người ra ghế lim dim mắt khoan khoái. Uống chừng gần hết ly cà phê bỗng dưng nó thấy đói bụng. Mà đói thật! Đến bây giờ nó mới nhớ ra là từ chiều hôm qua đến giờ nó chỉ có mỗi gói mì tôm vào bụng. Mùi “xíu quách” thơm phức bay ra từ cái nồi nghi ngút khói của bà hàng bún lôi bật thằng Hoàng ra khỏi ghế ngồi. Nó đứng dậy nhanh chóng trả tiền cà phê, hào phóng phất tay “boa” luôn số tiền lẻ thối lại, đi vội lại phía gánh bún để kịp làm cái công việc bù đắp phần thiếu hụt đang sôi réo lên ở bên trong bụng.
       Thằng Hoàng là diễn viên “kép mùi” hạng nhì của Đoàn Cải lương Hoa Mai. Gọi là đoàn cho oai chứ thực ra chỉ có độ hơn chục con người kiêm nhiệm tất tần tật các công việc kể cả đào, kép, chính, phụ. Tài sản của đoàn chủ yếu là do “ông bầu” mua sắm gồm vài chiếc loa, độ mươi cái đèn chiếu sáng , bộ phông màn cảnh trí, một cái sân khấu bằng gỗ tạp... Tất cả những thứ này đều có chung một điểm là cũ kĩ và te tua như chính bản thân “ông bầu”. Những thứ còn lại như trống đàn, phục trang, đạo cụ thì do từng cá nhân hoặc góp không hoặc cho thuê với mức...có bao nhiêu lấy bấy nhiêu, có khi không có đồng nào. Mười mấy con người với chừng ấy tài sản lặn lội ra Bắc vào Nam, suốt tháng quanh năm giong ruổi nơi đât khách quê người, dựa vào nhau sống chết với nghề. Hoàng là con “nhà nòi”. Ba mẹ nó là cặp đào kép nổi tiếng một thời của sân khấu cải lương miền Tây. Khi ba mẹ nó qua đời trong một vụ tai nạn giao thông, nó là đứa duy nhất trong gia đình còn đeo đuổi cái nghiệp hát ca. Ánh đèn sân khấu, mùi thơm ngây ngất của các loại kem phấn hóa trang, tiếng nỉ non trách móc của cây đàn Sến,  giọng ngọt ngào rủ rê của chiếc Ghi-ta phím lõm như những chất gây nghiện lôi kéo, quyến rũ nó đi theo cho đến tận bây giờ.
Đêm hôm qua Đoàn Hoa Mai lại ế chỏng vó. Mãi đến tận khuya cũng chỉ có lèo tèo vài ba chục người mà chủ yếu là mấy chị sồn sồn và dăm đứa trẻ con lít nhít chịu mua vé vào xem. Đám thanh niên trai trẻ thì chỉ đến để mượn điểm tập trung tán gẫu, hút thuốc lá, ăn quà vặt rồi ùn ùn kéo nhau ra về mặc cho thằng Khải-phụ trách quảng cáo của đoàn-khản giọng kèo nài trong tuyệt vọng. “Ông bầu” đứng giữa cổng khoanh tay nhìn bọn trẻ ăn quà, nụ cười chua chát càng làm dúm dó thêm cái khuôn mặt vốn đã nhăn nheo vì sương gió.         
            Thằng Hoàng đã ăn xong tô bún, không phải một mà là hai tô. Nó đang đứng vuốt vuốt cái bụng tròn căng vì bữa ăn bù thì thằng Khải từ đâu trờ tới, giọng ráo hoảnh:
- Anh Hoàng chạy về can dùm vợ chồng bà Hoa, hai người cãi lộn om sòm từ nãy giờ!
- Vậy hả?-Thằng Hoàng cũng hờ hững không kém-Mày đã ăn sáng chưa? Thím làm cho thằng Khải tô bún nha, rồi tính luôn tiền cho tui!
Hoàng rút từ trong túi quần ra một xấp tiền mười ngàn đồng, xỉa tay đếm lẹ mấy tờ huơ huơ  trước đôi mắt lé xẹ vì ngạc nhiên của bà hàng bún.
 -Chà chà! Mới nhận tiền “Việt kiều” hả? Cám ơn nha! Anh về can dùm ổng bã đi, không có ai ở đó hết.
Thằng Hoàng đi thủng thẳng về chỗ sân bãi diễn, tay nhứ nhứ cái tăm xỉa răng trên miệng. Nó đã quen với cái chuyện cãi lộn như cơm bữa của hai vợ chồng con Hoa. Hoa là đào chính của đoàn, bằng tuổi Hoàng, dân gốc miền Bắc nhưng ca cải lương thì chính người miền Nam cũng phải ganh tị. Chồng Hoa vốn là dân đi biển, mê giọng ca của vợ mà bỏ nghề để đi theo nghe hát, ngày thì khuân vác đồ đạc, đêm thì giữ con khi vợ lên sân khấu, người chơn chất thiệt thà nhưng hơi cộc tính. Thực ra thì hai đứa nó yêu thương nhau hết mực, nhưng phải cái tội khắc khẩu, từ chuyện nhỏ đến chuyện to, vợ chồng nó đều bắt mọi người trong đoàn có bịt tai cũng chẳng đặng.
- Ối giời đất ơi! Thế này thì có khổ cho tôi không! Người ta quí mến nghệ sĩ, mời đi uống nước một tí, có gì đâu mà ông ghen rồ ghen dại như vậy!
Công bằng mà nói thì cái giọng trời phú của con Hoa ngoài việc ca vọng cổ còn dùng để cãi nhau thì ít người sánh kịp. Ngược lại với tiếng lảnh lót của con Hoa, giọng thằng Hùng - chồng Hoa - thì khàn đặc vì thuốc lào và cuốc lủi:
- Nó mê mày chớ quí mến nghệ sĩ cái cóc khô gì. Đã thế thì xách gói đi theo luôn đi, để con đấy tao nuôi cho. Đồ cái thứ thối thây!
- Này! Ông ăn nói cho cẩn thận. Tôi làm gì mà
ông bảo là đồ thối thây?
- Vậy chớ tiền ở đâu mày có mà sáng nay mua đồ chơi cho thằng cu Dũng? Phải...cái thằng đó cho mày không?
Thằng Hùng đã nhừa nhựa cái say của người lên cơn tức nhưng cũng không dấu nổi vẻ bất lực trong giọng nói.
-Thì người ta thương con mình, tặng cho nó tí quà mà không nhận à? Ông có giỏi thì bỏ tiền ra mua cho con đi, đây cũng chả việc gì phải mang tiếng chịu lời.
- Mày có im đi không! Tao thì ...tao...
- Ông làm gì tôi nào?
Choang...! Con búp bê biết kéo đàn cò trên tay cu Dũng bay vèo vào tường rơi đánh xoảng xuống đất eo éo thêm vài tiếng rồi tắt tị, thằng cu Dũng lăn đùng ra giãy đành đạch như chính nó vừa bị quẳng vào tường.
- Tao biểu thôi đi! - “Ông Bầu” đột ngột xuất hiện, rẽ đám trẻ con đang vòng trong vòng ngoài chen lấn coi cãi lộn, bước hẳn vào bên trong  tấm ri-đô căng ngang làm giang sơn riêng biệt của hai vợ chồng Hoa, nói như rên: - Như thế này chưa đủ khổ sao mà tuị bay còn hành hạ nhau nữa?
Không gian bỗng chùng xuống lặng im, chỉ còn tiếng thút thít của mẹ con Hoa, cả đám trẻ con cũng thôi không xầm xì bàn tán.
Cái nhân vật thứ ba mà vợ chồng con Hoa đang nói đến là một tay Việt kiều mê cải lương có cái tên dài lòng thòng: Tony Trần Lê Ngọc Hải. Đã có lúc hắn bỏ tiền ra đưa cả đoàn về quê của hắn biểu diễn liền tù tì mấy buổi cho bà con làng xóm coi chơi. Tình thật thì cũng nhờ hắn mà đoàn có thêm vài xuất diễn hậu hĩnh. Nhưng khổ nỗi ngoài mê coi cải lương hắn lại còn mê luôn cả người. Hắn mê con Hoa. Một phần là lỗi ở “ông Bầu”. Lúc mới gặp nhau, thấy anh chàng Việt kiều có vẻ thích con Hoa, “ông bầu” giao luôn cho con Hoa cái nhiệm vụ là làm sao “câu” được một vài buổi biểu diễn. Nhiệm vụ chính đã hoàn thành, nhưng cái anh chàng Tony Trần Lê Ngọc Hải đó không biết là ngờ nghệch thật hay là giả vờ mà không nhận ra con Hoa là gái đã có chồng. Đoàn chuyển điểm diễn hôm trước là hôm sau đã thấy có mặt hắn ở đó, quần áo lượt là thẳng thớm, đầu tóc bóng loáng, người sực nức mùi dầu thơm. Hắn đến để mời mọi người đi uống cà phê và tất nhiên là phải có con Hoa. Ban đầu thì thằng Hùng cũng vì cái chuyện chung của Đoàn mà nó đành làm ngơ. Cứ thoáng thấy bóng anh chàng Việt kiều là lại lặng lẽ cõng thằng cu Dũng đi chơi chỗ khác. Nhưng riết rồi thì thằng Hùng không chịu được nữa, một lần nó xông thẳng vào quán nước chỉ mặt anh chàng Việt kiều quát “Con Hoa là vợ tao! Từ nay tao cấm mày không được rủ nó đi đâu. Còn không thì tao chém chết. Nhớ chưa!”. Tony Trần Lê Ngọc Hải mặt xanh như tàu lá, đầu gật gật như máy khâu, mồm lập bập hứa hẹn, rồi đứng lên chuồn thẳng. Bẵng đi một thời gian, hôm qua lại thấp thoáng cái đầu bóng mượt và bộ quần áo lượt là tắm dầu thơm.
- Tao có lỗi nhiều lắm! Cũng vì miếng cơm manh áo của đoàn mà tao vô tình làm chia rẽ tình cảm hai đứa bay. Tao thề từ nay có đói chết tao cũng không làm như vậy nữa.
“Ông bầu” mắt rân rấn nước, ngước nhìn trời như tìm kiếm sự đồng cảm.
- Em xin lỗi anh Hai! Tại em hồ đồ quá nên mới làm vậy. Anh Hai đừng buồn-thằng Hùng nãy giờ đứng im như tượng bỗng ra vẻ biết điều khẽ khàng cất giọng xin lỗi. Con Hoa lúc này cũng vén tấm ri - đô bước ra, mắt còn đỏ quạch nhưng miệng thì đã cười toe:
-Không có gì đâu anh Hai à! Ảnh ghen dữ vậy tức là ảnh còn yêu em. Đã có yêu thì phải có ghen, ghen yêu hai chữ đi liền với nhau mà. 
Không biết con Hoa lôi ở đâu ra mấy vần thơ “cóc” áp dụng vào lúc này khiến cho “ông bầu” dở cười dở mếu. Thằng Hoàng đang bồng cu Dũng đứng từ xa không nhịn được bùng cười phá lên, đám trẻ con không hiểu chuyện gì cũng dúi dụi vào nhau ngặt nghẽo.
Đã mười mấy hôm rồi, kể từ cái ngày mà Đoàn phải về tỉnh để “duyệt vở” và tổ chức giỗ tổ. Có bao nhiêu tiền dành dụm được, “ ông bầu” dốc hết ra thuê hẳn một chuyến xe vượt gần cả ngàn cây số để kịp về làm cái công đoạn”duyệt vở” mà kì thực là để gia hạn cái giấy phép biểu diễn. Và còn “hầm bà lằng” các khoản quà cáp chung chi cho bao nhiêu việc ơn nghĩa trước sau. Rồi  ngày giỗ tổ, ngày của những con người lấy xướng ca làm kế sinh nhai. Bên cạnh đức tin về tâm linh, họ còn tự cho mình cái quyền được quên đi chuyện cơm áo gạo tiền thường nhật để cùng bạn bè người thân vui chơi thỏa thích. Thôi thì rượu bia lênh láng, đàn hát thâu đêm, khóc cười với những chuyện vui buồn sướng khổ của sự đời. Hết tiền. Cả đoàn phải tạm thời lây lất qua ngày theo cái kiểu “gà què ăn quẩn”. Cái mà “ông bầu” cần nhất bây giờ là tiền để thuê một chuyến xe chuyên chở cả đoàn ngược ra Bắc, vùng nông thôn ngoài ấy vẫn còn coi cải lương là một món “hàng hiếm”, nhất lại là một đoàn miền Nam. Chuyện tưởng chừng như rất giản đơn nhưng lại là một bài toán khó.  Anh em trong đoàn ai cũng nghèo rớt mùng tơi thì lấy đâu mà cho “ông bầu” mượn tiền. Còn vay ngân hàng thì không có cái gì đáng giá để thế chấp, vả lại nếu có thì cũng chắc gì ngân hàng đã cho vay! Hơn một lần “ông bầu” đến cậy cục nhờ “Cơ quan chủ quản” giúp đỡ, nhưng rồi cũng chỉ nhận được đầy tai những lời khuyên bảo động viên.
- Anh Hai! Không biết anh “Minh kép” nhậu ở đâu mà “xỉn” quá trời? Ảnh đi hết nổi phải nhờ người ta dìu về. Em biểu ảnh vô Đoàn mà ảnh không chịu, cứ ngồi ở lì ở ngoài quán nước.
Như một kẻ chuyên đem những điều phiền phức cho người khác, thằng Khải lại từ đâu xuất hiện để thông báo thêm một cái tin chẳng vui vẻ gì.
“Minh kép” là tên thường gọi của anh Minh-“kép chính” của đoàn. Gọi như vậy để phân biệt với thằng “Minh hậu” người chuyên làm các công việc của hậu đài. Thời gian gần đây có nhiều chuyện buồn dồn dập đến với “Minh kép”. Hết chuyện vợ ở nhà gửi con cho bà nội để lên Sài Gòn làm tiếp thị bia, giờ đến lượt con bị bệnh phải nằm viện, nghe đâu phải nhờ vào “bếp ăn từ thiện”. “Minh kép” rất muốn về thăm con, nhưng trong lúc này để có tiền tàu xe đã là chuyện không tưởng nói gì đến cho con để thuốc thang chữa chạy. Đêm qua hát tuồng “Phạm Công - Cúc Hoa”, lúc gặp hai con “Nghi Xuân - Tấn Lực”, chàng “Phạm Công” cứ đứng giữa sân khấu mà khóc ồ ồ, mặc cho ông “Sáu đờn kìm” rao tới rao lui mấy câu đờn vào bản “Khốc Hoàng Thiên” mà chờ hoài không thấy “Minh kép” cất giọng. Cả đoàn ai nấy mắt cũng đỏ hoe.
- Chớ hôm qua nó đi nhậu với ai?-“Ông bầu” rè rè hỏi trống không.
- Hôm qua hát xong, ảnh không đi ngủ, rủ em ra ngoài chỗ cái giếng cạn, uống rượu với gói mì tôm, nhậu một hồi em buồn ngủ quá vô ngủ, còn ảnh ngồi nhậu tiếp một mình. Chắc tới sáng luôn đó!
Hoàng kể chuyện bằng cái giọng đều đều của người có lỗi.
-Đến nước này chắc tao phải giải tán đoàn quá. Thấy anh em khổ cực vầy tao chịu sao nổi. Thà để anh em về nhà làm thuê làm mướn gì đó kiếm sống qua ngày còn sướng hơn. Nhục thiệt! - “ông bầu” như đổ sụp xuống.
Cũng như mọi lần, “ông bầu” hay “xuống xề” mỗi khi gặp khó. Cứ tưởng sau đấy ai về nhà nấy thật, nhưng rồi không dễ để dứt áo ra đi. Cái nghiệp đàn ca là vậy, đã trót mang vào thân thì khó lòng giũ bỏ. Như vợ chồng ông “Sáu đờn kìm”, đã có lúc khăn gói về quê, quyết một lần giã từ cái nghề khốn khó. Ông thì về vá xe bơm lốp, bà thì mẹt bánh kẹo hàng quà cho đám trẻ con trong xóm, thu nhập cũng gọi là đủ sống qua ngày. Nhưng khổ nỗi từ lúc về quê hai ông bà lại sinh chứng biếng ăn mất ngủ, cái cảm giác vừa đánh mất cái gì đấy cứ đeo đẳng suốt ngày đêm. Có mỗi thằng con thì đã lập gia đình riêng, bên mâm cơm chiều ông bà ngồi đờ đẫn nhìn nhau trệu trạo lưng chén rồi dọn rửa. Đặt lưng xuống giường thì cái không khí nôn nao rộn ràng của những đêm sáng đèn gọi mời khán giả lại hiện về, tiếng nhạc tiếng đàn cứ văng vẳng bên tai. Chờ một lời nhắn của “ông bầu”, ông bà lại tức tốc gói gém hành lý quay trở lại Đoàn, chỉ mấy ngày sau, trông hai người tươi tắn như cá rô gặp nước.
Đêm nay, người xem kéo đến đông nghìn nghịt. Chen lấn, xô đẩy, cãi cọ tranh nhau chỗ ngồi. Nơi biểu diễn là một cái rạp có gắn máy lạnh chạy xè xè, ghế ngồi bằng nệm mút hẳn hoi chứ không phải là bãi cỏ chen lẫn phân bò như thường ngày. Sân khấu sạch bóng thơm tho như cái đi-văng của những gia đình giàu có chứ không gập gềnh bước thấp bước cao như sân khấu của “ông bầu”. Còn dàn âm thanh thì khỏi phải nói, chỉ cần “A-lô” một tiếng thì khán giả đã vỗ tay rào rào. Trên bức phông trắng tinh của sân khấu nổi bật dòng chữ “Chương trình gây quĩ giúp đỡ người nghèo”... Rồi tiếng ồn ào cũng lắng xuống, nhường chỗ cho giai điệu rộn ràng của bản “Lý ngựa ô” nổi lên khai tuồng cho vở diễn. Toán cướp “Phong Lai” xuất hiện trên sân khấu đang trêu chọc nàng “Kiều Nguyệt Nga” xinh đẹp, thằng Hoàng đầu đội “kim khôi”, tay cầm “siêu bạc” hùng dũng bước ra, chỉ một vài đường “cơ bản” đám cướp đã lặn mất tăm...vào bên trong cánh gà. Động lòng trước nhan sắc và tình cảnh của nàng “Kiều Nguyệt Nga”, thằng Hoàng cất giọng lên một câu vọng cổ ngọt xớt. Đang ngon trớn bỗng dưng “ông bầu” từ bên trong nhảy ra, chẳng biết trong vai gì mà cũng áo mão cân đai lùng nhùng. “Ông Bbu” không hát mà lại quát  :
- Này “Vương Tử Trực”! Ai biểu  ngươi cứu “Kiều Nguyệt Nga”
Chết cha! Sao mình lại làm vậy cà? Mình đóng “Vương Tử Trực” chớ đâu phải “Lục Vân Tiên”! Thằng Hoàng đang lúng túng không biết trả lời sao thì con Hoa “Kiều Nguyệt Nga” cất giọng thỏ thẻ :
- Bữa nay anh Hoàng đóng “Lục Vân Tiên” thay anh “Minh kép” mà anh Hai không biết sao?
- Chớ còn thằng “Minh kép” đâu?
- Ảnh về quê rồi!
- Tiền đâu nó đi?
- Tiền bán vé “Gây quĩ giúp đỡ người nghèo” hôm nay nè anh.
- Ai cho tụi bay lợi dụng cái việc “Gây quĩ giúp đỡ người nghèo” để lấy tiền của người ta vậy?
- Mình nghèo thiệt chứ lợi dụng gì đâu anh! - Thằng Hoàng chen ngang mẩu đối thoại của hai người bằng cái giọng buồn bã.
“Ông bầu” đang lần khân chưa biết nói tiếp cái gì thì bỗng nhiên anh chàng Việt kiều từ đâu hớt hải chạy vào, trên tay cầm một xấp tiền to quá khổ xòe ra như cái rẻ quạt:
- “Ông bầu” ơi! Ông lấy tiền này để thuê xe đưa Đoàn ra Bắc diễn nè. Nhưng ông phải nói thằng Hùng nó đừng dọa chém tôi nữa, tôi  chỉ thích coi cải lương thôi  chứ đâu có làm gì vợ nó...
Thằng Hùng như liền tiếp sau đó xuất hiện, trên tay lăm lăm cây kiếm...gỗ, mặt hầm hầm chẳng nói chẳng rằng bổ nhào vào người anh chàng Việt kiều Tony Trần Lê Ngọc Hải. Thằng Hoàng hốt hoảng nhào vào can ngăn.
Rầm! Sau cú đạp là cả cái giàn trống đổ ập vào người làm thằng Hoàng choàng tỉnh giấc. Khắp người nó mồ hôi vã ra như tắm. Vì cái nóng hầm hập của buổi trưa cũng có, mà vì câu chuyện vừa xảy ra trong mơ cũng có. Thằng Hoàng vừa lui cui xếp lại giàn trống vừa lục tìm lại tình tiết câu chuyện rồi cười buồn một mình.
            Chung quanh nó, mọi người trong Đoàn vẫn đang chìm sâu vào giấc ngủ. Họ đang sống trong một nửa kia của cuộc đời, kiếm tìm những hạnh phúc mơ hồ không có được khi thức. Bất chợt thằng Hoàng nhìn thấy trên khuôn mặt anh “Minh kép” hai giọt nước mắt còn đọng lại chưa khô!
Tấn Phát

Ca cổ: Người mang tâm sự 

Những ca khúc tân cổ giao duyên hay nhất về Miền Tây

Tâm sự buồn,
Đôi quang gánh trên vai em trĩu nặng,
Bởi vô tình em lỡ bước sang ngang....
Bỏ lại quê một khúc hát, cung đàn,
Xưa em ngỡ chẳng bao giờ lỗi nhịp !!

Trên đường đời khổ đau em bước tiếp,
Gánh nặng dần, hạnh phúc lại xa bay...
Tên của em mang khổ suốt kiếp nầy,
Anh có biết vật xưa em vẫn giữ ?!

Gương  anh tặng cho em thời thiếu nữ,
Âm thầm soi khi em nhớ đến anh....
Nước mắt rơi, những giọt mặn long lanh !
Chưa xoá được bóng hình người yêu cũ !! 
NM
 
 NGƯỜI MANG GÁNH KHỔ
Chiều nay gió heo may lai về, hơi nước chung quanh nhà đưa lên phả vào người làm chị gây gây lạnh, tư bề là sông rạch, vào mùa này nước có màu vàng đục, cây cầu khỉ bắc qua con lạch để vào nhà có vẻ yếu, mổi khi có ai đó muốn đi qua đi lại là phải dò dẫm từng bước và như chỉ chờ có vậy; nó lại nhún nhẩy đong đưa.
Chị vào nhà lấy cái gương soi rồi ra sau hè ngồi để nhìn mặt mình trong đó. Cái gương không biết nói nhưng nó biết phản chiếu lại từng nét trên khuôn mặt để người ta biết mình đẹp hay xấu. Mà chị đẹp thật; với một khuôn mặt hình trái soan, đôi lông mày lá liểu nằm trên hai con mắt bồ câu đen lay láy được che bởi hàng mi rậm dài cong vút, chỉ có cái miệng là không được đẹp cho lắm tuy rằng nó có màu hồng như thoa son; ấy là vì miệng chị hơi rộng và đôi môi hơi dày, nhưng đâu phải ai cũng có được một vẻ đẹp hoàn hảo kia chứ.
Tuần sau là chị đi lấy chồng, không biết cuộc đời làm vợ của chị nó sẽ ra sao? Sung sướng hạnh phúc hay đau buồn khổ cực? Thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu. Người mà chị sẽ lấy làm chồng không phải là người đang ở trong lòng chị, mà do cha má chị đồng ý gã và chị phải vâng theo, còn trong trái tim chị thì đang ấp ủ hình bóng của thầy giáo lớp năm trường làng. Nhớ mùa khai trường năm ngoái chị đến xin cho đứa em út vào học lớp một, thấy chị đứng lớ ngớ trước phòng hiệu trưỡng, chính thầy đã sốt sắng nhận nộp đơn dùm chị, khi về; hai người nhìn nhau, ánh mắt giao nhau như có một luồng điện mạnh chạy qua người họ; nóng bừng và run rẩy. Thấy cho biết mình tên Nam, chị đáp lễ chị tên là Ải. Thầy nói:
- Tên nghe sao mà khổ quá.
Đúng là chị có cái tên nghe khổ thật, về nhà chị hỏi cha:
- Tía ơi, sao tía đặt tên con là Aỉ? nghe cực quá, phải chi tía đặt con tên Ái thì hay quá chừng.
Cha chị cười:
- Ừ, thì lúc làm khai sanh cho con, tía ghi là Ái, nghĩa là thương yêu, ngờ đâu cái thầy thư ký già đánh máy sao mà cái dấu “sắc” ông chọt qua dấu “hỏi”, chừng sau này coi lại tía mới ngã ngữa người…thôi, lỡ rồi…
Chị lo lắng, đêm không ngủ được vì cái tên của mình, nếu thầy giáo không nói, có lẽ chị sẽ không nghỉ tới.
Mổi ngày đi chợ chị đều đi dọc theo bên hông trường, và thầy giáo thì luôn như một sự tình cờ nhưng lại là cố ý; đứng bên cạnh cữa sổ lớp học để ngó mông ra ngoài, mổi khi chị đi qua, cã hai đều “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”.
Anh tên Khoa - con trai trưỡng trong gia đình nhưng sắp xếp theo cách của người miền Nam là thứ hai nên thường gọi là Hai Khoa - đang ngồi so lại từng sợi dây của cây đàn phím lỏm, cây đàn này anh mua tận trên Sài Gòn nhân một chuyến đi chơi cùng bạn bè, anh rất mê vọng cổ, thuở mới lớn anh từng ao ước mình sẽ trở thành kép độc của một gánh hát cải lương nào đó, vì thế anh say mê tập tành đàn ca hát xướng, đến nổi xao lãng chuyện sách đèn chử nghĩa, học hoài mấy năm mà không qua nổi lớp chín, nhưng anh lại thuộc nằm lòng bài ca “tình anh bán chiếu” và thêm một số bài khác nữa, duy chỉ có “tình anh bán chiếu” là anh ca hay nhất, đầy truyền cãm với tất cả sự lắng đọng của tâm hồn mình, anh cũng rất thành thạo khi uốn éo mười ngón tay dạo chơi cùng với những nốt nhạc vọng cổ luyến láy ngân nga trên cây đàn phím lỏm, tự tay anh vừa đàn vừa hát. Với tài nghệ của mình Hai Khoa đã chinh phục và làm cho trái tim của các cô gái trong làng phải thổn thức, thế nhưng chị thì vẩn dững dưng.
Cha anh nhờ đến người mai mối, lần đầu tiên đi với cha qua gặp mặt cha má chị, anh mang theo cây đàn phím lõm, chuẩn bị một giọng ca cho thật mùi – đó là hai thế mạnh của anh – với hy vọng là sẽ làm ngọt tai vừa ý cha má chị, anh mong có được chị bằng cách đi đường vòng.
Nhà anh ở phía bên này chợ nhưng phải đi qua một cây cầu gổ, gọi là cầu Chợ Mới, nhà chị nằm phía bên kia đường dưới chân cầu Trà Bông, lại còn phải đi vô sâu trong đồng; quanh co theo con rạch, qua thêm chiếc cầu khỉ mõng manh trên gò đất nổi, chung quanh có chừng mười mấy nóc nhà.
Khi Hai Khoa so dây đàn và lảy mấy nốt dạo đầu, cha của chị gật gù có vẻ thích ý, rồi bên khay trà với bánh ngọt, anh cất tiếng ca, vẩn là bài “ruột” của mình: “tình anh bán chiếu”…thì anh đã hoàn toàn chinh phục được cảm tình của cha má chị. Cha chị sai làm một mâm đồ nhậu khá linh đình dọn ra để mời “anh sui tương lai”, có nghĩa là chuyện lấy chồng của chị đã được định đoạt xong xuôi.
Thầy giáo Nam phải đưa cha thầy đang bị bịnh nặng lên Sài Gòn chửa trị, nhưng cuối cùng ông vẩn phải ra đi để lại người con trai lớn và cô con gái út trong căn nhà nhỏ. Thầy Nam nhờ người nhắn chị ra ngã ba con rạch để thầy được gặp mặt và nói đôi câu. Thầy không ngờ chị sắp đi lấy chồng và chị cũng không ngờ cha thầy vừa mới qua đời, trên ve áo của thầy giáo có một mảnh vải tang đen. Đứng bên nhau mấy phút mà lòng đầy ngậm ngùi cay đắng, thầy trao cho chị một gói quà nhỏ và chỉ nói được rằng:
- Lúc anh đưa tía lên Sài Gòn trị bịnh, anh có mua mấy cái này để dành tặng cho Ải. Thôi thì cứ xem như đây là quà mừng cưới của anh.
Chị cầm gói quà mà nước mắt rưng rưng, nghẹn ngào không nói với anh được một câu.
Đó là một cái gương soi và chiếc lượt đồi mồi rất đẹp có khắc chử Pháp, chị không hiểu nghĩa của nó là gì, và chỉ đọc được như thế này:- so-u-ve-ni-erờ. Gương soi mặt và lượt chải tóc là hai thứ mà người con gái nào cũng cần phải có. Chị cất giử bên mình như vật bất ly thân…
…Và chiều hôm nay chị đem nó ra, kín đáo ngồi sau hiên vắng để soi mặt mình, chị đã nhìn thấy trong đó có đôi mắt đẹp, đen lay láy mang một nổi buồn sâu thăm thẳm, long lanh hai giọt nước trong veo chảy dài trên hai má.
Thầy giáo Nam không kịp gởi cho chị một lời hẹn thề đính ước vì thầy còn phải để tang cha đến ba năm trời. Cha má chị thì không muốn đứa con gái lớn ế chồng dù chị có nhan sắc, chị phải lấy chồng trước để cho năm đứa em gái còn có cơ hội nữa chứ.
Đám cưới của chị cũng bình thường như bao đám cưới ở miền quê, trước ngày cưới cha chị đã làm lại chiếc cầu khỉ cho cứng cáp chắc chắn để con gái không bị té ngã - khi đi qua cầu mà về nhà chồng.
Sáng sớm lúc trời vừa hừng đông bên nhà trai đi qua rước dâu, cũng không nhiều người cho lắm, vỏn vẹn ngồi vừa đủ một chiếc xe lam, thêm bốn mâm quả với những lể vật cần phải có. Chị mặc bộ áo dài trắng; tượng trưng cho sự trong trắng của người con gái, trên đầu đội chiếc khăn voan mõng phủ xuống che hờ khuôn mặt cô dâu, dấu chỉ cho sự vâng chịu phục tùng, chân chị đi đôi guốc mộc, còn anh cũng chỉnh tề trong bộ đồ tây với áo sơ mi, quần ka ki màu xám đậm, mang giày săng đan. Anh đeo cho chị một đôi bông tai vàng hột gáo, mang lên cổ chị một cây kiềng và đôi xuyến đeo tay cũng bằng vàng. Hai người làm lễ gia tiên, má chị khóc tiễn con về nhà chồng, chị sụt sùi khóc theo, lòng chị chơi vơi buồn, ngậm ngùi khi thấy thấp thoáng bóng thầy giáo đứng bên kia con đường đất nhỏ nhìn vào trong nhà chị - qua một cây cầu khỉ - đừng ai nghỉ rằng chị đã “ khóc như thiếu nữ vu qui nhật” vì chị khóc rất thật tình với tất cã nổi lòng mình.
Anh đi ra trước, chỉ cần vịn một tay vào thành cầu làm bằng cây tre dài, nhảy chân sáo vài bước là anh đã qua đến bên kia cầu, rồi anh đứng ngoài ngó mông vô trong chờ chị - người mà bây giờ đã là vợ của anh- Chị run run bước những bước chân ngắn theo sau lưng anh trên chiếc cầu khỉ chênh vênh, lòng mong mỏi anh quay lại đưa tay cho chị nắm để dìu chị bước qua cầu, nhưng anh thật vô tình.
Chị ngập ngừng quay đầu nhìn lại ngôi nhà nhỏ mà chân đi không đành, chiếc cầu khỉ nằm yên trong nắng sáng, má và các em chị nhìn theo cho tới khi chị đi khuất.
Chồng chị là con trai trưỡng, là anh của ba cô em gái. Nhà chồng có mấy mẩu ruộng trồng lúa, một ao cá, một đìa tôm, nói chung được xếp vào hàng khá giã. Có lẽ vì là con trai duy nhất trong gia đình nên anh được mọi người trong nhà dành cho nhiều thứ ưu tiên ngay từ lúc còn nhỏ, điều đó nó đã hình thành nên tính cách của anh; vừa độc tôn vừa độc đoán. Bây giờ thì anh đã là người đàn ông có vợ, sự độc tôn độc đoán trong anh đã biến anh thành một người đàn ông có tính gia trưỡng.
Đêm đầu tiên sau đám cưới, anh nói với chị trống không:
- Ngủ trước đi nghen, tui còn tiếp mấy người bạn.
Một đêm đàn ca tài tử cho đến khi gà gáy sáng, chị thức dậy dọn dẹp tàn tích mà anh đã tiếp bạn bè đêm tân hôn. Sau đó thì lo cơm sáng cho gia đình nhà chồng, rồi ra chợ bán lúa, rồi lo cơm trưa và giặc giũ cho cả nhà chồng, mấy cô em gái của anh thấy mình đã có chị dâu, như là nhà bỗng nhiên có một con ở nên dồn hết mọi công việc để chị làm lấy một mình, các cô trở thành quí tiểu thư đỏng đãnh. Anh dững dưng khi thấy chị phải ôm đồm hết mọi việc nhà và cho đó là điều tất nhiên.
Sáng nay cha chồng kêu anh chị vào và nói:
- Hai Khoa này, con đã có vợ rồi, không rong chơi đờn ca tài tử nữa mà phải lo làm ăn. Má bây mất lâu rồi, còn lại mình tía, mai này mấy đứa em gái của bây cũng phải lấy chồng rồi theo chồng, vợ thằng hai ráng sanh cho tía đứa cháu nội trai rồi tía giao hết gia tài điền sãn cho hai vợ chồng bây trông coi.
Anh cười:
- Một mình vợ con lo đủ rồi mà…tía.
Cha anh trợn mắt:
- Mày…không nên thân, tao nói rồi đó nghen, phải lo tập làm ăn, dẹp bớt mấy cái chuyện đờn ca tài tử lại cho vợ mày nó nhờ.
Thật tình là chị không biết anh có tập tành làm ăn như lời cha dặn hay không, vì có bao giờ anh bàn bạc chuyện gì với chị, còn chuyện dẹp bớt đờn ca tài tử thì chị thấy rỏ là không. Có những đêm anh đi tới sáng mới về, chị vò vỏ nằm chờ chồng, gối lạnh chăn đơn.
Lâu lắm rồi mà không được về thăm cha má và các em, chị nhớ lắm, về nhà chồng được năm tháng, đúng năm tháng chị làm con ở với trăm công nghìn việc. Chiều nay chị đánh bạo xin với cha chồng:
- Thưa tía, con đã làm xong mọi việc, tía cho phép con được về thăm cha má và các em con.
Ông gật đầu nói:
- Con kêu thằng Hai Khoa nó đưa con đi, đừng đi một mình về nhà.
Chị năn nỉ:
- Nhà Tía má con ở gần đây, con đi một mình cũng được tía à.
Ông nghiêm sắc mặt:
- Tía đã nói là kêu chồng con đưa con về thăm.
Chị ứa nước mắt, chị chỉ muốn đi về thăm nhà một mình vì chị rất cần được thổ lộ tâm tư của mình cho các em gái nghe, chị muốn được khóc thỏa thuê trên vai một đứa em nào đó của mình. Chị thôi không xin về thăm nhà nữa mặc dù lòng cứ mong ngóng nhớ nhung.
Tối nay Hai Khoa lại đưa mấy người bạn về nhà, họ hè hụi khiêng chiếc giường ở sau chái ra kê ngoài sân dưới gốc cây vú sữa. Đêm nay rằm nên trăng sáng vằng vặc, anh sai chị làm mấy món nhậu ngon ngon để anh và các bạn cùng nhau đàn ca tài tử cho vui. Trong nhóm bạn đờn ca tài tử của Hai Khoa có thêm một người tên là Cường, anh chàng này mới được anh Khoa nhận vào làm công, lo canh chừng mấy cái đáy trên sông, Cường xấu trai, ở đâu tận bên Tân Châu, anh ta biết chơi đàn kìm, tuần trước khi đến xin việc, anh ta được Hai Khoa nhận ngay nhờ cây đàn kìm xách theo chung với cái túi áo quần.
Chị lui cui nướng mấy con khô cá sặc rồi gọt vỏ trái xoài tượng, sau đó chị băm nhỏ thành từng sợi, chị xé con khô cá sặc ra rồi trộn đều với xoài, thêm vào một ít đường, nước mắm, vài trái ớt xắc nhuyển và một nắm rau răm hái trong vườn. Món nhậu này anh thích nhất. Chị vào trong nhà nằm ngã lưng ra giường nghỉ mệt. Thêm một người bạn ở xóm trên đến chơi, mang theo con cá lóc lớn chừng một ký đang quảy đuôi vùng vẩy, anh biểu chị nướng trui để cho chiếu nhậu thêm phần phong phú. Chị biết đêm nay anh sẽ đàn ca cho đến hừng đông.
Cá lóc nướng trui muốn cho ngon và chín đều thì phải nướng bằng rơm, thế là chị ra đằng sau nhà hốt một nắm rơm lớn, lum khum cúi người sát đất, phồng má thổi cho rơm cháy bùng, nước mắt chị trào ra ướt má làm mặt chị lem luốt, không biết chị đang khóc hay vì khói rơm bay vào mắt, có lẽ là cả hai. Chị lấy một que tre dài có đầu nhọn xỏ vào miệng con cá cho xuyên suốt ra sau đuôi rồi đưa nó lên ngọn lữa rơm mà nướng, con cá bị lữa đốt nóng, cố uốn mình nhưng bị thanh tre kềm chặt, nó đau đớn giẩy đuôi vài cái rồi rướn lên và cuối cùng là nằm im…chị trăn qua trở lại con cá như trăn trở nổi lòng mình, cuối cùng khi ngọn lữa tàn chị vùi con cá xuống đống tro rơm, ủ nóng một hồi lâu, độ chừng nó đã chín, chị chặt nữa tàu lá chuối rồi để nó nằm lên trên, lấy đủa gạt sạch bụi tro, chị đưa ra cho anh, kèm thêm một chén nước mắm chanh ớt
Lúc này anh đang say sưa thả hết tâm hồn mình để ca bài “tình anh bán chiếu”, còn các bạn anh thì đang lia lịa gắp mồi và uống rượu. Chị nghỉ thầm trong bụng “ cái đầu óc… ca hoài một bài mà không biết chán”. Mổi lần muốn được người ta khen ngợi anh đàn hay ca giỏi là anh lại hành tội chị khổ sở lo món nhậu để tiếp đãi bạn, đó cũng là một cách trao đổi: anh được lời khen tặng, bạn được mồi ngon và rượu cay, chỉ có mình chị là chịu phần thua thiệt mà thôi.
Những sợi dây đàn vang lên từng âm thanh với những cung bật khác nhau nhưng khi cùng hòa chung, nhập vào nhau thì tất cả đã tạo nên một giòng chảy trơn tru bên những nốt luyến láy, giọng ca của anh ngân nga lên xuống trong ánh trăng rằm đã lôi kéo nhiều người chung quanh bu đến xem khá đông, bây giờ thì “chiếu nhạc” phải dời xuống đất mới có đủ chổ để họ cùng ngồi xúm xít mà nghe ngón đàn của anh và các bạn thì thay nhau ca những bài vọng cổ, chị phải tất bật lo thêm món nhậu, mua thêm rượu.
Hai người tài tử với hai cây đàn; đàn kìm và cây guitar phím lõm đã kết hợp với nhau tạo thành những giòng nhạc lung linh huyền ảo dưới ánh trăng rằm, bên bầu rượu và mấy món nhậu.
Đêm còn dài khi trăng vẫn rất sáng, đang nằm treo lơ lững trên những ngọn tre, và chị thì chưa được phép đi ngủ, dù biết rằng ngày mai có rất nhiều việc phải làm.
Nữa năm rồi chị về làm vợ của anh, nữa năm nay chị chưa hề được nghe anh gọi một tiếng “em ơi” và xưng anh với chị, anh vẫn nói trống không. Sáng nay cha chồng hỏi:
- Vợ thằng Hai Khôi à, sao lâu quá mà tía không nghe con báo tin vui gì hết vậy?
Chị ngạc nhiên không hiểu ẩn ý của câu hỏi đó:
- Dạ, tía nói gì con không hiểu…
- À, là tía muốn hỏi bây đã có bầu chưa?
Chị ngập ngừng:
- Dạ, con chưa có gì hết tía à.
Ông hớp một ngụm trà, chắc lưỡi:
- Nói chồng bây cố làm sao nhanh nhanh lên cho tía có cháu đó nghen.
Chị lí nhí “dạ” thật nhỏ rồi đi ra sau bếp, gió từ ruộng phía sau nhà thổi vào mát rượi nhưng lòng chị thì nóng như lửa đốt. Chị cũng đang mong mình có thai, một đứa con vào lúc này là nguồn an ủi lớn của chị, nó có thể lấp đầy nổi cô đơn trong tâm hồn và xoa dịu nổi buồn trong lòng chị, nhưng…chuyện kín đáo bí mật riêng tư của vợ chống nào ai thấu hiểu, anh chưa bao giờ cho chị có được cái cảm xúc mà một người chồng cần phải đem lại cho vợ mình; với một lòng yêu thương và sự tôn trọng, anh thiếu hẳn hai thứ tình cảm đó. Chị tủi thân mổi khi có ai đó hỏi rằng “có bầu chưa?”.
Mùa mưa đến sớm hơn mọi năm, nước lũ trên sông Mêkong sắp sữa tràn về mang theo nhiều phù sa và các loại tôm cá, chị nhớ mổi năm đến mùa nước lũ tràn về, chị và các em có được một trò chơi đầy hấp dẩn mà chỉ những nhà miền thôn quê sông nước như nhà chị mới có mà thôi; đó là chỉ cần ngồi trên căn nhà sàn thả dây câu với lưỡi câu gắn chút mồi xuống nước là thế nào cũng giựt lên được một con cá lóc hay cá rô, ngồi một buổi cũng kiếm được một mớ cá tươi, đem kho lạt với hành, tiêu, cho thêm trái ớt là có một món ăn ngon lành. Miền quê hương Nam bộ giàu có với đồng lúa bao la bát ngát, sông rạch chằng chịt chứa đầy đầy con tôm con cá vì vậy đã sản sinh ra những người…không cần làm lụng mà cũng có cái để ăn, có gì đâu; cứ đi giăng câu, đặt lờ là đủ…
Chị miên man suy nghỉ, lòng nhớ nhung về bên phía nhà mình, sau lần xin phép một mình về thăm nhà mà không được, chị không nhắc lại nữa, lúc này chị không còn được đi chợ, việc này cô em thứ tư của anh dành lấy, hình như sợ chị có ăn bớt ăn xén tiền chợ hay sao ấy. Nữ trang ngày cưới cô em thứ ba của chồng cũng “mượn khéo” rồi cố tình quên luôn, không trã lại, chị hiền lành không dám hỏi tới.
Túi không tiền, người không tình, lắm lúc chị không biết mình là gì trong gia đình này? chị cảm thấy cuộc đời mình sao mà buồn khổ cô đơn quá, phải chăng vì cái tên Ải của chị nó vận vào người chị? chợt nhớ lời thầy giáo Nam nói: “- Tên nghe sao mà khổ quá”…chị buồn muốn khóc.
Thật bất ngờ như một món quà dành cho chị. Sáng nay cha má chị đi ăn cưới của người bà con trong chợ, đã ghé vào thăm nhà chồng của chị, cha chồng có ở nhà, tay bắt mặt mừng và hỏi thăm nhau những lời xã giao thông thường. Chị bưng khay trà lên, thật tình lúc ấy chỉ muốn òa khóc, má chị nhìn con gái mà ngở ngàng, bà vờ ra ngoài sân nhìn lên cây xoài, khen có nhiều trái quá, chị ra theo, má chị quay qua nhìn con gái mà nghẹn ngào:
- Con ơi, sao con gầy ốm xanh xao quá vậy?. Con làm dâu cực lắm phải không? Chồng con có đánh đập hành hạ con không?...
Chị cười nhưng nước mắt sắp tràn xuống má:
- Chồng con không đánh đập gì con hết má à, cũng không có ai hành hạ con đâu, con chỉ buồn nhớ tía má với mấy em mà thôi.
Má chị vuốt mái tóc dài ngày xưa chị thường xõa trên vai, nay thì búi lại sau gáy:
- Sao con không xin phép tía chồng con mà về thăm nhà?
Lúc này thì chị khóc thật:
-Má ơi, con có xin mà không được, tía chồng con không cho về một mình mà phải có chồng con đi theo.
Má chị cười:
- Thì đúng rồi, gái đã có chồng thì ai cho về một mình.
Thì ra má không hiểu chị.
Trời mưa lai rai, bóng bóng nước bập bùng, mưa bong bóng không to nhưng lâu tạnh, cứ lâm thâm rỉ rà rỉ rã, những cơn mưa cuối mùa không mấy lớn. Sáng nay chị lấy cớ cần phải ra chợ mua tí đồ dùng riêng cho mình để được thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt trong nhà chồng. Không hiểu sao chỉ mới tới rìa chợ, vừa nhìn hàng thịt cá, mùi tanh của mấy thứ đó xộc vào mủi chị, chị bổng cảm thấy chóng mặt và buồn nôn, chị không sao đi tiếp được nữa đành quay về, lật đật vào trong chái bên hông nhà rồi nằm vật xuống, người mệt mỏi khó chịu và chị lơ mơ ngủ thiếp đi.
Buổi trưa anh về, ngạc nhiên khi thấy chị nằm dã dượi trên giường, vừa mới lay lay vai chị thì chị nhoài người ra ngoài nôn thốc nôn tháo. Anh kêu cô em thứ ba đang tán chuyện bên nhà hàng xóm về để nấu cháo cho chị, vừa lúc cha chồng cầm dù che mưa từ đâu không rỏ đang về tới, ông mùng rở:
- Không khéo vợ hai Khoa có bầu.
Đúng là chị có bầu, chỉ cần hửi mùi cơm sôi là chị ói ra mật xanh mật vàng, nói chi đến mùi cá thịt, triệu chứng hôi cơm tanh cá báo cho chị biết mình sắp được làm mẹ. Điều này thật hạnh phúc và kỳ diệu vô cùng, nó cuốn trôi đi tất cã mọi nổi niềm u sầu buồn tủi lẫn cô đơn đang chất chứa dày đặc trong tâm hồn chị.
Tuy chỉ mới cấn thai nhưng chị có cảm giác cục máu trong người chị hình như lớn lắm, hình như nó hiểu chị và hình như nó nghe được lời chị thủ thỉ với nó hằng đêm. Riêng với chị thì cả thế giới này đang nằm trong bụng chị, có nó; chị không còn những suy nghỉ lung tung. Anh Hai Khoa cũng chú ý đến vợ đôi chút tuy thế anh vẫn không bỏ những đêm vui chơi đờn ca tài tử, nhưng anh không thường xuyên bắt chị phải vô bếp làm món nhậu cho anh và các bạn, chị cảm động khi anh nói với họ:
- Vợ tui đang mang bầu nên mệt, mấy ông đến nhà tui để đờn ca tài tử thì mổi ông mang theo một thứ mồi, tui mua rượu…
Cha và chồng đều mong chị sanh con trai, nhìn bụng chị; hàng xóm ưa “ bắt mạch”:
- Chà, cái bụng nhọn nhọn là con trai rồi.
Cha chồng tuyên bố với mọi người trong niềm hứng khởi:
- Tui chờ con dâu sanh cho tôi đưa cháu nội trai là tui giao hết gia tài điền sãn cho vợ chồng nó.
Ông nói với anh:
- Tía đã nói với con rồi đó nghen, bớt đờn ca mà lo chí thú mần ăn, lớn đầu rồi, có con rồi mà cứ vui chơi miết, tía rầu mày quá…
Anh trã lời tưng tửng:
- Tía thấy con vợ con nó đảm đang quá chừng mà tía còn cằn nhằn con chi nữa.
Cô em thứ tư lườm chị một cái rất khó chịu. Chị không giận, thôi kệ, bề nào thì sau này cô ấy cũng lấy chồng, cũng phải theo chồng về làm dâu, “nữ sanh ngoại tộc” mà, có khó chịu, có nguýt ngắn nguýt dài với chị mấy đi nữa thì cũng là phận đàn bà con gái với nhau, nào đâu biết trước được rằng ai sướng hơn ai?.
Đứa con trong bụng chị ngày một lớn, vị thế của chị trong nhà ngày một cao, nghỉ cũng thật lạ kỳ khi một sinh linh rất yếu ớt bé nhỏ dù chưa cất tiếng chào đời nhưng lại có một quyền lực vô hình hết sức to lớn, nó còn mang đến cho chị niềm hạnh phúc không gì sánh bằng, bây giờ thì cuộc sống của chị có đầy đủ ý nghĩa với nhiều niềm vui.
Anh Hai Khoa cao hứng nói:
- Tui sẽ dạy cho thằng nhỏ biết đờn ca vọng cổ như tui.
Chị choáng váng, một “hai Khoa chồng” mê theo đờn ca tài tử như anh cũng đủ làm cho chị phiền nảo lắm rồi, bây giờ mà thêm một “hai Khoa con” cũng mê đắm như cha nó thì không biết chị sẽ phải phiền nảo tới đâu.
“ Con so về nhà má, con rạ về nhà chồng”.
Gần tới ngày sinh nở, má chị đã dọn sẵn chổ để đón chị về sau khi chị xuất viện, mọi thứ cần thiết đã được chị chuẩn bị sẵn từ trước, mấy hôm nay anh Hai Khoa ở nhà chờ đưa vợ đi sanh, anh cứ đi ra đi vào hình như rất bồn chồn nôn nóng, không biết vì chị sắp sanh hay vì anh nhớ bạn ca tài tử? Hoặc là anh đang mong thấy mặt đứa con trai của mình? Có lẽ lòng anh có đủ cả ba thứ tình cãm ấy.
Chị trỡ dạ vào buổi tối, những cơn đau xoắn như muốn bẻ gẩy thắt lưng dồn dập đến, chị gập người lại rên xiết rồi chị lại rướn người lên để thở, anh Hai Khoa cuống cuồng dìu chị ra xe lam để đến nhà bảo sanh, anh nhờ người qua nhắn với má chị, mồ hôi chị tuôn ra đầm đìa ít hoặc nhiều theo từng cơn đau, chị bấu vào người anh, chị ghịt anh xuống sát vào người mình rồi chị lại đẩy anh ra xa, sự đau đớn quằn quại của chị làm anh cũng toát mồ hôi hột, má chị đã đến, anh nhường lại cho bà phần khủng hoãng mà từ chạng vạng tối đến giờ anh phải gánh chịu, hai Khoa không có can đãm để nhìn vợ đau đớn lâu hơn, anh đứng lấp ló phía bên ngoài và chờ đợi.
Con trai hay con gái cũng là con, chị đều yêu quí như nhau vì nó chính là máu thịt của chị mà chị đã phải mang nặng chín tháng bốn ngày, là đứa con mà chị đã cắn nát môi chịu đựng những cơn đau đớn quằn quại khi banh da xẽ thịt mình để sinh nó ra. Chị ôm đứa con gái vào lòng, hôn thật dài, thật sâu vào tóc, vào trán của nó. Hai Khoa hơi buồn khi bà đở ra báo là chị sanh con gái, nhưng nhìn khuôn mặt đẹp như thiên thần của con bé, lòng anh cũng rưng rưng một cảm xúc mới mẽ, cái cảm xúc là anh thực sự đã làm cha, tuy nhiên anh cũng có phần nào tiếc rẻ.
Cha chồng chị thở dài, cứ ngở nó sẽ là đứa cháu nội trai đích tôn, ai ngờ lại là con gái, nhưng dù sao cũng là máu mủ của mình, ông cũng có đôi chút vui vui trong lòng: “mình đã làm ông nội rồi”.
Không cần biết cảm xúc của những ai mong chờ trong vui mừng nay thất vọng, chị vẫn sung sướng khi mình đã làm mẹ, đối với chị bây giờ thì đứa con là tất cả. Con so phải ở cữ đến ba tháng mười ngày, khoãng thời gian ở cử này sao mà sung sướng quá, chị được sống trong sự chăm sóc chu đáo của má và các em, chị không phải động tay động chân tới bất cứ việc gì, nhìn con lim dim mắt bú giòng sữa đang chảy xuống như giòng nước suối trong nguồn, lòng chị miên man một niềm hạnh phúc tràn trề cũng đang tuôn chảy. Chồng chị vẫn thường qua thăm vợ con, lúc nào qua thăm nhà vợ anh cũng ôm cây đàn phím lõm theo, cha chị rất vui, tiếp đãi anh con rễ một cách ân cần và say sưa nghe anh vừa đàn vừa ca mấy bài vọng cổ. Ông hài lòng lắm, nghỉ rằng mình đã đúng khi gã con gái cho anh chàng đàn giỏi ca hay này, bởi vì ông cũng là người thích “ngao du sơn thủy”, mọi việc nhà, việc ruộng đồng đã có vợ lo rồi…
Không phải chị mong sanh con trai để được cha chồng giao cho “gia tài điền sãn” như ông hứa, đối với chị, nếu sanh con trai, chị sẽ không phải cố sanh thêm nữa, nhưng bây giờ là con gái, chị sẽ phải làm sao cho có một đứa con trai để nối dõi tông đường. Đó là đòi hỏi của nhà chồng.
Sáng nay, sau khi ở cử đúng ba tháng mười ngày, hai Khoa sang đón chị về, cây cầu khỉ đong đưa lắc lẻo, chị một tay bồng con, một tay vịn thanh tre lan can cầu, chị run rẩy từng bước, dò dẫm từng bước thật chậm để qua phía bên kia, anh chỉ xách giõ đồ cho chị, cũng như ngày chị về nhà chồng, một mình dò dẫm đi trên chiếc cầu này, mong sao anh quay lại đưa tay ra dìu chị, bây giờ chị đã có con, không còn một mình nữa, nhưng sao vẫn thấy lòng gợn buồn, vừa qua khỏi chiếc cầu khỉ con bé khóc oe oe, chị thoát khỏi nổi buồn vừa mới nhen nhúm, cất tiếng ru:
“ Ầu ơ…ví dầu cầu ván đóng đinh…
“ Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi…”
Con bé ngũ ngay lập tức, không chờ chị ru tiếp hai câu cuối, nhưng mà cũng chưa cần phải ru hai câu cuối đâu, để dành mai sau khi nó lớn, chị sẽ ru.
Cha chồng chị nựng nịu đứa cháu nội gái rồi “phán” ngay một câu:
- Thôi thì sang năm ráng sanh một đứa con trai.
Đàn ông họ không mang nặng, không bị thai hành, không ốm nghé vật vờ vật vưỡng, không đau đớn khi sanh nên lúc nào họ cũng vô tư đòi hỏi, tuyên bố như ra lịnh. Phải chi ông trời cho họ một lần bị thai nghén, một lần phải sanh con, thử xem họ có còn đòi hỏi theo ý họ muốn hay không cho biết…
Con gái chị được ông nội đặt cho một cái tên rất hay: Ngọc Ngà.
Gần cuối năm, những ngọn gió đông thổi vào hiên nhà gây gây lạnh, chị phải chuẩn bị những thứ cần thiết theo ý cha chồng để còn đón tết, chị không hiểu nổi tại sao lại phải chuẩn bị sớm đến như vậy. Cô em thứ ba sắp lấy chồng, cô không phải theo về nhà chồng bởi vì chồng cô là anh Cường, người làm công cho nhà anh hai Khoa, và cô nhất định không ra ở riêng. Cô Ba xấu gái, hai con mắt bên to bên nhỏ; “lưỡng tử bất đồng tâm bất chánh”, có lẽ đúng thế vì cô này khắc nghiệt với chị nhất, thường ưa săm soi người chị dâu của mình từng chút một để mà đay nghiến xỉa xói, dĩ nhiên là cô ta chờ lúc cha và anh trai không có nhà thì mới có thái độ. Chị mong mỏi cô ấy đi lấy chồng để chị được thoát khỏi cô em chồng khắc khe hơn cả má chồng (nếu có), nhưng chị không ngờ…anh Hai Khoa lại khoái người em rễ này lắm vì anh ta biết đàn kìm, mổi lần phối hợp với anh để cùng nhau đàn ca vọng cổ thì “hay nhất làng” luôn.
Có con rồi nhưng hai Khoa vẫn không thay đổi gì mấy, chị buồn lắm, không lẽ cứ sống mãi theo kiểu này? không lẽ phải sanh cho được một đứa cháu nội trai để nhận “gia tài điền sản” thì anh mới lo làm? Nếu như chị cứ sanh con gái thì sao?
Bây giờ con gái chị đã biết đi lẩm chẫm, biết gọi cha, má, nội, cô, dì…thời gian này chị phải làm sao cho có bầu để sanh con. Nhưng đâu phải hể muốn là được.


Mâm trái cây cúng đêm giao thừa và dành cho mấy ngày tết thật phong phú, đẹp mắt với những loại trái: cầu (mãng cầu), dừa (vừa) sung (trái sung), đủ (đu đủ), xài (xoài). Nồi thịt kho nước dừa thêm chục cái hột vịt nổi váng mỡ vàng ươm. Chiều ba mươi phải gói bánh tét, bánh ú, mấy hủ củ kiệu ngâm dấm trắng tinh điểm thêm mấy trái ớt đỏ…mứt dừa, mức bí, mức gừng nằm trong hộp có nắp đậy bằng nhựa trong, hủ hột dưa màu đỏ nằm đợi chờ, hai cây mai trước cổng nhà đang lác đác nở vài bông hoa vàng rực rỡ.
Chị làm đúng bổn phận của một người con dâu khéo tay và đảm đang, anh hai Khoa mấy hôm trước đã làm vệ sinh sạch sẽ từ trong nhà ra đến ngoài sân, anh cũng vừa học thuộc thêm được một bài ca vọng cổ “chuyện tình Lan và Điệp”, ngày trước anh không mấy thích bài này nên không thèm học, nhưng mùa đông năm nay tự dưng anh nghe trong radio được bài này, sao mà lâm ly bi đát quá, thế là anh “dùi mài kinh sử” suốt một tuần đã thuộc làu làu, chắc chắn với giọng ca mùi của anh, khối người khen hay, chị nghỉ thầm trong bụng “ muốn khen ho hen không được”.
Sáng nay cha chồng kêu hai người ra nói chuyện, có vẻ rất cương quyết và trọng đại, ông đằng hắng cho thông cổ sau khi uống một ngụm nước trà:
- Vợ chồng thằng Hai à, ra giêng rồi, mấy bữa nay tía đã suy nghĩ lung lắm rồi, đến lúc tía phải cho vợ chồng bây ra riêng để tính chuyện mần ăn cho thành người, bây giờ hai đứa muốn mần ăn gì, cho tía biết…
Anh Hai Khoa tròn mắt ngạc nhiên, không biết phải trả lời như thế nào? Không biết mình muốn “mần ăn cái gì”?, nhưng với chị, đây là một dịp may, một cơ hội hiếm có, chị nói ngay cài điều mà chị ấp ủ trong lòng mình từ lâu lắm:
- Dạ…tía cho vợ chồng con được đi buôn…
Anh giật mình:
- Hả? Đi buôn? Buôn gì?
Chị từ tốn nói:
- Néu tía cho phép, vợ chồng con xin được đi buôn trên sông.
Anh hai Khoa chưa kịp phản ứng thì cha chồng tỏ ra hài lòng với ý định của chị:
- Vợ hai Khoa nói phải đó, thôi…tía tính vậy nè, tía sẽ sắm cho hai vợ chồng một cái ghe nhỏ, cho thêm một ít vốn liếng để đi buôn, có đi đây đi đó, có buôn bán với người ta thì mới giỏi được. Lần sau sinh con trai thì về với tía, tía giao hết ruộng nương cho vợ chồng con cai quản.
Anh hai Khoa lôi vợ ra sau hè, nơi có ao cá to của nhà anh, anh hậm hực nói:
- Tại sao ấy nói ngang mà không chịu bàn bạc với tui? Bộ… muốn cầm quyền hả? nói cho biết, tui không đi buôn đi bán, đi ghe đi cộ gì hết ráo…ấy có muốn thì tự mà đi.
Chị năn nỉ:
- Ông à, con mình nó biết đi rồi, tui tính gởi nhờ ngoại với mấy dì trông coi, đi buôn mau có tiền, phi thương bất phú mà ông, chẵng lẻ ở không miết vậy sao? Vợ chồng mình cũng cần có của nã riêng tư chớ.
- Vậy chớ đồ cưới đâu mà không có của nã?
Chị ngập ngừng:
- Cô ba nó mượn chưa trã.
Anh bực bội:
- Sao không đòi, phải đòi lại đó. Phải chi ấy sinh con trai thì tía giao hết gia tài điền sản cho tui rồi…cũng tại mình.
Chị ứa nước mắt, tại sao anh không chịu hiểu là không do chị mà do ý trời, chị cũng muốn sanh con trai lắm chớ, nhưng khi nói như thế, lòng chị quặn đau và thương đứa con gái của mình nhiều hơn, vì nó ra đời không như sự mong đợi của mọi người trong gia đình. Anh lại cau có hỏi thêm:
- Sao không xin tía cho một sạp hàng gì đó ở ngoài chợ mà buôn bán, lại đòi đi ghe?
- Quê mình sông nước chằng chịt, mênh mông, hai bên bờ cây trái nặng sà cành, mình đi buôn trái cây, cứ lênh đênh trên ghe, mua đằng gốc, bán đằng ngọn mau có lời, mà lại lời to. Ông chịu khó nghe tui.
Anh ấm ức:
- Tui nói thiệt…ấy làm khó cho tui, ấy cũng biết là tui có bạn bè đờn ca tài tử, phải đi ghe là phải xa họ…
Đó là điều mà chị mong muốn, vì muốn anh xa bạn đờn ca tài tử, vì muốn anh lo chí thú làm ăn nên chị đành chọn nghề buôn trên sông nước, lấy ghe làm nhà…nhưng chị lại không nghỉ ra một điều: anh là đàn ông, anh có niềm đam mê lớn, bức anh ra khỏi nó là giống như chị đã bức đi một phần thân thể anh mà quẳng xuống sông.
Với áp lực của cha, với sự năn nỉ của vợ, và những lần cải nhau, cuối cùng anh hai Khoa đồng ý với cuộc sống mới. Sau đám cưới của cô Ba, chị bồng bé Ngọc Ngà qua gởi má. Nước mắt của chị rơi ước đẩm mái tóc mềm như nhung của con gái, chị đưa con cho má, quay về với một trái tim bị chia đôi.
Trước ngày lên ghe, má chị đưa qua cho chị những đồ dùng mà người nội trợ nào cũng phải có, đó là son nồi chén bát đũa muỗng ly tách…chị hỏi cô em chồng về món nử trang mà cô ấy mượn, nhưng cô ta nói một cách ngang ngược đầy tử tế:
- Chị đi ghe mang theo làm gì, để tui giử dùm cho, chừng con Ngọc Ngà lớn thì tui đưa lại.
Cầm bằng là mất trắng món nữ trang ngày cưới.
Anh Hai Khoa vẫn là người đàn ông gia trưỡng, anh quyết định hết mọi việc mua bán trên sông, tiền bạc anh nắm giử, một điều chị không ngờ đến là với chiếc ghe buôn hàng trên sông nước, anh lại có nhiều bạn đờn ca tài tử mới, còn nhiều hơn lúc anh ở trong ruộng.
Đúng là sông nước mênh mông, ghe thuyền tấp nập. Mới sáng sớm mà đã xôn xao người mua kẻ bán, thứ gì cũng có. Con sông như một cánh đồng mênh mông nhưng có lắm người ở, ghe thuyền là nhà, là chợ, là quán xá, một cái chợ nổi thật vui mắt. Anh hai Khoa có dịp trổ tài giữa chốn đông người trên sông nước chứ không liu hiu như lúc ở nhà mình. anh vui lắm còn chị thì chịu khổ cực nhiều hơn.
Chiều chiều sau môỉ chuyến hàng mua đi và bán lại, anh cho ghe đậu vào một bến nước của khúc sông nào đó, dưới bóng hàng tre xanh mượt mà, anh lội xuống sông tắm rữa sạch sẽ xong rồi ôm cây đàn phím lỏm ra ngồi trước mủi ghe so dây và ca bài “tình anh bán chiếu”, một lúc sau trên ghe anh chật cứng, có mấy người phải qua ngồi bên ghe bạn mà nghe anh ca; chị lúi húi sau mủi ghe làm đồ nhậu để anh thết đãi bạn bè. Phải chi chị biết nhiều chữ nghĩa, chị sẽ làm một bài vọng cổ có tựa là “tình anh thầy giáo” và chỉ để một mình chị ca, vì chị rất buồn và nhớ, ai cấm được lòng người ta đừng nhớ nhung khi mà…“ái ân hờ hững của chồng tôi” kia chứ…
Chị có bầu, không như lần ốm nghén đứa con đầu còn được nghỉ ngơi đôi chút, bây giờ lênh đênh trên sông nước, anh không có em gái để sai nhờ nên chị phải ôm đồm hết, luôn cả việc làm đồ nhậu để anh tiếp bạn, chị cũng cáng đáng. Có những đêm khuya gió sông thổi lên lồng lộng, chị ngồi sau mủi ghe, lòng buồn rười rượi, không một chút xúc động khi anh vừa đàn vừa ca rất nảo nuột bài “chuyện tình Lan và Điệp”.
Càng ngày người ta càng được tiếp cận với nền văn minh kỷ thuật mới, các hàng quán cà phê từ ngoài đường cho tới trong chợ cũng cố mua và gắn một cái tivi để cho khách vừa xem vừa uống cà phê, một ly cà phê đá chỉ có bốn ngàn, lại được xem tivi thoải mái, nhất là những khi có bóng đá thì quán chật cứng. Đàn ca tài tử của anh Hai Khoa bị “ế”, anh rất buồn, nhất là khi giọng ca của anh không còn được truyền cảm như xưa.
Lần này chị sanh con trai. Cha chồng mừng, chồng mừng,chị mừng, ai cũng rất mừng…nhưng…không có chuyện cha chồng giao lại gia tài điền sãn cho hai vợ chồng anh hai Khoa như hồi đó ông từng nói, lý do là hồi đầu năm nay ông đã giá nghĩa với một bà góa ở xóm trên, bà này có hai đứa con riêng với chồng cũ, bà đã khăn gói quả mướp theo về làm vợ ông. Cha chồng chị lờ đi, không đề cập đến chuyện kêu anh chị về nữa.
Nếu phải sống lênh đênh trên sông nước mãi thì chị phải gởi đứa con trai nhỏ nhờ má trông coi như chị đã gởi bé Ngọc Ngà. Lần này chị không thể, không nở và không muốn rời xa hai đứa con của mình, chị bàn với anh bán chiếc ghe đi, lên Sài Gòn mua một căn nhà nhỏ để ở, anh hỏi:
- Tại sao phải lên tận Sài Gòn mua nhà? rồi làm gì để sống? Nhà Sài Gòn mắc lắm đó.
- Tui nghỉ kỷ rồi, Sài Gòn là đất văn minh, sau này con mình lớn lên nó cũng được văn minh. Mấy lần mình đưa hàng lên đó bán, tui thấy người Sài Gòn đẹp quá…
Anh lườm chị một cái:
- Xì, mình là dân quê thì cứ sống ở quê cho yên phận, đèo bòng chi cái văn minh của người ta.
- Ông à, đời tui với ông coi như xong, còn đời con của mình, phải cho con mình nó khác đi…
Anh xuôi lòng nghe theo chị; đúng là phải nghỉ đến tương lai của con cái, phải cho chúng nó văn minh, đời ông bà cha má ở ruộng thì đời con cháu phải được ở thành thị…
Chiếc ghe bán được cũng nhiều tiền, anh chị lên Sài Gòn, len lỏi đi tìm mua nhà, cũng may là có căn nhà nhỏ ở mặt tiền đường cũng nhỏ bán với giá hơi rẻ, anh chị mua ngay, còn dư chút đỉnh chị bày ra bán gạo. Chị quan niệm rằng bất cứ người nào dù thật giàu hay thật nghèo cũng cần phải ăn, mà gạo là thực phẩm chính để nuôi sống con người ta.
Chị đón bé Ngọc Ngà, bồng bé Anh Tuấn, dẩn theo đứa em gái thứ năm lên ở cùng để đở đần giúp chị. Lần này thì chị nhất quyết đòi lại số vàng cưới mà cô ba đã mượn, nhưng cô cũng nhất định không chịu trả. Chị nghỉ sẽ không bao giờ đòi được một khi người ta không muốn trả.
Chị lấy mặt tiền nhà bày bán gạo lẽ, nhờ sự khôn khéo và cần kiệm của chị dần dần nó trở thành một tiệm gạo khá lớn, phía ngoài hiên kê được một cái bàn nhỏ và hai cái ghế, anh hai Khoa làm thêm cái gác cho rộng, mọi người ngủ trên đó, nhà dưới chỉ để nấu ăn và bán gạo.
Anh mau chán, anh không thích cứ loanh quanh luẫn quẫn trong nhà với những bao gạo chất cao, thỉnh thoảng anh đem cây đàn phím lõm ra so dây, gảy vài nốt, nhưng chừng như không có hứng anh máng lại trên tường. Chị thấy anh có vẻ buồn buồn dù bây giờ anh chị có thêm một đứa gái con, bây giờ gái hay trai không còn quan trọng với anh chị nữa, con nào cũng là con.
Chị bận rộn với việc mua bán nên anh cũng không đòi chị làm đồ nhậu để đải bạn, thường thì khi đến bạn đều mang theo mồi, anh chỉ lo rượu mà thôi, người Sài Gòn thích nói chuyện thời sự, đối với anh thì nói chuyện thời sự không hấp dẫn như khi anh ngồi ôm cây đàn và ca một bài vọng cổ.
Anh bàn với chị:
- Má con Ngà này, tui giao hết hãng gạo cho bà lo, còn tui đi làm chuyện khác.
Chị ngạc nhiên hỏi:
- Vậy chớ ba thằng Tuấn tính đi làm chuyện gì?
- Có người bạn rủ tui đi mở đồn điền trồng cao su, mau khá lắm…
- Hãng gạo cũng dư sức cho mình giàu rồi, bay nhảy mà làm chi.
Anh cương quyết:
- Tui suy nghỉ kỷ lắm rồi, thì tui cũng chỉ đi đi về về, chủ yếu là mình bỏ tiền ra mướn nhân công, má con Ngà đừng ý kiến ý cò gì hết, tui nói là tui làm.
Chị phải gom tiền bạc đưa cho anh một số vốn lớn để anh đi khẩn đất trồng cao su, lúc này anh ưa chưng diện nên nhìn anh khá đẹp trai, với cặp kiếng trắng mang trên mắt nó làm cho anh thật trí thức, áo sơ mi phẵng phiu lúc nào cũng bỏ trong quần, một chiếc quần tây thẳng nếp, đôi giày da màu đen bóng lộn, tay anh xách một chiếc cặp loại dành cho thương gia, xức nước hoa thơm phức…anh không còn là hai Khoa của ruộng đồng, của “tình anh bán chiếu” nữa, mà là một “đại gia”.
Chị linh cảm có điều gì đó không vui sắp đến với gia đình chị, một điều tuy là đang còn mơ hồ nhưng ngày càng lớn dần làm chị ngộp thở, chị thường xuyên lo sợ cho điều gì đó sẽ xảy ra.
Hôm nay anh mời mấy người bạn đến nhà chơi, anh muốn đích thân chị phải làm vài món nhậu để đải “khách quý”, chị đi nhanh ra chợ mà lòng cứ miên man suy nghỉ, linh cảm về một “điều gì đó” của chị hình như đang đến trong nhà chị, đi chợ mà lòng chị không yên.
Trong men rượu ngà ngà say, anh nâng ly rượu lên và tuyên bố giữa bàn tiệc nhậu một rất hùng hồn:
- Là đàn ông thì phải có mê một món gì đó mới đúng là đàn ông, đàn ông mà không biết mê gì hết thì…không phải là đàn ông…ngày đó tôi mê đàn ca tài tử, bây giờ không còn mê nó nữa, tôi chuyển qua mê đàn bà…dô một ly nữa coi…
Có tiếng một ông nói hùa theo:
- Ha ha…đàn nào mà chẳng là đàn…hô…hô…
Tiếng của anh to nhất:
- Ừa, thì trước kia mê “đàn ca”, bây giờ mê “đàn bà”…đàn nào cũng…sướng…dô cái coi…
Mê đàn ca…chị khổ về thân xác, mê đàn bà…chị khổ cả hai thứ. Mê đàn bà…có nghĩa là anh đang đưa về nhà một quả bom tấn, nó sẽ làm nổ tung ngôi nhà của chị, nó sẽ cuốn trôi tất cả những gì chị đã gầy dựng được, hèn chi số vốn chị gom hết để đưa cho anh, nó đi lung tung không hẹn ngày trở lại.
Chị không sao nuốt nổi miếng cơm, mà chén cơm thì đong đầy nước mắt của chị, nhớ ngày xưa má thường hát ru các em chị rằng:
“ Gánh cực đem đổ lên non,
“ Cong lưng mà chạy, cực còn chạy theo”.
Chị khóc thầm:-“ tía ơi, tại sao tía đặt cho con cái tên gì mà khổ quá vậy tía?”. Tên của chị có từ lúc chị mới lọt lòng, nó đã vận vào người chị, nó đeo theo cuộc đời của chị như một cục thịt dư ở đâu đó mà không chịu nằm yên một chổ, nó cứ chạy lung tung.
Chị nhớ thầy giáo Nam, gương lược của thầy tặng chị vẩn giử kỷ trong vali, chiều nay chị lấy ra soi mặt, gương với lược còn mới mà nét mặt chị đã già đi quá nhiều, nhưng vẩn có những giột nước đang tràn ra ở hai khóe mắt; trong và mặn.
Hồ Thuỷ

Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà - Ngọc Huyền - Chế Thanh

Những Giọng Ca Vàng - Tân Cổ Giao Duyên

Chờ đợi !...
Bao mùa gió em vẫn chờ, vẫn đợi,
Lời hẹn xưa trong miễu vắng hoang sơ....
Tháng ngày vui với tiếng nói con thơ !
Cha thắt thỏm buồn cảnh con bạc phước !!

Gió vẫn thổi có xuôi về miền ngược ?
Em giờ không hát khúc xự xề xang...
Anh ra đi mang tất cả thiên đàng,
Thôn xóm cũ lại càng thêm hoang vắng !

Tiếng võng đưa, Lục Vân Tiên cha đọc,
Khêu nỗi buồn, em khóc nhớ thương anh...
Rồi một ngày mơ ước tưởng mong manh,
Anh quay lại tìm em trên ngõ cũ.!
NM
Kết quả hình ảnh cho Mùa gió
Mùa gió
  Những cơn gió lạnh lẽo đến se lòng ào ạt đổ vào xóm Cái Già Trên, một xóm ven sông với những đám bần bạt ngàn. Bần mọc từ đời nào không biết nhưng khi có cái xóm này thì nó đã xanh um dọc những kênh rạch kéo dài đến sông cái, rồi ra đến tận biển. Sáng nay, gió càng lạnh hơn, ông Tư Lành đi giăng câu bơi xuồng mà bận mấy cái áo, đầu quấn khăn một lớp dày. Chị Hảo quảy gánh xôi ra chợ mà hai chân như dính vào nhau, hàm răng “đánh bò cạp” nghe lụp cụp. Tội nghiệp! Ba mươi tuổi rồi mà chẳng chồng con gì, để cái gió độc địa này hành hạ một mình không ai chia sẻ. Mặc dù chị hay cười nhưng trong lòng héo hon tới mức nào chắc chỉ mình chị biết. Những trưa bán xong gánh xôi, chị đi tà tà với hai cái sịa không, vừa đi vừa ca nghêu ngao. Vô duyên vậy mà giọng ca lại có duyên hết biết, xuống cái “xề” nghe nhói tận tâm can. Chị chỉ ca những bài vọng cổ xa xưa, những bài hát một thời vàng son trên sân khấu cải lương Nam bộ. Thời buổi bây giờ ca gì mà như chửi lộn, ca thì ít mà nói thì nhiều, lời lẽ lại khô khan. Chị không thích. Khi chị cất giọng ca rồi thì y như rằng có vài người đang đi trên đê đứng lại nghe, có người còn đi dài dài theo chị để nghe cho dứt câu sáu rồi mới chịu rút lui. Khoảng một năm trước, Trần Minh Thuận đã xuất hiện lần đầu tiên trên TTCN với truyện ngắn Gánh hát bầu Tèo đậm đặc không khí vùng quê Nam bộ. Mùa gió, truyện ngắn mới của anh vẫn có bối cảnh vùng sông nước miền Tây, vẫn những nhân vật bình dị, chất phác tựa câu hò, câu hát cải lương. Ở sáng tác này, có thể thấy được thêm một bước vững vàng vào văn chương của người thầy giáo trẻ dạy sử, khoa sư phạm Đại học Cần Thơ. Bài ruột của chị là bài Võ Đông Sơ. Ca riết rồi chết tên là Bạch Thu Hà, dần dà bà con trong cái xóm nhỏ này dường như quên bẵng cái tên Hảo cúng cơm của chị. Họ gọi chị là cô Bạch Thu Hà bán xôi đang chờ đợi Võ Đông Sơ trở về. Còn chừng nào ổng về thì chắc chỉ có trời mới biết. Không ai biết Võ Đông Sơ về khi nào mà đùng một cái cả xóm nhỏ như bàn tay này lại nhận được một tin như sét đánh: chị Hảo có bầu. Một bữa, bà Tám nhiều chuyện phát hiện chị Hảo quăng gánh xôi xuống đất, chạy riết vô gốc cây bần cặp mé sông nôn thốc nôn tháo. Kinh nghiệm hơn chục lần đi biển, bà có lạ gì những triệu chứng thai nghén như vậy. Với cái miệng được mệnh danh là “ống tà la” của bà Tám, chẳng mấy chốc tin giật gân này lan đi khắp xóm, nhanh hơn cả cơn lũ ào ạt kéo về miền Tây những ngày tháng chạp. Xôi chị Hảo bây giờ bán chẳng ai mua, đi làm mướn cũng không ai nhận. Ông Tư ngồi cú rũ tối ngày trong nhà không dám ló mặt ra đường, đánh chị mấy lần rồi cũng thôi. Có hai cha con đùm bọc lẫn nhau, đánh hoài nó tủi thân tự tử chết thì ông sống với ai. Dần dà ông mặc kệ, ai cười thì cười. Ông cố lo cho chị mẹ tròn con vuông để có cháu ngoại bồng, ông đã bảy mươi hai rồi còn sống bao lâu nữa đâu mà sợ thiên hạ gièm pha, đay nghiến. Hằng ngày ông đi giăng câu, nghe mấy bà trong xóm hát ru con mà xót xa quá mức: 
 Ầu ơ... ví dầu, chuối khoe rằng chuối lòng trinh
 Chuối đứng một mình sao chuối có con 
Ví dầu... gió thổi lên non 
Lạnh sao cái nỗi ầu...ơ... 
Lạnh sao cái nỗi sớm con, muộn chồng... 
 Đau thì ráng chịu, buồn thì cố nén trong lòng, con ông hư thì ông còn nói gì được với chòm xóm nữa. Mấy đứa nhỏ hay qua nhà nghe ông đọc thơ Vân Tiên bây giờ bị cấm tiệt, đứa nào gan vừa đến ngồi chưa nóng đít là má nó qua tới, cầm cái roi mây quất chát chát vào mông, vừa chạy vừa xoa không kịp. Ông vẫn đọc Vân Tiên mỗi tối nhưng sao mà nghe buồn đứt ruột, lục bát đã buồn mà thêm giọng đọc buồn nữa thì trời đất nào chịu thấu. Tối nào hễ nghe ông đọc thơ là Hảo nằm trong buồng khóc, cô không biết làm sao cho tía mình bớt buồn. Tía ơi, con làm sao bây giờ! Tía già rồi mà chẳng có được niềm vui. Má mất rồi chỉ còn hai tía con mình, vậy mà... Cô nhủ thầm mình sẽ làm hết sức cho tía cô vui lòng, hi vọng đứa bé ra đời sẽ mang lại cho ông niềm vui mặc dù niềm vui đó hình thành từ nỗi đau không bờ bến. Bây giờ cả xóm lại trông ngày trông đêm chờ cho thằng cu ra đời coi thử nó giống ai. Thời gian chờ đợi coi bộ hơi lâu nên họ cứ đoán già đoán non coi cha nào là tác giả của đứa nhỏ. Ông trưởng ấp hay ghé nhà gắn cái bảng gia đình văn hóa, có cái bảng nhỏ xíu mà sửa tới sửa lui hoài. Ông chủ máy chà gạo cứ vài bữa thì ghé đòi tiền, hổng biết nó trả bằng cái gì ta? Kẻ đáng khả nghi nhất theo bà Tám là anh Ba thợ rèn nhà cách nhà Hảo một cái đập. Anh thường hay làm giùm ông Tư cái dao cái mác mà không lấy tiền. Hỏi anh chỉ thấy anh cười buồn buồn rồi nói: 
 - Phải vậy cũng đỡ! Tui không có may mắn cưới được cổ, chớ bây giờ cổ ưng tui cũng cưới liền! 
 Hảo đang vo gạo dưới rạch, vô tình nghe anh nói mà xót xa quá chừng. Không phải cô không biết anh thương mình, nhưng ngặt nỗi trong lòng cô lại mang một hình bóng khác. Người đó bây giờ không biết ở phương trời nào. Nhìn xuống cái bụng đã bắt đầu đội áo, nước mắt Hảo lại rớt xuống sông lũm bũm. Tủi thân thì cô khóc, chớ có trách gì anh đâu. Cô vẫn tin có ngày anh quay về nhận Hảo và con, lúc đó cô không còn tủi nhục nữa, ông Tư cũng đỡ buồn hơn. Nhưng biết bao giờ anh về, còn cô bây giờ phải đối mặt với bao nhiêu là chuyện. Quê anh ở đâu đến bây giờ cô vẫn còn chưa rõ, không biết sao mà mình nhẹ dạ quá, quen mới ba ngày đã cho người ta hết trơn rồi. Đời con gái đã bỏ đi, bây giờ cô chỉ mong một mái ấm gia đình nhưng hình như cái mơ ước nhỏ nhoi đó vẫn còn lâu lắm.
 + + + Hảo còn nhớ như in ngày hôm đó, tan chợ khi mặt trời lên cao trên những đám bần ngoài sông. Hảo quảy hai cái sịa không từ chợ về nhà, đi ngang cái miễu ông Tà phía sau gốc cây me đầu xóm trồng từ trào Pháp nên gốc to cỡ mấy người ôm. Nghe đồn ông Tà linh lắm, đã vật chết hết mấy tay xỉn rượu quậy phá miễu rồi. Hảo muốn vào đốt nhang cầu mong cho mình có được tấm chồng, ba mươi tuổi coi bộ đã trễ lắm rồi. Vừa mới bước vào, loay hoay chưa đốt xong cây nhang thì nghe tiếng rên hừ hự dưới bàn thờ. Một người đàn ông đang nằm chèo queo ở dưới, quần áo đầy sình bùn và cái đầu húi cua trọc lóc. Hảo chết đứng. Hông lẽ miễu ông Tà linh dữ vậy sao, chưa kịp đốt nhang đã đem đến cho cô một người đàn ông rồi. Với trình độ lớp ba trường làng và cái đầu đầy dị đoan, cô tin lắm. Cô nhìn kỹ người đàn ông, râu quai nón lùm xùm, khuôn mặt vuông vắn có cái thẹo dài vắt ngang gò má trái, cái áo hở ngực làm lộ ra hình xăm đầu lâu với hai khúc xương bắt chéo. Bộ dạng này không ăn cướp thì cũng là giang hồ thứ thiệt thôi. Hảo chắc lưỡi, hít hà. Trời ơi là trời, hổng lẽ ông Tà linh thiêng lại tác hợp gì kỳ cục vậy. Người đàn ông nhướng mắt nhìn Hảo rồi thều thào: 
 - Tui khát, tui đói, cô mần ơn... 
Chỉ nói được mấy chữ rồi gã lại nằm bẹp xuống nền đất. Hảo chợt thấy xót xa. Cô đỡ đầu gã dậy, lấy chai nước kê vào miệng. Gã uống khó nhọc từng giọt, rồi ừng ực hết cả chai nước và lại nằm vật ra. Khoảng mười phút sau, gã lại ngồi dậy từ từ, tay run run nhận gói xôi từ tay Hảo, gói xôi cô tính mang về cho ông Tư. Ăn xong gói xôi, sắc mặt gã đã hồng hào hơn, hai con mắt đỏ hoe ngân ngấn nước. Gã chắp tay xá: 
 - Ơn cô chắc suốt cuộc đời này tui cũng không trả nổi, nếu tui còn sống nhứt định sẽ đền ơn. 
 Ơn nghĩa gì một chai nước lạnh và một gói xôi. Cô chợt nhớ hôm rồi coi trên vô tuyến ở nhà ông trưởng ấp thấy bộ phim gì mà người ta đổi vàng lấy nước giữa sa mạc mênh mông, bây giờ những thứ đó đối với gã chắc cũng quí hơn vàng. Cô cười cười: 
 - Ơn nghĩa gì hông biết! Sao ông lại nằm đây? Ở đâu lại mà tui thấy lạ hoắc vậy?
 Gã đàn ông nhìn lấm lét về phía con đường cái, rồi lại nhìn Hảo như mong được cứu giúp, cái nhìn sao mà tội nghiệp quá. Bất chợt trong lòng Hảo dâng lên một cảm giác rất khó tả, có cái gì chạy rần rần dọc theo sống lưng, giống y chang hôm đám cưới con Mơ bán cá vì buồn phận mình mà cô nốc vài ly rượu. Mà bữa nay Hảo có uống rượu đâu, sao kỳ quá. Hổng lẽ cái cảm giác này ông Tà cũng mang đến cho cô, biểu cô phải ưng người đó làm chồng. Suy nghĩ đó làm Hảo đỏ phừng phừng hai gò má, con gái gì mà vô duyên quá. Gã đàn ông chắc không biết Hảo nghĩ gì trong bụng nên trả lời: 
- Tui tên Lâm, quê ở Cà Mau, mà đây là đâu vậy cô? 
 Trời đất, gã cũng không biết mình đi đâu nữa. Ngó lại bộ dạng của Lâm, cô lờ mờ đoán ra chắc anh ta là tù vượt ngục hay tệ lắm cũng là dân trộm cướp gì đó phải trốn đi. Tự dưng cô muốn bỏ chạy nhưng nhìn lại đôi mắt biết nói kia cô lại chùng lòng. Ngồi bệt xuống đất, cô nhìn Lâm: 
 - Đây là xóm Cái Già Trên, nói thiệt tui nghe coi sao mà anh lại ở đây? Tướng tá anh vầy gặp mấy anh công an xã là họ bắt nhốt liền đó nghen! 
 - Tui trốn trại, định tìm đường về quê nhưng không biết đường đi, cũng không có tiền. Cô làm ơn giúp đỡ, sau này tui đền ơn. 
Đúng như dự đoán của Hảo, Lâm bị tù và trốn trại. Nghe nói bên Trà Vinh, cách nhà Hảo khoảng năm mươi cây số có cái trại cải tạo Bến Giá dành cho những phạm nhân sắp mãn hạn tù, những người đến đây thường cố gắng lao động tốt để chờ đến ngày trả tự do. Sao Lâm lại trốn trại? Máu tò mò trong người Hảo lại nổi lên, cô muốn hỏi cho rõ mọi việc nhưng nhìn ra sân thấy mặt trời đã đứng bóng, cô dặn: 
 - Anh ngồi đây nghen, tui phải dìa nấu cơm cho tía tui, không ổng đập gãy xương sống. Lát nữa tui trở ra. 
Hảo vọt lẹ về nhà mà hai chân ríu lại, nghĩ mà mắc cỡ, cột đi tìm trâu rồi. Chiều hôm đó, Lâm kể cho Hảo nghe tất cả những chuyện của cuộc đời mình, không một chút giấu giếm. Anh ở Cà Mau, gia đình chỉ có mình anh và cha mẹ già. Cuộc sống chủ yếu của gia đình dựa vào mười lăm công rừng tràm, không giàu có nhưng cuộc sống luôn ổn định. Anh cũng không ngờ mình lại ra nông nỗi này. Hôm đó, khi anh đang bắt tổ ong mật ngoài rừng tràm thì ba anh chạy hớt ha hớt hải ra kêu: 
 - Dìa nhà Lâm, cha con thằng Tánh qua kiếm chuyện vụ đất đai kìa. 
 Tánh là em út ba Lâm, trước khi ông nội mất có nhắn lại là chia cho ba Lâm thêm năm công đất coi như phần để cho Lâm khi cưới vợ làm ăn. Lúc đầu chẳng ai nói gì, bởi năm công đất chẳng đáng là bao. Chỉ đến khi có quyết định thành lập thị trấn và con đường mới chạy ngang năm công đất này thì mới sinh ra chuyện. Giá đất lên vùn vụt, năm công đất bây giờ đã lên đến bạc tỉ. Lâm chạy về nhà thì thấy cha con chú út mình đang đứng trước hàng ba lớn tiếng đòi lại đất trong khi má anh ngồi khóc thút thít trên võng:  
-Lúc đó tía bịnh gần chết rồi, đầu óc còn minh mẫn gì đâu mà cho đất, ổng mê sảng nói vậy thôi. Bây giờ nè, năm công đất đó tía đứng tên mà tui là con út ở chung với tía nên tui phải hưởng, nể tình anh chị lắm tui mới cho nó một công, nếu không thì tui lấy hết rồi.
 Lâm nói trong sự uất ức: 
- Ông nội nói cho con các cô chú cũng nghe hết, sao bây giờ chú nói kỳ vậy? 
 Ba Lâm cũng nóng ruột chen vô: 
- Chú là người lớn sao lại xử sự như vậy, tía ở dưới không vui đâu, dù sao cũng là ruột thịt với nhau mà. 
 Cãi nhau một hồi coi bộ không êm, cái xóm nhỏ này thì chuyện gì thiên hạ cũng biết hết kể cả vụ đất đai gia đình Lâm.
 Ông Tánh muốn kết thúc câu chuyện nên nói: 
- Bây giờ tao nói năm công đất đó là của tao, có giỏi mầy đi thưa đi Lâm, bây giờ tao ra đốn tràm đổ đất bán nè, giỏi thì làm gì tao coi thử. 
 Nói xong, ông cầm cái chét chạy ra đám rừng tràm mới hơn năm tuổi đốn lia lịa, những cây tràm bằng nửa cùm tay ngã rạp xuống. Lâm chạy theo giật cây chét từ tay ông Tánh, giành giựt một hồi với sức trẻ của mình, Lâm giựt được cây chét từ tay ông nhưng vô tình làm ông té xuống bờ bao và đập đầu vào trụ đá chia ranh khiến chấn thương, chảy máu dữ dội. Lâm bị bắt ngay sau đó vì con ông Tánh làm công an ngoài xã. Cuối cùng tòa án huyện kết án Lâm ba năm tù vì tội cố ý đánh người gây thương tích nghiêm trọng. Vô tù, Lâm chán nản và dần dần đã đánh mất bản thân. Lâm cũng xăm mình, cũng đánh nhau và trở thành đại bàng. Nhờ một người cán bộ tốt hiểu rõ hoàn cảnh và động viên anh rất nhiều anh mới trở thành một trại viên tốt. Ở tù được hai năm anh được chuyển sang Bến Giá, được lao động ở ngoài và chỉ gần năm nữa thôi là anh được trả về với xã hội. Nhưng khi hay tin má mình bệnh nặng ở quê nhà, anh không cam lòng ở lại nên một bữa đi đắp đê ngăn lũ, lợi dụng sự sơ hở của cán bộ quản lý, Lâm bỏ trốn. Trong túi không có một đồng xu, bộ đồ phạm nhân rất dễ bị người ta phát hiện, Lâm phải lấy sình trét lên bộ đồ cho nó mất đi mấy cái sọc phạm nhân. Ngày thì trốn, đêm thì đi, hai ngày hai đêm thì đến cái xóm này, nằm trốn trong miễu ông Tà từ tờ mờ sáng đến giờ, đói khát sắp chết rồi thì gặp Hảo. Hảo khóc từ lúc nào không biết, hoàn cảnh anh đáng cho chị khóc lắm chứ. Và chị nhận ra ông Tà hình như không đùa cợt với chị đâu, xe duyên cho chị một người như Lâm cũng được chớ sao. Chị về nhà gom tiền bán xôi và lấy một bộ đồ của ông Tư cho anh. Họ ngồi với nhau đến gần nửa đêm, nói đủ chuyện trên trời dưới đất. Lâm đốt cây nhang, chắp tay xá ông Tà rồi vái:
 - Xin ông phù hộ, con dìa lo chuyện má con xong, mãn tù con sẽ trở lại cưới Hảo làm vợ, con thề như vậy, nếu sai lời xin ông vật con chết. 
 Hảo tin những lời Lâm nói và hứa sẽ chờ anh, bao lâu cũng được nhưng anh phải quay lại trại ở cho tới lúc mãn hạn. Kết quả của đêm chia tay đó là giọt máu trong người Hảo bây giờ. 
 + + + Hảo chờ hoài mà chẳng thấy tăm hơi của Lâm, hết gió bấc rồi tới gió chướng, mấy mùa gió rồi mà chẳng thấy anh đâu. Thằng Ti đã hai tuổi rồi, giống anh lắm, mỗi lần nhìn nó chị lại nhớ anh da diết, không biết bây giờ anh đâu rồi. Ông Tư vui lên rất nhiều từ khi có thằng Ti bên cạnh, lúc nó bập bẹ kêu “goại goại” ông thấy mình như trẻ lại và muốn sống lâu hơn. Tối nay, một mùa gió mới lại về. Ông Tư thấy khó ngủ. Hồi đầu hôm nghe đài báo lũ sắp về, ông lo quá, trằn trọc gần sáng đêm. Năm giờ, ông lục đục ra võng nằm đưa cót két, vói tay lấy cái đài trên bàn, vặn nghe chương trình nông thôn xem có gì mới. Hảo cũng không ngủ được, cứ bồn chồn trong bụng. Cô ngồi dậy định đi pha trà cho ông uống thì thằng Ti cũng thức giấc, nắm tay chị: 
 - Má! Con đái! Chị ẵm nó ra hàng ba, xong rồi vào bếp nhúm lửa nấu ấm nước cho ông Tư. Trời sáng dần, tự dưng ông Tư nghe nhiều tiếng người lào xào ngoài đường trước nhà mình. Ông biểu Hảo: 
 - Bây coi ai ở đằng trước đó, mới sáng sớm đã um sùm rồi. 
 Hảo kéo cái cửa lên, ông Tư nhìn ra ngoài và nằm chết trân trên võng, chuyện gì lạ vậy cà. Hảo ôm gốc cột ngoài hàng ba mà hai chân muốn sụm xuống. Mấy bà nhiều chuyện tụ tập ngoài hàng rào thì thầm to nhỏ. Dưới sân, một người đàn ông mặc áo sọc carô quì gối, lạy từ ngoài cổng lạy vào...
TRẦN MINH THUẬN