Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Con dốc mù u

Hình ảnh có liên quan
Thương con dốc nhỏ 
Về thăm con dốc mù u,
Tuổi thơ xa lắc, tình thu vẫn còn...
Đường đời trăm dạ héo hon,
Dốc Mù u đó đâu còn như xưa !?
Nhớ khi sáng nắng chiều mưa,
Hàng tre dốc cũ sớm trưa vui đùa...
Hỏi lòng ta đã quên chưa,
Chìm trong ký ức ngỡ vừa thương vay !
Thương sao tro trấu bụi bay,
Lấm lem mà cứ mê say vô ngần...
Liu xiu nghiêng ngã bước chân,
Biết bao cơ cực tủi thân nhọc nhằn...? 

Đường trần giờ lấm bụi trần,
Ngỡ quên sao lại muôn phần vấn vương ?!
Ơi, con dốc nhỏ bên đường,
Vẫn luôn còn đó tình thương ngày nào !!
NM

Con dốc mù u

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
 Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Con dốc mù u, con dốc mù u. Lâu quá rồi không ai nói với tôi về con dốc ấy. Tôi cũng sắp quên cái tên ấy rồi, dù nó cách nhà tôi có mấy bước chân, lần nào về quê, tôi cũng dắt cậu nhóc con của mình lên đầu dốc hái hoa, bắt bướm.
Con dốc mù u, mà chẳng có cây mùa u nào dọc theo dốc. Chỉ có rặng tre già rợp bóng bên ni đường, bên kia là bờ đất cao ngút mắt đứa trẻ tôi bảy tuổi. Men theo rặng tre là tuổi thơ tôi với những trưa hè trốn ngủ đi bẻ vít quay chơi. Chẳng biết có lứa trẻ thơ nào ở đâu đó trên dải đất nhiều tre này cũng chơi vít tre như chúng tôi ngày đó. Quay sao cho vít không đứt mà càng dẻo càng dai, sẽ thắng. Trò chơi ấy có gì mà vui thế, thắng cũng có được quà gì đâu. Mà giữa phố phường đông đúc, nhiều khi thèm đến run người một bờ tre, để rúc vào, bẻ một cái vít. Và nắn nót quay.
Con dốc ấy, là cao lắm, với đôi chân trẻ con lũn cũn. Ngỡ như vo mình lại, thả từ đầu dốc, sẽ lăn cù tới tận giếng Đàng Truông. Dốc cao thế, nên mỗi khi xuống dốc cứ vừa đi vừa chạy, khi ngược dốc thì… vừa bò vừa thở, muốn đứt hơi.
Ấy thế mà có phải đi không đâu, anh em tôi phải khiêng một thùng nước đầy từ giếng Đàng Truông về. Khi anh Hai tôi đi học xa, tôi lại thế chỗ đứng sau, phía trước cây đòn gánh là con bé Nhỏ. Những mùa hè khô hạn, chị em tôi phải thức thật khuya mới mong múc được nửa gàu nước trong mà đổ thùng khiêng về. Đường tối đen, ánh đèn pin hiu hắt, hai chị em cứ bặm môi leo dốc. Leo đến đầu dốc coi như có thể thở phào.
Đầu dốc mù u là nhà chú Hào máy gạo. Nhà chú Hào ở trên bờ đất cao thật cao, phải leo mười mấy bậc tam cấp mới tới. Chị em tôi hầu như ngày nào cũng leo lên những bậc tam cấp, sục vô buồng trấu, tranh giành từng mẻ trấu với lũ trẻ cùng xóm.
Nhiều khi, chúng tôi cứ hồn nhiên giành nhau khi trấu từ máy gạo cứ phun ra không dứt, mặt đứa nào đứa nấy dính đầy hoa trấu. Trẻ nhà quê mà, ngại chi mấy chuyện xót ngứa cỏn con đó. Trấu xúc được, cho vào bao hay mủng nén chặt, lại còng lưng vác về. Không cẩn thận là ụp luôn cả trấu cả người xuống đất, coi như bữa đó khỏi nấu ăn. Nhiều khi bị té, tôi giậm chân, ấm ức khóc, nhà chú Hào chi mà cao thiệt là cao.
Tôi ngỡ đã xếp gọn những ký ức về con dốc vào ngăn quên của lòng, khi dòng đời đẩy vào tôi bao nhiêu điều lo nghĩ khác. Mà có lẽ tôi cũng sắp quên thật, chỉ là một con dốc thôi mà. Nhưng cứ mỗi độ đông về, giữa những giấc ngủ chập chờn hay những giấc mơ sâu êm đềm trong chăn ấm, tôi lại thấy mình quẩn quanh bên những bao than to, rón rén nhặt những cục than rơi vãi.
Đó là những buổi chiều đông, dốc mù u nhộp nhịp tiếng nói cười. Người lớn lớp đi lớp đến, họ gồng người cân những giỏ than to trên chiếc cân đòn, rồi giở than ra, xếp vào bao chất lên xe bò. Con nít chúng tôi thì chờ những vụn than rơi xuống, lựa những cục không quá nát cho vào bao.
Cũng có khi tôi vớ được cục than to cỡ bắp chân, mừng khôn xiết. Trời mùa đông, chưa chi đã sập tối. Tôi hí hửng chạy về nhà giữa tiếng ếch rộn vang khắp xóm làng, tay giữ khư khư bao báu vật của riêng mình, lòng vui như vừa làm được điều gì to lớn lắm.
Niềm vui trẻ thơ, giản dị là vậy. Chị em tôi mang những bao than vụn ra, cho vào nồi tro, nhen lửa rồi phùng má lên thổi. Vậy là có ngay một nồi than hồng đặt dưới gầm giường, tha hồ mà ấm áp dù mưa đêm tỉ tê hay gió rít qua khe cửa, dù áo con nhà nghèo thì sao đủ ấm, đủ dày.
Con dốc mù u. Con dốc của tuổi thơ tôi hớn hở chạy theo xe bắp bung để chăm chú nhìn chiếc máy thần kỳ hô biến vốc hạt bắp trộn đường thành dây bánh dài thơm, hay những ngày giáp Tết, tôi chàng ràng bên nồi gang của thím Trà để nhặt những hạt nổ trắng như bông. Con dốc mỗi lần đi xe đạp, cả xuôi hay ngược dốc, tôi đều phải trèo xuống dắt bộ. Con dốc tôi đẩy xe bò cho ba chở lúa về nhà.
Vậy mà tôi suýt nữa quên tên nó. Chỉ vì lâu không nghe ai nhắc đến? Hay vì con dốc tôi dắt con trai đi chỉ lá chỉ hoa không còn là con dốc cao với đất mềm cỏ ướt dưới chân mà đã là đường bê-tông thẳng tắp?
May mà, còn những giấc mơ, dịu dàng lay gọi tôi giữa đường đời mê mải. Để tôi lại nghe như tiếng ai thì thầm bên mình đầu con dốc mù u. Rằng những hòn than nhỏ, sưởi ấm cả chặng đường thăm thẳm gập ghềnh…

NGÔ THỊ THỤC TRANG
Kết quả hình ảnh cho Mù u trên sông
  Nỗi buồn mù u
Mù u hoa trắng nhuỵ huỳnh,
Gió lay hoa rụng linh đinh sông buồn !
Chiều quê con nước sầu tuôn,
Nhớ người viễn xứ tha hương chưa về...
Còn đây một tấm chân quê,
Mù u soi bóng lê thê nỗi buồn !!
NM
Dưới cội mù u 
Mấy dòng này tôi viết cho bà ngoại, cho má, cho những người thân yêu nhất đời tôi, và cho những miền ký ức đã xa. Đó là miền ký ức có cội mù u nghiêng mình dưới dòng kinh xáng, có những mùa nước nổi linh đinh trái mù u chín rụng và có những đêm leo lét dưới ánh đèn mù u thuở khó nghèo. Chuyện đời, chuyện tình dưới cội mù u.
Hồi còn sống, thỉnh thoảng ngoại lấy gói đồ gói trong chiếc khăn tay được giữ kỹ trong lòng chiếc lư hương lâu đời, lau chùi cẩn thận. Đó là đôi bông mù u nghe đâu đã truyền 3- 4 đời. Giờ, ngoại để lại cho má tôi, má vẫn thiêng liêng gìn giữ. Tôi cứ thắc mắc hoài sao gọi là bông mù u khi mà làm bằng vàng y 2 chỉ. Và rồi nhìn những trái mù u rụng trắng sân nhà, tôi tự trả lời cho mình. Mấy hôm rày, con dâu út về thăm má, má lụi hụi lấy đôi bông mù u trao lại cho vợ tôi, dặn kỹ: “Cất nghe con, cất cho kỹ. Nghèo khổ tới đâu cũng phải giữ”. Dâu út vừa mừng vừa lo, cái mà má kêu giữ là giềng mối, gia phong của dòng họ.
Tôi lớn lên, cây mù u đã cao lớn trước nhà, gie ra mé kinh. Giờ, mấy mươi năm sương gió đời người, về lại quê, mù u vẫn đón tôi bằng những chùm hoa trắng ngần, hương đưa ngào ngạt. Tôi gọi đó là mùi của quê hương. Xứ tôi có điện hơn chục năm nay, trước kia phải thắp sáng bằng đèn dầu nhưng không phải lúc nào cũng có tiền để mua dầu. Tôi được má cắt cử đi lượm trái mù u già chín rụng trôi trên dòng kinh. Má và các chị đem về đập vỏ, lấy ruột bên trong giã nhuyễn, trộn với bông gòn, “xỏ lụi” thành từng xâu, đem phơi khô để dành đốt. Đèn mù u cháy, tỏa ra mùi dễ chịu chính là ánh sáng má dành cho tôi trong những buổi tối ê a con chữ, trong những câu chuyện cổ tích quê mình. “Lục lăng” như tôi thì mê nhất là trò bắn đạn “cu li”. Thật ra, đạn cu li làm bằng thủy tinh, bán nhiều ở chợ nhưng thằng nào có trong tay chục viên đạn được coi là “đại gia” trong nhóm. Tôi cùng thằng Cò, thằng Thanh… rủ nhau đi vớt mù u già làm đạn. Những ngón tay thuần thục, dẻo quẹo bắn đạn mù u xa phải biết. Đạn mù u còn được lũ trẻ chúng tôi dùng để làm đạn ná bắn chim, ai bắn giỏi được mấy cô bạn gái đi chung để ý ít nhiều. 
Nhắc đến cây mù u, tôi lại nhớ da diết tấm thớt mù u của ngoại, nhớ dáng ngoại liêu xiêu trong khói bếp chiều tà. Tấm thớt mù u có từ năm nào chẳng rõ mà ngoại dùng riết lên nước bóng ngời. Ngoại nói, thớt mù u không lên dăm, xài hoài tốt hoài, tốt nhứt trong các loại thớt. Từ tấm thớt mù u, ngoại vun vén cho con cháu những bữa cơm ngon, những âm ba dư vị mà giờ chỉ con trong ký ức. Ngoại xa rồi…

Trẻ quê với trò bắn đạn mù u. Ảnh: DUY KHÔI 
Dưới cội mù u trước nhà, mỗi bận tôi đi học xa ở huyện về đều thấy cô nàng gánh nước mỗi chiều. Hỏi má, má nói cô Hai, cháu của bà dì kế bên, cha mẹ rủi sao bị bệnh mất hết nên về ở với ngoại. Cô gái có nụ cười duyên, gương mặt đượm buồn. Mỗi đêm, chẳng biết cô đọc sách gì mà ngồi chăm chăm dưới ngọn đèn mù u. Tôi thương rồi hình dáng ai đó mỗi chiều gánh nước ở bến sông bên gốc mù u già. Hồi còn sống, ngoại hay nói vui mấy câu này
 “Đèn mù u khi lu khi tắt 
  Đèn cầu sắt khi đỏ khi xanh  
Anh có thương em đừng dỗ đừng dành  
Gái ngoan thì chọn trai lành, lo chi” 
Những buổi chiều về, tôi cắt tỉa mấy cây kiểng của cha, cô gái lại gánh nước, vẫn nụ cười duyên làm xao xuyến lòng tôi. Vậy mà sao một đợt đi học nữa về, nghe tin cô đã có chồng, lấy anh Sến chủ nhà máy chà gạo bên kia sông. Tôi buồn mà chẳng đau bởi đó chỉ là những mộng mị tuổi học trò. Má tôi thấy con buồn buồn, liền dỗ dành: 
“Mù u bông trắng, lá quắn, nhụy huỳnh 
  Người ta không nghĩ tới mình thì thôi” 
Cha tôi thì tánh hay cà rỡn: 
“Mù u bông trắng, lá quắn, nhụy huỳnh  
Thấy em gánh nước một mình anh thương” 
Mới hay, đi hết cuộc đời, cha má vẫn hiểu tôi ngọn ngành hơn cả. Hơn năm sau, tôi đã là sinh viên năm nhất, về quê, buổi tối ngó sang nhà bà dì, vẫn leo lét ngọn đèn mù u, nhưng cô Hai không còn đọc sách mà nằm đưa võng ru con, chẳng biết giọng buồn hay vui: 
“Bướm vàng đậu đọt mù u  
Lấy chồng chi sớm tiếng ru thêm buồn” 
Mối tình đầu của tôi là vậy, dưới cội mù u dậy hương bông trổ. Mối tình đi theo tháng năm dần quên lãng mà gốc mù u và cô gánh nước năm nào vẫn là hình ảnh đẹp trong tôi.
* *  * 
Nhà tôi ở một doi đất, cây mù u già tôi kể không biết có tự khi nào. Bà tôi nói thời còn con gái đã thấy cây mù u cao lớn; bà dì hàng xóm còn lớn tuổi hơn, nói khi về làm dâu xứ này đã lượm mù u dưới gốc cây. Rồi không biết hồi nào, doi đất ấy gọi là doi Mù U. Nhà tôi ở doi Mù U, đi đâu xa về nhác thấy bóng mù u vờn khuất là biết đã đến xứ nhà. 
Dân xứ tôi có câu đố rất hay về loài cây này: 
“Một mình hai tật đành cam
Trời sinh phải chịu biết làm sao đây”
 

Chẳng thể nào lý giải được cái tên mù u: “đã mù mà còn u”- bọn trẻ chúng tôi thường nói vậy. Tôi nhớ linh đinh mùa nước nổi quê mình, cùng các bạn trèo lên cây mù u rồi nhảy ùm xuống kinh, dòng nước đỏ phù sa như tưới mát tâm hồn tuổi thơ. Vì suốt ngày vào rừng, tắm sông, lội sình nên chúng tôi thường bị ghẻ nhọt. Những lúc ấy trái mù u như cứu tinh. Má lấy ruột trái mù u đâm nhuyễn lấy nước thoa lên vết thương, vậy là một hai ngày vết thương ráo mặt rồi lành ngay. Những lúc gặp mùa mề đay, má đốt bếp un trước nhà, bỏ lá và trái mù u vào đốt cho ra khói rồi hơ lên người. Hay thật, lúc sau những mụn mề đay “lặn” mất tiêu. Những tri thức dân gian đó giờ được khoa học ghi nhận, đã có nhiều nhà máy ra đời chỉ để chiết xuất tinh dầu mù u quê nhà. 
Ông ngoại tôi thường đốn mù u để đóng xuồng, xài dưới nước rất bền. Xuồng mù u cũng là loại rẻ tiền nhưng 5-7 năm vẫn chưa thấm tháp gì. Ngoại nói cây mù u có chất dầu nên mối mọt “ngán”. Những gốc mù u quê tôi chằng chịt thẹo vết vì bom đạn chiến tranh, những vết hằn thời gian của một thời khói lửa. Ông ngoại còn kể cho tôi nghe chuyện đời xưa, hồi trào Tự Đức, khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã Tắc, lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Bọn giặc té sấp úp sấp ngửa, chạy tán loạn. Bởi thế mà có câu ca rằng: 
“Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó lên Xã Tắc hai hàng mù u”
Mù u theo tôi bằng câu chuyện ngày xưa ông ngoại kể, thân thuộc với người miền Tây đến đỗi đi đâu cũng thấy. Cây mù u chẳng ai trồng mà vẫn xanh tốt, thẳng đứng giữa bão tố phong ba. Vậy rồi chẳng hiểu lẽ nào, cái tên mù u lại gợi chút nỗi niềm, một sự bẽ bàng, lỡ làng nào đó. Thử chiều chiều ra đứng hàng ba, ngó đám ong bầu vờn đọt mù u, nghe hương đưa trong gió trong mưa mà lặng lòng đến lạ. Nỗi u hoài chắc chỉ có ở người lữ thứ, tha phương. 
Miền Tây một thuở mà cái gì nhiều, đông cũng được ví như mù u rụng. Cố nhà văn Sơn Nam từng có những ví von rất hay trong truyện ngắn của mình: “Cá sấu nhiều như mù u chín rụng”, “Cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù”… Mù u quê tôi giờ đi vào câu ca, điệu hát, vào những vần thơ, dòng văn như hình ảnh đẹp của ký ức quê nhà, của hoài niệm chuyện xưa tích cũ. Tôi thì vẫn nhớ cội mù u trước nhà, nhớ doi Mù U quê hương và nhớ cô Hai gánh nước thuở nào, xin gửi trôi theo mù u chín rụng, tan quyện vào hương bông trắng nhụy huỳnh.
Dưới cội mù u, chuyện đời miền Tây tôi xin kể…

ĐĂNG HUỲNH

Ca dao Me
Mù u nhỏ rễ ăn lan
Sợ mình nói gạt qua đàng đấy thôi
Phụng hoàng chấp cánh bay xuôi
Liệu bề thương đặng, mình ơi, tôi chờ.
Nước lên khỏi bực tràn bờ,
Thương mình thương vậy, biết chờ đặng không?
Đặng không tôi cũng gắng công
Đợi cho con cá hóa rồng sẽ hay
Gặp mình may quá là may
Trông cho trời tối bắt tay đặng về
ST
MÙ-U NĂM NGOÁI
Trái gì bằng trái cau mà lại đau hai tật?
Là trái mù u: vừa mù lại vừa u! Mù u! Cái tên thật nôm na, bình dân, có gì nói nấy, phơi bày không một chút giấu giếm hình ảnh của một sự tối tăm, mùa lòa, bệnh tật.
Nhưng xin đừng tưởng cây mù u là một cây tầm thường. Một anh bạn của tôi, bác sĩ Nguyễn Hy Vọng, cho biết ở Huế có câu tục ngữ:
Văn thánh trồng thông, võ thánh trồng bàng
Sơn hà xã tắc hai hàng mù u.

Nghĩa là cây thông và cây bàng được dùng để trồng trước cái miếu thờ quan văn và quan võ, còn cây mù u thì lại được trồng ở cung điện của vua chúa. Cái lý do sâu xa thì không ai rõ, chỉ biết rằng cây mù u có tên khác rất đẹp là bạch mai. Nhà văn Nguyễn Văn Ba cho biết ở Hà Tiên có loại mù u bạch mai này và ngay trước lăng Mạc Cửu có trồng một cây bạch mai cổ thụ (Chính phu nhân của anh Ba là nhà văn Nguyễn Bạch Mai cũng đã dùng cái tên đẹp của mù u làm bút hiệu).
Gọi là bạch mai có phải vì bông mù u có những cánh nhỏ bao quanh nhụy vàng ở giữa giống bông mai chăng? Dù sao, ngoài màu trắng tinh khiết, bông mù u còn tỏa ra một hương thơm nhè nhẹ. Trong một chùm bông mù u, bên cạnh những bông còn hàm tiếu và những bông đã mãn khai là những trái mù u nhỏ, mỗi trái tròn bằng đầu ngón tay út, xinh xắn. Với thời gian, những trái mù u ấy dần dần trưởng thành, vóc dáng nẩy nở, tròn trịa hơn, lớn bằng ngón chân cái hay hơn, nước da xanh mơn mởn pha chút màu vàng khi trái mù u sắp chín.
Thật không có trái cây nào tròn như trái mù u. Nhãn, dâu ta và bòn bon cũng tròn, nhưng mù u vượt tất cả về điểm này. Nó tròn như một quả cầu kỷ hà học. Ẩn dưới lớp vỏ mỏng của mỗi trái mù u là một cái hột cứng (có thể gọi là cái sọ như sọ dừa) cũng tròn không kém. Phía trong cái hột cứng là cái nhân tươi, giòn, màu vàng xanh, chứa nhiều dầu. Chính nhờ ở chất dầu này mà trái mù u được nhiều người biết và nhớ tới.
Dầu mù u tên tiếng Anh là tamanu, cây mù u tên là Poon tree (theo tiếng Mã Lai là Punna). Tên khoa học của cây mù u là Calophyllum Inophyllum. Cây mù u là một loại đại mộc cao tới 20 thước, có họ hàng với cây măng cụt (lá mù u giống lá măng cụt, dày và có nhiều gân). Tên theo sách thuốc Đông y là Hồ Tòng Lệ.
Thân cây mù u cũng chứa nhiều mủ màu xanh thường thấy rịn ra ở vỏ. Cũng nhờ thân cây mù u có nhiều dầu nên gỗ mù u khó thấm nước và được dùng đóng ghe, xuồng. Tôi có một người dượng ở làng Nhơn Nghĩa cả ngày chỉ một mình cặm cụi cưa một thân cây mù u thật lớn và xẻ ra thành từng miếng ván mỏng, để rồi sau đó, cũng không nhờ ai giúp, đóng ra cho được một chiếc xuồng xinh xắn.
Mủ mù u có dược tính là có thể chữa được các bệnh ghẻ, nhọt, nhất là những mụn nhọt nổi từng cục lớn như cục u trên đầu. Không biết có phải tại vì mủ cây ấy trị được u nên gọi là cây mủ u rồi lâu ngày đọc trại ra mù u chăng? Cũng có người gọi cây mù u là cây dầu u, và cũng không biết có phải dầu cây ấy trị được các cục u nên gọi là cây dầu u hay không. Dù sao đó cũng chỉ là những phỏng đoán, không bằng cớ đích xác. Điều chắc chắn là mù u là một loại cây rất quen thuộc và thông dụng với người Việt miền Nam.
Ở thôn quê miền Nam, mù u thường mọc theo bờ sông, rạch. Có lẽ từ một bờ rạch nào đó một trái mù u rụng xuống nước rồi theo dòng sông trôi đến đây để nảy mầm, mọc rễ. Các sông rạch ở nước ta đa số theo thủy triều lên xuống mà có nước lớn và nước ròng mỗi ngày hai lần. Vì vậy nên khi nước lớn, có những trái mù u từ ngoài sông cái trôi vào và khi nước ròng có những trái mù u khác từ trong các ngọn ngành trôi ngược trở ra. Những trái mù u này, nếu gặp thuận duyên thì trôi ra đến tận biển và biết đâu trong số đó chẳng có những trái sẽ viễn du qua các xứ Mã Lai, Nam Dương...
Ở vùng Hậu Giang, chẳng những trái mù u trôi lênh đênh để mặc sóng nước đẩy đưa, người ta còn có thể vớt được những trái mù u do những chiếc "bè súc" đem đến.
Bè súc là những chiếc bè bằng tre cặp theo những thây cây đủ loại thật lớn đã cắt bỏ nhánh và ngọn gọi là cây súc. Tre dùng làm bè là loại tre rừng rất lớn, đường kính rộng bằng cái chén ăn cơm hay lớn hơn, ruột bộng, tre khô thả xuống nước nổi phêu như một cái phao. Nhiều cây tre như vậy kết lại thành một cái bè. Mỗi cây súc được hai bè tre cặp hai bên để cho khỏi chìm. Một chiếc bè súc lớn do tàu kéo trên sông có khi gồm vài chục cây súc. Những bè súc này từ những khu rừng rậm ở thượng lưu sông Hậu được tàu sà-lúp kéo theo hướng Đông Nam về Cần Thơ, để rồi từ đó phân phối cho các trại cưa ở ven các sông rạch nhỏ hơn như Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền hay là xa hơn nữa như Cầu Nhiếm, Ba Xe, Rạch Gòi v.v...
Những buổi trưa nắng, một mình tung tăng chạy nhảy trên một bè súc cặp dưới bến một trại cưa để lượm mù u là một cái thú. Dưới chân là thân những cây súc đã lột vỏ, bóng láng, mặt trời chiếu nóng như nung. Lấy tay vớt những trái mù u lên ngửi, một mùi chua chua, thiu thiu đặc biệt của lớp vỏ mục nghe thoang thoảng. Có những trái mù u còn nguyên vỏ, có những trái bị tróc hay dơi gậm một miếng vỏ lớn để lộ cái sọ mù u bên trong. Có những trái ngâm mình dưới nước ướt sũng, những trái khác bị sóng đánh nhảy vọt và vướng vào dây mây dùng cột bè trên cao, vỏ đã khô đen, nhăn nhúm. Mà chẳng những lượm được mù u không thôi, người ta còn có thể lượm được nhiều thứ trái cây khác trôi tấp vào bè: bần, cam, bưởi, cau v.v... Cũng có nhiều thứ bông như bông sứ, bông chúa, bông phù dung, bông tra, bông cây sao với hai cái đuôi, bông gòn với những sợi lông mịn giống như tai của một con mèo con. Có những chiếc lá rất lạ, hình dáng kỳ dị, chiếc còn xanh, chiếc đã vàng úa, lốm đốm những vết nâu. Rồi còn bèo nữa. Những cánh bèo lớn nhỏ đủ thứ bị giạt vào bè giờ đây nằm phơi nắng, những bông tím rung rinh và héo dần dưới làn gió sông có lúc nóng hừng hực.
Mù u lượm từ những chiếc bè như trên có khi vừa lượm vừa chơi một lát đã đầy rổ. Kể cũng là nhiều rồi đó, nhưng không bằng lượm ngay dưới gốc cây mù u mọc ven sông. Chỉ dưới một gốc cây mù u thôi, người ta có thể lượm được vài chục trái. Nhiều khi trái mù u rụng do nước mưa chảy hay nước sông dâng lên làm cho trôi và lăn lại nằm gần nhau như những cái trứng trong một ổ trứng, tha hồ mà hốt! Ngoài ra cần phải nhớ tìm lượm thêm những trái đã rụng từ lâu nhưng nằm khuất dưới lớp lá mục
Mù u lượm về được đem đổ ra phơi ở sân như phơi lúa. Ở thôn quê, nhà nào cũng có một cái sân phía trước, nền đất nện cứng, quét dọn sạch sẽ, và thường thì nhà nào cũng có mù u, trải phơi ở sân.
Trẻ con chơi trong sân hay quanh nhà cứ ra chỗ phơi mù u lựa lấy những trái thật tròn và thật lớn để làm đồ chơi. Muốn làm một món đồ chơi nào đó, trước hết phải lấy một con dao nhỏ cạo cho sạch lớp vỏ bao bọc chung quanh cái sọ mù u. Đoạn mài cái sọ ấy xuống nền xi măng hay dùng giấy nhám đánh cho láng. Thế là có một hòn đạn (hòn bi) dùng chơi bắn đạn. Một đứa trẻ có thể có hàng chục hòn đạn như vậy. Muốn làm một món đò chơi khác như làm một cái ống điếu chẳng hạn thì lấy dao cưa phần trên của sọ mù u rồi moi cho hết cái nhân ở bên trong, xong khoét một lỗ nhỏ bên hông và gắn vào đó một cái ống trúc dài độ bảy, tám phân là thành cái ống điếu. Cũng có thể làm một cái chong chóng bằng một miếng tre mỏng, trục chong chóng là một cọng tre cho đâm xuyên qua trái mù u đã moi ruột. Đoạn dùng một sợi dây nhỏ quấn vào trục rồi kéo mạnh làm chong chóng quay tít.
Trẻ nhỏ thì chỉ chơi với mù u đại khái như trên, nhưng người lớn thì dùng trái mù u để làm một món đồ thực dụng: một cái gáo nhỏ dùng múc nước mắm. Lựa một trái mù u thật tròn và thật lớn, gáo còn tươi màu vàng, cưa miệng và moi ruột như vừa nói, đoạn khoét hai lỗ nhỏ gần miệng để tra vào một cái cán tre là xong. Cái gáo mù u giống hệt cái gáo dừa thường dùng để múc nước, nhưng nhỏ xíu và trông thật dễ thương. Hình ảnh một cái gáo mù u nhỏ xinh xắn do một cô bán hàng rong dùng múc chút nước mắm tỏi ớt chan lên dĩa thức ăn trước khi trao tận tay mình một buổi trưa hè là một hình ảnh không thể quên được.
Nhưng mà trái mù u không phải chỉ được dùng để chơi hoặc để làm đồ dùng trong việc ăn uống thôi đâu. Còn nhiều công dụng khác nữa. Ở nhà quê không có đèn điện, nhà nào nghèo không có tiền mua dầu lửa đốt đèn thì dùng đèn dầu mù u. Mù u phơi khô đập lấy ruột rồi dùng máy ép để ép lấy dầu. Máy ép dầu mù u rất đơn sơ, cốt yếu chỉ là hai khúc gỗ lớn ép lại với nhau, có khi hai khúc gỗ ấy lại chính là gỗ mù u!
Cây đèn dầu mù u lắm khi thật là giản dị: một cái chén hay một cái dĩa đựng dầu có cọng tim nằm vắt lòng thòng ra vành miệng để đốt. Đèn dầu mù u có lẽ hưởng tâm lý của tên gọi nên ánh sáng lúc nào trông cũng có vẻ lù mù. Vả lại dầu mù u khi đốt lên có khói xanh bốc lên bay khắp nơi làm không khí đục mờ. Một căn nhà lá nghèo nàn trống trước hở sau mà đêm đốt lên một cây đèn dầu mù u càng làm tăng thêm vẻ nghèo khổ, cơ cực. Tuy nhiên, nếu bên cạnh ngọn đèn có vài mái đầu trẻ thơ cặm cụi tập đọc, tập viết thì đó là một cảnh tượng cao đẹp, trông thật cảm động.
Ngoài cách đốt đèn bằng dầu, người ta có thể làm những cây rọi để đốt. Mù u ép xong, lấy xác còn lại trộn với một chút bông gòn, tẩm vào một chút dầu mù u rồi quấn vào một cọng tre như làm một cây nhang lớn: đó là được một cây rọi. Một buổi tối nếu đi ngủ sớm chỉ cần đốt một hoặc hai cây rọi là đủ. Cũng có thể đập lấy ruột mù u phơi cho héo rồi xắt ra từng miếng mỏng, đoạn xỏ xâu vào một cọng tre: thế là có một cây rọi kiểu khác. Gặp những năm kinh tế khó khăn, dầu lửa khan hiếm, nhà khá giả ở nơi không có điện thì đốt đèn với mỡ heo, dầu phọng; còn nhà nghèo thì thường đốt với dầu mù u hay dùng cây rọi.
Ngoài việc dùng để đốt lấy ánh sáng, dầu mù u còn được dùng để xức các loại ghẻ, nhọt, mụn u. Đốt một trái mù u cho cháy thành than, đoạn tán than ấy cho nhuyễn và trộn vào một chút dầu mù u là có được một thứ thuốc xức ghẻ hoặc nhọt hay tuyệt.
Nhà nghèo thiếu phương tiện, ăn ở kém vệ sinh, lại gặp lúc xà-bông thiếu thốn không đủ để tắm giặt như trong những năm trước 1945 thì ghẻ chốc tràn lan, nhiều khi cha mẹ con cái ai cũng bị nổi u nổi nhọt đầy đầu đầy cổ. Nhưng không sao, đã có thuốc làm bằng than mù u trộn với dầu mù u để xức! Những mụn nhọt sưng lớn mà chưa bể thường làm nhức nhối, nhưng sau khi xức thuốc như trên thì tụ mủ rất nhanh và mụn nhọt sẽ bể, cái cùi được tống ra ngoài và sau đó vết thương được lành chóng vánh.
Ngoài ra và sau hết, xin nói thêm là trái mù u còn được dùng trong việc hết sức đặc biệt, về quân sự: rải xuống đường cho quân giặc đạp nhằm và trượt té! ai cũng biết là trái mù u tròn và rất cứng, ban đêm đi đạp nhằm những trái mù u phơi ở sân, nhất là khi chân mang guốc, thì trợt té dễ dàng như đi giày trượt có bánh xe! Một anh bạn giáo sư nhắc lại là trong lịch sử kháng chiến chống Pháp, nghĩa quân miền Nam đã rải mù u ngoài đường rồi nằm chờ lính Pháp đi qua trợt té để ào ra bắt sống! Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng, người đã cho tác giả hai câu tục ngữ trích trên đây, cũng cho biết thêm là ở vùng Huế có lưu truyền một bài vè gọi là Vè thất thủ trong đó kể việc quân của triều đình ta đã rải trái mù u ở cửa Ngọ Môn khiến lính Pháp té ngã.
Xem như trên, cây mù u và trái mù u thật là phổ cập, dính liền với đời sống dân Việt, nhất là ở thôn quê hay miệt vườn miền Nam. Người ta có thể tưởng tượng ra một căn nhà cột bằng gỗ mù u, trong nhà đốt đèn dầu mù u, ngoài sân phơi một đống trái mù u và có một đám trẻ chơi với trái mù u, cạnh đó là một thanh niên vạm vỡ đang cưa cây mù u để lấy ván đóng xuồng, và chiếu xuồng đậu ở đầu cầu dưới bến sông cũng làm bằng gỗ mù u! Cái gì cũng là mù u cả! Cho đến trên một chiếc ghe chở hàng đi buôn nào đó cặp bến chờ con nước, người khách thương hồ nằm trong ghe cũng nghe trong lùm cây mù u trên đầu tiếng cánh đập lạc xạc của con dơi bay tìm cạp những trái mù u chín, hoặc thỉnh thoảng nghe được tiếng trái mù u rơi "bộp" xuống khoang thuyền hay "tõm" xuống mặt sông. Và người khách thương ấy bỗng cảm thấy một nỗi buồn nhớ mênh mông dâng lên trong lòng, cảm hứng cất giọng khẽ hát một bài hát theo điệu lý, lý mù u:

Trăng đã lên chơi vơi rừng u
Mù u đã chín ơ
Soi bóng trong khoang ghe rường ơ
Mù u đã rơi...

Đến đây quý bạn độc giả đã thấy nói nhiều về mù u nên chắc hẳn muốn biết tại sao bài này lại có tựa "Mù u năm ngoái".
Xin thưa là nguyên gần đây, trong một chuyến viếng thăm Á châu, người viết có dịp đến dưới một gốc mù u để tìm lượm trái. Lúc đó tôi chợt nhớ lại câu thơ bất hủ trong truyện Kiều: "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Sở dĩ có sự liên tưởng đó vì tôi thấy hoa đào trong câu thơ và trái mù u có một cái gì phảng phất giống nhau. Hôm ấy thật không thấy một trái mù u nào rụng quanh gốc cây cả. Có lẽ vì những người đi trước lượm hết hoặc vì chưa tới mùa có trái chín rụng. Tuy nhiên theo kinh nghiệm, tôi bới tìm trong bụi cỏ và dưới những lớp lá mục thì tìm ra được vài ba trái mù u còn đang nằm ẩn trong đó. Đó là những trái mù u đã rụng từ lâu, từ những mùa năm trước, năm ngoái, và vì liên tưởng tới những cánh hoa đào năm ngoái trong câu thơ Kiều nên người viết xin được gọi những trái mù u ấy là mù u năm ngoái cho có phần thi vị.
Và nói rộng ra, người viết nhận thấy những trái mù u lượm được dưới gốc cây hôm ấy mang hình ảnh của thời ấu thơ ở quê nhà, và có cảm tưởng là chúng đã nằm chờ người bạn cũ tìm đến lượm lên. Vì vậy, nếu trọn câu thơ trong truyền Kiều là "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" thì tại sao đây không phải là "Mù u năm ngoái còn chờ cố nhân", phải không quý bạn?

Huỳnh Hữu Cửu
                         Mù U quê tôi
Ong bầu vờn đọt mù u
Lấy chồng chi sớm lời ru thêm buồn...

Không biết những hàng cây mù u soi bóng bên dòng sông quê tôi có tự bao giờ, có lẽ từ thuở người xưa đi mở đất đã gieo trồng rồi cây bám đất sinh sôi.Thú thật với cán anh chị em rằng , mù u chả ăn được , chả làm gì hết…mà không hiểu sao nó lại đi vào thơ ca , đi vào cuộc sống ngọt lịm và chứa chan tình người như thế , nó len lỏi vào cuộc sống chúng tôi , lủ trẻ chỉ biết ăn rồi chơi không lo toan phiền muộng với cơm áo gạo tiền
Nhánh mù u con bướm vàng không đậu
Anh bao chiều về thờ thẫn qua sông
Sông quê trường làng con đò bên cát lỡ
Chỉ vì em sang mà thành điệu nhớ nao lòng…

Ông nội tôi kể thời ông mới đến cù lao này, ngọn mù u đã cao xấp xỉ mái đình. Thân cây tròn thẳng, có thể cao trên chục mét; lá mọc đối, thon dài, phía gần cuống hơi thắt lại. Hàng năm cứ vào đầu tháng hai, lẩn trong vòm lá xanh rộng là những chùm hoa trắng tinh nở rộ. Hoa mù u lớn, thơm dịu và có nhiều cánh như hoa mai. Lúc ấy, lúa cũng vừa vàng đồng, thế là hương hoa, hương lúa cùng hoà quyện theo làn gió xuân lan toả khắp nơi nơi…
Hình ảnh có liên quan
Rồi khoảng giữa tháng mười, quả mù u bắt đầu ửng chín. Quả căng tròn cỡ quả nhãn. Lúc này vỏ của chúng không xanh mà dần ngả sang màu vàng nhạt, và mỗi khi gió giật, quả lặng lẽ xa cành… 
Gặp những năm cơ khổ, ông nội tôi cùng những người dân trôi nổi, tìm nhặt quả mù u đem về giã nhuyễn, đắp dính vào mảnh tre khô, thắp sáng thay đèn. Lợi ích khác là gỗ mù u còn dùng để đóng ghe, làm cột nhà…rồi làm cái thớt , vì gổ mù u rất chắc . Chất dầu trong quả nếu nấu cô đặc lại sẽ là thứ dùng thay xà phòng hay làm thuốc trị ghẻ lở, thấp khớp… ở những nơi xa thầy, xa chợ…
Nghe ông kể vậy nhưng mãi về sau, khi lần đầu về thăm quê nội, tôi mới có dịp ngắm kỹ càng cây mù u và còn nhặt trái nhờ nội làm đèn. Đêm ấy bên ánh đuốc chập chờn, bốc khói cay xè… Tôi không hiểu ông bà và cha tôi nghĩ gì, nhớ gì hay là do chất cay nồng ấy mà khoé mắt ai nấy đều đọng lệ…
Cây mù u , lá mù u
Vợ chồng cắng đắng , thằng cu làm hòa...

Đã bao nhiêu năm rồi , tôi lại về thăm quê , mái đình ngày xưa vẩn còn đó , cây mù u sát đình vẫn còn , nhưng nó đã mang hơi hướng của hiện đại , bê tông đã trải dài trên sân , không còn nền cỏ ngày xưa , nơi chúng tôi hay chơi nhảy , chơi nhảy dây , bắn cu li…và nằm dưới tán lá mà kể chuyện tây tàu . Tôi rón rén bước chân khẻ nhẹ để tìm lại kí ức như ngày xưa , nhưng cảnh củ thì đây mà kí ức ngày xưa không tài tình nào quay lại
Dưới cội mù u già này đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đời , biết bao nhiêu kiếp lầm than , để rồi vẫn hiên ngang theo năm tháng…..không hiểu sao biết bao nhiêu phận gái chồng xa và biết bao nhiêu kí ức buồn man mác lại gắn vào cây mù u ấy , vào thơ ca . tôi hỏi nội sao lại vậy , nội nói không biết nữa con …chắc tại cái tên của nó kết bằng chữ u , u của u buồn , u của u sầu con à
Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn chặt với ruộng đồng nơi có dòng nước mát lành, ruộng vườn xanh ngát với những con người thật thà, cần mẫn lắm lúc chỉ là nỗi nhớ mông lung…
Mấy hôm rày không hiểu sao chị bà chị hai hay đt về , út ơi gần tết , chị nhớ nhà quá xá ?.....lòng tôi như quặn lại , mắt cay cay….giờ tôi mới nghĩ ở phương trời xa xuôi ấy , chị ở một mình , nhớ gia đình , nhớ quê là phải ……. và trong kí ức của tôi cây mù u kia nó ngọt lịm như những quả mận , quả xoài để rồi khi xa nơi ấy tôi luôn nhớ về quê nhà , về quê hương , nhớ vê cội nguồn…bạn nhỉ
U Trang