Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Cảng Lộc An ngày nay

  Tình Theo Bến đỗ

Thuyền xa bến đỗ


Bến đỗ
Sóng biển mênh mông, sóng dạt bờ,
Một mình chèo chống chẳng bơ vơ...
Xuôi về bến đỗ bình yên sống,
Một cõi trần gian như ước mơ
NM   

                     Cảng Lộc An bây giờ
Mới hơn một năm quay lại Lộc An giờ thật nhiều thay đổi, lúc ngồi trên xe sau lưng Ti xe chạy từ Long Hải đến Bình Châu thì đã nhìn thấy loáng thoáng qua hàng dương bên đường lô nhô những hàng cục đá mà nơi trước đây chỉ là bãi cát và thuyền thúng mang hải sản từ ghe lớn vào bờ...
Tò mò cho nên khi quay trở lại hai cô cháu đồng ý ghé vào xem cho biết nếu khg lại cứ nghĩ có lẻ đây hàng sản xuất của một công ty nào đó mới thành lập, nghĩ lại thật buồn cười vì...nhà quê !


Cảng LA giờ thay đổi hoàn toàn, nếu trước đây là một bãi cát vắng thoáng đầy nắng và gió nhìn eo hẹp như cửa sông thì bây giờ vẫn như thế, nhưng giờ đây ngay bãi cát là một hàng đê chắc chắn và một bãi đá cũng tương đối dày dặc
Trước mắt tôi là một khu dân cư khá trù phú, nhà cửa, quán xá và ngay cả đường đi còn mới toanh từ quốc lộ vào được tráng ciment sạch sẽ

Nhạc - Thơ - Văn Ngày cuối năm


Phận bạc
Chỉ có chút quà lo Tết thôi,
Nào hay ai lại cướp đi rồi.
Tuổi già phận bạc thân càng khó,
Người nỡ lòng nào cướp của tôi,
NM
                 Ngày cuối năm
Cõi đất hoang cuối làng Hạ ngay bên bãi tha ma. Chỗ đất trống ấy bỏ um tùm vì nhà nào có mồ mả cũng không muốn để sát vào luỹ tre bên xóm có người ở trong. Chỗ này mọc lên những bụi cây ké, cây lá cối xay, cây dướng và bụi lau. Đôi khi, con trâu đi qua quơ mõm chẳng có cỏ rả nhai được, lại lảng ra.
Thế mà vẫn có người ở. Chỗ tận cùng nào chẳng có người ở. Nhưng trong làng không bao giờ coi đấy là xóm, là ngõ, kẻ đến kẻ đi không biết thế nào. Chỉ những người lưu lạc đến đây ngụ cư, trai tráng không có tên trong sổ đinh, không được đóng hàng giáp. Thằng mõ làng còn được chia phần ngồi một mình ngoài cửa, chứ người ngụ cư thì chưa được bằng cu mõ. Ấy thế nhưng hàng năm khi nước sông Cái lên to, trên phủ sức về lấy đinh đi hộ đê thì ông phó lý lại tróc đến cái xóm hoang này. Mày đến nương nhờ đây, mày uống nước giếng đầu làng đây thì mày phải làm thân con lừa cõng việc quan sai. Lão ta trôi giạt đến bãi hoang từ bao giờ. Người ta gọi lão là lão, tên lão là lão hay đấy là cái tiếng để gọi người già mà lão già từ khi nào lão cũng không nhớ. 
Chẳng mấy lúc đã đến ba mươi tháng chạp. Phiên chợ áp Tết, tiếng à à chợ búa nháo nhác đằng cây đa bên kia cánh đồng đã vang động từ sớm. Tiếng vịt cạc cạc, tiếng bò rống, tiếng người chửi nhau... Có xào xạc thế mới ra ngày chợ vét. Bởi vì sớm mai đã mùng một năm mới rồi. Ai dư dả tiền thì chúng họ thong dong đi sắm sửa từ những ngày chợ trong năm. Phiên chợ này của người cố cùng mới chạy được vài tiền, vội nhoáng nhoáng đi vơ cút rượu, thẻ hương, miếng thịt lợn cúng, lẻ gạo nếp... Lão cũng chẳng đào đâu ra đồng nào mà mó đến những thứ sắm sửa ấy. Lão chẳng màng đến phiên chợ. Cái Tết, lại cái Tết, rồi lại cái Tết, những tết nhất thờ ơ qua đi. 
Khốn khổ, ấy thế mà lão, chỉ có lão, lão thuộc tất cả ruộng lúa, ruộng màu, ruộng đồng cao, đồng xa của mọi nhà trong làng. Bởi vì lão quanh năm đi làm thuê đã cày bừa tát nước tháo nước nhẵn các mặt ruộng.  
Bây giờ thì lão đi cuốc. Ruộng trồng màu phải cuốc mới kỹ được đất. Để cắm dây khoai lang, khoai nghệ, lại cải thìa.., lắm giống mới quá. Ruộng huệ hoa trắng lôm lốp như đứa chít khăn đại tang. Chúng nó hoá rồ đến nơi, trồng các cái ăn cái uống linh tinh. Chẳng bận đến lão. Lão chỉ biết bổ nhát cuốc, lão mong được có việc làm suốt giêng hai. Nhưng đến năm cùng tháng tận thế này thì cũng chẳng nhà nào còn mướn cuốc ruộng nữa. Lão không làm dối, mà có lẽ bởi lão cuốc chậm. Cái già đã hất miếng cơm của lão. Nhưng chẳng cần, lão có việc khác, lão ối việc, có người thì có việc. Nhà kia gọi sửa bờ rào, đóng cổng ngăn, đào cái rãnh tát nước dưới ao, lại đánh gộc tre và không đi làm thì lão đi đặt đó, đánh lờ, kéo vó tôm, câu ếch, lão không đi chợ, nhưng thấy người ta đi chợ Tết thì lão cũng nghĩ có khi ta nên đi chợ đong lẻ gạo nếp, mua thẻ hương, khốn khó đến thế nào thì cũng phải lo nhớ đến các cụ. Nhưng chỉ nghĩ chứ chưa Tết nào lão đong được bát gạo, mua được thẻ hương, rồi cái nghĩ nhạt dần, rồi thôi, mà cứ mùng một Tết, lão múc bát nước mưa đem vào đặt lên hòn gạch ông đồ rau trong bếp cúng ông vải và vua bếp, lão cúng chay. 
Ờ thì cũng phải đi chợ một cái xem làng nước họ chợ búa ra sao. Cái phiên chợ chửi nhau, đánh nhau, cướp giật của nhau cũng vui mắt đấy. Vẫn còn hàng lá dong, lạt giang bởi vì cũng chẳng thiếu nhà tối ba mươi mới luộc được đôi bánh chưng. Bác hàng dừa bày lên mặt gánh một đống gáo dừa có chuôi cả sọ, có cái đã đẽo thành muôi, chỉ một chốc đã bán hết nhẵn. Thiên hạ mua gáo, mua muôi làm gì mà đổ xô vào thế. Tết nhất lắm thứ phải đong, phải múc, phải khảo chăng. Có đứa bảo sọ dừa già gọt làm quân xóc đĩa còn nảy rền trong bát hơn quân vỏ diêm. Chẳng biết thế nào, chỉ biết vào những tháng củ mật tháng ăn chơi thế này thì đâu cũng có đám thò lò, đám xóc đĩa. 
Dãy hàng tranh lơ thơ chỉ còn mớ tranh tiền rẻ nhất. Tờ giấy hồng điều đỏ khé in từng chuỗi hình mười đồng tiền. Một chinh Khải Định được lấy mười tờ tranh tiền.
Có năm lão đã mua chơi tranh tiền. Lão dán các cột lều, ngoài cửa, trong bếp. Để bói xem năm mới có tiền vào nhà không. Nhưng không khi nào có tiền vào nhà, cũng không có tiền đội nón ra đi, chẳng thấy gì cả. 
Lão vào bãi bán trâu bò. Lúc nãy chắc có nhiều trâu, nhiều bò, bởi cái bãi lầy bùn còn in vết móng trâu, lại lắt nhắt móng dê hay móng chó. Lúc này thì chợ trâu bò vắng tanh, chỉ còn mỗi một người mổ bò thuê đương cọ mấy con dao trong cái xảo thả dưới ao làng. Trong cái xảo còn có bốn cái móng bò đen gồ ghề nổi lơ lửng trên mặt nước. 
Lão nói:
- Này đằng ấy cho tớ bốn cái móng bò nhé. Tớ xin cái móng chứ không xin cái vó đâu!
Bác đồ tể mặt còn đỏ lựng. Dáng hẳn lúc nãy vừa mổ, vừa xả thịt vừa nốc rượu. Bác đồ tể nói to: 
- Có cái bong bóng nữa. Định đem vứt cho chó gặm, người có tết thì cũng phải cho chó cái tết chứ. Lão giơ hai tay như can đôi bên đánh nhau. Ấy chết. Ấy chết, đừng phí của giời. Cái móng bò ninh lên cũng được nồi nước xuýt. Cái bong bóng thì đem phơi nắng may ra bán cho con mẹ hàng rượu. Một đống tiền cả đấy. Ông ơi! 
Người đồ tể cười hề hề: 
- Ờ thì cái bong bóng để đấy chốc nữa bán cho con mẹ buôn rượu. Còn cho bố cầm cái guốc bò này về, của thằng con rể sêu tết đấy nhé. 
Câu tán dại đâm ra mất cái bong bóng. Phải mau mau kẻo nó không cho cái móng bò nữa thì có mà ăn mày. Lão vơ đâu được cái giỏ mất hom, nhét cả bốn cái móng bò còn dính lầy nhầy lông và bùn lấm. Rồi tất tả đi ngay. 
Ra khỏi chợ, lão nhìn lại cài giỏ móng bò mới thực yên tâm. Chẳng có đồng mốc nào, đi chợ cũng được những thứ này. Cái xương, cái móng cứ đun mãi tất phải ra sụn ra nước xuýt. Thế là có tết rồi. 
Đến cái quán giữa đồng, lão ngồi buộc lại giỏ. Bà hàng nước đã nghỉ dọn hàng quán trống gió thổi ào ào vào lều. Lão trói vào lại tháo ra, lại cầm từng cái móng bò lên ngắm, ngắm chán rồi lại đâm nghĩ ngợi lấn thẩn. Khốn nạn thân ông, cái móng bò không phải là cái vó bò, cái vó bò thái ra chấm tương gừng, nhai rau ráu, cái móng thì... thôi thôi ông cứ đắp bùn hầm cho mấy ngày mấy đêm thì đến sừng trâu móng trâu cũng phải chảy ra nước xuýt. Thuở xưa thằng vua còn ninh mầm đá ra ăn cơ mà... 
Ngoài ruộng, một đàn quạ khoang xúm xít trên một luống đất cày ải. Bọn chim chóc trộm ngày này đương chơi trò tranh nhau cái gì đây. Lũ quạ thoáng thấy người ra bay rào rào lên, lão trông thấy trong luống đất một chiếc bong bóng lợn, à mà không phải bong bóng lợn cái bong bóng trâu mới to ngồn ngộn lên thế. Không biết bọn quạ tha ở đâu về hay là đứa nào ném ra đây. 
Thằng mổ bò kia không cho ông thì ông cũng được giời cho, giời cho ông cái bong bóng trâu còn to bằng mấy cái bong bóng bò. Thật là của giời cho. 
Những con quạ chết đói lại táp xuống. Có con nhảy vào mổ cái bong bóng. Có con táo tợn đậu xuống vai ông lão, như toan quào vào mặt cái thằng người đến cướp cơm của nhà quạ. Những những con quạ khoang địch sao được lão ông mà túm được con nào thì ông cũng cho chúng mày vào nồi tất. Tết này ông ăn tết thịt bò ông ăn thịt quạ. Lập tức, lão huơ tay lên. Những con quạ khôn ngoan đã đọc được cơn giận nổi đùng đùng trên mặt lão. Cả lũ bay biến đi. Thế là lão nhặt cái bong bóng nhét vào giỏ. Lão nhổ cái cỏ xước tết làm lạt buộc những cái móng bò xách một bên tay. 
Lão chợt lắng tai. Tiếng chuột kêu chí chí ở góc tường đất. Không phải tiếng chuột nhắt đuổi nhau. Hình như tiếng chuột nhút nhít mới đẻ chưa mở mắt, đương chen nhau trong ổ, lão rón chân bước lại. Lão nhấc hòn gạch vồ. 
Một ổ chuột tý nhau lúc nhúc đỏ hon hỏn. Con chuột mẹ nằm giữa chưa kịp ngoái đầu lên, bàn tay lão đã chít cổ lôi ra. Con chuột mẹ giãy được mấy cái, tắc thở. Thế là cả chuột mẹ chuột con lão dốc tuột vào giỏ. Đã có thịt bò, lại thêm thịt chuột, được quá 
Lão về đến những túp lều cái xóm người ngụ cư. Cái lều của lão như đống rạ lởm chởm. Gió rét ngăn ngắt. Tự dưng, lão lẩm bẩm một câu bơ vơ: "À à thế này mới là Tết" lão đương hả hê ta đây. Mấy cái lều ở ngoài chưa thấy hơi hướng ai về. Gió thổi kẽo kẹt như có ma ở các ngôi mộ đằng kia lên đánh đu trên bụi tre.
Người ta đi đâu, lão không biết, lão cũng chẳng để ý Chúng nó trốn tết hay chạy tết, có khi kéo nhau bỏ đi luôn cũng nên. Ở ngoài tha ma có nhà nào đi sửa mộ cuối năm. Gió tạt vào mùi hăng hắc hương đám ma. Nhưng trong đầu lão chỉ đương có những cái mừng. Nước xuýt luộc bò, cho thêm cái bong bóng này vào thì ngon ngọt đứt đuôi rồi. Lại còn xó rượu đấy, rượu nhắm với thịt chuột bao tử nướng.
Lão đã tưởng ra tiếng pháo xa xa, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa nối lên. Ba ngày tết qua rồi, đã có người gọi hẹn mừng tuổi lão từ trong năm, mùng bốn vào dọn vườn động thổ. Hôm ấy thì được chén tuỷ luý thẳng thừng rồi. 
Lão nhìn cái bờ rào cúc tần. Để những thức ăn sống sít này chỗ cao ráo cho khỏi con kiến bò vào, không khéo thì có khi cả con chó đến ngoạm mất. Nhìn trước nhìn sau, rồi lão gài cái giỏ chuột vào hốc thân cây dướng. Bốn cái móng bò và cái bong bóng trâu thì treo trên cành cây dường ở ngay cửa lều, trông ra thấy ngay. 
Lão vào bếp thổi lửa, vơ mấy cái que củi đốt sưởi rồi ngả người xuống ổ rơm.
Lão cứ nghĩ vơ vẩn toàn những cái vui, tưởng như vừa được một buổi sắm sửa bận rộn rồi lại đã cơm no rượu say ngoài chợ. Hai con mắt lão gà gà díp lại trong tiếng pháo lạch tạch đâu đây. 
Lão chợp mắt một lúc. Tiếng gió lùa rào rạt trong vòm trời âm u, trở dậy không biết sắp tối hay còn ban ngày. Lão ngồi dậy lò dò ra đem các thứ vào bếp. 
Trong hốc cây dướng để cái giỏ chuột. Bốn cái móng bò, cái bong bóng trâu thì treo trên. Nhưng chẳng thấy các thứ ấy đâu cả. Đứa nào đã thón mất. Hay con cầy, con cáo tha rồi. 
Lão nhìn quanh xem như còn có cái gì rơi xuống đất. Không thấy. Lão đứng tần ngần, cũng chẳng nghĩ ngợi ra sao

 Tô Hoài

Mộng Chiều Xuân

Nhớ mãi trong lòng buổi cuối Đông,
Trông chờ, mong ngóng Tết trong lòng...
Hương chanh thanh khiết mang Xuân đến !
Xuân của ngày xưa sao nhớ mong ...
NM 
Mùa ngóng tết thần tiên
Cuộc sống xa nhà gần mười năm đủ để tôi nhận ra một điều rằng, thời điểm nỗi nhớ nhà, nhớ ba mẹ, nhớ khu vườn tuổi thơ ắp đầy kỷ niệm dậy lên trong tôi nhiều nhất, cồn cào và mãnh liệt nhất chính là những ngày này, khi những tia nắng yếu ớt đủ gọi về một ban mai tươi mới. Và làn mưa đã dễ chịu hơn, không làm đất trời xám xịt lại. Không gian ấy đưa tôi về ngày xưa, nơi tôi cùng với tuổi thần tiên bắt đầu náo nức ngóng chờ ngày sẽ mang đến bên mình nhiều nhất yêu thương.

Đó là những ngày tôi và bạn bè đến trường dưới cái lạnh đã không còn tê tái trên con đường làng vừa khô ráo sau cả một mùa lội bùn lầy đến nửa bắp chân, lại trơn tuột, phải bấu chặt mười ngón chân xuống mặt đất vẫn còn lo trượt té. Chúng tôi bắt đầu bàn với nhau về sự chuẩn bị đón tết của mình, khoe với nhau về chậu hoa vạn thọ đã chớm những nụ đầu tiên. Tôi thường là kẻ thất thế nhất, đến lúc đó mới cuống quýt đi xin hàng xóm hoặc mấy đứa bạn “dư dả” một vài cây hoa móng tay, mào gà, một bụi cẩm tú mai và chiết mấy cành vạn thọ về trồng trước sân. Thế là sau đó, buổi sáng nào cũng không cần mẹ giục vẫn dậy từ rất sớm để xem công trình của mình đã có kết quả gì chưa. Tôi và em gái đã reo lên vui mừng khi những chiếc nụ bé tí mong chờ đã rón rén nhú lên giữa bàn tay xanh vạn thọ. Nỗi náo nức trong tôi, và trong em gái tôi nữa, như được nhân lên gấp bội.
Đó là ngày trên gương mặt mẹ tôi giãn ra những nếp lo âu. Mẹ nhìn chúng tôi cười bảo: “Đi may đồ tết, mấy con!”. Niềm sung sướng vô bờ lập tức trào dâng trong lồng ngực đứa trẻ nông thôn nhà nghèo là tôi giây phút ấy. Bởi chúng tôi, mỗi năm chỉ được hai lần may áo quần mới: đầu năm học và chuẩn bị tết. Mà áo quần tết cũng chỉ là bộ quần tây áo trắng vải xoa hoặc khá hơn là vải katê để tận dụng mặc đi học luôn. Tôi vẫn nhớ, mẹ đã không thể có được chiếc áo hồng bằng vải xốp (thứ vải giờ chẳng còn ai mặc nữa) vì quá đắt, mà chỉ may một bộ đồ bằng vải bông ép màu tím hoa cà. Bộ đồ ấy giờ mẹ vẫn giữ trong tủ đồ cũ như một nhắc nhớ dịu êm.Đó là ngày mảnh vườn sau nhà lấp lánh hoa chanh. Ôi! Tuổi thơ tôi đã gắn với vườn chanh ấy quá nhiều kỷ niệm. Vườn chanh mà đâu chỉ có chanh. Nào bồ ngót, mồng tơi, rau dền. Sau những đợt mưa, vườn xanh mướt. Tôi cùng mẹ cắt rau từ chiều hôm để sáng ra tôi đội xuống chợ bán dưới cái nắng rụt rè cuối đông. Tiền bán được, mẹ sẽ cho tôi một ít để bỏ vào chiếc hòn binh đất đặt dưới gầm giường. Đến cận tết, tôi sẽ khui ra và mua cho tôi, cho em gái một chiếc vòng đeo tay bằng nhựa hay cặp nơ buộc tóc thật dễ thương. Giờ ngồi nhớ lại mới thấy hạnh phúc ngày xưa sao mà bé nhỏ, xinh xắn quá chừng. Và ngay lúc này đây, hiện rõ trước mắt tôi là hình ảnh một bé con tóc chấm vai thì thầm giữa vườn chanh đang nhẹ hương thanh khiết: “ra thật nhiều trái, chanh nhé, chị yêu chanh thật nhiều!”. Bé con ơi! Bao giờ ta lại được quay về thơ ngây?
Đó là ngày tôi cảm nhận rõ nhất không khí mùa xuân đã len vào từng hơi thở của cỏ cây, vạn vật. Để giờ đây, khi cầm trên tay tuổi mình, biết mỗi khi xuân đến lại mang theo một nỗi ái ngại xuân thì, tôi vẫn không thể ngăn tôi trong trẻo lạ kỳ, lại rạo rực bâng khuâng một mùa ngóng tết thần tiên…
Ngô Thị Thục Trang
Mùa Xuân non cao,
Vui đón mùa Xuân trên non cao,
Xuân tươi, Xuân thắm sắc hoa đào...
Lặng nhìn trường cũ mùa Đông đến,
Tuổi trẻ thầm vui, ôi nôn nao !
NM
           Một ngày cuối năm
Xuân về!
Những mầm cây cựa mình run rẩy. Gió thổi hiu hiu, dịu dàng, vuốt ve chiều chuộng. Mưa bay rất khẽ, từng hạt bụi sương lướt nhẹ qua đầu. Cây đào trơ trụi suốt mùa đông giá lạnh, cái cành khẳng khiu trồi mấu rồi nhú lên vài mầm xanh bên nụ hoa màu hồng nhỏ xíu. Không gian rộn ràng hơn khi bầy chim về hót. Trên sườn núi áo váy được giặt phơi nhìn giống những cánh bướm sặc sỡ nhiều màu sắc đang xập xoè bay lượn. Vài nhà đã thịt lợn tết, họ mời xóm làng đến ăn một bữa thật vui, số còn lại được treo gác bếp để ăn dần.
Cứ sau mùa vụ, khi những bắp ngô đã về nằm trên gác, công việc nương rẫy đã cạn là lúc người Mông ăn tết. Tết của người Mông mỗi nơi một khác, kéo dài từ đầu tháng chạp đến sau tết. Có nơi ăn tết lần lượt theo họ, có nơi ăn tết lần lượt theo các gia đình trong họ.
Tết của người Mông là một ngày hội, những cuộc chơi, những buổi hẹn hò. Người già nhớ về một thời trai trẻ, hướng về tổ tiên dòng họ. Người trẻ kiếm tìm tương lai, hướng tới một ngày mai tốt đẹp hơn, khát khao một tình yêu lớn, một cuộc sống vẹn nguyên hai chữ hạnh phúc.
Lễ hội năm nay nghe đâu khác hẳn với mọi năm, lần đầu tiên Uỷ ban xã đứng ra tổ chức, các trò chơi như đánh yến, đánh cù, ném pao,... mọi năm chỉ là trò bày ra chơi cho vui năm nay còn có giải thưởng đem về nữa. Các điệu múa, bài khèn, lời hát giao duyên,... là tiết mục để các xóm đua tài với nhau...
Sình rủ tôi đi huyện chơi, nghe nói có đoàn nghệ thuật ở dưới xuôi lên biểu diễn mấy ngày. Bọn thằng Sèo rủ tôi đi khám phá phía trong khoảng tối của Thác Tiên. Thằng nào cũng nói những lời hay lời ngọt để tôi đi cùng. Tôi chưa biết phải từ chối chúng như thế nào. Bố tôi đang ốm nằm trong nhà, mẹ tôi đến giúp bà ngoại tôi dọn sang ngôi nhà mới, tôi không thể đi đâu lúc này.
Bọn chúng ra về với sự thất vọng hiện rõ trên nét mặt, "Sẽ còn rất nhiều dịp khác để cả bọn cùng đi chơi", tôi nói vậy không đứa nào nói thêm nữa, chúng đã hiểu được lý do. Bọn chúng đi rồi tự nhiên nỗi buồn không biết từ đâu kéo đến xâm chiếm lòng tôi.
*
Buổi học cuối cùng của năm cũ hơi ồn ào, chẳng có mấy đứa để tâm đến bài vở, chúng đang nghĩ tới những ngày vui sắp tới. Cô giáo hôm nay dễ tính không kỷ luật những đứa lắm lời. Thời gian chậm chạp trôi.
Ra chơi, tôi tha thẩn một mình đi về phía hàng cây cuối sân trường, mùi thơm từ hoa lá thoảng bay nhè nhẹ. Một cơn mưa mỏng chợt đến, chợt đi rất nhanh làm tôi vừa kịp nhận ra đã vội tan biến giữa đất trời. Một cơn gió tràn tới, mùi rượu ngô nhà ai đang cất toả bay ngào ngạt. Thằng Sình vỗ vào vai làm tôi giật mình, đúng lúc đó thằng Sùng ào đến, trống báo vào lớp.
Cô giáo dặn dò cẩn thận lũ học trò trước khi nghỉ tết. Gớm, sao mà chúng nó ngoan thế, đứa nào cũng luôn mồm "vâng ạ!". Và tôi dám chắc rằng những đứa to mồm nhất kia là những đứa chóng quên nhất. Vừa nghe cô nói xong chúng đã quên mất gần nửa, ra đến cửa lớp chúng chẳng còn nhớ gì nữa.
Trống tan trường. Vỡ oà sự náo động, rồi nhanh chóng tan về khắp nẻo, sân trường lại yên vắng một mình. Ngôi trường buồn lặng lẽ. Mưa bụi lất phất bay từng lớp nối đuôi nhau là là trên mặt đất. Tôi lững thững đi về nhà, lòng cô đơn đến lạ. Mưa dày hơn. Gió lạnh nghiêng nghiêng thổi. Con đường loang loáng ướt.
*
Chiều.
Trời không mưa nhưng xám ngoét. Gió thổi vẫn đầy hơi lạnh. Cây đào đã bung vài cánh hoa. Cái màu hồng mỏng manh ấy đang run lên trước cơn gió lạnh. Vẫn còn vô khối cành khẳng khiu mới trồi lên những mấu. Còn hai chiếc lá không biết có phải từ xuân trước đang cố bấu víu vào cái cành đã già nua cằn cỗi, mỗi đợt gió thổi lại bạt đi, chỉ mạnh chút xíu nữa thôi sẽ lìa cành. Những chồi non mơn mởn đầy sức sống đang xoè ra ngay cạnh đó.
- Mơ mộng quá!
Tôi quay lại gặp ánh mắt thằng Sùng, cái nhìn của nó có gì là lạ. Tôi chưa kịp hỏi câu nào thì nhìn thấy cô giáo và thằng Sình đang đi vào vào từ đầu ngõ. Tôi vội trở về và mời cô giáo vào nhà. Cô đặt gói quà lên bàn. Bố tôi ngồi nhỏm dậy.
- Cảm ơn cô giáo đã đến nhà, mang quà làm gì, chỉ cần đến chơi thôi...
Cô giáo vội nói:
- Nghe tin anh ốm, em tới thăm. Anh đã đỡ tí nào chưa ạ?
- Đỡ rồi! - Bố nói. - Khỏi đến nơi rồi ấy chứ, cái thuốc của y sĩ Kiên tốt thật đấy.
Mẹ tôi đi lấy rau về thấy cô giáo đến chơi, vui quá bỏ bó ngồng cải ngoài cửa vào nhà ngồi nói chuyện. Câu chuyện kéo dài từ chuyện chồng con của cô giáo đến chuyện làm nương, dựng nhà, lễ hội ,bánh trái, bếp núc, tết nhất,... Không ngờ cô giáo là người Kinh mà lại biết nhiều về phong tục của người Mông đến thế. Bố mẹ tôi nói chuyện với cô giáo nổ giòn như rang ngô trên bếp...
- Chơ ơi, về đây cô bảo.
Bỗng cô giáo gọi tôi lại gần.
- Thấy em thích đọc sách cô cho mượn cuốn này, đọc hay lắm, tri thức nhân loại phần nhiều đến từ sách vở, thích đọc sách là một điều tốt.
- Dạ. Em cám ơn cô ạ!
Tôi đáp rồi đón lấy quyển sách từ tay cô. Lần đầu tiên tôi được cầm trong tay một quyển sách dày và đẹp đến vậy. Sùng và Sình ngồi sát lại bên cạnh. Tôi đặt cuốn sách lên đùi, hàng chữ mạ vàng trên nền bìa màu nâu: "Truyện cổ các dân tộc Việt Nam". Sùng đưa tay rờ lên mặt chữ.
- Đẹp thật đấy! - Nó suýt xoa. - Lúc nẫy thấy cô giáo cầm tao cứ tưởng là hộp bánh, sao nhìn thấy giống thế.
- Mày thì suốt ngày nghĩ đến ăn. - Sình nói.
- Dễ mày không ăn mà sống được chắc. - Sùng cãi lại.
Mẹ bảo chúng tôi đem sách ra ngoài hè, trời sáng dễ xem hơn. Cả ba thằng chạy tót ra sân. Chúng tôi ngồi chụm đầu lại đọc. Một thế giới đầy mầu sắc huyền thoại hiện ra, cái thiện luôn thắng cái ác dù trong cuộc đấu tranh sinh tồn ấy nó luôn phải chịu muôn vàn khổ cực. Cuối cùng cái thiện cũng đến được thiên đường hạnh phúc.
Bất giác tôi thấy câu chuyện vừa đọc có cái gì đó giống với thời tiết lúc này đến thế, mùa đông héo úa dẫu có dài dằng dặc rồi cũng phải đi qua để mùa xuân tràn về, cây cối cằn cỗi rồi cũng đến ngày đâm chồi nảy nở những mầm xanh./.
 ST 
Vì sao lạc,
Sao lung linh huyền ảo,
Trong thời khắc đón Xuân...
Chợt thấy hồn thanh thản,
Dưới trời sao thênh thang
NM
"Cuối năm... gặp Mim!"
 Có người như mình. Về ăn Tết muộn. Lại đi một mình. Có vấn đề đây. Tránh ra không dây dưa - Tôi tự nhủ khi thấy bóng một cô gái ở chỗ đón xe dù đi Huế.
- Bạn đi mô ? - Một giọng Huế cất lên. 
- Truồi - tôi đáp 
Kinh nghiệm của một thằng bần hàn chảy trong huyết quản cho tôi biết cô ta cũng dạng rách như mình. Tôi có hai lời nguyền từ thuở bán cả máu để lết vô  giảng đường đại học - Không lấy vợ sớm. Không lấy vợ nghèo. Kết hợp hai cái nghèo ra cái mạt. Tốt hơn là tránh từ xa.  - Truồi có dâu ngọt lắm!
-  Ừ.
- Bạn là sinh viên? 
- Ừ.
- Trường mô?
- Bách khoa.
- Khoa mô?
- Hỏi chi kỹ rứa? - Tôi khó chịu ra mặt.
Thấy cái vẻ khó ưa của tôi, cô ta bĩu môi quay lưng .Nghĩ mình cũng mất lịch sự, tôi hỏi cho có chuyện:
- Học trường mô ?
- Bách khoa  - Ngành cơ khí - Cô ta khinh khỉnh đáp.
Ôi mẹ ơi! Con gái! Tôi đã nê nể nhưng vẫn hoài nghi :
- Sao không gặp?
- Mới dứt sữa phổ thông mấy tháng.
-  Hèn chi... giọng Hoa Học Trò !
- Còn hơn giọng cụ non - Cô ta trả miếng...
Tôi lén nhìn cô ta. Tóc dài. Suôn mượt. Đen tự nhiên. Không nhuộm. Không duỗi. Giờ của ấy thuộc loại quý hiếm. Mái tóc “nhà quê” ấy ưa nhìn thật, cứ muốn “sờ” bằng mắt! Vũ khí hủy diệt của cô ta chính là bộ lông mày đậm như mực tàu trên đôi mắt to và sáng. Đúng là “nét xuân sơn” cụ Nguyễn Du tả. Nhưng xách hành lý cũ mèm, áo quần tầm tầm, chắc hàng sida!
Một chiếc xe đò trờ tới. Cô ta vẫy tay rối rít. Tôi cũng vẫy. Lơ xe hỏi:
- Đi mô?
- Huế. Còn chỗ không?
- Khối! Đưa xách đây! - Anh lơ bảo cô gái. Nhưng cô ta không đưa, ôm khư khư vào lòng
- Mấy? - Tôi cảnh giác.
Hắn xòe một ngón.
- Chém ác rứa!  Sinh viên mà! - Tôi nhăn mặt.
- Bước lên hay đợi xuống ẳm? - Tên lơ gầm gừ.
Líu ríu lên xe. Ghế ken kín, thiếu đường ngồi chồng lên nhau. Thằng lơ lấy một miếng ván bắc cầu giữa hai dãy ghế bảo cô ta ngồi còn tôi hắn để mặc. Tôi phải lấy cái xách bỏ xuống sàn xe làm ghế. Chưa ấm chỗ hắn đã đập thùng xe cho bác tài thắng gấp và cố nhét một người đàn ông nữa vào chỗ cô ta.
- Gãy ván! - Cô ta càu nhàu
- Gãy biết ngay. Chật mới ấm. Thích chết còn vờ!
Thằng lơ mất dạy nhe răng cười. Hắn bắt đầu thu tiền, vừa văng tục vừa dọa tống cổ xuống xe hành khách nào dám kèo nài thêm bớt.
Tôi quên ngay cô ta và bắt đầu nghĩ đến anh tôi. Anh viết thư ra lệnh năm nay tôi phải về ăn tết, với lại mừng anh đã có tiệm sửa xe. Bốn năm học xa nhà tôi chỉ về tết có hai lần. Tôi tận dụng từng mẩu thời gian để kiếm tiền ăn học. Đồng tiền đối với tôi to lắm. Không to sao được khi đến ba cuộc đời góp lại để làm nên một thằng sinh viên. Người ta sinh ra bị nhốt trong cái cơ thể mình không hề chọn lựa, trong một gia đình cũng không thể chọn nốt. Tôi ghét nhất câu “ở hiền gặp lành”. Gia đình tôi đều là người hiền lành thế mà họ gặp toàn điều dữ. Cha tôi chết vì kiệt sức, thổ huyết. Mẹ tôi bị sét đánh giữa đồng. Anh cả tôi liệt hai chân từ nhỏ. Vốn nung nấu ý chí kiếm sống bằng chính thân thể tật nguyền của mình, anh kiên trì học nghề sửa xe đạp, Honda. Khi được tin mẹ mất anh đang ngồi sửa xe ở tiệm chủ. Dầu mỡ trộn với nước mắt nhòe nhoẹt. Khi ấy tôi đang học lớp 10. Anh không cho nghỉ học. Anh bảo anh và thằng em út học không vô sẽ hành nghề sửa xe nuôi tôi học tiếp. Hai thợ nuôi một thầy. Nghĩ đến cảnh người tật nuôi người lành, em nuôi anh trái khoáy nên tôi vừa học vừa làm đủ mọi thứ kiếm tiền. Bản năng kiếm sống, khát vọng thoát đói nghèo rượt đuổi tôi khắp mọi nơi, mọi lúc. Tôi đọc ngấu nghiến những bài viết nói về những con người thành đạt từng có một quãng đời bất hạnh, nghèo khó để động viên và mơ mộng. Tôi lao vào học như điên để ra trường xếp loại giỏi. Không thế, không tiền, không giỏi sẽ không có việc làm.
Tiếng còi ầm ĩ cắt ngang dòng hồi tưởng của tôi. Hộp thịt di động bắt đầu lên cơn. Lồng lên. Vượt phải. Lấn trái. Không nhường xe nào. Những cú xỏ chỉ làm tim mọi người như ngưng đập. Bàn tay cô ta bấu vào vai tôi trong nỗi sợ hãi điếng người khi những mũi xe ngược chiều cứ như đâm thẳng vào mình. “Trả tiền để về quê ăn tết chứ không phải để chết dọc đường” - một hành khách la lên. Rồi nhiều người phụ họa. “Chết biết liền. Giờ này mà đủng đỉnh có nước tết ăn cứt!”. Đó là câu nói duy nhất bác tài liều lĩnh bặm trợn cất lên.
 “Oẹ... oẹ...”. một thứ nước có mùi kinh hãi văng bắn vào quần tôi. Thì ra cô bạn đồng hành đang nôn thốc nôn tháo khi xe qua đèo. “Đi xe không được sao không đi tàu? Người ta có một cái quần đàng hoàng...”. Nhưng câu ấy chưa kịp vọt ra khỏi miệng thì tôi níu lại. Cô ta tóc tai rũ rượi tái xanh tái xám ngó thật đáng thương. Tôi lấy khăn mu xoa lau quần bắt gặp chai dầu Nhị cồm cộm trong túi lấy đưa cho cô ta. Cô ta không cám ơn còn đưa cái bì ni lông vừa nôn cho tôi quẳng qua cửa sổ .
- Dân cơ khí chi mà không chịu nổi mùi xăng dầu.
Có mẩu đèo còn rứa... - Tôi chọc quê.
- Rứa mới luyện.
Qua hết đèo cô ta tỉnh như sáo và bắt đầu hỏi đủ thứ. Dẫu sao tôi cũng có dịp cho cô ta biết sự “uyên bác” của mình về mấy thứ hoa dại linh tinh dọc đường, về “thiên hạ đệ nhất hùng quan” vua Lê phong tặng khi dừng ở Hải Vân quan trên đường đi đánh Chiêm Thành, về những con thú rừng tôi biết nhờ một thời theo cha đi kiếm củi. Cô ta nghe say sưa quên ói. Tôi cũng nói say sưa, suýt quên xuống Truồi. Khi sực nhớ cái chòi sửa xe gần chợ anh tôi khoe trong thư, tôi gọi thằng lơ xe:
- Cho xuống Truồi!
Quay qua cô bạn đồng hành, tôi vỗ vào cái xách cô ta từ biệt:
- Bye nghe!
- Meo...meo... - cái xách trả lời .
 Tôi ngơ ngác. Cô ta hoảng hốt ôm chặt cái xách vào lòng. Tiếng meo... meo... phát ra từ đó càng lúc càng to. Bác tài quay lui quát thằng lơ:
- Mi hại ông rồi! Có mèo trong xe! Tống xuống
Xui lắm!
- Mèo mô? - Thằng lơ hùng hổ tiến tới.
 Cô ta mếu máo nhìn cái xách:
- Tau cho mi uống thuốc ngủ cả viên rồi răng 
không tới nhà rồi dậy. Chừ mần răng?
- Tống con mèo xuống! - bác tài giục.
- Thả con mèo xuống! - Thằng lơ ra lệnh. Hắn xông tới định giật cái xách có con mèo. Cô ta càng ôm chặt cứng. Con mèo không ngớt meo meo. Cô ta nhìn tôi cầu cứu. Dưới “nét xuân sơn“ bây giờ là “làn thu thủy” thực sự. Tèm nhem nước mắt!
- Quẳng con mèo xuống! - Tôi khuyên nhưng cô ta lắc đầu.
- Không chịu thả thì xuống luôn đi! - thằng lơ đậ
cửa cho xe ngừng rồi kéo cô ta xuống.
- Đồ vô hậu! - Cô ta giận dữ.
Xe chạy. Cô ta ôm cái xách có con mèo đứng bơ vơ giữa đường cái quan trong bóng chiều chạng vạng.
Dẫu sao cũng tại tôi vỗ vào cái xách mà con mèo thức dậy. Tôi chậc lưỡi rồi gọi:
- Cho xuống !
Tôi nhảy xuống, đi tới. Cô ta lau nước mắt, mừng khôn xiết.
- Ai bảo đem mèo cho phiền.
 - Người ta quẳng em nhặt về cho mẹ. Nó được sống. Mẹ đỡ buồn. Nhà đỡ chuột. Nhà chỉ hai mẹ con chứ mấy!
- Cô định lên Huế bằng cách nào?
- Đón xe đi nhờ.
- Không sợ như cái cô nữ sinh báo đăng hả?
Cô ta không đọc báo. Khi nghe tôi kể chuyện cô học trò đi xe đò về quê, xe hư dọc đường xin quá giang xe tải bị hiếp tập thể, cô ta sợ tái mặt.
- Chừ răng?
- Tui không biết.
Tôi bước. Cô ta lẽo đẽo theo.
- Không sợ tui hiếp hả? - Bỗng dưng tôi nổi cáu
Cuối năm rước nợ vào thân. Cô ta nghe tôi quát giật mình lùi lại rồi ôm túi lủi thủi theo tôi. Cứ thế đến chợ Truồi. Tôi nhận ra tiệm sửa xe anh tôi tả trong thư. Đó là một cái chòi thì đúng hơn. Mấy thước đất che tạm bợ mấy tấm tôn ven đường. Chiều 28 Tết, anh vẫn chưa dọn “tiệm”. Hai anh em vẫn cặm cụi sửa xe. Thấy tôi, anh quẳng đồ nghề, chùi tay vào áo, líu lưỡi vì mừng:
- Ui chao ! Về... rồi! Về... rồi!
Thằng em út nhảy tưng tưng. Mặt hắn lem luốc như ông ẹ. Chỉ có tôi sạch sẽ trắng trẻo. Cô ta đang đứng sau lưng nhìn cảnh anh em tôi trùng phùng.
 - Ai rứa ? - Anh hỏi.
Tôi kể vắn tắt cho anh nghe.
- Tối rồi xe mô mà lên Huế? Tối ni đành ở lại thôi. Đợi anh sửa nốt cho xong cái này rồi về. Người ta lấy cho kịp Tết - Anh ra lệnh.
Anh lết 2 cẳng chân cong queo như cây sậy đến bên chiếc xe đạp sửa dở dang. Tôi muốn giúp anh nhưng loay hoay chẳng biết làm gì. Còn cô ta không nói không rằng tìm sợi dây cột mèo lại rồi cầm cái ruột xe đang vá dở vá tiếp. Anh tôi ngẩn người khi thấy cô ta thao tác thành thạo.
 - Nhà không có đàn ông, em làm hết - vá xe, vá tôn, sửa điện, sửa nước... - Chặp quen! - Cô ta cười giải thích.
Tối ấy mái tranh nghèo khó có kẻ lạ. Chỉ thằng em lăn ra ngủ. Anh tôi và tôi thức nói chuyện nhường cái giường duy nhất cho cô ta nằm. Cô ta ngọ nguậy hoài. Cả con mèo cũng thao thức vì lũ chuột. Khi anh tôi mệt mỏi ngủ thiếp trên ghế, tôi ra hiên ngồi. Đêm quê yên ắng nhưng nỗi buồn cũ cứ quẫy cựa trong lòng. Tôi nhớ hồi còn sống mẹ ước giá nhà mình có một lần nấu bánh tét cuối năm. Ước mơ nhỏ nhoi ấy đến giờ vẫn chưa thực hiện...
- Anh không ngủ à? - Cô ta bồng con mèo ngồi xuống cạnh tôi.
- Lạ nhà không ngủ được phải không?
- Em lo không thấy em về, mạ em...
- Gọi điện đi !
- Chưa sắm dế. Anh cũng không có à?
- Có mà hết tiền. Nghèo gặp mạt - Tôi lầm bầm trong họng.
- Anh nói chi?
- Mai tui mượn xe chở lên Huế sớm.
- Để em đi xe thồ cũng được.
- Con gái đi rứa... không an toàn. Chớ tin người quá. Gặp người khác là cô toi!
- Anh hay lo như ông cụ! Mẹ em nói em như cọng rau muống. Vô tâm. Ở đây sướng ghê! Đêm ngủ không cần đóng cửa.
- Nhà nghèo có chi mà đóng?
- Có êm ấm, người ta lấy trộm uổng lắm!
- Răng về muộn rứa?
- Vì con mèo.
- Mèo... mèo... mèo xui lắm! 
- Hên thì có. Được quen cụ... Được ở khách sạn ngàn sao. Này, em cũng là mèo đấy. Mẹ gọi em là Mim, gọi chệch miu đấy mà! Anh có ghét mèo không? Gặp mèo thấy xui không? 
- Xui. 
Thấy lặng im, ngó qua đã thấy cô ta nghẹo đầu ngủ. Không nỡ lay cô ta dậy, tôi ngồi im không dám cựa quậy. Muỗi vo ve. Tôi nhè nhẹ đuổi. Bầu trời cuối năm đen nhưng nhức và lấp lánh sao. Chưa bao giờ tôi thấy sao lung linh huyền ảo đến thế. Có lẽ vì tôi chưa bao giờ thức một đêm ở quê với tâm hồn thanh thản. Bỗng dưng trong đầu óc khô cằn mụ mẫm vì cơm áo của tôi hiện lên hình ảnh lãng mạn của anh chăn cừu và cô chủ nhỏ trong một đêm đầy sao trên núi cao trong cái truyện tôi đọc ở thư viện (1). 
Trên vai tôi nằng nặng một vì sao lạc.

Quế Hương

 

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2018

Nhạc - Thơ - Văn LỜI TẠ TÌNH BUỒN ĐÊM GIÁNG SINH

DÒNG ĐỜI TRÔI MÃI

Tà Áo Đêm Noel 

 

Lời tạ từ,
Gởi lại anh bao ân tình ngày cũ,
Tạ tình anh đã suốt kiếp yêu em...
Giáng sinh qua và tuyết lạnh bên thềm,
Anh vẫn đợi bao mùa Đông giá rét !
Duyên ta có tình ta không trọn vẹn,
Bao ước mơ giờ thoắt thoáng qua thôi...
Ta dù xa, xa cách tận chân trời,
Anh vẫn đến vẫn chờ trong lặng lẽ !
Muốn quên em và bước chân mạnh mẽ,
Tiếng chuông buồn như nhắc mối duyên xưa...
Giáng sinh này anh vẫn tưởng trong mơ,
Em quỳ gối nguyện cầu bên chân Chúa
NM
LỜI TẠ TÌNH BUỒN ĐÊM GIÁNG SINH
1.  Rời khỏi tàu điện ngầm, chàng vội rảo bước về phía công viên Luxembourg. Khoảng đường không xa lắm nhưng vì đang nôn nóng nên chàng cảm thấy nó như dài vô tận. Ở đó, giờ này chắc hẳn nàng đang ngồi đợi chàng ở một băng đá quen thuộc, dưới gốc một tàng cây rộng. Thường thì công viên vào mùa đông thật vắng lặng, chẳng có ai vào.
 
Những hàng cây dài thẳng tắp và trơ trụi, với ngọn cây được cắt ngang bằng nhau, tạo cho nó một khung cảnh thật đặc biệt, khác hẳn với mọi công viên khác trên thế giới. Nàng thường ngồi ở đó một mình vào chiều đêm Giáng Sinh, trong tà áo dài trắng quen thuộc nàng hay mặc ngày xưa, để đợi chàng đến từ một khoảng trời thật xa. Lần này là lần thứ mười chàng đáp máy bay từ Mỹ sang Paris để gặp nàng. Mùa lễ Giáng Sinh là dịp duy nhất trong năm chàng có thể thu xếp được thời gian để sang thăm nàng, vì công ty nơi chàng làm việc đóng cửa để làm công việc kiểm kê hàng hóa. Vừa rảo bước, chàng vừa hăm hở nghĩ đến lúc được nhìn lại gương mặt thân yêu của nàng. Suốt một năm mỏi mòn chờ đợi, chàng chỉ mong ngóng phút giây này đây, phút giây chàng được ôm chặt nàng trong vòng tay cho thỏa nỗi nhớ nhung.
     Mãi nghĩ ngợi miên man mà chàng đến nơi lúc nào không hay. Kia rồi, trên một băng đá là vóc dáng quen thuộc của nàng: suối tóc dài óng ả, dáng ngồi nghiêng nghiêng sầu mộng và tà áo dài trắng trinh nguyên. Khung cảnh xung quanh vẫn không có gì thay đổi so với những lần trước chàng đến, vẫn là cái không khí u buồn và vắng lặng của một công viên mùa đông. Nàng ngồi đấy trông thật lẻ loi và cô quạnh, giống như dáng nàng cô phụ ngày xưa mòn mỏi đợi chồng về từ chiến trường xa xăm. Cứ mỗi lần nhìn cái hình ảnh ấy chàng lại không ngăn được sự xúc động dâng tràn. Vừa xúc động, lại vừa vô cùng phấn khích vì giây phút hội ngộ gần kề. Không dằn lòng được nữa, chàng lao nhanh về phía đó với những bước chân sáo nhún nhẩy, dự định là sẽ làm giật mình nàng để chàng có dịp bật cười thỏa thích. Tiến đến bịt mắt nàng từ phía sau, ngay vào cái khoảnh khắc da thịt bàn tay chàng chạm vào da thịt vùng mi mắt nàng, chàng thấy tràn dâng trong lòng mình một cảm giác hạnh phúc mênh mang.
Còn đang đắm chìm trong cảm giác dịu êm, thì trái với mong đợi của chàng, một giọng nói xa lạ vang lên làm chàng thảng thốt:
-  Xin lỗi, anh có phải là anh Quốc không ạ?
Vừa hỏi người con gái vừa quay mặt lại để đối diện với chàng.  Một nỗi thất vọng cùng cực làm chàng cảm thấy vô cùng hụt hẫng. Ngượng ngùng và hoang mang, chàng lắp bắp trả lời:
 Vâng... tôi... đây.  Thành thật xin lỗi chị.  Mà chị là ai thế?  Sao lại ngồi ở đây?
 Tôi ... tôi ... tôi là bạn của Trang. Tôi và Trang cùng sinh hoạt ở ca đoàn nhà thờ.
Người con gái ngập ngừng trả lời chàng như có điều do dự, khó nói. Nói xong, cô vội quay mặt đi ngay như tránh để khỏi phải nhìn thấy chàng.  Một linh cảm không hay chợt xâm chiếm toàn bộ tâm trí, chàng hỏi dập dồn với một giọng đầy lo âu, thắc thỏm:
 Trang đâu chị?  Sao Trang không đến?  Có điều gì không hay xảy ra với Trang hay sao chị?
Người con gái chợt bật lên khóc nức nở, tiếng khóc mới thê thiết làm sao. Mặc dù cố hết sức để kìm nén, cũng phải cả phút sau cô ta mới có thể dằn lại được cái âm thanh làm não nuột lòng người ấy. Quay người lại về phía chàng, với gương mặt còn ướt nhòe nước mắt, chị ta nhét vội vào tay chàng một phong thư, rồi chạy vụt nhanh về phía cổng ra của công viên, sau khi nói vội với chàng bằng một giọng tắt nghẹn:
-  Trang nhờ tôi đưa tận tay anh bức thư này.  Trang cũng đã dặn tôi mặc áo dài trắng để anh dễ dàng nhận ra.
Bóp chặt bức thư trong bàn tay, chàng chết điếng cả thân người. Cách hành xử của người con gái ấy đã nói lên rằng:  Một điều gì đó rất tệ, rất tồi tệ đã xảy ra với người mà chàng thương yêu nhất trên đời. Chàng thấy choáng váng, đứng không nổi nữa. Ngồi phịch xuống ghế đá như một thân cây đổ, rồi tựa đầu vào thân cây, chàng nhắm nghiền mắt lại như muốn chối bỏ những gì vừa diễn ra.  Sao lại có thể như thế này?  Đúng ra ngay vào giờ phút này, nàng phải đang ở trong vòng tay chàng mới đúng chứ!  Đầu óc mụ mị của chàng lúc này trở nên trống rỗng, tê liệt. Trong vùng sương khói mơ hồ của khoảng không ấy, chàng thấy hình ảnh nàng thấp thoáng như một bóng ma và những mảnh vỡ của ký ức chập chờn ẩn hiện ...                                                                    
2.  Chàng và nàng vốn quen biết và yêu nhau từ những năm cuối ở trường phổ thông. Chàng học trên nàng hai lớp.  Rồi cả hai cùng lần lượt đỗ vào trường đại học Bách Khoa và chuyện tình của họ cứ thế êm đềm trôi đi trong những năm tháng tươi đẹp nhất của tuổi học trò. Chàng là sinh viên giỏi nhất trường và nàng cũng không hề kém cạnh là bao. Trong khi phong độ chàng làm say mê bao cô gái thì nhan sắc của nàng cũng khiến bao chàng trai điên đảo, tình nguyện trồng cây si. Họ sánh vai nhau thật đẹp đôi. Hình ảnh của họ gợi lên cái không khí lãng mạn mơ hồ của những câu chuyện cổ tích xa xưa, trong đó có những chàng hoàng tử đẹp trai mà số phận đặt để chỉ dành riêng cho những nàng công chúa lá ngọc cành vàng.
Tuy hình ảnh đôi lứa của họ thêu hoa dệt mộng như vậy, nhưng trong thực tế, cả hai đều ... nghèo.  Không đến nỗi quá nghèo nàn, nhưng so với cái xã hội mà nhiều người đang trở nên giàu có một cách chóng mặt, gia đình chàng và nàng phải chật vật lắm mới lo được cho cả hai học đại học. Ý thức được điều đó, cả hai dồn hết tâm trí vào chuyện học hành và nguyện cùng nhau là sẽ chờ đợi cho đến khi nào cả hai cùng hoàn thành học vị thạc sĩ hay tiến sĩ thì lúc đó mới tính đến chuyện kết hôn. Mỗi lần tay trong tay, hay vai kề má tựa, họ lại cùng nhau mơ về cái viễn ảnh họ cùng giành được học bổng để đi du học và rồi sau đó, khi cả hai đã tốt nghiệp học vị sau đại học, họ sẽ gắn bó với nhau trong suốt quãng đời còn lại.
Mộng bao giờ cũng đẹp và mộng của chàng và nàng càng đẹp hơn ai hết khi nó được kết dệt nên bởi hai trái tim yêu nhau nồng nàn và say đắm từ những ngày còn thơ dại. Ngày chàng tốt nghiệp đại học và nhận được học bổng du học, họ như rơi vào một cơn mơ ngay giữa ban ngày vì ước mơ của họ đã đi được nửa quãng đường. Đêm chia tay trước khi chàng lên đường sang Mỹ du học, họ đã cùng nhau thức trắng đêm để tâm tình. Đêm dẫu dài nhưng dường như lại không đủ dài cho những lời yêu thương và nhắn nhủ cứ không ngừng tuôn trào khỏi bờ môi của họ như dòng suối chảy ngọt ngào:
-  Em biết là anh chưa hề yêu ai khác ngoài em, phải không em?
-  Dạ, em biết. Em cũng chưa hề yêu ai khác ngoài anh và cũng sẽ không bao giờ. Dẫu cho mai này có điều gì xảy ra thì em cũng sẽ chỉ yêu có mình anh thôi.
-   Có điều gì xảy ra có thể làm ngăn cách chúng mình chứ hở em?  Mà dẫu cho có điều gì xảy ra đi nữa, dẫu cho em có ở nơi góc bể chân trời nào đi nữa, anh cũng sẽ quyết tìm kiếm em cho đến hết cuộc đời này. 
-  Nhớ nghe anh. Nếu không còn anh trong đời em nữa, em sẽ không còn thiết sống nữa đâu. Mai này, dẫu ở bất kỳ nơi đâu, chỉ cần anh gọi thôi, em sẽ đến, nhất định là em sẽ đến, anh à!
...  
       3.  "Nhất định là em sẽ đến, phải không em?"  Những thanh âm ú ớ vừa bật ra khỏi miệng chàng cũng là lúc chàng chợt tỉnh dậy. Chàng không nhớ là mình đã tựa vào gốc cây mà thiếp đi như vậy trong bao lâu. Bóng tối đã buông xuống từ lâu và công viên đã chìm trong màn đêm chập choạng. Nhét bức thư vào túi trong của chiếc áo khoác dài chàng đang mặc trên người, chàng chậm rãi lê bước ra khỏi công viên và đi về phía một nhà hàng ở khu phố gần đó, nơi chàng đã đặt hẹn trước cho bữa ăn tối của chàng và nàng.  Giờ này còn sớm mà phố xá vắng quá. Phố xá thường rất vắng vào những đêm Giáng Sinh như thế này. Có lẽ mọi người đang mãi bận rộn cho những buổi họp mặt tại nhà hay đang chuẩn bị để đến nhà thờ đón chào giây phút Chúa ra đời vào lúc nửa đêm. Đêm Giáng Sinh nào ở Paris cũng lạnh, chàng cũng đã quen với điều đó.  Nhưng sao đêm Giáng Sinh này chàng có cảm giác như trời đất trở lạnh hơn nhiều lắm. Có một nỗi băng giá nào đó vừa len lỏi vào trong tận đáy tâm can của chàng và ở lại đó, chẳng chịu đi ra.
Anh bồi bàn người Pháp ở nhà hàng đón tiếp chàng ở cửa với một thái độ khá ân cần. Anh đã quá quen mặt với vị khách hàng đặc biệt chỉ đến duy nhất một lần vào đêm Giáng Sinh trong suốt nhiều năm qua, và lần nào cũng vậy, đến với cùng một người phụ nữ đẹp có đôi mắt rất buồn và một vóc dáng hao gầy. Lần này, anh hơi ngạc nhiên khi thấy chàng chỉ đến một mình với một bộ dạng khá thiểu não. Chắc hẳn đã có điều gì xảy ra! Hay là người đàn bà đến trễ? Anh nghĩ thầm như vậy trong khi lặng lẽ đợi chàng ngồi vào bàn và nhỏ nhẹ hỏi chàng bằng một thứ tiếng Anh rặt giọng Pháp:    
-   Do you still want to have a dinner for two, sir?   (Ngài vẫn muốn một bữa ăn tối cho hai người, phải không thưa ngài?)
-   Yes, a dinner for two, please!  (Vâng, xin vui lòng dọn một bữa ăn tối cho hai người.)
Chàng lên tiếng trả lời với một giọng thật trầm. Sau khi anh bồi bàn quay đi, đưa mắt thẩn thờ nhìn vào khoảng không trước mặt nơi chiếc ghế đối diện, chàng bỗng giật mình, không tin nổi vào mắt mình nữa, khi thấy nàng đã ngồi đấy tự bao giờ.  Chàng thét lên mừng rỡ - tiếng thét làm các khách ăn chung quanh đều quay đầu lại nhìn về hướng chàng:
 Em... em đến rồi đó ư! Thế mà anh cứ tưởng là có chuyện gì xảy ra làm em không thể đến được với anh đêm nay. 
Người phụ nữ, trong tà áo dài trắng với một chiếc khăn quàng cũng màu trắng quấn quanh cổ, mỉm cười nhẹ nhàng và rồi, trả lời chàng với một hơi giọng nhẹ như gió: 
-  Thực ra, cũng có chút chuyện anh à!  Nhưng anh có còn nhớ là em đã từng nói với anh, dẫu có điều gì xảy ra, chỉ cần anh gọi thôi là em sẽ bỏ mặc tất cả để đến với anh mà
Chàng gật đầu liên tục và nói hấp tấp:
 Anh nhớ.  Anh nhớ chứ em. Làm sao mà anh quên được!  Anh biết là trước sau gì em cũng đến với anh mà. Dẫu có chuyện gì xảy ra em cũng đâu nỡ lòng nào bỏ anh bơ vơ một mình giữa đêm Giáng Sinh lạnh lẽo như thế này, phải không em? 
Gương mặt người phụ nữ bỗng có phần nhòa nhạt đi giữa  không gian mờ ảo được thắp sáng bằng ngọn nến duy nhất trên mỗi bàn ăn. Giọng trả lời của nàng vốn đã nhẹ càng trở nên nhẹ hơn:
 Thì anh đã thấy đó, đã chín mùa Giáng Sinh rồi đó, có bao giờ em trễ hẹn với anh đâu. Hôm nay, em chỉ đến trễ một chút thôi mà.  Em cứ tưởng rằng em không thể đến được, nhưng cuối cùng em cũng đã đến. 
Giọng chàng vẫn chưa nguôi bớt nỗi mừng vui:
 Anh cám ơn em thật nhiều.  Không có em anh biết sống ra sao và làm gì giữa thành phố Paris này đêm nay đây.  Ăn xong, mình sẽ đi dạo phố ngắm đèn Giáng Sinh trên đại lộ Champs-Élysées, rồi sau đó đến nhà thờ Đức Bà như thường lệ, phải không em?
Bóng người phụ nữ càng nhạt nhòa hơn, chỉ còn lại một lời thì thào thoảng nhẹ: 
 Vâng, anh ạ.  Rồi chúng mình sẽ ngồi cùng nhau ở một góc giáo đường mà cầu nguyện cho chúng mình sớm được gần nhau. 
Giọng chàng phát ra lúc này như đang đắm chìm trong một cơn mơ:
 Vâng.  Anh sẽ cầu nguyện thật nhiều để em sớm về lại với anh
                                      
 4.   Chàng không định trở về Việt Nam vào thời điểm này khi mà chàng chỉ mới hoàn thành phân nửa chương trình du học, chàng muốn tiết kiệm những đồng tiền hiếm hoi mà chàng có được. Nhưng chàng không thể chờ đợi lâu hơn được nữa.  Sau một năm liên lạc thư từ bình thường, đột nhiên chàng không còn nhận được bất cứ tin tức nào từ nàng nữa. Linh cảm có điều chẳng lành, nhân dịp kỳ nghỉ giữa các khóa học vừa đến, chàng vội mua vé máy bay để về thăm nhà. Chỉ ghé ngang nhà để cất hành lý, chàng tức tốc tìm đến nhà nàng.  Ngôi nhà không có ai, im ắng một cách đáng sợ. Bước thẳng ra nhà sau, chàng bắt gặp mẹ nàng đang lúi cúi bên bếp lửa.  Chàng lập tức cất giọng sốt ruột hỏi bà:
 -  Dạ thưa bác, Trang có nhà không ạ?
Người đàn bà tuổi trung niên với ánh mắt thật buồn và nhiều nếp hằn nơi khóe mắt, ngước mặt lên, ngạc nhiên và mừng rỡ:
-  Ủa, Quốc đó hả con?  Con về hồi nào vậy con?
Chàng trả lời, nói một hơi với vẻ sốt ruột không che giấu được:
-  Dạ con mới vừa về tới thôi ạ.  Vừa ghé nhà để cất va-li xong, con vội qua thăm hai bác và Trang liền đây.  Con nóng lòng quá, không biết có chuyện gì mà cả năm qua con không nhận được tin tức gì của Trang cả. 
Nghe chàng nói, bà lấy khăn giụi mắt rồi chậm rãi nói với chàng bằng một giọng gần như khóc, đôi mắt bà đỏ hoe:
-  Cũng ... có ... chuyện .. con à!
Giọng chàng ngỡ ngàng:
-  Chuyện gì vậy bác?  Mà sao bác lại khóc?
Ngập ngừng trong giấy lát, bà trả lời với giọng nức nở:
-  Bác trai ... chết rồi con à.  Còn con Trang thì ... lấy chồng và qua Pháp rồi, con ơi.
Chàng tưởng chừng như vừa có một tiếng sét nổ ngay bên tai.  Há hốc mồm, chàng buột miệng hỏi bà, giọng run rẩy:
 Bác trai sao lại chết?  Còn Trang ... sao ... lại ... lấy chồng, hở bác?
Sau một lúc cố lấy lại bình tĩnh, bà chậm rãi kể:
-  Chuyện là vầy, con ạ. Năm ngoái, bác trai bệnh nặng quá mà nhà lại không có đủ tiền để chữa trị cho ổng. Thằng Vỹ vốn là bạn học hồi nhỏ của con Trang, là Việt Kiều ở Pháp về. Nó lo lắng cho ổng từng chút một, chi trả hết mọi chi phí trị bệnh cho ổng. Cám nghĩa của nó quá, nên khi thằng đó hỏi cưới con Trang, ổng không nỡ từ chối.  Con Trang đâu có chịu, nó khóc hết nước mắt.  Nhưng sợ làm ổng buồn ảnh hưởng đến sức khỏe, nên rốt cuộc nó cũng gật đầu để ba nó khỏi phải khó xử.  Nó đành hy sinh thân nó như vậy mà rồi ổng cũng có sống được lâu đâu.  
Bà đã dứt lời mà chàng vẫn ngồi yên bất động, không có một phản ứng nào cả, tưởng chừng như chàng đã hóa đá. Thời gian chết cứ trôi qua một cách lặng lẽ như thế khá lâu giữa hai người. Cuối cùng, bà lên tiếng đánh tan sự im lặng nặng nề:
-  Bác có địa chỉ của nó ở Pháp đây, để bác lấy cho con.
     
5.  Anh bồi bàn người Pháp quay trở lại, một tay cầm chai rượu vang, còn tay kia cầm hai cái cốc thủy tinh trông thật xinh. Nhẹ nhàng đặt chúng lên bàn, anh nhìn chàng với thoáng ngạc nhiên, rồi cất giọng hỏi: 
-  Who are you talking to, sir? (Ngài đang nói chuyện với ai thế, thưa ngài?)
Câu hỏi bất ngờ của anh bồi bàn làm chàng giật mình tỉnh dậy.  Đôi mắt thất thần của chàng chậm rãi lướt qua khoảng không gian phía trước mặt. Không! Ở chiếc ghế trước mặt chàng không ai ngồi cả. Đêm Giáng Sinh này nàng không ngồi đó nữa. Không có ai ngồi đó cả. Hóa ra đó chỉ là một ảo ảnh!  Ý nghĩ ấy làm lòng chàng se sắt lại. Chàng đã vượt qua một quãng đường dài hơn tám giờ bay với biết bao hăm hở và dự định, để rồi giờ đây ngồi cô liêu một mình như thế này. Có một chút ngấn nước vừa trào dâng nơi khóe mắt chàng, lấp lánh phản chiếu ánh nến được thắp trên bàn ăn. Sau khi nhấp chút rượu vang đỏ lên trên bờ môi lạnh khô khốc, chàng chợt sực nhớ đến bức thư đã nhét vội vào trong túi áo. Chậm rãi đưa tay vào túi để lấy nó ra, chàng nhẹ nhàng mở phong thư đã trở nên nhàu nát, có cảm giác như mình đang vừa chạm vào cửa miệng của một niềm đau. Dưới ánh nến leo loét chập chờn, những dòng chữ thân quen hiện ra trước mắt chàng co ro, run rẩy như đang giá buốt vì ngọn gió đông:
Anh yêu của em! 
Một lần nữa em lại phụ anh rồi. Thế là, em đã hai lần phụ rẫy tình anh. Em đáng tội chết quá, phải không anh? Hãy tha thứ cho em, nghe anh.  Em ngàn lần xin anh đấy. Người sắp chết chắc cũng có quyền vòi vĩnh chút ít cuối đời mà, phải vậy không anh?
Đã mười năm trời trôi qua, kể từ sau ngày anh qua Pháp tìm gặp lại em.  Cũng đã gần chục lần em hứa với anh rằng rồi em sẽ ly dị với Vỹ để trở về với anh, nhưng rồi cho đến giờ này em vẫn chưa bao giờ thực hiện được lời hứa đó. Em tệ quá!  Thế mà, anh vẫn âm thầm và lặng lẽ chờ đợi em. Anh đau đớn mỗi lần em nói với anh là em chưa thể ly dị được với Vỹ, nhưng anh chưa một lần hỏi em tại sao, cũng chưa một lần thúc giục em phải làm điều đó.
Cứ mỗi mùa Giáng Sinh, anh lại đáp máy bay từ Mỹ sang Paris chỉ để gặp lại em, để ôn lại tình sử của chúng mình. Rồi anh lại lặng lẽ quay về để làm việc và chờ đợi cho đến mùa Giáng Sinh năm sau. Cứ mỗi lần tiễn đưa anh ra phi trường, nhìn dáng anh hao gầy khuất dần sau cánh cổng, lòng em đau như cắt. Đã bao lần em suýt buột miệng kể anh nghe sự thật, nhưng rồi lại cố kìm mình lại và tiếp tục câm nín. Em không muốn anh lo lắng quá nhiều cho em. Em muốn anh nghĩ rằng ít ra em cũng đang có một đời sống tốt đẹp.
Quốc ơi!  Em yêu anh. Em đã yêu, đang yêu và sẽ yêu anh hết một kiếp này. Em đã và sẽ chẳng thể yêu ai khác ngoài anh trong cuộc đời này. Em chưa một lần quên những gì chúng ta đã hẹn ước cùng nhau vào đêm tiễn biệt anh sang Mỹ du học.  Nhưng định mệnh dường như đã quá khắc nghiệt với em. Định mệnh bắt em làm kẻ tình phụ, bỏ lại mình anh bên dòng sông dĩ vãng mà sang ngang, mà tìm đến một bến bờ khác lạ xa.  Ngày vu qui, Quốc ơi, nước mắt em chảy theo từng bước chân em đi. Nước mắt em đã rơi trong suốt chuyến bay dài từ Việt Nam sang Pháp, chuyến bay đưa em về một phương trời xứ lạ không có anh.
   Có một sự thật em cần cho anh biết bây giờ là lý do em đã không thể ly dị với Vỹ là vì ngay sau khi em vào được quốc tịch Pháp và dự định sẽ ly dị với Vỹ thì cũng chính là lúc Vỹ bị một tai nạn giao thông nghiêm trọng và trở nên bán thân bất toại. Quốc ơi, em không thể bỏ Vỹ trong hoàn cảnh đó. Em đã là một người tình bội bạc với anh. Em không thể là một người vợ bất nghĩa với Vỹ. Dẫu rằng em chưa hề yêu Vỹ và Vỹ cũng biết và chấp nhận điều đó, nhưng em thực lòng không thể bỏ Vỹ trong một hoàn cảnh như thế.  
Vỹ đã không thể đi đứng và làm được việc gì cả trong suốt tám năm qua. Tám năm qua em lúc nào cũng phải cận kề để lo lắng và chăm sóc cho Vỹ. Em thậm chí không thể đi làm vì Vỹ lúc nào cũng cần em. Em phải nhận việc về nhà làm và lương thu nhập cũng không được bao nhiêu. Tám năm qua em thực sự sống trong khó khăn chồng chất. Việc chăm sóc Vỹ ngày đêm cùng với công việc làm cực nhọc đã ngốn hết mọi sức lực của em. Cứ mỗi lần gặp, anh lại ứa nước mắt khi nhìn thấy em tiều tụy quá. Em thấy thương anh lắm, Quốc ơi!  Nhưng hãy hiểu và thông cảm cho em.  Với anh, em đã là một người tình bội bạc, thì thôi, còn chút lòng tự trọng, anh cho phép em gìn giữ nó, nghe anh. Em biết là nếu em nói ra sự thật với anh thì thế nào anh cũng buộc em phải nhận sự cấp dưỡng của anh.  Em không thể nhận được, Quốc ơi! Em thực lòng không thể.
Cách đây sáu tháng, Vỹ đã trút hơi thở cuối cùng trên tay em sau những tháng ngày sống đời gần như thực vật. Đó cũng chính là lúc căn bệnh lao phổi vì quá lao lực của em đi vào giai đoạn cuối. Em thực sự đã cố gắng. Em cố gắng sống cho đến hết mùa Giáng Sinh này để gặp anh một lần cuối, để nói với anh lời tạ tình sau cuối, tha thiết nhất của lòng em. Nhưng định mệnh một lần nữa lại quá nghiệt ngã đối với em. Chỉ còn một vài ngày nữa thôi mà cũng không cho em được toại nguyện mộng ước cuối đời.
Thôi nhé anh! Có thương em, hãy nhận nơi đây lời tạ tình của em nhé anh - lời tạ tình buồn cho một cuộc tình nhiều ngang trái, vào đêm Giáng Sinh cuối của đời em.
Mãi yêu anh,
Trang
6.  Ngọn nến đã tàn tự bao giờ mà chàng cũng chẳng hề hay biết. Anh bồi bàn đã đến để thay một ngọn nến khác. Anh ta làm điều đó một cách rón rén và khẽ khàng như sợ làm kinh động chàng. Có lẽ cái vẻ mặt khác thường của chàng, cùng với việc các đĩa thức ăn vẫn còn vẹn nguyên và trở nên nguội lạnh, đã phần nào giúp anh ta hiểu là chàng đang trải qua một điều gì đó ghê gớm lắm, một điều gì đó có liên quan đến người phụ nữ vắng mặt hôm nay và nhất thiết là có liên quan đến bức thư vừa bị một ngọn gió đông thổi bay xuống sàn nhà. Lại rón rén và khẽ khàng, anh ta đến nhặt nó lên và đặt nó trở lên trên bàn trước mặt chàng. Nhưng dường như chàng chẳng hề chú ý đến điều đó. Dường như đối với chàng hiện giờ, anh ta không còn hiện hữu nữa, chẳng còn gì hiện hữu nữa.
Đặt tiền thanh toán trên bàn với một thái độ hờ hững nhất mà một con người có thể có được, chàng bước vội ra khỏi nhà hàng, đi vào trong màn đêm lạnh. Đêm đã về khuya và trời bắt đầu đổ tuyết. Đây là lần đầu tiên, trong mười năm chàng sang Paris này, trời lại đổ tuyết vào đêm Giáng Sinh. Đường phố vắng hơn mọi năm nhiều có lẽ vì trời lạnh quá. Chung quanh có ít nhiều xe hơi, nhưng người đi bộ như chàng thì hầu như không có. Có lẽ không có ai lại có một lý do gì đó để lội bộ giữa các con đường phố thơ mộng của Paris vào một đêm lạnh lẽo và tuyết đang đổ như thế này. Hay là quay trở về khách sạn? Ý nghĩ ấy vừa chợt thoáng qua đầu, chàng đã vội gạt phăng ngay. Không! Chàng không thể. Nếu giam mình trong khoảng không gian bức bối của bốn bức tường khách sạn trong trạng thái như thế này chắc chàng điên mất, chàng không thể nào chịu đựng nổi đâu. 

Đi. Chàng phải đi. Đi đâu cũng được, miễn là phải đi. Đi để trốn chạy tiếng thét gào đau đớn đang trỗi dậy trong lòng chàng. Đi để giá băng ngoài trời làm đông cứng lại nỗi cô đơn đang giãy dụa trong lòng chàng, làm chàng nhức nhối. Đi để bão tuyết đang rơi  phủ lấp bớt đi nỗi nhớ đang cồn cào trong lòng chàng - nỗi nhớ như một con bạch tuộc mà mỗi vòi của nó khi uốn cong, xiết chặt trái tim chàng với một cơn đau khôn tả. 
Chàng cứ mải miết đi như th̉ế, cúi mặt lầm lũi qua những phố buồn của Paris. Bao khoảnh khắc trôi qua rồi, chàng cũng không còn nhớ nữa. Chàng không còn ý niệm về không gian và thời gian. Tuyết ngày càng đổ xuống nhiều hơn...  Chợt đâu đây có tiếng chuông nhà thờ đổ. Hóa ra, thói quen đã đưa chàng đến nhà thờ Đức Bà ở khu vực Notre Dame. Đám đông hiện ra trước mặt chàng huyên náo quá làm chàng như bừng tỉnh lại. Ánh sáng chói lòa tỏa ra từ những ngọn đèn cao áp, xung quanh ngôi nhà thờ lớn sừng sững, đập mạnh vào thị giác chàng làm chàng cảm thấy dường như mình vừa trải qua một cơn mê.
Chàng vuốt mặt thật mạnh như muốn rũ bỏ ký ức kinh hoàng trong những phút giây vừa qua. Không! Đã không có gì xảy ra cả. Vì một lý do nào đó nàng chỉ đến muộn thôi. Chàng sẽ bước vào ngôi nhà thờ chánh tòa và ở đó, chàng sẽ lại được nhìn thấy nàng đang quì gối cầu nguyện ở một góc giáo đường và đang chờ đợi chàng. 
Tiếng chuông nhà thờ báo hiệu thời khắc Chúa giáng sinh đang điểm.
22/12/2012
Jeffrey Thai

ALL THROUGH THE NIGHT
Truyện Mùa Giáng Sinh của Mary Higgins Clark 
Mary Higgins Clark, tác giả của những truyện nghẹt thở ăn khách hiện nay, có vẻ là một mẫu người sùng đạo. Sự kiện hai trong mười tám tiểu thuyết của bà - Silent Night và All Through The Night - được dàn dựng trong khung cảnh an bình, thánh thiện của mùa Giáng Sinh đã cho người đọc nhận xét đó. Xin sơ lược một cuốn truyện nêu trên nhân mùa Giáng Sinh như một quà đọc cho mọi người.
All Through The Night, tựa đề của một nhạc khúc Giáng Sinh, đã được dùng làm tên cuốn sách.
Ngay chương đầu cuốn truyện người đọc đã nín thở theo dõi sự việc đang diễn ra...
***
Còn hai mươi hai ngày nữa mới đến lễ Giáng Sinh. Đêm đã xuống từ lâu. Bên trong một nhà tho ở khu Manhattan, thuộc đô thị Nữu Ước, linh mục Ferris đang xem xét mọi nơi, khóa cửa nẻo cẩn thận, tắt đèn, trước khi lui về phòng riêng kế cận nhà thờ nghỉ đêm. Im phăng phắc. Tên trộm Lenny nép mình sau chỗ xưng tội, chờ vị linh mục đi qua trên đường tiến ra cửa sau nhà thờ. Có tiếng cửa đóng mạnh. Hắn thở phào. Còn lại một mình, hắn ra tay.
Bên ngoài nhà thờ, Sondra, một cô gái mười tám tuổi đứng bên kia đường, trước cửa một tòa nhà đang sửa chữa, nhìn sang nhà thờ. Cô ta phải yên chí là linh mục Ferris đã rời nhà thờ về tư thất của ông mới đem đứa bé đặt trên bực thềm nhà thờ. Vừa lâm bồn trước đó mấy tiếng đồng hồ trong một phòng khách sạn rẻ tiền, cô cảm thấy yếu, phải tựa vào khung cửa cho vững.
Cha Ferris từ trong nhà thờ bước ra, đi thẳng đến căn nhà kế cận.
Sondra biết đã đến lúc thi hành công việc. Cô đã sắm sửa áo quần, tả lót, bình sữa, chăn mền, một chiếc xe đẩy, một bao bằng giấy. Mở nút áo choàng, nhẹ nhàng bồng đứa bé đặt trong bao giấy, với tay xách chiếc xe đẩy đã xếp lại, cô mang tất cả sang bên kia đường trong lúc không có một ai qua lại trên đường để trông thấy cô. Cô chạy ngược lên ba bực thềm, mở chiếc xe đẩy, gài thắng, đặt đứa bé vào xe, đặt mớ đồ “phụ tùng” dưới chân đứa bé, cài tờ giấy cô viết sẵn, trong đó cô xin ai đó hãy tìm giúp cho đứa bé một gia đình từ tâm, còn cô không thể nuôi nó được dù lúc nào cũng yêu thương con. Sondra quì xuống nhìn đứa bé một hồi lâu, thì thầm, “mẹ yêu con, tạm biệt” rồi đứng dậy chạy xuống mấy bực thềm, ra đường phố. Cô sẽ gọi linh mục Ferris từ một điện thoại công cọng ở ngã tư kế cận.
Trong khi đó, bên trong nhà thờ tên trộm Lenny vơ vét tiền con chiên họ đạo quyên góp, và đập vỡ tủ đựng chiếc cúp có nạm kim cương, một báu vật của nhà thờ. Xong, hắn vội vã thoát ra trước khi hệ thống báo động của nhà thờ hoạt động. Nhưng xe cảnh sát hụ còi inh ỏi đang tiến đến. Thoáng trông thấy chiếc xe đẩy con nít để ở bực thềm, hắn liền bê xuống đường và ngang nhiên đẩy đi, làm ra vẻ một người đàn ông lương thiện, có con cái đề huề. Vô gia cư, vô nghề nghiệp, buôn bán ma túy, và làm mọi việc phi pháp nào có thể kiếm tiền được, hắn đang trú tạm nhà người cô ruột. Và hắn ung dung đẩy chiếc xe giữ trẻ về nơi ấy.
Về tới nhà cô của hắn được an toàn, Lenny chưa kịp mừng thì bỗng sững sốt khi nghe tiếng khóc oe oe rồi cái bao giấy cử động: một bé sơ sinh. Hắn gỡ mảnh giấy ghim trên chăn, bắt đầu đọc. Xin làm ơn tìm cho bé gái của tôi một gia đình từ tâm. Tổ tiên bố của cháu là người Ý; ông bà tôi gốc Ái Nhĩ Lan. Cả hai bên gia đình theo tôi biết không hề có bệnh di truyền, vì thế cháu sẽ lớn lên khỏe mạnh. Tôi yêu con, nhưng không thể chăm sóc cháu được. Nếu một mai cháu có hỏi về mẹ nó, xin cho cháu đọc mấy giòng này. Hãy nói cho cháu biết rằng những giờ phút hạnh phúc nhất trong đời tôi mãi mãi là những lúc tôi ôm nó trên tay sau khi sinh cháu.
Những lúc đó chỉ còn có hai mẹ con trên đời này.
Bà Lilly, người cô hắn, đang quyết tâm tống khứ thằng cháu ăn hại ra khỏi nhà, cũng sửng sốt, cúi nhìn trong chiếc xe đẩy. “Mày tính sao bây giờ? Mày lượm đứa bé này ở đâu thế?” Lenny nghĩ nhanh, hắn không muốn rời căn chung cư này, một vỏ bọc an toàn cho hắn. Hắn nghĩ ra một câu chuyện.
“Nó là con của cháu đấy, cô Lilly ạ. Mẹ nó là người con gái cháu yêu, nhưng cô ấy sắp dọn đi California, muốn đem cho đứa bé cho người ta nuôi. Cháu muốn giữ bé lại”.
Bà Lilly mở các món quấn quanh đứa bé sơ sinh, ẵm nó lên và nét mặt bà bỗng thay đổi. Bà hỏi Lenny:
“Tên nó là gì?”
Lenny nghĩ đến hột kim cương hình ngôi sao trên báu vật của nhà thờ, vụt miệng nói:
“Thưa cô, cháu tên là Star.”
“Star,” bà Lilly Maldonado lẩm nhẩm, “trong tiếng Ý cháu sẽ được gọi Stellina, có nghĩa là vì sao nhỏ.”
Lim dim đôi mắt, Lenny nhìn sự khắng khít vừa nẩy sinh giữa một trẻ sơ sinh và một bà già. Hắn tự nhủ không ai biết hắn bắt cóc đứa bé, và cùng lắm, nếu có gì lôi thôi về đứa bé, thì hắn đã có mảnh giấy nầy để chứng minh hắn chẳng ăn cắp của ai.
Trời trở lạnh hơn. Từ một điện thoại công cộng ở ngã tư kế cận, Sondra gọi Linh mục Ferris. Bên kia đầu dây, một giọng đàn ông xưng danh là cha Dailey, và cho biết cha Ferris đang bận tiếp chuyện với cảnh sát bên ngoài tòa nhà, vì có chuyện khẩn cấp.
Sondra lặng lẽ gác điện thoại. Cô yên chí là người ta đã tìm thấy con mình. Đứa bé được an toàn. Cha Ferris sẽ tìm cho nó một mái nhà tốt.
Một giờ đồng hồ sau Sondra đã ngồi trên xe buýt xuôi về Birmingham, tiểu bang Alabama. Cô đang theo học ở phân khoa âm nhạc của đại học tại đó, và chuyên về vĩ cầm. Tài năng đặc biệt của cô đang hứa hẹn một chỗ đứng vinh quang trên sân khấu trình diễn tương lai.
Chương đầu cuốn sách, hay màn đầu của câu chuyện, đã hé mở cho người đọc một chuỗi sự việc mà nhiều năm sau mới phơi bày ra ánh sáng những nguyên ủy, gốc rễ, mối mớ của chúng.
*
Bảy năm trôi qua.
Chu kỳ thời tiết đang bước vào độ giá lạnh của những ngày đầu tháng chạp. Giáng Sinh lại sắp về. Sondra Lewis trở lại New York lần này với vinh quang đang cho đón nàng. Cô sẽ biểu diễn vĩ cầm ở Carnegie Hall, sân khấu ước mơ của tất cả nghệ sĩ mầm non. Cô không tin nổi có ngày điều đó lại xảy ra. Vậy mà Sondra không thay háo hức, sung sướng, chỉ thấy lòng nặng trĩu, đầy bất an, tuyệt vọng. Cô đã gọi điện thoại đến nhà thờ St. Clement’s giả làm một phóng viên dò hỏi về sự kiện một đứa bé sơ sinh bị bỏ trên bực thềm vào đêm mồng ba tháng chạp bảy năm trước, để bàng hoàng, chết điếng khi nghe một giọng nói đầy vẻ ngạc nhiên, sửng sốt đáp lại rằng chẳng bao giờ có một sự việc như thế từ hai mươi năm nay chứ chẳng riêng bảy năm trở lại đây đâu! Ôi, ai đã nuôi con nàng, hay đứa bé đã chết ngay vì lạnh, sau khi nàng bỏ đi.
Nước mắt tự dưng cứ trào ra, Sondra không làm sao cầm giữ lại được. Hai ngày rồi, Sondra cứ lảng vảng trước nhà thờ, bên kia đường, và sáng nay đã vào dự lễ sớm trong nhà thờ. Xong lễ Sondra bước nhanh ra khỏi nhà thờ, không cho cha Ferris có dịp hỏi, vì vị linh mục cũng nhận thấy vẻ khác thường nơi người phụ nữ trẻ.
Nàng cầu nguyện để được gặp lại con. Lúc lên mười hai tuổi Sondra đã được ông nội - vừa là dưỡng phụ, vừa là thầy vĩ cầm của mình - dẫn đến đây một lần. Ông nội cho biết St. Clement’s linh nghiệm lắm; ông nội đã cầu được bao nhiêu điều trong đời mình, kể cả được khỏi hẳn chứng thấp khớp ngón tay, một sự nghiệt ngã cho một nghệ sĩ vĩ cầm như ông.
Stellina, đứa bé sơ sinh bị bỏ trên bực thềm nhà thờ St. Clement trong một đêm tháng chạp giá lạnh năm xưa, nay đã lên bảy. Nó lớn lên trong sự nuôi nấng đùm bọc của Nội Maldonado, và trong sự hờ hững, vô trách nhiệm của người bố Lenny. Cô bé đẹp như thiên thần. Mỗi ngày, sau buổi học, Stellina cùng một số trẻ em cùng lứa trong khu phố đến vui chơi, sinh hoạt tại một nhà giữ trẻ miễn phí do các bà phước đảm trách, cho đến sau giờ làm việc phụ huynh đến đón con em mình về.
Willy và vợ, Alvirah, đôi vợ chồng đã nghỉ hưu, rất tích cực trong các hoạt động hỗ trợ nhà giữ trẻ này - Willy với tay nghề thợ ống nước, và Alvirah với óc sáng kiến, cùng một trực giác thám tử sắc bén. Chính trực giác này đã giúp khám phá và bẻ gãy âm mưu chiếm đoạt một bất động sản bằng di chúc giả mạo, tức cứu được tòa nhà sẽ làm trụ sở tương lai của nhà giữ trẻ nói trên.
Sự lai vãng trước nhà thờ St. Clement’s của Sondra Lewis không thoát khỏi cặp mắt tinh tường của Alvirah. Rồi chân dung của nàng xuất hiện khắp đô thị New York trong các bích chương quảng cáo cho cuộc trình diễn vĩ cầm sắp tới tại trung tâm nghệ thuật Carnegie Hall càng thách thức óc điều tra của người đàn bà trên sáu mươi này. Chờ cho Sondra đến, đứng bên kia đường nhìn chăm chú sang nhà thờ, Alvirah nhẹ nhàng bước từ sau lưng đến vỗ nhẹ vai ngưoi thiếu nữ và dịu dàng mở lời muốn giúp đỡ... Cả hai đón taxi về nhà của Alvirah. Sondra thổ lộ mọi chuyện.
Ra về, ngang qua phòng khách, bên cạnh chiếc dương cầm với cuốn sách nhạc mở ở trang của nhạc khúc All Through The Night, Sondra dừng lại, dùng một tay nhấn trên phím chơi bản nhạc. Nàng chơi lại bài nhạc một lần nữa và khẽ hát theo:
Ngủ đi con
Và cầu xin
Mọi an bình
Cho con suốt đêm.
Chúa sẽ phái thiên thần
Xuống gìn giữ con
Suốt đêm.
Ngừng hát, giọng nàng thốt lên như òa vỡ, “Em mong con em đã tìm được một thiên thần đêm đó.” Alvirah hứa hẹn, “Tôi sẽ gọi cho em hay mọi chuyện.”
Buổi trình diễn mùa Giáng Sinh do các trẻ em tại nhà giữ trẻ xem rất ngoạn mục, một thành công sau bao nhiêu tuần luyện tập và chỉ dạy. Stellina đã thuyết phục được Nội Lilly aldonado cho mang chiếc cúp bằng bạc đến dùng trong buổi trình diễn, chiếc cúp mà tên trộm Lenny đã lấy của nhà thờ St Clement’s, và nói dối là của mẹ của Stellina giao lại cho hắn ta. Hắn ta còn nói đó là báu vật của một đức giám mục, bác của ngưoi yêu. Bà Maldonado đã tin đó là một vật linh nghiệm, và bà thường bảo Stellina như thế. Cô bé vẫn hay ôm chiếc cúp ban đêm nằm ngủ, và mỗi lần như vậy Stellina cảm thay ấm áp, bớt đi cảm giác cô đơn, dường như được gần mẹ mình. Và cô bé cũng thường ôm chiếc cúp cầu nguyện mẹ mình sớm trở về. Alvirah bỗng chú ý đến hai điều khác thường: chiếc cúp bạc, và cô bé Stellina với khuôn mặt sao giống Sondra thế! Bà ta đã nghi đó chính là món báu vật mất cắp của nhà thờ, cùng với với đứa hài nhi bị mất tích. Alvirah đem mấy tấm ảnh chụp chiếc cúp và cô bé Stellina cho linh mục Ferris xem. Ông ấy xác nhận báu vật bị đánh cắp giống hệt như vật trong hình. Bà Alvirah mơ hồ thấy có ánh sáng ở cuối đường hầm rồi!
Trong khi đó, bà Lilly Maldonado lên cơn đau tim, phải vào bệnh viện cấp cứu. Bé Stellina ở nhà một mình, chờ bố về. Lenny là mục tiêu theo dõi của cảnh sát từ bao lâu nay, và hôm nay cảnh sát đã đủ yếu tố để ra tay tóm cổ hung thủ. Hắn ta vội vã chạy về nhà vơ vét tiền bạc cùng giấy tờ, tài liệu phi pháp cất dấu trong phòng ngủ để tẩu tán. Với lại hắn thấy cần bắt Stellina theo, vì nghĩ đứa bé có triển vọng là ngôi sao hộ mệnh của hắn. Hắn ra lệnh cô bé chạy theo hắn lập tức, không được mang theo món gì cả, ngoại trừ chiếc cúp bạc mà hắn muốn phi tang, mặc cho Stellina cứ năn nỉ bố dẫn mình vào bệnh viện thăm bà Nội. Vừa xuống tới đường, cả hai đã phải khựng lại, vì cảnh sát đã bủa vây. Lenny dùng mạng sống của Stellina làm áp lực, và cảnh sát đành để hắn đẩy cô bé vào xe với hắn. Nhưng trời bất dung gian, trong lúc hắn buông tay khỏi cô bé để nổ máy xe thì Stellina mở cửa phóng mình ra khỏi xe, ôm theo chiếc cúp bạc. Cô bé quyết tâm đi tới bệnh viện thăm Nội cho bằng được! Cảnh sát ập đến chiếc xe của Lenny. Cô bé với nguyên bộ đồ mặc để trình diễn vai đức Mẹ Ơn Phước, ôm chiếc cúp bạc chạy theo con phố về phía bệnh viện St. Luke.
Lenny bị bắt. Mười phút sau, cảnh sát, linh mục Ferris và vợ chồng Willy-Alvirah có mặt tại căn chung cư mà cô bé Stellina đã sống bảy năm trời với người nuôi dưỡng mình. Lục soát phòng của Lenny, cảnh sát tìm thay một mảnh giấy nhàu nát kẹp giữa kệ để đồ và bức tượng: mảnh giấy mà người mẹ trẻ đáng thương cách đây bảy năm đã cài trên tấm chăn của con mình. Bà Alvirah đọc nhanh may giòng chữ nguệch ngoạc để thấy mọi sự đã được xác nhận hùng hồn, đúng như bà đã nghi. Bà gọi điện thoại cho Sondra.
*
Đoạn kết là khung cảnh đoàn tụ đầy mủi lòng của một câu chuyện có hậu. Bên giường bệnh của bà nội Lilly Maldonado, bé Stellina đang nói về buổi tình diễn, về việc giữ gìn chiếc cúp bạc như đã hứa với bà, và về lời mình cầu xin mẹ sớm trở về. Đúng lúc cô bé cất tiếng hỏi, “Nội có nghĩ rằng Chúa sẽ gởi mẹ về với con không?” thì Sondra vừa đến sau lưng Stellina. Nàng quì xuống, thổn thức, và ôm cô bé vào lòng. Ngoài hành lang bệnh viện, bà Alvirah thoáng thấy cảnh tượng trên, nhẹ nhàng khép cửa lại. Bà nói, “Có những khoảnh khắc cần được sống trong riêng tư. Có những lúc không cần phải hiển thị cũng biết rằng nếu ta có đức tin mạnh và bền vững thì những mong ước của ta sẽ thành hiện thực”.
24/12/2013
Hà Kỳ Lam biên dịch
 
Dòng đời vẫn trôi
Tiếng cót két của chiếc xe đẩy làm Tình thức giấc. Hôm nay chủ nhật mà sao ai dậy sớm thế nhỉ ? Tình lồm cồm bò dậy chui ra khỏi màn. Qua khe cửa chớp của căn phòng trọ, Tình nhận ra ngay dáng đi của hai mẹ con chị Năm bán hủ tíu mà cả khu nhà trọ vẫn quen gọi là “chị Năm hủ tíu”. Chị Năm là hàng xóm với Toàn trong khu nhà trọ “liên hợp” này. Sở dĩ được gọi như thế vì ở đây có khoảng độ hơn chục phòng trọ nhưng gồm đủ mọi thành phần: từ sinh viên đến thợ nề, người buôn chuối, người bán tàu hũ, thợ cắt tóc, vá xe…
Hình như hai mẹ con chị Năm hủ tíu cũng vừa mới chuyển đến khu nhà trọ này trước Tình độ vài ba hôm. Nghe đâu nhà chị ta ở mãi dưới miền Tây. Chị lấy chồng từ năm mười sáu hay mười bảy tuổi gì đó. Hai vợ chồng có với nhau được ba mặt con rồi thì anh chồng bỗng dưng lại sinh ra cái tật nát rượu. Suốt ngày, anh ta chẳng chịu làm ăn gì cả, đã thế sau khi uống rượu vào lại còn hay đánh vợ đánh con. Có những hôm, chị bị chồng đánh sưng húp cả mặt, phải ở lì trong nhà mấy hôm liền, vì sợ ra đường hàng xóm người ta cười cho.
Mấy lần, chị đã cố nhờ họ hàng khuyên bảo, nhưng anh chồng chỉ tu tỉnh được vài  hôm rồi lại chứng nào tật ấy. Lắm lúc cực quá, chị định làm liều nhưng rồi nghĩ đến tương lai của những đứa con, chị chỉ còn biết làm ngơ giả điếc cho qua chuyện. Có những hôm, chị nước mắt lưng chòng, định bụng dắt mấy đứa nhỏ về nhà mẹ đẻ, rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng ở vùng quê lam lũ này làm gì có cái lệ như vậy. Chị nghĩ: Nếu mình mà về bên ấy thì trước tiên, các con thiếu vắng tình cảm của người cha, còn bản thân mình thì sẽ bị mang tiếng là gái chê chồng, cũng cực lắm.
Sau nhiều lần cân nhắc thiệt hơn, rồi lại nghĩ đến các con, chị đành đánh liều một phen. Sau khi thu xếp công việc nhà, chị quyết định đưa hai đứa nhỏ sang chỗ ông bà ngoại, rồi dắt cái Thảo là đứa con gái lớn lên Sài Gòn với mình. Chị nghĩ, nếu cứ ở nhà mãi với anh chồng nát rượu thì lấy gì ra mà ăn? Lên Sài Gòn rồi, hai mẹ con cố gắng làm lụng, may ra dành dụm được tí tiền thì các con mới có cơ may được đến trường, được học hành cẩn thận; phần nữa, là phòng những lúc ốm đau, ngộ nhỡ…
Từ ngày lên Sài Gòn, chị cũng thử đủ các nghề khác nhau. Ai nhờ gì thì làm nấy. Có lúc chị đã từng đi làm ô-sin, giặt giũ, lau nhà, rồi trông trẻ, thu gom ve chai, bán bánh giò… Sau khi dành dụm được ít vốn liếng, chị chuyển sang bán hủ tíu. Vì theo chị, phần vì bán hàng này cũng kiếm được, phần vì đỡ phải đi xa, còn có thì giờ thì dạy dỗ đứa con.
Cái Thảo - đứa con gái lớn của chị - năm nay đã mười hai tuổi đầu rồi mà vẫn chưa biết đọc, biết viết. Nhưng được cái con bé rất ham học. Những lúc rảnh, nó hay đến chỗ các anh chị sinh viên cùng khu nhà trọ để nhờ các anh chị giúp nó tập đọc. Nó còn mơ ước, nếu được đi học, thì sau sẽ làm cô giáo để về giúp cho các em nhỏ ở dưới quê nó. Theo lời nó nói thì những đứa bằng tuổi nó ở quê chỉ biết mò cua, bắt ốc và bẫy chim là giỏi, chứ chẳng đứa nào biết chữ cả. Nghe nó kể cách hồn nhiên thơ ngây mà lòng Tình chợt trào lên một nỗi thương cảm.
Món hủ tíu của mẹ con chị Năm thế mà đắt hàng. Khách hàng của chị chủ yếu là những người lao động, các sinh viên, học sinh và những người bán hàng trong cái góc chợ Thị Nghè này. Có khi chỉ cần hai hay ba ngàn đồng là có một tô hủ tíu. Riêng đối với đám sinh viên trong khu nhà trọ “liên hợp” lần nào ra ăn hàng, chị Năm cũng đều thêm cho một miếng tiết luộc bằng độ ba đầu ngón tay và một đĩa rau sống to. Chị bảo: các cậu cố gắng ăn vào còn lấy sức mà học. Thời buổi bây giờ, người không được học hành như chị đây khổ lắm.
Chị Năm vốn tính tình vui vẻ nên Tình mới gặp chị lần đầu mà như đã quen biết nhau từ lâu rồi. Có hôm đang ở chỗ đông người, chị hỏi: Cậu Tình có người yêu chưa? làm Tình ngượng chín cả mặt. Chị lại bảo: đàn ông con trai gì mà cứ e thẹn như con gái ấy. Hay là chưa có đám nào thì để chị làm mối cho đứa em gái của chị ở dưới quê. Năm nay nó cũng chừng độ mười tám đôi mươi rồi, đang là thợ may. Nó đẹp gái mà còn hoạt hơn chị nhiều. Tình lại càng ngượng hơn, cậu đành phải ậm ờ cho qua chuyện, chứ thực lòng cậu chưa nghĩ đến chuyện đó.
Quê Tình ở tận Bùi Chu, thuộc tỉnh Nam Định. Tốt nghiệp phổ thông xong, vì hoàn cảnh gia đình, nên Tình phải theo mấy người cùng làng vào trong này kiếm việc làm. Vừa đi làm, Tình vừa cố gắng ôn thi đại học. Năm nay Tình đã là sinh viên năm thứ hai của trường Đại học Văn Lang – Tp. Hồ Chí Minh. Sau khi chuyển năm bảy chỗ trọ, bây giờ mới kiếm được chỗ này ưng ý. Tiền thuê nhà vừa rẻ lại vừa gần chỗ học. Bà chủ nhà trọ cũng là người gốc Bắc di cư từ năm 1954, nên thấy cảnh ngộ của người đồng hương, bà cũng thương tình bớt cho chút đỉnh…
 Hàng ngày, từ ba rưỡi sáng hai mẹ con chị Năm đã trở dậy quạt bếp, bắc nồi nước dùng, rồi nhặt rau sống. Mặc dù còn ít tuổi, nhưng cái Thảo rất thương mẹ. Nhiều sáng thức dậy, thấy con đang ngủ say, chị Năm không nỡ gọi, nhưng khi vừa ra đến ngoài sân, đã thấy cái Thảo đứng ở đằng sau rồi. Mắt nó còn nặng trĩu, nhưng không muốn mẹ nó phải làm một mình.
Mặc dù sáng nay chủ nhật, nhưng đối với hai mẹ con chị Năm thì cũng như mọi buổi sáng khác. Hai mẹ con bắt đầu một ngày mới bằng việc đẩy chiếc xe bán hủ tíu ra khỏi nhà rồi nhẹ nhàng khép chiếc cổng sắt lớn lại. Cái Thảo ngoan ngoãn đẩy chiếc xe giúp mẹ. Bên cạnh chiếc xe, lò than đang hồng rực.
Bây giờ đã là tháng mười hai dương lịch. Chỉ còn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh. Tiết trời Sài Gòn se se lạnh, giống như cái lạnh đầu đông ở miền Bắc vậy. Tình định chui vào màn ngủ tiếp, nhưng không sao chợp mắt được. Những ý nghĩ cứ vẫn vơ, quẩn quanh trong đầu chàng sinh viên trẻ. Thế ra, trên đời còn có nhiều mảnh đời thật éo le. Biết bao giờ những em thơ mới được hồn nhiên cắp sách tới trường? Bao giờ những người phụ nữ mới được đối xử cách bình đẳng, được hưởng một hạnh phúc cỏn con mà họ đáng được hưởng? Có lẽ sự hy sinh của chị Năm cũng giống như biết bao người phụ nữ Việt Nam khác. Suốt đời chỉ: Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo xéo mặt nước buổi đò đông… nhưng vẫn một lòng thủy chung thờ chồng, nuôi con…
Từ khi biết mẹ con chị Năm hủ tíu, Tình thấy hình như cái Thảo chỉ có độc một chiếc áo hoa đã cũ mèm, trên lưng áo còn có vài ba miếng vá. Đã mấy lần chị Năm định mua cho nó chiếc áo mới, nhưng con bé không chịu, nói rằng ở hoàn cảnh của mẹ con nó bây giờ, ăn mặc như vậy là được rồi. Chị Năm thương con lắm, nhưng nghĩ lại, thấy nhiều khoản khác cần phải chi tiêu hơn nên đành thôi. Biết hoàn cảnh của gia đình chị Năm như vậy, Tình định bụng sẽ cố dành dụm số tiền công làm gia sư ít ỏi của mình để mua tặng cho cái Thảo chiếc áo mới vào dịp Giáng Sinh này.
Mấy hôm nay, đột nhiên, Tình thấy nét mặt của chị Năm buồn hẳn. Chị lầm lũi đi về. Suốt ngày chẳng nói năng gì cả, khác hẳn với tính tình vốn rất vồn vã mọi ngày của chị. Thỉnh thoảng chị lại thở dài thườn thượt. Nếu có ai hỏi gì thì chị trả lời nấy, không thì lại thủi thủi một mình trong căn phòng trọ rộng chừng tám hay chín mét vuông.
Chiều hôm đó, bỗng nhiên cái Thảo chạy sang phòng của Tình mếu máo như muốn bày tỏ điều gì. Từ trước tới giờ, hễ có chuyện gì, nó cũng đều kể cho Tình nghe. Nó coi Tình như người anh, còn Tình cũng xem nó như đứa em gái ở nhà. Nó nói như muốn khóc.
- Anh Tình ơi, mẹ con em sắp phải xa anh rồi!
- Có chuyện gì thế hả Thảo ? – Tình hỏi vẻ ngạc nhiên.
- Hình như vì chuyện của gia đình, nên mẹ em bảo hai mẹ con phải về quê ngay.
Thì ra, đấy là lý do mà mấy hôm nay chị Năm buồn chăng? – Nghĩ vậy, Tình chạy sang phòng chị Năm. Thấy chị đang thu xếp mấy bộ quần áo nhét vào trong một chiếc túi xách đã cũ. Tình hỏi:
- Có chuyện gì thế chị Năm?
Chị Năm ngước lên, vẻ mặt buồn bã.
- Chắc là cái Thảo nhà chị nó đã kể cho cậu rồi phải không?
- Nhưng mà làm sao mà chị lại phải về gấp thế. Hay là gia đình chị có chuyện gì?
- Thôi, chị chẳng dấu cậu làm gì. Gia đình chị có chuyện thật. Mấy hôm rồi chị nhận được thư của nhà gửi lên. Chồng chị bị ốm phải nhập viện trên tỉnh. Bác sĩ kết luận là anh ấy bị ung thư giai đoạn cuối. Chẳng biết còn sống được bao lâu nữa. Mà em biết đấy, nhà chị nghèo lắm, chẳng có gì cả. Nên chị đành mang đi cầm những đồ đạc mà chị đã sắm trước đây, để lấy ít tiền về chạy thuốc thang cho anh. Chị đã nghĩ kỹ rồi, có khi hai mẹ con chị phải về quê ngay hôm nay. Nghĩa vợ chồng mà! Thôi thì còn nước còn tát. Những lúc như thế này anh ấy cần có chị ở bên cạnh…
Nhìn chị Năm mắt ngân ngấn lệ, Thìn vội quay đi, giấu giọt nước mắt sắp trào ra. Sao mà cuộc đời của chị lại khổ thế?!
- Chị nhờ cậu một việc, chiều nay cậu đưa hai mẹ con chị ra bến xe đò dùm được không?
- Nhưng mà bây giờ đã muộn, hại mẹ con chị về lúc này có tiện không? Về đến nhà chắc là trời đã tối muộn, nguy hiểm lắm chị ạ!
- Cám ơn cậu, nhưng chị đã quen bôn ba rồi. Mấy lại, tối về đến làng mình rồi thì còn sợ gì nữa, toàn bà con mình cả.
Chiều hôm ấy, Tình đưa hai mẹ con chị Năm ra bến xe miền Tây. Suốt quãng đường đi, hai chị em chẳng nói với nhau lời nào. Dường như mỗi người đều có những tâm sự riêng. Chỉ tội nghiệp cho cái Thảo. Trên khuôn mặt ngây thơ ấy vẫn chưa khỏi ngơ ngác vì quyết định về quê cách đột ngột của mẹ nó. Bởi một lẽ đơn giản là nó chưa hình dung được căn bệnh nguy hiểm mà cha nó đang mang trong mình lúc này. Đôi lúc, nhìn thấy những cảnh lạ mắt, nó quay sang định hỏi một câu gì đó nhưng nhìn thấy gương mặt đang đăm chiêu của hai người lớn, nó lại không dám nữa.
Hôm ấy, bến xe miền Tây vắng khách hơn mọi ngày. Một vài người lơ xe ra mời chào, nhưng chị Năm đều từ chối mà vào tận quầy để mua vé. Cái Thảo từ nãy tới giờ vẫn nắm chặt tay Tình như không muốn rời ra. Đến phút cuối cùng, khi xe sắp chuyển bánh, chị Năm mới nói được lời cảm ơn. Tình dúi vội vào tay cái Thảo một chiếc hộp nhỏ – là món quà mà Tình định sẽ tặng nó vào dịp Giáng sinh này. Thế là những dự định sẽ đưa cái Thảo đi dự lễ Giáng Sinh và nghe hát Thánh ca đã không thực hiện được - điều mà cái Thảo cứ thao thức đợi chờ từ cả tháng qua.
Chiếc xe đò đi miền Tây từ từ chuyển bánh. Tình đứng lặng người trông theo. Hai mẹ con chị Năm về quê lần này chẳng biết có ngày còn trở lại? 
Khi xe đã chạy được một quãng, cái Thảo còn thò cổ ra ngoài vẫy vẫy bàn tay nhỏ bé để chào Tình. Tình thoáng thấy hình như chị Năm đang lấy khăn tay lau nước mắt. Tương lai đối với chị lúc này thật mờ mịt. Mọi gánh nặng gia đình đang chất chồng lên đôi vai gầy của chị. Trong lúc chia tay, Tình cũng chỉ biết chúc chị can đảm vượt qua được những thử thách này.
Xe đã đi xa rồi mà trong đầu Tình lúc này vẫn còn chất chứa nhiều tâm trạng. Trên môi Tình chợt nở một nụ cười khi nghĩ đến việc cái Thảo sẽ rất ngạc nhiên khi mở gói quà của Tình. Trong gói quà đó, ngoài chiếc áo mới, Tình còn mua cho nó một cuốn sách tập đọc, một quyển vở tập viết và một chiếc thiệp Giáng Sinh đề dòng chữ:
“Chúc em luôn chăm ngoan, học tập tốt và hy vọng rằng niềm vui Giáng Sinh sẽ đến với em”
Anh: Tình
Để có được món quà mà Tình đã tặng cho bé Thảo, có thể ngày mai Tình sẽ phải vất vả hơn đôi chút, nhưng Tình lại cảm thấy trong lòng rộn ràng một niềm vui. Quả thật, không một tình yêu đích thực nào lại không đòi hỏi một sự dâng hiến. Không một trao ban đích thực nào lại không đòi hỏi một sự hy sinh.
Nhìn dòng người hối hả ngược xuôi, Tình chợt nghĩ tới những mảnh đời mà Tình đã từng biết đến. Có những người giàu sang, hạnh phúc; lại có những người nghèo khó, bất hạnh. Mỗi người một cảnh huống khác nhau. Nhưng cuộc sống này sẽ đẹp hơn biết bao khi con người biết cảm thông và chia sẻ. Bởi vì dẫu thế nào thì một sự động viên, một lời an ủi của đồng loại trong cơn gian nan khốn khó luôn là món quà quý giá đối với những người vốn đã chẳng có được một cuộc sống bình yên.
Nắng chiều trở nên nhạt dần, những tia sáng yếu ớt còn vương trên lối về. Tình đi giữa lòng thành phố Sài Gòn mà như quen, như lạ. Đường phố lúc này đã bắt đầu lên đèn. Thỉnh thoảng, có dãy phố được tô điểm bằng những cây thông Giáng Sinh lấp lánh ánh đèn màu trông thật vui mắt. Đâu đó đã bắt đầu vang lên khúc nhạc thánh ca “Noel an bình”.
Ngang qua một vài cửa hiệu bán quà Giáng Sinh, Tình nhìn thấy những đứa trẻ đang nói cười ríu rít, với món quà trên tay, chúng đang vui vẻ bước đi trong vòng tay âu yếm của cha mẹ. Chợt Tình lại nghĩ đến hai mẹ con chị Năm. Ước gì cái Thảo cũng sẽ có được niềm vui như vậy khi Giáng Sinh về.
Hương Lúa

                                      Đêm Giáng Sinh Đầu Tiên  
Tiết trời se lạnh của mùa đông tràn về khắp phố phường. Đâu đây những giai điệu trầm bổng của bài hát Giáng sinh vang lên. Những ánh đèn lấp lánh đủ sắc màu trên cây thông Nô-ên. Những tấm thiệp được trao nhau với những lời chúc yêu thương, ngọt ngào. Mùa Giáng sinh đã về. Hân nhớ lại đêm Giáng sinh đầu tiên không phải của những gã mục đồng ở thành Bết-lê-hem năm xưa mà là Giáng sinh đầu tiên của một cô bé tại thị trấn nọ. 
Năm ấy, sau khi tốt nghiệp lớp Năm, ba má không đủ khả năng để lo cho Hân tiếp tục học cấp II. Thương ba má cực khổ và ba đứa em nhỏ dại, bất đắc dĩ Hân từ bỏ ước mơ cắp sách tới trường cùng các bạn. Mùa hè đó, có người quen giới thiệu ông bà chủ tiệm bánh mì ở dưới thị trấn cần người trông em bé và giúp việc nhà. Hân theo ba má xuống thị trấn. Sau cuộc gặp gỡ thỏa thuận, chia tay ba má, Hân ở lại ngôi nhà lạ với những người mới quen. Công việc hằng ngày của em là giữ em bé, quét dọn, rửa chén, lau nhà… Tiệm bánh mì nằm đối diện nhà thờ Tin Lành. Mỗi sáng Chúa nhật, Hân thấy có nhiều người mặc quần áo đẹp, lịch sự đi vào nhà thờ. Hân thích lắm, muốn qua nhà thờ chơi một lần cho biết nhưng sợ ông bà chủ la vì không có người giữ em bé. Rồi một điều lạ lùng và may mắn đã xảy ra trong một ngày đông gió lạnh. Buổi tối hôm đó, sau khi cho em bé ăn xong, cô chủ hỏi: 
– Ê Hân, hồi đó giờ con nghe người ta nói về Lễ Nô-ên chưa?
– Dạ chưa ạ. Lễ Nô-ên là gì hả cô? 
– Cô cũng không rõ nữa, chỉ nghe người ta gọi là Lễ Nô-ên vậy thôi. Tối nay ở nhà thờ tổ chức Lễ Nô-ên đó. Cô cho con qua đó chơi cho biết. Nhớ tan lễ là về, đừng có đi đâu nữa đó. 
– Dạ, cảm ơn cô. Con sẽ về đúng giờ. 
Xuống thị trấn đã được năm tháng, nhưng đó là lần đầu tiên Hân được cô chủ cho đi chơi. Hân vui lắm. Tranh thủ ăn cơm, rửa chén, lau nhà xong, Hân chào cô chủ và đi qua nhà thờ chơi.
Bước chân rụt rè, Hân từ từ bước vào nhà thờ. Nhà thờ trang trí thật đẹp, nào là chuồng chiên, máng cỏ, các ngôi sao, dây đèn lấp lánh đủ màu, trên cây thông treo nhiều gói quà lủng lẳng thích thật. Mọi người đông đúc, ai nấy mặc quần áo rất đẹp. Các cô thì mặc áo dài đồng phục, các chú mặc áo trắng thắt cà-vạt, các anh chị thanh niên mặc áo lễ, các em bé mặc áo lễ màu trắng đeo các vòng hoa như là thiên sứ rất đẹp. Cả ban diễn lễ, mỗi người tay cầm nến, đi kiệu chầm chậm bước vô nhà thờ, cả ban diễn lễ hòa lòng trong bài hát “Đêm Yên Lặng” rất hay. Mọi người ai cũng mặc quần áo đẹp, sang trọng, mặc cảm với bộ đồ thun sờn màu, đôi dép lê lẹp xẹp, Hân nép mình ngồi xuống trên chiếc ghế ở bên hông nhà thờ. Hân lặng lẽ ngồi im nhìn lên chiếc tivi theo dõi chương trình. Hân say mê với giai điệu trầm bổng, thánh thót của những bài Thánh ca. Rồi ông Mục sư bước lên tòa giảng, giọng nói trầm ấm: Vì yêu thương nhân loại lầm than, cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giê-xu đã đã bằng lòng lìa bỏ ngôi thiên đàng vinh hiển giáng sinh nơi chuồng chiên, máng cỏ đê hèn. Ngài đến thế gian làm người, sống cuộc đời một con người để thấu hiểu, cảm thông với những nỗi đau khổ của con người và rồi Ngài an ủi, nâng đỡ họ. Chúa Giê-xu là Đấng yêu thương. Ngài yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt người giàu sang, kẻ nghèo hèn. Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho con người. Kinh Thánh chép rằng: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Chúa Giê-xu là món quà vô giá mà Thượng Đế ban tặng cho con người. Nếu ai bằng lòng tin nhận Chúa thì Ngài sẽ tha tội và ban cho người đó sự sống đời đời…
Đưa cánh tay lên, Hân lẩm nhẩm cầu nguyện theo lời của ông Mục sư: “Lạy Chúa kính yêu của con, tạ ơn Chúa đã tạo dựng con, nhưng bấy lâu nay con không thờ phượng Ngài. Giờ này con xin ăn năn tội, xin Ngài tha tội cho con. Xin Ngài làm chủ cuộc đời con và biến đổi con trở nên người hữu ích cho Ngài. Trong danh Chúa Giê-xu con cầu nguyện. Amen!”
Trên bầu trời cao, những vì sao lấp lánh nhảy nhót ca hát, niềm vui dâng trào không tả xiết, Hân trằn trọc không thể chợp mắt khi nghĩ về ba má chân lấm tay bùn và các em nheo nhóc ở dưới quê. Bật đèn lên, Hân nắn nót những dòng chữ yêu thương: 
“Ba má kính yêu,
Giờ này ba má ngủ chưa? Con rất nhớ ba má và các em. Ba má khỏe không ạ? Ở đây con khỏe mạnh. Con đã quen với công việc mới rồi. Chú Bình và cô Hiền cũng tốt bụng với con, ba má yên tâm. Ba má ơi, tối nay con đi dự Lễ Nô-ên ở nhà thờ Tin Lành vui lắm. Ông Mục sư nói Chúa Giê-xu là Đấng yêu thương mọi người trong đó có ba má và con nữa. Nếu ai tiếp nhận Chúa Giê-xu vào lòng thì người đó sẽ được làm con của Chúa. Tối nay, con đã cầu nguyện mời Chúa Giê-xu làm chủ cuộc đời con rồi. Tối nay, con thấy có nhiều bạn bằng tuổi con đi nhà thờ chung với ba mẹ rất hạnh phúc làm con càng nhớ ba má nhiều hơn. Lúc đó con ước gì có ba má đi nhà thờ chung thì vui biết mấy. Con cầu mong ba má luôn khỏe mạnh. Con thương ba má nhiều lắm. Con gái của ba má.” 
Thời gian sau đó, khi biết được Hân tin Chúa, cô chủ bắt bớ, gây khó dễ bắt Hân làm việc nhiều hơn, cực nhọc hơn và thường la mắng Hân… nên công việc của Hân gặp nhiều khó khăn. Hân buồn lắm, nhưng nghĩ đến ba má và các em, Hân cam chịu. Cô An, người mà Hân gặp trong đêm Giáng sinh, khích lệ em hãy cầu nguyện với Chúa thì Ngài sẽ giúp đỡ em vượt qua những sự khó khăn. Chúa Giê-xu rất yêu thương các em thiếu nhi. Chúa không từ chối điều gì con cái Ngài cầu xin.
Sau khi Hân làm việc trả xong nợ mà ba má Hân đã mượn trước đó. Ông bà Tâm là ba mẹ của cô An biết hoàn cảnh của Hân nên nhận Hân làm “công nhân tí hon” trong xưởng may của ông bà. Công việc hằng ngày của em là cắt chỉ thừa trên quần áo, túi xách trước khi đóng thùng giao hàng. Qua đó, ông bà Tâm giúp Hân đi nhóm thờ phượng Chúa, học Kinh Thánh dễ dàng hơn. Năm tháng trôi qua, Hân lớn lên trong tình yêu thương và sự đùm bọc của cô An và gia đình ông bà Tâm. Mỗi đêm trong giờ nhóm lễ bái, cả gia đình đều cầu nguyện cho ba má và các em Hân sớm tin nhận Chúa. Một thời gian sau, hương thơm tình yêu thương của Chúa Giê-xu, của ông bà Tâm và cô An đã thu hút ba mẹ Hân. Ba mẹ Hân và các em đã bằng lòng tin nhận Chúa Giê-xu.
Những năm sau đó, cô An đi lấy chồng và theo chồng phục vụ Chúa ở một Hội Thánh trong miền Nam. Hân ở lại chăm sóc ông bà Tâm. Năm tháng trôi qua, Hân trở thành một cô thiếu nữ xinh xắn và dịu dàng. Một chàng thanh niên trong Hội Thánh để lòng yêu thương Hân và rồi họ đã có một hôn nhân hạnh phúc trong Chúa…
Đêm nay, cơn gió lạnh lùa qua khung cửa sổ mang theo nỗi niềm thương nhớ. Hân miên man nhớ về ông bà Tâm đang hạnh phúc bên Chúa ở thiên đàng, nhớ gương mặt phúc hậu hiền lành của cô An. Thò tay vào ngăn kéo, Hân đặt tấm thiệp Giáng sinh trên bàn: 
Mừng Chúa giáng sinh, 
Một mùa Giáng sinh nữa lại về, em thương chúc cô An và gia đình vui hưởng một mùa Giáng sinh phước hạnh và ấm áp trong tình yêu của Hài Nhi Giê-xu. Nguyện Em-ma-nu-ên ban cho cô và gia đình một năm mới bình an và thỏa vui ở trong Ngài. Cảm ơn Chúa đã cho em có một đêm Giáng sinh đầu tiên thật ý nghĩa. Từ đêm Giáng sinh đó, cuộc đời em đã thay đổi và cũng từ đó em có những mùa Giáng sinh ấm áp bất tận ở trong Ngài. 
Thương mến, 
Ngọc Hân 

Bên ngoài, làn sương dày đặc phủ khắp lối đi về, Hân khẽ hát: “Chúa Thánh giáng sinh nơi máng chiên cô đơn nghèo nàn. Ngàn vì sao nhìn vào chốn Giê-xu nằm tăm tối… Cứu Chúa Giê-xu ơi máng rơm khô xưa Ngài nằm, là chính tâm hồn con cúi xin rước Ngài giờ đây!…

 Nhũ Hương