Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý tình cảm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý tình cảm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2020

Nhạc - Thơ - Văn Ngã ba sông

  Ngã Ba Nhà Thờ Hòa Ninh

Tạ Ơn

Đêm nay sóng vỗ
Đêm nay sóng lại vỗ bờ,
Mênh mông biển động mây mờ phủ che...

Chị về bến nước thân quen,
Sống cho trọn vẹn nghĩa tình năm xưa.
Cho dù sông cũ gió mưa,
Người đi đi mãi vẫn chưa thấy về...
Xin ai quên hết nguyện thề,
Cầu cho mưa gió não nề qua mau
Chị rồi quên hết thương đau,
Chị rồi hạnh phúc mai sau vững bền
NM

 Nơi ngã ba sông
Chỗ bến sông lõm vào một khoảnh hình mũi tàu. Người sống lâu năm bên bờ sông nói rằng hình dạng ấy của đất không phải vì sóng đánh gây lở, mà vì chuyến tàu cũ mỗi bận đi về đều ghé lại đón khách, mũi tàu xiên vào bờ đất thành hình tam giác mất một cạnh. Mưa gió khiến nó rộng ra, cỏ mọc xanh rờn.
Những đêm trăng sáng, người trong làng đi soi nhái, câu cá ngang qua bến thường trông thấy bóng người đàn bà ngồi bên bờ sông. Trăng rọi xuống mặt sông thành tấm gương phẳng phiu, sáng ngần. Người đàn bà có đôi mắt buồn, lúc nào cũng ngấn lệ. Người biết chuyện lắc đầu buồn bã, mái dầm khỏa nước bơi đi.
***
Ngày còn nhỏ, những bữa được nghỉ học, tôi thường cùng ngoại đi đò qua chợ xóm chài bên kia sông. Đưa đò là một chị gái hiền lành, xinh đẹp, mái tóc dài lúc nào cũng tết thành hai bím xõa hai vai. Đò ngang nào chị cũng chọc tôi, nói tôi lớn rồi mà còn níu áo ngoại đi chợ, nhưng tôi không bực tức bởi điều ấy, mà vẫn thấy chị dịu dàng ngọt ngào như tên của chị - chị Đào.
Nhà chị Đào ở bên bờ sông cạnh bến đò, thuở ấy bến sông chưa khuyết như bây giờ. Những hôm tôi với ngoại ra bến đò khi chưa có ai lui tới, chị Đào nói để chị đưa hai bà cháu qua sông luôn cho kịp. Ngoại tôi lắc đầu, tôi với ngoại ngồi dưới bóng mát trước căn nhà nhỏ của chị, đợi thêm vài khách nữa cho trọn vẹn một chuyến qua sông. Chị Đào rót chung nước trà mời ngoại tôi, đưa cho tôi mấy trái cây chị hái sau vườn nhà. Ngoại tôi hỏi về gia đình chị. Chị nói ba chị bỏ đi theo người đàn bà khác hồi chị còn nhỏ xíu. Năm chị mười tuổi thì mẹ mất, chị phải sống nhờ chú ruột, nhưng vợ chú luôn tìm cách hắt hủi. Mấy năm sau, chị buộc phải rời nhà chú, lang bạt rồi dừng chân ở bến sông này. Người làng thương mà dang rộng vòng tay đón chị, dựng cho chị căn nhà nhỏ trên bờ sông, chị vừa đưa đò vừa bán hàng nước sống đắp đổi qua ngày.
Trưa buồn buồn tôi hay xin ngoại ra bến đò. Đò vắng khách, dưới bóng cây ngả nghiêng xuống mặt sông, tôi với chị Đào ngồi trên chiếc đò nhỏ chòng chành mặt nước. Tay vờn nước, sóng vỗ vào bờ, chị hát cho tôi nghe. Kỷ niệm tuổi thơ tôi gắn liền với bến sông này, với hình bóng chị Đào hiền lành, xinh đẹp…
***
Tôi qua sông về làng. Đưa đò không phải là chị Đào dịu dàng trong tiềm thức của tôi. Ngót nghét đã mười năm qua nhanh như một cái chớp mắt. Tôi lớn lên, trưởng thành và mạnh mẽ trụ chân nơi phố thị ồn ào. Mà quê hương vẫn bình yên, sông vẫn chảy và từ làng vẫn tỏa khói đốt đống un trong mỗi buổi hoàng hôn chập choạng. Tôi bước lên đò, bóng chị lái đò mù mù trong khói sóng ban chiều bảng lảng. Tôi bùi ngùi nhìn về mỏm đất khuyết hình mũi tàu in dấu thời gian.
Đường về nhà ngoại không xa. Đi một đoạn trên con đường đất, nhà ngoại liêu xiêu dưới bóng sầu đâu. Cây sầu đâu gắn liền với bài hát hồi xưa tôi thích lắm, đêm nào tôi cũng hát cho ngoại nghe, nói mai này đi đâu tôi cũng đưa ngoại theo. Mẹ tôi mất sớm, ngoại gồng mình làm lụng nuôi tôi ăn học nên người. Năm tháng đi qua, tôi quên lời hứa năm nào, một thân một mình lên phố ăn học, để ngoại lại làng khi tuổi già xế bóng. Nhớ tôi thì ngoại khăn gói lên thăm, mang cho tôi ít quà quê, kể tôi nghe chuyện “Bà con xứ mình…”, ngủ với tôi mấy đêm rồi đón xe đò về quê. Tôi vẫn nhớ ngày tôi đi, chị Đào đứng trên xuồng cầm nón lá vẫy vẫy về phía tôi, nói chừng nào tôi về chị Đào lại bơi xuồng đưa tôi đi hái sen về chưng trên bàn thờ ông ngoại.
Đêm đầu tiên ở nhà sau những đêm và ngày dài xa cách, tôi hỏi ngoại đủ chuyện mà nhiều nhất là về chị Đào. Căn nhà lá - hàng nước năm nào của chị - đã bị dỡ ra, nền nhà cỏ mọc um tùm, xanh mướt, chiều mù sương giăng mắc trên vòm cây phía bến sông. Ngoại nói: “Đời chị Đào bây khổ quá, người ta nói hồng nhan bạc phận, quả không sai..”. Tôi bùi ngùi bước ra thềm ba nhìn về phía sông. Ngọn đèn đỏ ối trên chiếc tàu chạy từ chợ tỉnh về huyện. Còi tàu nghèn ngẹt kéo dài trong không gian thinh vắng rồi tựa hồ đọng lại thành giọt buồn rơi rớt mặt sông quê.
***
Người làng nhắc hoài chuyện năm xưa, trong một chiều giông gió có chiếc tàu đắm ngoài ngã ba sông. Trên trời gió giông, nước sông cuộn xiết. Ba ngã dòng sông sóng cuốn trôi người tài công về ngã nào chẳng biết.
Quán xập xòe gió, chị Đào đang với tay lấy cây chống lại cái mái nhà bỗng thấy người lạ chạy vào, hớt hơ hớt hải báo tin:
- Ở ngoài ngã ba sông sóng dữ lắm, chiếc tàu chìm nghỉm… Người ta đang tìm tài công…
Chị Đào lao ra sân, ngoài trời mưa giăng rối rít. Mưa trắng xóa. Dòng sông cuộn mình trong màn nước, sóng to gió lớn. Chị chạy vùn vụt trên bờ về phía ngã ba sông. Ở đó, chiếc tàu đã chìm tự bao giờ, chỉ để lộ khỏi mặt nước ống khói nguội lạnh
Chị Đào kêu gào, chị gọi tên anh. Người làng giữ chị lại để chị không lội xuống sông tìm chồng. Nước đang chảy nhanh về phía cửa biển mù khơi xa tít. Người ta đang tìm vớt khách lênh đênh trên sóng đưa vào bờ. Chiếc tàu chở hơn hai mươi khách từ huyện ra chợ tỉnh bị sóng hất lật ngang. Người lên được bờ hoảng quá khóc không ra tiếng
Chị dầm mưa ngồi bên bờ sông suốt mấy hôm liền. Mắt chị sưng húp. Nước mắt chị Đào giàn giụa hòa lẫn với nước mưa. Mấy năm trước, có người thanh niên lái tàu vẫn thường đưa khách đi về ngang qua bến chị. Dần dần, chị phải lòng anh. Hôm nào chị cũng đứng đón tàu anh đi qua, vẫy tay, mỉm cười rồi đợi chuyến tàu về huyện khi hoàng hôn tắt lịm phía chân mây. Rồi chị Đào với anh tài công nên vợ nên chồng. Đám cưới của anh chị có người làng đến góp vui. Anh dựng lại cái quán bên bến sông cho kiên cố. Ki cóp mấy năm, anh dành dụm đủ tiền thuê người đóng được chiếc tàu, không phải lái thuê cho người khác nữa. Khi đưa khách về huyện, anh dong tàu ngược về bến sông đậu lại. Mũi tàu vì thế mà khắc thành hình trên bờ đất quê hương
Những năm tháng đó, tôi không sống ở làng, không nhìn được chuyến tàu về khi hoàng hôn bảng lảng màu khói bạc
Anh không về. Người ta nói năm ấy sóng to, gió lớn cuốn anh trôi ra cửa biển. Chiếc tàu chìm xuống đáy. Mấy tháng sau, xác tàu được trục vớt lên, để bên bờ đất tháng năm mưa nắng khiến nó mục dần, giờ đây xám xanh màu rêu gió. Chị cất nhà ở hẳn bên bờ nhìn ra ngã ba sông. Làng nói chỗ đó năm nào cũng xảy ra lở đất, mưa bão, sóng to, nước cuộn… khuyên chị về bến dựng lại cái nhà ở cho chắc chắn. Đau thì cũng đã đau rồi. Người đi cũng đã đi rồi, có đợi, có chờ… thì người cũng đâu trở lại?
Chị Đào vuốt tóc, cười cười. Mái tóc dài mấy năm chị không cắt tỉa, thoảng mùi nắng mưa. Chị nói:
- Chồng tôi ở ngã ba sông thì tôi cũng ở ngã ba sông cho gần ảnh.
Đêm đêm, người ta thường thấy chị về lại bến nước quen. Nơi chị đã gắn bó bao năm tháng thanh xuân, vui buồn chôn nơi bến đỗ có hình mũi tàu khuyết vào trong đất. Để góp nhặt những ký ức xưa cũ có hình hài, vóc dáng của người mà chị yêu thương…
***
Đêm nay, sóng lại vỗ bờ. Ngoài xa mênh mông là biển động. Tôi nghe chị phát thanh viên nói như vậy trên ti vi. Bóng trăng vừa hiện ra đã bị mây mờ che phủ, vàng nhợt xanh xao.
Tôi biết chắc đêm nay chị Đào lại về bến nước ngồi thẫn thờ. Ngoại tôi vẫn buồn bã thương chị. Chị Đào của tôi, người phụ nữ xinh đẹp, hiền lành trong ký ức tuổi thơ tôi, nay sống hoài trong nỗi đau của quá khứ.
Gió nổi lên. Đêm nay nước lớn. Tôi lo cho chị Đào, không biết rồi chị có chống chọi được với những bất trắc trong đời để sống cho trọn vẹn một kiếp người, dẫu đau đớn. Tôi nhắm mắt nguyện cầu cho chị được bình an, mong sao hạnh phúc sẽ mỉm cười với chị. Vì chị thủy chung. Vì chị xứng đáng nhận được những điều tốt lành chứ không phải trăm chiều giông gió…
Hoàng Khánh Duy

Ngã ba sóng dồi
Ghe xuồng tới Ngã Ba chịu sóng dồi mỗi lúc, mỗi chỗ, mỗi khác. Nào là xoay tròn xuôi xuôi ngược ngược, nào bập bênh dọc bập bênh ngang, nào chao nghiêng chao lệch. Rạch kinh lạ! Đường nước khắp đó đây không đâu có cái vũ điệu cuồng cuồng loạn loạn vầy. Ngã Ba các dòng mạch nguồn đổ về, biển ngược tới, trong lòng rạch cuồn cuộn quần quần xô đẩy đẩy xô. Dân hải hồ rạch kinh tới đây ngộ ra rằng phải lơi chèo lái để tự nhiên sóng dồi, lòng vòng rồi cũng tới chỗ cần tới. Và còn được bài học hay “Tới đâu theo nước đó” của thời mở cõi nước nổi bao la.
Người tá túc vùng giang đồng này trải đời ngày đêm làm ăn, thức ngủ với miên man dòng nước. Tay canh nông vườn ruộng thì ưu ái rạch Đông đục đỏ sắc phù sa màu mỡ. Tay ngư phủ lại linh hoạt với các loại trang trại hầm cá vuông tôm và đăng đó vó lưới với các loại thủy sản của con nước ngọt, con nước lợ và con nước mặn. Ở đây lúa gạo trái rau cá tôm thứ nào cũng nổi tiếng. Dân mình mấy ngàn năm dựng nước, mấy trăm năm mở cõi có nhiều cố sự quý giá.
Ngã Ba nước nổi này mỗi phận người mỗi kể ra bao nhiêu cố sự dòng trong dòng đục. Hai Óng nằm võng trong nhà mình nhìn con nước của Ngã Ba, nghĩ đến mẹ sinh cha dưỡng, rồi quay nhìn sau nhà. Mí bờ rạch bên kia là nấm mồ của cha, bên hông ngôi nhà của cha mẹ Hai Óng.
****
Mấy chục năm trước nhà ghe Nguyễn Hóa - Kim Trầm xuôi rạch Tây tới Ngã Ba, lên bờ dựng nhà lo gia viên. Họ phảng leng lên mương vườn, trong khi chồng vẫn ghe vợ vẫn xuồng câu lưới cần mẫn. Rồi họ lâm nạn sóng nước. Cái buổi chiều nhập nhoạng ấy, Kim Trầm ham hố săn “tôm ăn chạng vạng” (*) ở bờ bên kia. Con cá lớn dính câu lưới. Thế là ra cuộc vật lộn quyết liệt. Kim Trầm la thất thanh. Nguyễn Hóa từ bến nhà mở máy ghe lao tới lo cho vợ. Cái ghe phóng vào hàng bình bát nằm nước. Ba ngày sau người ta mới phát hiện Nguyễn Hóa chết trong cái ghe lật úp. Họ lấy ghe làm quan tài, lên cho Hóa nấm mồ bên hông nhà. Còn cái xuồng của Kim Trầm bị vặn vẹo bung keo dán ván lườn nước ào vào ngập ngụa, cô bị té nằm sàn xuồng chết giấc. Xuồng trôi dạt tới nấm đất giữa giang đồng. Đêm khuya Kim Trầm mơ tỉnh bò lên nấm đất đụng cặp lu, bám lu cất mình lên vục mặt vào dòng nước mát tràn trề. Trầm nằm ôm chân lu lơ mơ xoa xoa cái bụng bầu, vơ cỏ, lượm trái rụng bỏ miệng. Dăm bảy ngày sau có người đi ngang nấm đất thấy Kim Trầm thì đưa về Ngã Ba. Trầm được rước lên cửa nhà, nhìn thấy nấm mồ của chồng, Trầm lại ngất. Liên tiếp những ngày sau Trầm cứ bò lết ra ôm nấm mồ. Người ta tìm ra nơi chốn nên cơ duyên vợ chồng của Kim Trầm. Trầm là “cô quản tum liếp vườn” lo nơi ăn chốn ở cho các thợ vườn của một đại điền chủ ở phố huyện. Trầm và thợ vườn Nguyễn Hóa phải lòng nhau rồi phiêu dạt tới Ngã Ba… Nghe chuyện vợ chồng Trầm gặp nạn, chủ vườn cũ lại cho cô làm tiếp việc cũ chờ ngày sinh. Phước đức! Kim Trầm có công ăn việc làm, sinh hạ Hai Óng vuông tròn, nuôi con học hành. Mười lăm tuổi Hai Óng quỳ trước ông bà chủ xin về với cha Nguyễn Hóa. Chủ thanh toán công xá rồi tặng cho mẹ con cái nhà ghe mới, thêm cái xuồng.
Về ngôi nhà cũ ở Ngã Ba, hai mẹ con đèn nhang lễ lạc dâng trước mồ Nguyễn Hóa. Mẹ cho con hết số tiền làm công và tháo cặp bông tai đeo cho Hai Óng. Đôi bông cha tặng ngày cưới, nay mẹ tặng lại con gái. Chúng ta mỗi người mỗi chỗ. Con về với cha. Ở đây cần cái ghe hơn. Mẹ về nấm đất có cặp lu. Đó là nơi Kim Trầm đã kể bao lần rằng đôi lu đó là của một cặp vợ chồng mang tới. Đời dân nước nổi có sao sống vậy, nhưng phải lo nấm mồ xây để chết có chỗ nằm đó, kẻo nước nổi tiêu tan mất. Đôi vợ chồng đó tính cặp lu thay cho mộ xây, nhưng rồi họ bỏ đi, vượt trùng dương bao la đến đất mới. Mẹ đã trôi tới nấm đất có đôi lu ngày cha mất, nay mẹ bước xuống xuồng, lái ghe về Ngã Ba sóng  dồi.
****
Hai Óng sửa ngôi nhà của mẹ cha và lên ban thờ gia tiên, nhưng cô vẫn ở nhà ghe. Hai Óng cũng đi từng nhà cám ơn những người trước kia đã lo chôn cất cho cha bằng nấm mồ nhà ghe, sau đó cô xây mộ cho cha. Con báo hiếu bằng cách mỗi lần mẹ về là chuẩn bị đầy đủ thức ăn, hoa trái mà cha thích, để mẹ bày ra bên mộ cha mà kể, mà nhớ. Hai bên mộ lát đá, là giường phản cho mẹ có nhớ thương thì cứ nằm hoài, không phải như ngày nào lăn lộn ôm mồ đất để bị kè vào nhà, đưa về tận phố huyện xa biền biệt.       

Trên bờ Ngã Ba có mấy chục nhà tá túc. Nhà nào cũng dựng nhà mí bờ trong đồng. Hai Óng thì dựng ngôi nhà bên dòng rạch phương Nam. Lần đầu tiên Ngã Ba có ngôi nhà hướng ra đường nước, lại duy nhất là nhà cất ở trên một trong ba mũi đất Ngã Ba. Người ta sợ sóng dồi, bảo cô Hai Óng lấy chồng rồi tính tuổi làm nhà tốt hơn. Hai Óng bảo cất nhà để bắt rể.
Rể chưa thấy đâu nhưng bến nhà Hai Óng là cái bến duy nhất ở đây nên thành bến Ngã Ba. Ghe xuồng xuôi ngược tới, Hai chào hỏi mời lên nhà. Tất nhiên là chủ các ghe rinh cả bếp than, bếp ga, đồ mồi... lên đỏ lửa. Hai Óng cũng đỏ cà ràng xào xào chiên chiên ba thứ rau trái vườn nhà bán cho khách thập phương. Sum họp vầy tâm giao thương thảo, hữu hảo hài hòa, đầm ấm. Cá tôm rau trái của nhà Hai Óng được tiêu thụ, đem lại thu nhập đáng kể.
Chỗ đất nước vầy ắt có khách không mời cũng tới. Ấy là Tiến sĩ môi trường Văn Quốc một lần đi công tác ngang đây, ngưỡng mộ trước cô gái trẻ đẹp mà làm ăn theo cái cách “trông nước ngước trời” hay tới mức Văn Quốc quyết cùng Hai Óng kết dính “trăm năm” ở cõi Ngã Ba sóng dồi.
Từ ngày có Văn Quốc tư vấn thêm, quan hệ của Hai Óng với bạn hữu xuồng ghe cũng có thêm nhiều công chuyện trồng nuôi xa gần, phát triển kinh tế, đưa sản vật quê hương vượt xa Ngã Ba sóng dồi. Đài báo tưng bừng đưa tin tức đời sống mới, khen hoạt động vừa làm giàu vừa bảo vệ môi trường. Hai Óng mừng vui bàn bạc xem vợ chồng cô phải làm gì cho Ngã Ba tốt hơn? Văn Quốc chợt nghĩ đã mở bến mặt nước sao không đóng góp cùng xã làm cầu? Hai Óng nhìn Ngã Ba. Từ đây bắc hai nhánh cầu qua hai mũi đất bên kia. Có khi nào tới đây nơi này sẽ là Ba Ngã Đầu Cầu?
Vừa lúc đó mẹ Kim Trầm tới, Hai Óng ríu rít xoa bụng bầu nói với Kim Trầm giờ sắp lên chức bà ngoại kế hoạch cháu ra đời đúng ngày cầu được xây dựng. Chợt có tiếng loa sôi sục lời kêu gọi bà con di dời gấp Ngã Ba sắp có sụt lở nguy hiểm. Mẹ Trầm bảo Văn Quốc con lo di dời nhà cửa, mẹ đưa Hai Óng và cháu đi trước. Mẹ xách đồ, rước con xuống ghe, ra tay máy cái ghe luồn lách rời Ngã Ba sóng dồi. Coi bộ chuyện làm cầu phát triển Ngã Ba phải được tính nhanh thôi. 
Lương Minh Hinh
Huyền thoại về mũi đất ngã ba sông (Truyện ngắn) 25/01/2010

 Huyền thoại về mũi đất ngã ba sông
Chiều 30 Tết mưa bụi phủ trắng trời. Những ngọn gió xuân tràn về mơn man se lạnh. Trên phố huyện, những cô gái áo màu sặc sỡ, hớn hở bước bên người yêu. Từ cụm loa phóng thanh một giọng nữ mượt mà đang ngân nga khúc tình ca: " Anh đưa em về thăm quê hương xứ Lệ, nơi giọng hò ru anh thời thơ trẻ, sông nước chan hòa ôm ấp tình quê.."
          Hoài bước đi trong dòng âm thanh náo nức của cuộc đời, mà lòng bồi hồi xao xuyến, bao nỗi vui buồn thương nhớ về một thời quá khứ đã xa. Ngày ra đi tóc anh hãy còn xanh hôm nay trở về mái đầu đã điểm bạc. Bao nhiêu nỗi cực nhọc vất vả trên bước đường đời đã làm cho khuôn mặt anh già đi trước tuổi. Lòng bâng khuâng, anh thả bộ dọc theo bờ sông. Trước mắt anh là dòng Kim Giang xanh thẳm, những kỷ niệm xưa cứ ùa về. Bên kia là mái trường Trung học nơi anh đã ghi những kỷ niệm ngọt ngào thời thơ trẻ của anh. Và dưới vòm cây xanh bên bờ sông là bến đò ngang của ông Hoành ngày chống Mỹ, giờ không còn nữa. Cái bến đò ngày ấy lớp bạn bè của anh chen chúc để sang sông trong mỗi buổi sáng đến trường. Bây giờ cỏ đã lên xanh. Nó chỉ còn là dấu tích kỷ niệm xao xuyến, bồi hồi của buổi đầu gặp gỡ. Và xa kia nữa là dãi đất choài ra giữa ngã ba sông như ngọn bút khổng lồ đang hướng về phía thượng nguồn Kim Giang vẽ lên chân trời phía Tây Nam, những dãy núi mờ xanh hùng vĩ. Doi đất hình Mũi Viết ấy có từ ngàn xưa. Nó chứa trong mình biết bao nhiêu câu chuyện huyền thoại làm  rung động lòng người.
          Một trong những câu chuyện cuốn hút tâm hồn thơ trẻ của anh ngày ấy, nó đã làm cho anh mất ăn mất ngủ; Đó là câu chuyện về ông Thượng ở làng Hà. Người ta kể rằng: Thuở ấy bố ông Thượng là một trong những người giàu nhất vùng, có cả hàng chục đôi trâu, hàng trăm mẫu ruộng. Ông cũng muốn cho con cái học hành đỗ đạt như người, nên đã bỏ tiền ra thuê thầy về ở luôn trong nhà để dạy chữ cho con. Trong số những con trai của ông, ông Thượng là người học hành chăm chỉ và sáng dạ nhất. Nhưng đến trường thi hai ba lần vẫn không đỗ đạt. Gia đình ông Thượng vừa buồn phiền vừa uất ức. Hết trách mắng con, ông bố lại đâm ra tự trách mắng mình. Ông chạy vạy đủ cách khắp nơi nhưng chẳng làm gì được. Tự nhiên, một đêm bố ông Thượng đang nằm ngủ, mơ thấy một ông già râu tóc bạc phơ, dắt tay ông đi ra phía bờ sông; Vừa đi ông vừa chỉ tay về phía doi đất có hình Mũi Viết vươn ra giữa ngã ba sông ấy mà nói rằng: "Thế đất làng này có hình cây bút, nhưng ở phía đầu ngọn bút còn chưa sáng nên con cháu trong làng chưa viết ra thành chữ được. Nếu dân trong làng biết tích đức, phùng thiện thì chắc chắn mai sau con cháu sẽ được rạng rỡ mặt mày". Nói rồi ông già biến mất. Bố ông Thượng giật mình tỉnh dậy vừa sợ hãi vừa khấp khởi mừng thầm. Ông cho rằng gặp được điềm lành, trời báo mộng nên ngày hôm sau ông cho đầy tớ gọi những tá điền vay thóc nặng lãi của nhà ông đến xóa nợ cho họ, rồi ông bán một nữa gia sản của mình để giúp  cho người nghèo đói, số còn lại sung vào công quỹ của làng để chữa lại cầu, đắp lại đường cho mọi người đi lại đỡ khổ. Thấy bố ông Thượng làm vậy, nhiều người giàu có trong thôn cũng làm theo. Quả nhiên doi đất ngày một thanh tú ra, sáng sủa hơn. Đứng từ xa nhìn lại trong thật giống như một ngọn bút đang vẽ lên chân trời.
          Hai năm sau, ông Thượng con trai của ông thi đậu thật, được triều đình bổ đi làm quan, sau thắng tiến dần đến chức Thượng thư.
          Ngày vinh quy bái tổ ông Thượng đã xin làng xây một ngôi  đền ở ngã ba sông để ghi nhớ công lao người đã chỉ giáo, giúp mình thành đạt. Ngày nay vì đi qua bao cuộc chiến tranh, ngôi đền ông Thượng xây không còn nữa, nhưng những câu chuyện huyền thoại về Mũi Viết vẫn còn trong dân gian.
          Thời còn là cậu học sinh Trung học, Hoài cứ mong lúc ngủ mình nằm mơ để được gặp ông già râu tóc bạc phơ ấy. Nhưng giấc mơ chưa đến được với Hoài thì tiếng máy bay phản lực Mỹ đã gầm rít vang khắp bầu trời quê hương. Bom đạn giặc ngày đêm trút xuống, dãy đất Mũi Viết cũng trở thành mục tiêu đánh phá của kẻ thù. Hoài phải cầm súng lên đường ra trận.
Hoài đang đắm mình trong những dòng suy nghĩ thì giọng người ca sĩ ở loa phóng thanh lại vút lên réo rắt. Lời ca bổng trầm tha thiết kéo Hoài trở về với những ngày quá khứ. Lòng anh trào lên một cảm xúc bồi hồi. Hoài lần theo lối mòn tìm  về gốc dừa nơi ngã ba sông ngày ấy. ở nơi đây đã ghi vào lòng anh một kỷ niệm buồn đau mà suốt cả cuộc đời anh không sao quên được. ấy là dịp tết Nguyên Đán năm 1972. Trong những ngày ngừng bắn, Hoài được phép về thăm nhà để cưới vợ. Gặp lại những người thân quê hương, ai cũng mừng vui, nhưng thấy ai cũng tất bật vội vã. Phụ nữ, mẹ già lo đi chợ mua sắm hàng lễ  tết. Những người nông dân khỏe mạnh thì lo bố phòng lại hầm hào, công sự. Còn nam nữ thanh niên thì thành lập Đội thanh niên xung kích vận chuyển hàng ra tiền tuyến. Hoài về thăm nhà nhưng không thể ngồi yên trước khung cảnh rộn ràng của làng quê trong những ngày sôi động. Anh xin tham gia cùng Đội xung kích vận chuyển của thanh niên. Anh được bố trí cùng đi trong đội thuyền vận chuyển của Huyền. Huyền là vợ sắp cưới của anh. Anh với Huyền học cùng một lớp. Năm tốt nghiệp cấp 3 xong, Hoài lên  đường đi bộ đội, còn Huyền ở lại quê hương vừa làm Bí thư Chi đoàn Đoàn thanh niên vừa làm kế toán của hợp tác xã.
Dịp ngừng bắn, Chi đoàn thành lập Đội xung kích vận chuyển hàng ra chiến trường. Nhiệm vụ của họ là chuyển hàng từ trạm trung chuyển ở bến bãi Mũi Viết đưa lên kho Lòi Sinh.
Đêm cuối năm, thuyền các xã ven sông tham gia chiến dịch vận chuyển đi đông vui như trẩy hội. Thuyền của Huyền và Hoài đã đi được mấy chuyến. Đến chuyến cuối cùng thì đêm đã khuya, mưa phùn lất phất ngấm vào người thấm lạnh. Họ ghé thuyền lại ngồi nghỉ tạm dưới góc dừa bên doi đất Mũi Viết. Huyền buông chèo đến ngồi bên Hoài nhỏ nhẹ:
- Sau tết anh còn ở nhà thêm được mấy ngày?
- Gần nữa tuần em ạ!
- Răng phép của anh mau rứa?
- Chiến tranh mà em!. Hết giặc rồi anh về ở mãi bên em.
- Huyền im lặng, vẻ mặt đượm buồn, một hồi lâu cô mới thầm thì nho nhỏ:
- Đến khi nớ thì đã già rồi.
- Đối với anh, Huyền lúc nào cũng trẻ.
- Chắc không?
Hoài trả lời một tiếng "chắc" thật to rồi cười lên thoải mái. Anh muốn xóa tan nỗi băn khoăn lo lắng đượm vẻ buồn trong lòng người con gái. Đêm càng khuya, những ngọn gió bấc lang thang làm cho đất trời thêm se lạnh. Hoài đã áp sát vào người Huyền mà lòng cứ thổn thức: Một nỗi tái tê trào dậy trong người: Chiến tranh quá tàn khốc. Nó đã đẩy tuổi thanh xuân của họ phải đi vào trận mạc. Hai người đã sắp thành vợ chồng rồi mà không được một ngày rãnh rỗi để đi mua sắm cho nhau một món  quà nho nhỏ để làm kỷ niệm ngày cưới. Cũng không được đi thăm bạn bè, bà con hai bên. Ai cũng bận rộn dành thời gian "Tất cả để chiến thắng giặc mỹ xâm lược". Bỗng phía cuối dòng sông có ai đó bắt chước điệu hò sông mã cất lên một điệu hò lơ lớ. Nghe ngộ quá, Huyền bật cười. Sau tiếng cười Huyền trở lại trầm tư. Hoài lo lắng  vội ghì sát Huyền vào lòng. Hai người cười khúc khích...Con thuyền chao động. Những tiếng sóng vỗ vào bờ ràn rạt.
Đêm về sáng, những ngôi sao trên nền trời dần dần tản mác, rồi biến mất. Phía đông chân trời như thẩm lại, mấy đám mây phả mưa bụi xuống lạnh ngắt. Hoài và Huyền lại đẩy đò tiếp tục  ra đi.
Đò chưa ra khỏi bến thì dừng lại vì mắc cạn. Hoài vội vàng xắn quần lội xuống đẩy. Nhưng chiếc đò cứ nằm ì ra không thèm nhúc nhích. Ở phía lái Huyền thấy vậy nóng lòng nên cũng nhào ào xuống nước để đẩy. Nhưng chẳng may từ trong lớp bùn non một quả bom bị nằm giấu mặt từ bao giờ, vụt lên nổ một tiếng rầm trời, hất tung thuyền và người ra tứ phía.
Bến Mũi Viết  đất khói lên mù trời, mọi người vội vàng chạy đến. Ba ngày sau người ta mới tìm được thi thể của Huyền nỗi lờ đờ dưới mép nước ở Mũi Viết. Còn Hoài được đưa vào bệnh viện ngay. Phải một tuần sau anh mới tỉnh lại được. Khi biết mọi chuyện, Hoài vô cùng đau đớn xót xa vật vã anh ngất đi tỉnh lại mấy lần.
Ngày Hoài ra viện cũng là ngày cuối cùng trong đợt nghỉ phép về thăm nhà để xây dựng gia đình của anh. Sớm mai anh về lại đơn vị, nằm thao thức hoài anh không tài nào chớp mắt được.  Bao nhiêu ý nghĩ về Huyền cứ xáo động lòng anh. Anh cố nhắm mắt lại nhưng tiếng những con Thạch Sùng ở trên mái nhà cứ "chắt chắt" gọi bạn càng làm cho tim anh thêm đau nhói. Gà đã gáy tàn canh, giấc ngũ chập chờn vừa kéo đến thì hình ảnh người vợ chưa cưới của anh cứ hiện về: Huyền đang đứng phía lái, đôi tay khỏe mạnh nắm mái chèo gạt sóng băng băng. Mỗi mái chèo đẩy đi lưng Huyền khom xuống làm hằn lên những đường cong mềm mại giữa màn xanh da trời. Anh gọi tên Huyền nhưng cô cứ lặng im chèo miết, con đò cứ xa dần, xa dần rồi mất hút... Khi có người lay gọi mãi Hoài mới biết là mình  đang mơ, anh ngồi dậy thở hổn hển, mồ hôi tưá ra đầy người...
Một phút trôi qua, anh ngồi thẩn thờ câm lặng, nhìn vào khoảng  không mênh mông phía trước. Tự nhiên hai giọt nước ở khóe mắt  trào ra từ từ lăn xuống má. Lòng Hoài sục sôi căm giận kẻ thù tàn ác đã cướp đi tình yêu, hạnh phúc của đời anh.
Buổi sáng những tia nắng vàng đã bừng dậy, anh vội vàng đứng lên thu xếp hành trang của người lính để lên đường ra trận.
Đã mấy chục mùa xuân đi qua, nhiệm vụ của người lính đã đưa Hoài đến với nhiều vùng quê của đất nước, nhưng không ở đâu nhớ thương sâu thẳm và da diết bằng những kỷ niệm ở doi đất hình Mũi Viết này.
Đêm cuối năm, thị trấn rực rỡ ánh đèn màu và cờ hoa đón Tết. Mặt nước Kim Giang lung linh lấp lánh ánh điện. Từng đôi trai gái dìu dặt trên cầu Xuân Phong. Hoài bước đi mà lòng rưng rưng một cảm giác nghẹn ngào xúc động, không nén nỗi lòng mình anh bật lên thành tiếng.
"Huyền ơi! Tết này anh lại về với em đây! - Em ở đâu? Tiếng anh nghẹn ngào nức nở..."
Giữa không gian mênh mông của đất Mũi, trong màn sương bàng bạc, dưới ánh đè mờ ảo, Hoài như thấy hiện lên dáng hình người con gái cùng anh năm xưa vào trận.
Mùa xuân đang về. Hoài trở lại với thực tại, trước mắt anh giữa ngã ba sông lấp lánh muôn ngàn ngôi sao rực rỡ. Trên dãi đất hình Mũi Viết - khu trung tâm văn hóa huyện những ngôi nhà cao tầng sừng sững vươn cao. Đứng từ xa nhìn lại cả tòa nhà như một chiếc thuyền khổng lồ đang dương những cánh buồm lộng gió rẽ sóng ra khơi, đưa quê hương tiến lên phía trước.
Lê Đình Hồng (Tác giả đã mất)
 Rút trong tập "Văn nghệ Lệ Thủy" 

   



Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Nhạc - Thơ - Văn - Tâm hồn tôi

Một chút tâm tình,
Chút tâm tình xin gởi người ở lại,
Hẹn ngày về khi vườn nhỏ ngát hương...
Tâm hồn tôi rực sáng ánh thiên đường,
Tôi tìm lại nơi tình yêu chớm nở !
NM

  Tâm hồn tôi
Tôi sẽ trở về gặp Nhu khi tâm hồn tôi là một khu vườn rực rỡ và ngát hương...

Ngôi nhà của bà nằm chênh vênh bên con sông chảy hiền và chung quanh là cây cối bùng nhùng vươn lên đón nắng. Tôi bước đến khoảng sân, có cảm giác gì đó thật êm dịu dưới bàn chân. Ở thềm, ông già lúi húi nhặt mớ rau rền đất với chiếc đài rọt rẹt bên cạnh đang phát chương trình những bài ca cách mạng.
Tôi vòng tay cúi chào ông. Ông đáp lại bằng một sự niềm nở, mừng vui như gặp lại đứa cháu xa quê lâu ngày mới trở về. Khóe mắt của tôi đã rưng rưng, lòng tôi đã nghèn nghẹn trong nỗi tủi. Bởi hình ảnh ông già đã khơi lên cả một khoảng trời ký ức về nội. Tôi sẽ mãi mãi có những ngày êm đềm nếu như nội không lặng lẽ rời xa tôi trong một chiều đông xơ xác. Điểm tựa cuối cùng là nội đã mất, tôi khác gì một con cá phải vùng vẫy giữa dòng chảy xiết.
Một vài khung cảnh hiện ra trước mắt tôi khiến tôi có cảm giác cuộc sống nơi này đìu hiu, ngày tháng sẽ trôi đi như một thước phim quay chậm. Nụ cười và ánh mắt của ông bà già sẽ thắp lên những ngọn đèn nhỏ cho căn nhà thêm sáng. Rồi giữa buổi chạng vạng buồn xo ấy, tôi đã nhìn thấy cô bé từ đầu ngõ. Cô bé lắc lư theo nhịp chân đạp xe, miệng nghêu ngao câu hát làm chiếc xe cũng tròng trành theo. Và lồng ngực của tôi cũng đang run lên, bồi hồi. Thấy tôi, khuôn mặt bầu bĩnh của cô bé đỏ ửng lên như trái đào chín. Cô bé dựng xe ở góc sân, ôm chiếc cặp chạy một mạch vào bếp, bà già đang ở đó.
Bữa cơm tối ấy có món cá rô đồng rán giòn, bát canh rau rền đất ngọt mát và đĩa dưa muối chua chua. Sau những hồi trống réo lên trong bụng, tôi ăn liền ba bát cơm, quên mất ánh mắt cô bé nãy giờ chăm chú nhìn tôi. Ăn xong, tôi chủ động đi rửa bát bởi tôi không muốn mình được tiếp đãi như một vị khách. Cô bé không ngại ngùng ngồi xuống:
- Anh để em rửa cho. Anh úp bát vào rổ nhé.
Cô bé tên Nhu, vừa vào lớp 10 được nửa tháng. Tôi và Nhu đều là những đứa trẻ lớn lên bằng tình yêu thương của ông bà. Bố mẹ Nhu đã mất khi Nhu còn rất bé, còn tôi, hai mươi tư tuổi vẫn không mảy may có một ký ức nào về họ. Nội tôi cũng chưa bao giờ nhắc đến khiến tôi luôn mơ hồ phỏng đoán đằng sau đó là một câu chuyện buồn. Những câu hỏi của tôi có thể làm nội day dứt và đau đớn. Vậy nên tôi đã giấu kín đi.
- Anh ở nhà em mấy ngày?
Câu hỏi của Nhu làm tôi bối rối. Một con đường mờ mịt bỗng hiện ra trong tâm trí tôi. Hay là trở lại túp lều ọp ẹp chiều nay? Rồi những khi thấy bà già ôm củi đi về, tôi sẽ trốn đâu đó cho đến khi bà già đi khuất.
- Anh cũng không biết nữa. Chắc là ngày mai.
- Nếu anh chưa vội thì ở lại thêm mấy hôm nữa. Ông bà sẽ vui lắm.
Tiếng “ờm” khe khẽ nơi cổ họng, tôi không biết Nhu nghe thấy hay không.
Đêm hôm ấy, tôi nằm ở gian nhà ngoài. Lạ giường, tôi không ngủ được nên lôi mấy cuốn sách trong ba lô ra gặm nhấm thời gian. Tài sản của tôi không có gì ngoài mấy cuốn sách ấy, tôi không nhớ đã đọc chúng bao lần nhưng mỗi lần đọc lại đều có thêm những cảm nhận mới. Như lúc này, khi tôi đang bộn bề với những nỗi lo cơm áo gạo tiền, mở trang sách ra, những con chữ vẫn cứ tự nhiên thấm vào khối óc tôi. Mấy cuốn sách cho tôi một cuộc sống khác, bình yên và nhẹ nhõm hơn đời thực của tôi.
- Anh ấy ở nhà mình lâu không ngoại?
Tiếng Nhu từ gian trong vọng ra. Hình như ngôi nhà này hiếm khi có khách đến chơi nên chăng cô bé muốn níu tôi lại thêm một vài ngày nữa. Câu hỏi của cô bé đã nhen lên trong lòng tôi một ngọn lửa ấm.
Những ngày sau đó, tôi và Nhu trở nên gần gũi hơn. Những buổi chiều Nhu đi cắt cỏ cho cá, tôi đều đi theo để gánh cỏ về. Cô bé lúc nào cũng ríu rít như một chú chim non. Cô bé kể những câu chuyện ở lớp trong mỗi bữa cơm, ông bà của Nhu bao giờ cũng hào hứng lắng nghe.
- Hôm nay cháu thấy mấy bạn nam rủ nhau đua xe sau khi tan học đấy bà ạ.
- Ấy chết, sao lại chơi trò nguy hiểm vậy.
- Cuộc đua không diễn ra đâu bà ơi. Các bạn ấy còn phải dắt bộ một quãng đường xa đấy ạ.
Nhu lại cười khì khì một cách lém lỉnh:
- Cháu đã xịt lốp xe mà.
- Bà già chau mày nhìn Nhu, lườm yêu:
- Cái con bé này.
Bây giờ đang là mùa sấu rụng. Đêm đêm, tôi thường nghe thấy sấu đồm độp trên sân, đồm độp trên cả những tấm ngói cũ. Buổi sớm mai sẽ đánh thức tôi dậy bằng tiếng ríu rít của Nhu nhặt sấu ngoài sân.
Thấy tôi, cô bé nheo mắt cười, đưa tay vẫy vẫy như gọi mời tôi hãy đến đó, cùng Nhu nhặt nhạnh những trái sấu mới đêm qua giã từ cây mẹ. Khuôn mặt Nhu lúc nào cũng tươi rói như một đóa phượng nở bung sắc thắm. Nắng đã lên, nhảy nhót trên đôi vai Nhu.
Chiều đó, khi tôi đang cùng ông già kéo cá ở ao, cô bé lớn hớn chạy ra. Từ bờ ao bên kia, cô bé réo lên:
- Anh cho em mượn một cuốn sách nhé!
Chưa kịp nghe tôi đáp hết câu, cô bé đã chạy đi nhanh như sóc.
Tối ấy, bà nấu canh cá dọc mùng ngon lắm. Một vài lá nghệ tươi làm nồi canh càng thêm đậm vị và thân thuộc. Nội tôi cũng thường nấu vậy. Những lần ra Hà Nội sau này, tôi ăn canh cá bao lần cũng không cảm nhận được cái mùi vị tuổi thơ đã thấm đẫm ký ức. Hóa ra vì thiếu lá nghệ. Tôi húp sì sụp bát canh, chợt nhận ra bữa tối nay thiêu thiếu thứ gì đó. Là tiếng ríu rít của Nhu. Cô bé thẫn thờ, đôi mắt đen láy không mở tròn, đôi bờ mi thi thoảng lại khẽ khàng chạm vào nhau như cánh bướm non.
Sau bữa cơm, cô bé ôm cuốn sách ra ngoài sân ngồi đọc. Sợ chạm vào nỗi buồn của cô bé, tôi chỉ rón rén dõi theo từ phía sau. Bỗng con bé ôm mặt khóc, tôi hoảng hốt chạy ra.
- Em sao vậy, Nhu?
- Con Rùa chết rồi anh ơi.
Câu hỏi của tôi như ném thêm rơm vào đống lửa, Nhu nức nở lên. Tôi lơ ngơ một lúc mới sực nhớ ra con Rùa là nhân vật chính trong cuốn sách của tôi – một cô gái giàu lòng vị tha. Có lẽ cô bé mới đọc đến đoạn con Rùa bị dòng nước xiết cuốn trôi đi. Tâm hồn bé bỏng của Nhu dễ rung cảm quá đến độ tôi không nghĩ ai đó có thể bật khóc vì thân phận của một nhân vật.
- Em sẽ đọc tiếp chứ?
Cô bé đưa đôi mắt ầng ậc nước nhìn tôi, gật đầu đầy lưỡng lự.
Buổi sáng hôm sau, cô bé trả lại cho tôi cuốn sách, khuôn mặt trở lại tươi tắn như mọi ngày.
- Sao anh không nói với em là con Rùa vẫn chưa chết?
- Giống như khi em xem một bộ phim vậy. Sẽ không còn thú vị nếu em biết trước kết thúc của nó.
Nhu sẽ không thể buồn vui đến tận cùng với mỗi số phận và tôi tin những giọt nước mắt đêm qua sẽ khó lòng tuôn chảy nếu tôi nói cho em biết rằng con Rùa không chết đâu. Đó là “cái bẫy cảm xúc” mà tác giả dành tặng cho độc giả. Cô bé đã khóc vì buồn thương rồi cũng sẽ khóc vì hạnh phúc.
Nhu kể cho tôi nghe về anh chàng lớp 12 ngày nào cũng bỏ vào ngăn bàn của em một lá thư. Em chỉ đọc hai lá thư đầu tiên. Những lá thư sau đó, em không bao giờ mở ra nữa.
- Em có tò mò về anh chàng đó không?
- Em càng tò mò, hắn sẽ càng bám riết lấy em thôi. Bà em bảo đó là tình yêu bọ xít.
Con bé cười, lúng liếng đôi mắt tròn xoe.
Tôi sẽ mãi được ngắm nhìn đôi mắt trong veo của Nhu nếu buổi chiều hôm qua tôi không lén nhìn cô bé trong nhà tắm được bao quanh bằng những tấm mành tre lỗ chỗ khe hở. Tấm thân nõn nà của cô bé lồ lộ ra trước mắt như mời gọi những ý nghĩ nhơ nhuốc dấy lên trong tâm trí tôi. Ý nghĩ thôi thúc tôi tiến thêm vài bước. Như thể tôi đang lao xuống một con dốc thẳm mà phanh xe cũng trở nên vô dụng, tôi cứ thế bị đẩy đi.
Tiếng ông già quát chó ngoài ngõ khi bàn tay tôi vừa chạm vào tấm mành mỏng manh và yếu ớt khiến tôi giật thót. Tôi run sợ chạy vào nhà, ngồi thừ trên giường.
- Anh sao vậy? Anh ốm à? Trán anh đổ nhiều mồ hôi quá.
- Tôi đâm ra lúng túng, gạt tay cô bé ra khỏi trán.
- Anh không sao.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng tự nhiên nhất khi nói chuyện với Nhu dù tôi vẫn không đủ can đảm nhìn vào đôi mắt thơ ngây của cô bé. Nhiều đêm tôi không ngủ được vì những ý định lầm lỗi cứ đeo bám tôi.
Những quả sấu già còn sót lại đã bứt mình rụng xuống. Tiếng đồm độp trên mái nhà cứ giẫm đạp lên cõi lòng non nớt của tôi. Gió khua lên từng hồi khô khốc. Đến lúc tôi phải rời xa Nhu, cô bé mà tôi nhận ra mình thương yêu khi đã muộn màng...
Tôi định sẽ lẳng lặng ra đi trong buổi chiều Nhu đi học. Nhưng trước khi đi, cô bé còn níu lại bằng cái nhìn tha thiết:
- Chiều nay, anh đi đón em được không?
Tôi đồng ý với cô bé. Đó sẽ điều cuối cùng tôi có thể làm cho Nhu, cho những lầm lỗi của mình.
Sân trường mỗi lúc một vắng hơn cho đến khi không còn một bóng người, tôi vẫn không thấy Nhu. Tôi đâm ra lo sợ. Tôi vội lao vào trường khi cánh cổng sắp sửa khép. Tôi như một kẻ điên dại chạy dọc khắp các dãy hành lang. Đến nhìn thấy Nhu đang giãy giụa như con cá mắc câu giữa ba thằng con trai lớn tồng ngồng, tôi ập vào chúng bằng những cú đấm mạnh bạo. Nhu lao đến ôm ghì lấy tôi nức nở, thoáng chốc vai áo của tôi đã ướt đẫm.
Trên đường về, Nhu ngồi sau xe, cô bé nắm chặt lấy vạt áo bên hông tôi. Cái áo co rúm lại chỗ tay Nhu và tôi cảm nhận được rõ rệt cái run rẩy của bàn tay nhỏ nhắn ấy đang chạm vào da thịt mình.
- May mà có anh.
Tiếng Nhu thỏ thẻ, thi thoảng còn sụt sùi khe khẽ. Tôi lặng người đi, đôi chân như rệu rã. Từ một kẻ suýt chút nữa cướp đi khoảng trời mơ mộng trong ngần của Nhu, tôi lại trở thành ân nhân. Điều đó khiến tôi càng thấy hổ thẹn và day dứt.
- Từ ngày mai anh sẽ không thể bảo vệ em nữa.
- Anh sẽ quay trở lại chứ?
- Ừ.
Tiếng “ừ” khó khăn lắm tôi mới nói ra được bằng cái giọng trầm lặng đến độ Nhu buộc phải hiểu đó không phải một lời hứa chắc chắn.
- Em sẽ nhớ anh nhiều lắm.
Từng câu nói của Nhu, từng tiếng thở của Nhu và cả tiếng nấc lên nơi lồng ngực của cô bé như sắp sửa vắt kiệt chút sức lực cuối cùng của tôi. Tâm can tôi đang giày xéo. Giá như tôi có thể vui vì tình cảm trong trẻo Nhu dành cho tôi thì chắc chắn tôi sẽ không ra đi lúc này, khi mà tình yêu thương của tôi cũng vừa chớm nở.
Tôi để lại tất cả những cuốn sách cho Nhu. Nhu đón nhận chúng như món quà của tôi. Cô bé từng bảo với tôi rằng, người yêu khu vườn văn học như tôi là người có tâm hồn đẹp. Những cuốn sách có thể làm đôi vai tôi thêm chùng chình bởi cõi lòng tôi đã đèo bòng quá nặng cho lỗi lầm quá khứ. Đến lúc tôi phải rời xa ngôi nhà nhỏ ẩn mình sau những hàng bạch đàn cao vút. Đến lúc tôi phải đi tìm bản ngã của mình và cái phần người mà tôi đã đánh mất ở đoạn đường đời nào đó.
Tôi sẽ trở về gặp Nhu khi tâm hồn tôi là một khu vườn rực rỡ và ngát hương.
Dương Hằng (baoquangbinh)
Kết quả hình ảnh cho Tỉnh mộng
Tỉnh mộng,
Miền ký ức giữ hoài theo năm tháng,
Gian nhà xưa, vạt cỏ đậu hoa vàng...
Chiếc xích đu, bậc thềm cũ thời gian,
Những hình ảnh em luôn hoài thương nhớ !

Trở lại đây với tâm tình bỡ ngỡ,
Khung cảnh xưa ngày cũ vẫn còn đây...
Biết bao nhiêu mơ ước đã đắp xây,
Giờ bỗng thoắt bay về miền dĩ vãng !

Tiếng đàn kia xin gởi vào quên lãng,
Em không còn hối tiếc kỷ niệm xưa...
Bước ra về dưới hoa tím chiều mưa,
Lòng cay đắng nhận ra mình có lỗi !!
NM
Kết quả hình ảnh cho Tỉnh mộng
                 Chiêm bao
Những giấc mơ năm cũ, cô thấy mình đứng dưới giàn hoa giấy mang màu tím buồn rười rượi thả từ cổng nhà cũ kỹ. Trong chiêm bao, sẽ luôn luôn là bàn tay thô ráp của người đàn ông ấy luồn vào mái tóc cô, chạm nhè nhẹ như sợ chúng thức giấc.
Phía sau cánh cổng gỗ sắp mục nát, thứ duy nhất thu hút và đủ sức ám ảnh cô mãi đến tận sau này chính là tiếng guitar réo rắt mỗi khi chiều xuống. Khi cô buồn, tiếng đàn vang lên bập bùng như tiếng lửa nổ tí tách giữa đêm thinh lặng, thiêu những nỗi buồn thành tro bụi. Khi cô vui, tiếng đàn lại vang lên ríu ran như một đàn sẻ đang nhảy nhót xung quanh tán thưởng. Và trong ánh mắt đầy cảm hứng kia hướng về phía mình, cô thấy mình an nhiên, không một mảy may lo lắng.
Trong khoảnh sân gạch cũ được lấp xen kẽ bằng vạt cỏ đậu khoe những búp hoa vàng li ti, thứ mà cô muốn chạm đến nhiều nhất là chiếc xích đu bằng gỗ vát đã bị mối ăn vài chỗ. Sau khi cô đến chơi vài bận thì miếng gỗ mục đã được thay thế bằng hai chiếc vỏ xe hơi sơn màu xanh lam dễ chịu. Người đàn ông có đôi tay thô ráp ấy đụng đến thứ gì thì cũng hóa tinh tươm, đẹp đẽ, bay bổng. Chả trách vườn nhà chỉ có vài vạt hoa nhỏ mà lúc nào cũng ong bướm rập rờn. Ngôi nhà gỗ nhỏ, những bậc thềm cũ kỹ nhuộm màu thời gian, vài bụi chuối căng mẩy. Khung cảnh chẳng có gì tươi tắn nếu không nhờ tiếng đàn kỳ lạ kia. “...Và nếu thiếu vắng một người con gái, anh sẽ không hình dung nổi nếu ngày nào đó nơi này vắng em”.
Cô cũng không hình dung nổi ngày mà cô khoác lên mình chiếc áo cưới lộng lẫy, xinh đẹp như một nàng công chúa bước ra từ câu chuyện cổ tích, hoàng tử tới đón nàng lại không phải là anh. Bóng anh khuất dần sau vòm hoa tím, khi đoàn xe đưa dâu bóng loáng lướt êm qua hẻm nhỏ, mang theo tiếng hò reo phấn khích của lũ trẻ tinh quái. Đêm tân hôn, cô ngồi bó gối bên cửa sổ, cố nghe một thanh âm thân thuộc nào đó có thể len lỏi theo mình lên tận thành phố hào nhoáng xa lạ này không. Không có bất cứ mối liên hệ nào với chốn cũ, ngoài mùi hương bưởi cô đã gội đầu sáng nay, trước khi tết tóc.
Cô ngồi nhìn chồng thật lâu, sợ rằng mình sẽ quên mất gương mặt ấy ngay khi thức giấc. Đứa bạn thân nói, chồng mày cứ như diễn viên điện ảnh, lại giàu, mày đúng là có số hưởng. Lúc đó, cô hoàn toàn không tìm ra được một đường nét nào gọi là hoàn hảo trên gương mặt chồng. Chỉ thấy những góc vát mạnh mẽ của anh hiện lên, khuất lấp gần hết khuôn mặt kia. Tâm trí cô, từ buổi đó chếnh choáng mãi không thôi.
Cô như người say rượu, thứ rượu mạnh mà chưa có phương thuốc nào giã được. Tình yêu của chồng cũng chỉ là thứ nước hoa xịt vào người cô mỗi sáng, rồi chúng cũng nhanh chóng theo gió tan loãng ngay trong ngày. Đứa con trai kháu khỉnh cũng chỉ là niềm vui bất chợt, những niềm vui len lỏi đâu đó trong một mớ muộn phiền ngày nào cô cũng cố gắng nhặt ra từng chút.
Mười năm rồi, đêm nào cô cũng mơ về đôi tay đó và tiếng đàn đầy ám ảnh. Có đêm cô hoảng hốt kêu gào khi thấy mình chạy chân trần về thăm nơi cũ. Không có thảm cỏ hoa nào chào đón cô, không có đôi tay nào dang ra mời gọi, không có một thanh âm nào rõ ràng ngoài tiếng xích đu rền rĩ trong đêm hoang lạnh. Cô lục tung mọi ngóc ngách trong căn nhà nhỏ, gọi tên anh trong vô vọng. Gọi đến khi giọng cô nứt ra, rơi vụn giữa đêm thâu...
Mười năm, chưa khi nào cô thôi cảm giác mình bị bỏ rơi, hụt hơi chạy theo một lực hút vô hình nào đó, từ phía bóng tối thâm u phía trước. Có cảm giác như bóng tối chưa bao giờ chịu thỏa hiệp với cô.
Mười năm. Lòng chưa thôi hoang lạnh.
Nếu dùng cả tuổi thanh xuân để yêu một ai đó, điều chúng ta nhận lại được là gì? Có phải là thứ tình yêu đích thực mà người ta đền đáp lại hay chính ta phải trả giá cho những cuộc yêu điên dại bằng quãng đời buồn bã sau này?
Cô không trả lời được câu hỏi đó. Không ai có thể trả lời cô được.
Ngày xưa, tại sao đôi bàn tay ấy không cố níu giữ cô bên mình? Tại sao anh không thể gói ghém cho cô những giấc mơ trọn vẹn? Tại sao?
Cô phải đi tìm lời giải đáp. Cô nói với chồng việc mình phải về quê một chuyến. Chồng không bao giờ can thiệp vào những quyết định của cô, anh luôn luôn cho cô một khoảng trời tự do, đến mức cô thấy mình trở nên lạc lõng. Anh biến cô từ lọ lem thành một bà hoàng, lộng lẫy, yêu kiều trong mớ nhung lụa buồn thảm. Anh chiều chuộng cô tới mức, những hôm tiếp khách quá say, anh còn biết kê sẵn thau ngay chân giường và dặn cô để sáng dậy anh tự dọn lấy. Nhưng lần này, anh khẽ nắm tay cô, dịu dàng bảo:
- Anh sẽ đi cùng em. Vì có thể, sẽ lâu lắm chúng ta mới về nơi đó thêm lần nữa.
Chồng nói với cô về những dự định phía trước. Chẳng bao lâu nữa, anh sẽ đưa mẹ con cô ra nước ngoài định cư. Có rất nhiều việc phải chuẩn bị, nhưng tất cả đã sẵn sàng. Cô không khỏi ngạc nhiên, anh lấy sức đâu ra mà làm nhiều việc đến thế? Làm vậy để làm gì?
- Em đừng lo gì hết, chỉ là anh muốn tương lai vợ con mình phải tốt đẹp hơn thôi!
***
Họ dừng xe ngay đầu cái chợ chồm hổm nho nhỏ nhưng lúc nhúc những người và ra rả những cuộc ngã giá bán mua. Cô bảo chồng lái xe đến quán cà phê gần đó đợi mình. Cô muốn tự mình tìm về chốn cũ.
Có tiếng thau rổ va vào nhau leng keng, nhộn nhạo nơi góc chợ. Giọng khản đục của một bà cụ khi bị mấy người đi dẹp chợ hùng hục giằng mất mẹt rau trên tay bà khiến cô chú ý. Bà cụ nắm lấy vạt áo người đàn ông cao lớn bế cái bụng phệ đang nhón chân bước lên xe.
- Chú ơi, làm ơn, thương tui với!
- Tui thương bà rồi ai thương tui? Ngày nào mấy người cũng bày đầy ra đường nên tụi tui mới phải đi dọn dẹp như vầy nè, mệt thấy mồ chứ bộ sướng lắm hả?
- Nhưng mà tui bưng mẹt rau đi lòng vòng bán, chứ có ngồi chỗ nào đâu mà chú nói tui chiếm lòng đường? Hốt đồ của tui là mấy chú bậy lắm!
Người bán trứng gần đó vội vàng bế rổ trứng nhón chân chạy.
- Xứ này là vậy đó cô. Họ nuôi sống vợ con bằng công việc đó nên phải chịu, trách ai được cô ơi!
Biết vậy, nhưng bà cụ già cả rồi, ai lại nỡ làm như vậy với bà. Cảm giác xót xa dâng lên trong cô mãi không nguôi. Buồn thay cho xứ mình, lòng người, nếu không rộng lượng với nhau một chút thì trách sao cuộc sống cứ chênh chao.
Cô men theo lối mòn vào ngôi nhà đó, tim như thắt lại, mọi thứ cứ ngỡ như ngày hôm qua. Và mùi ký ức vừa sực lên trên góc mũi. Bướm ong vẫn lả lướt trên mấy vạt hoa. Chiếc xích đu xem chừng đã mòn nhẵn, lặng thinh nơi góc sân. Người đàn bà tướng mạo thấp đậm, nước da ngăm đen đang ngồi bệt trên sàn nhà lựa đậu làm giá đỗ, quẹt vội ống tay áo vào cạp quần khi nghe tiếng khách lạ.
Khi nghe cô nhắc đến tên chồng, người đàn bà ấy hơi nhíu mày nghi ngại.
- Chồng tui đi làm rồi, chắc cỡ một tiếng nữa mới về. Cô ở chơi, hay có gì cần nhắn lại ảnh không?
Cô nhắn tin cho chồng, đón ly nước lá dứa thơm mát từ người đàn bà lam lũ. Cô không biết mình sẽ nói gì khi gặp người cũ, nhưng lòng bảo cô nên đợi, vì có thể sẽ không chắc cô còn được gặp anh thêm lần nào.
Cô xin phụ giúp người đàn bà nhặt giá đỗ, nhưng đã bị từ chối khéo léo.
- Đôi tay cô đẹp quá, không nên đụng vào những thứ này, hư tay hết. Phụ nữ xinh đẹp như cô, chắc là được chồng cưng lắm đây!
- Không phải như chị nghĩ đâu ạ!
- Giá như tôi có dung mạo xinh đẹp như cô thì hay quá! Nếu vậy thì cuộc đời tôi, dù có chồng cũng đâu mặn chát như bây giờ.
Một tiếng đồng hồ trôi qua là cả cuộc đời buồn bã của người đàn bà đó tua chậm qua trước mắt cô. Cô lảo đảo rời khỏi ngôi nhà, váng vất đau như người say nắng.
Người đàn bà đáng thương đó, có đáng như vậy không?
Có tiếng xe máy đỗ xịch trước cổng nhà khi cô vừa quay gót. Dáng người cao lớn, đôi tay mạnh mẽ ấy, và cái bụng phệ ục ịch kia... Tai cô ù đi, những âm thanh xô bồ trong khu chợ nhỏ lại ập về.
Cô ngả người lên vai chồng, thiếp đi suốt đoạn đường về. Mùi ký ức đã bấu lại bên đường. Mai, cô sẽ xịt nước hoa mỗi ngày, nói với chồng những câu yêu thương đã bỏ quên đâu đó. Chồng cô, can cớ gì phải nhận lãnh những lạnh nhạt dằn hắt từ người mình hết mực yêu thương...
Lỗi không ở ký ức, lỗi từ lòng người.
Trần Huyền Trang

Kết quả hình ảnh cho Tiếc Xuân

Anh đã thấy mùa xuân chưa

Tiếc Xuân
Xuân không còn nữa, Tết đã qua,
Đông xám làm phai nét mặn mà...
Đau đáu niềm riêng, bao kỷ niệm, 
Nhớ người năm cũ sao xót xa !
NM

  Nhớ ngang

 Sài Gòn đã trở lại nhộn nhịp, đông đúc, khởi động cho một vòng quay mới của đất trời. Tự dưng chị đâm nhớ ngang. Từ dạo sau tết không hiểu sao chị hay nhớ ngang như vầy.

Cái nhớ của người già là cái nhớ sau lưng. Mà cái sau lưng là cái đã qua rồi, qua lâu nữa là đằng khác nhưng chị có tật cứ hay nhớ tới nhớ lui cho nên nỗi nhớ của chị cái nào cũng cũ mèm, trầy xước, rệu rã...
Chị vào Facebook, nhắn tin: “Mập ơi, Mập à! Má nhớ quê quá”. Nó trả lời bằng cái mặt cười bự chảng. “Sao cười?”. “Vì có khi nào má không than nhớ một cái gì đó đâu”. “Nhưng má nhớ thật mà”. Lần này là cái mặt cười to hơn: “Có thật là nhớ quê không đó?”. Chị bỗng ngớ người ra. Ơ...! Lần đầu tiên chị thấy hoang mang, mơ hồ về nỗi nhớ của mình.
Thằng Mập là đứa hiểu chị nhất, bao dung với chị nhất, theo cái nghĩa vui vẻ chấp nhận mọi “thói hư tật xấu” của mẹ mà không kêu ca. Nó có thể kiên trì ngồi nghe chị kể lể, dông dài những nỗi nhớ mốc meo, xưa cũ bằng một giọng điệu rất mới và những giọt nước mắt tinh khôi.
“Hồi đó, má từ Sài Gòn theo chồng về quê, cái tết đầu tiên, má nhớ nhà, nhớ ông bà ngoại, nhớ dì và các cậu, nhớ bạn bè, nhớ cái xóm nhỏ ngoại ô mà má đã trải buồn vui suốt một thời thơ ấu. Nỗi nhớ lấn át cả tình yêu má dành cho bố. Giá như ngay khi ấy, được chọn lựa, má sẽ quyết định... về nhà. Nhiều cái tết sau nữa, má vẫn không được về nhà ngoại ăn tết. Nhưng nỗi nhớ của má đã khác. Má chọn bố và các con cho gần ba mươi cái tết không về quê ngoại”.
Nước mắt chị bắt đầu ứa ra. Lại một cái mặt cười bự chảng: “Sắp kể đến chuyện anh hai rồi đây!”. Đã bảo thằng Mập là đứa “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” má nhất mà. “Chỉ với một suy nghĩ duy nhất để anh con có thể vào đại học, má đã đẩy nó xa vòng tay má lúc nó mới lên mười. Năm đó, ông ngoại về rước anh hai lên Sài Gòn đi học.
Nhìn con đò khuất ngã ba sông, má đứt từng đoạn ruột. Đó là cuộc chia ly làm má đau đớn nhất, làm má day dứt và ân hận cho đến tận bây giờ. Sau đó là những năm tháng má sống trong triền miên nỗi nhớ các con. Hết anh hai tới chị ba tiếp tục đi học xa nhà. Mỗi mùa tết má càng thấm thía hơn giá trị của sự sum vầy”.
Vậy mà gần ba mươi năm sau, chị lại tự mình bày cuộc chia ly. Thằng Mập bé xíu lon ton theo má trở về Sài Gòn. Chị trở về. Xóm nhỏ ngoại ô đã thành thị tứ, các em lớn khôn thành đạt, ba mẹ đã tóc bạc da mồi, ngôi nhà nhỏ được cơi nới khang trang. Chị trở về “điền vào chỗ trống” cho ngôi nhà đủ đầy, ấm áp.
Nhưng bên cạnh niềm vui đoàn tụ ấy, một nỗi nhớ khác lại rền rĩ trong chị. Đó là nỗi nhớ ngôi nhà có ô cửa nhỏ nhìn ra một góc vườn, nhớ tiếng chim tíu tít rộn ràng mỗi sớm mai, nhớ tiếng gà xao xác khi trưa vắng, nhớ mùi khói bếp, nhớ tiếng con chim vịt gọi bạn buổi chiều về... Ban đầu chị cũng tưởng chỉ có thế. Hóa ra không phải.
Có những đêm thật dài, khi nỗi nhớ ràn rụa lẫn vào bóng đêm sâu thẳm, chị biết chị còn thao thiết nhớ... tiếng một người. Bởi vậy câu hỏi “có thật là nhớ quê không đó” kèm theo cái mặt cười bự chảng của thằng Mập vừa hiện ra làm chị thấy chột dạ (thằng Mập vẫn hay “đi guốc” trong bụng má). Thằng Mập bây giờ đã lớn, đã biết tự mình về thăm bố. Mỗi lần đi, nó hay trêu chị “có ai nhớ... “quê” hong ta. Mập cho quá giang”. Nó biết tỏng chị than nhớ quê thực ra là chị đang nhớ người.
Cái người mà chị cả đời lẽo đẽo đi theo, bất chấp tuổi thanh xuân, bất chấp tàn phai nhan sắc, bất chấp sự khác biệt về lối sống, suy nghĩ, khoảng cách nông thôn - thành thị, bất chấp mười mấy con người xa lạ mà chỉ qua một đêm, chị và họ bỗng trở thành người một nhà, bất chấp những lần chị bị họ ức hiếp mà anh không dám đứng về “phe” chị. Anh bỏ mặc chị một mình hứng chịu giông bão. Bỏ mặc chị cả khi chị bị cuộc đời băm vằm rã nát. Bỏ mặc chị loay hoay đối phó với bề bộn cuộc sống.
Ngày, chị ra đường kiếm tiền. Đêm về, chị đối mặt với hằm bà lằng công việc nội trợ. Khi làm cha, chị thiếu một chút mạnh mẽ, quyết đoán. Lúc làm mẹ, chị thiếu một chút mềm mỏng, dịu dàng. Vai nào chị cũng thiếu một chút. Không có vai nào là hoàn hảo. Cảm giác cô đơn, mỏi mệt, thất vọng, chán chường, cuộc sống nghèo túng, lẩn quẩn... khiến chị quyết định “xả vai”.
2 Vậy mà cũng đã hơn mười năm kể từ chị rời xa anh. Đêm giao thừa, khói hương trầm mặc, nến và hoa lung linh. Chị nhắm mắt, chắp tay trước ngực. Trong mênh mông vô thức, chị nghe có tiếng chân người giẫm lên lá khô xào xạc giữa vườn khuya - tiếng chân nghe cô độc quá. Chị thấy anh già nua, khắc khoải, ân hận, nhớ tiếc... đứng tựa ô cửa nhỏ trông ra một góc vườn - đêm ba mươi mịt mùng đen thẳm. Chị lâm râm cầu nguyện. Lời nguyện cầu bình an mang tên anh. Nước mắt chị ứa ra. Không qua mắt thằng Mập được. Chị tự thú “má nhớ quê!”. “Nhớ quê thì về thăm... quê. Mập chở má đi”.
3 Xe bon bon qua cầu. Tự dưng thằng Mập hỏi: “Má! Má còn yêu bố không? Nếu có cỗ máy ngược thời gian, má có... lấy bố không?”. Chị vòng tay qua bụng thằng Mập, áp mặt vào lưng nó, tính trả lời “không” nhưng kịp nhận ra cái bụng của nó sau mấy ngày tết xề xệ mỡ êm êm, nghe mùi mồ hôi lất phất quen thuộc của con, chị trả lời: “Má vẫn muốn y chang như vậy. Vì có y chang như vậy má mới đẻ ra ba đứa tụi con, mới đẻ ra thằng Mập của má chứ”.
Thằng Mập đưa tay bóp thật chặt bàn tay chị trên bụng nó. Xe xuống hết chân cầu, rẽ phải.
NGÔ THỊ THU VÂN



Kết quả hình ảnh cho hoa nhỏ màu tím