Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

Nhạc - Thơ - Văn Hương xoài


Trường Cũ Tình Xưa - Hạ Vy 

Một thời đã qua !
Qua rồi bài giảng năm xưa,
Qua rồi giai đoạn gió mưa chiến trường...
Mà sao vẫn có tang thương,
Không còn chiến sự,.. đoạn trường chưa nguôi ?!
Tâm sao có thể xẻ đôi ,
Nửa thương ngày cũ, nửa thôi ngậm ngùi !!
Đâu Kiều phận bạc như vôi ?
Xót xa cung nữ lẻ loi đêm trường....?!
Đa mang tâm sự vấn vương,
Thôi đành buông bỏ chuyện buồn thế gian !!
Tiếc chi những trái xoài xanh ?
Dấu đi nước mắt chân thành nhớ thương...
Chia tay vĩnh biệt mái trường,
Đoạn trường tuy dứt, tang thương vẫn còn !!
NM
xoai3-large-content 
  Những quả xoài xanh
 “ Xin gởi đến những người làm nghề giáo trước kia, nay được lưu-dung cho đứng lớp …
chúng ta đã đi qua những tháng ngày đáng nhớ. D
alat đã có những tháng ngày đáng nhớ …”
-- 1 --
 Cô giáo đến nhận nhiệm sở trường X Dalat năm 1965. Cô giáo văn chương ngẩn ngơ và ngây ngất trước một Dalat đẹp tinh khiết, trước hàng ngàn tà áo dài xanh xen lẫn trong sương mù đỉnh dốc như thực, như ảo… Rồi mùa No-en 65 với bài nói chuyện: ” Tuổi trẻ và tình yêu” trong căn nhà trú mưa của trường nữ trung-học này, hàng ngàn các cô nữ sinh lớp lớn, lớp nhỏ lặng như tờ nghe cô giáo say sưa thuyết giảng. Cô giáo giảng văn cho học sinh cấp III với Đoạn-trường Tân-Thanh, Cung oán ngâm khúc, Hoa tiên… làm say mê bao nữ sinh. Lần đầu tiên, những tâm hồn trong trắng đó chạm vào thế giới ảo diệu của văn học Việt Nam. Một bạn gái nữ sinh thời 65-66 nói với tôi: ”Cả lớp nín thở khi nghe cô giảng Cung- oán Ngâm- khúc”. Sau này, khi tôi có dịp đi thăm cố cung Huế, tôi mới hiểu do đâu Cô giáo giảng Cung oán Ngâm- khúc hay đến như vậy. Giảng hay đến nổi, những người học trò ngày ấy, đến nay đã trên tuổi 60 vẫn còn như ngất ngây khi nói về cô giáo của mình. Xem cố cung Huế hoang phế, mốc meo lạnh tanh trong chiều tím như thấp thoáng có bước đi của lắm oan hồn, mới mơ hồ nghe được nhịp con tim thổn thức của nàng cung nữ ngóng đợi quân-ân. Cảnh nào tuyệt vọng trong cô đơn hơn khi cung nữ hằng đêm thấp thỏm mong chờ, chợt có làn gió thoảng qua mành trúc, nghe như tiếng người đi đến, nàng vội vàng trở dậy: “… dốc bình phấn mốc, tô làn má rêu!” Ôi, ước mơ tàn lụi của tuổi xanh giam mình trong cung cấm vàng son! Tôi tưởng tượng như hàng ngàn cô gái Huế đều mang trong tâm hồn mình nổi sầu âm-u đó. Nhìn cô giáo dạy văn hao hao gầy, tôi lại mường tượng chất giọng đó rung lên theo nhịp kinh-cầu của nàng cung nữ ngày nào. Tôi lại thấy cô giáo, khi giảng ngâm khúc này, sầu dâng lên ngấn lệ, cô thương cảm cho thân phận của nữ nhi người-trăm-năm cũ. Và như thế đó; cô giáo văn ngày ấy như có ma thuật dẫn dắt bao cô nữ sinh khóc cười cùng nhân vật văn chương. Những cô gái ngày ấy, nơi đâu đó, nay có ru con mình bằng ước mơ: ”Câu cẩm-tú đàn anh họ Lý, nét đan-thanh bậc chị chàng Vương”; nơi đâu đó có còn ai khi ngóng trông chàng , vội oán trách: “ Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa ?”
Ngày ấy tôi cũng dạy văn, cũng dạy Cung- oán, Kim- Vân -Kiều, Hoa -Tiên cho học sinh trung- học Văn-học, Việt Anh, Bồ Đề… cho sinh- viên trường Võ Bị Dalat, nhưng tôi tin chắc không có thầy giáo nào dạy Cung -oán hay hơn các cô giáo mẫn-cảm dạy văn. Bởi rằng chỉ có người đàn bà mới cảm thông và khắc sâu trong tâm-khảm nỗi cô-đơn, tuyệt vọng của người đàn bà; và chỉ có người đàn bà mới cảm nhận được cái xót xa tận mức của cô đơn!
Bởi vậy, tôi tin cô giáo đã thành công khi chuyển tải hết những cảm xúc văn chương đến cho các nữ sinh của mình…
Người như thế đó mà không còn được cầm phấn lên lớp giảng văn chương nữa!- Bao năm rồi cô không còn dạy văn, cô xa rời thành phố Dalat, nơi chốn bao năm Cô cùng học trò mình thả thuyền mơ chơi vơi cùng bao thế hệ áo dài xanh bơi trong mênh mông văn chương. Giờ đây, hàng ngày, hàng tháng đã hơn hai mươi năm rồi, giữa phô xá Sài Gòn ồn ào – Cô chẳng thấy, chẳng nghe gì chung quanh, ngoài những ngày xưa ấy, Cô như vang vang nghe tiếng cười trong xanh rộn rã ở sân trường, như nghe tiếng kẻng giờ ra chơi… thế giới ấy vẫn còn bên cô, vẫn theo hàng ngàn tà áo xanh đi khắp nẽo đời…
Kiều nương xưa ! Nàng cung nữ sầu! Nay đâu ?... tiếng đàn bầu buồn u uất, tiếng tì bà lơi theo nhịp phách ở bến Tầm- Dương; ca- dao lục bát, điệu lý đò ngang… tất cả đã cùng các em đi đến những nơi đâu? Cô giáo dạy văn như người lái đò chiều hôm, gác mái chèo nhìn qua bờ bến bên kia, đã bao khách thương hồ nhẹ gót lan toả khắp nơi, chỉ còn mỗi một mình người lái đò đang ru hoàng -hôn đời mình dần dần vào giấc ngàn thu…
-- 2 --
Cô giáo dạy văn mang những cảm xúc văn chương như định- mệnh ấy đi vào đời – cảm xúc như những dây đàn căng trước gió mưa của cuộc sống, cảm xúc nhân- sinh trong giai đoạn này , trước muôn ngàn oan trái, chứng kiến bao nỗi đau thương, bao khuôn mặt ẩn nhẫn cúi đầu câm nín …
Sau mùa hè đỏ lửa 72, sau những sắp xếp nỗi chìm của các phe phái, sau các màn kịch cắm cờ, dành dân lấn đất … những ngôi trường nơi thành phố ấy, thầy cô giáo và đám trẻ ngơ ngác trước thời cuộc xoay chuyển từng ngày. Mỗi sáng mai thức dậy là một loạt tin tức thực thực hư hư về chiến sự bày ra trên mặt báo được xe Minh- Trung đưa lên; xen lẫn vào đó đám người mê kiếm hiệp, quên đời ,ngóng chờ tờ Minh-báo Hồng Kông ngày hôm qua xem Lệnh-Hồ ca-ca đã đi đến đâu ?– Bao tin tức chiến sự xấu đi, sau mỗi đêm hỏa châu rập rờn cùng tiếng ì ầm đạn pháo.Trong lớp học lại có vài em vội vã nghỉ học; có em gái rấm rức khóc vì hay tin ở ngoài quê có người thân chết trong bom đạn; có em nữ sinh lớp lớn mắt hoe đỏ vì hay tin người yêu đã nằm yên ngoài chiến trận… Cô giáo thảng thốt đón nhận, lắng nghe và lo lắng nhìn đàn em áo xanh quay quần ngóng đợi…
Và rồi, trước ngày hè 73, Trường tiểu- học An- Hữu ở Cai- Lậy, Cái- Bè trong giờ các em đang ra chơi thì một quả pháo 122 ly trong rừng pháo ra rơi lạc xuống sân trường. Nghe đâu, buổi sáng định mệnh tang thương ấy, mấy mươi em gái trai tan xác… Thời chinh chiến, hàng ngày, nơi đây nơi đó, những cái chết oan trái đã thành bình thường. Nhưng ở đây, lúc bấy giờ, trước đàn trẻ thơ vô tội thì những xác chết oan nghiệt kia là vũ khí sắc bén để hạch tội kẻ thù. Nhiều tờ báo chạy tít lớn, nhiều phóng sự và hình ảnh đưa ra những khía cạnh gây xúc động lòng người. Ai cũng nghẹn ngào khi nhìn cảnh tượng mấy em gái nhỏ đang đánh đáo, kéo dây trong giờ chơi nay tan tác máu xương… nhất là hình ảnh ba em gái gục chết bên tường rào sân trường trên tay còn nắm chặt quả xoài xanh cắn dở dang và gói muối ớt đỏ thẩm còn vung vải hoà lẫn trong vũng máu!!
… Sau đó, chính quyền miền Nam dùng các cuộc mít-tinh phản đối, đả đảo để làm vũ khí tuyên truyền. Sở giáo dục tỉnh thành nào cũng rầm rộ tổ chức mít-tinh… mọi phương tiện đều dùng để “lên án phía bên kia”. Trong khi ở các vùng quê thì cùng nhau dành dân, lấn đất, đêm cắm cờ Mặt-Trận Giải-Phóng, ngày nhổ đi thay vào cờ Quốc-Gia… Chẳng có ngôn từ nào nói cho hết cái thời người ta đem sự sống còn của cả một dân tộc vào một trò cá cược lạ lùng !!
Định mệnh lại một lần nữa đưa đẩy cô giáo chúng ta! Chính quyền Thành phố Dalat lúc bấy giờ cũng tổ chức mít-tinh ở sân vận động cạnh hồ Xuân- Hương, cô giáo dạy văn lại được Trường giao đọc cảm tưởng trước mấy ngàn học sinh các trường Trung học trong Thành phố. Buổi mai hôm ấy, trời âm u buồn, bão tố ở nơi nào đó trên biển đông, Dalat cũng chia sẽ một phần ủ rủ. Trời như xuống thấp hơn, mây và sương oằn xuống trong từng cơn gió quái tê cóng lạnh. Hàng ngàn em học sinh trai gái lặng lẽ nghe những bài diễn văn hô hào đả đảo, dài dòng chán ngấy. Rồi khi cô giáo lên đăng đàn, cô mảnh khảnh trong chiếc áo len màu sậm và chiếc khăn quàng tím than, cô mỏng manh như một dấu chấm than giữa cuộc đau thương oan nghiệt! Cả đám học sinh áo xanh sậm của cô đứng ở giữa, cô đăm đăm nhìn xuống đám học trò thân thương của mình, hàng ngàn ánh mắt trong veo đang chờ đợi cô…
Im phăng phắc, mây và sương như sà xuống thấp hơn, thấp hơn nữa trong giá buốt để thương cho thân phận con người trong bom đạn: “… Các em ơi! Cô cũng như các em, đã từng là là những bé gái sáng hôm ấy nhoẵn miệng cười chào cha mẹ, ông bà rồi tung tăng nhảy chân sáo đến trường. Trên đường đi, các em gái ấy líu ríu kể cho nhau nghe bao chuyện vui buồn ngớ ngẩn của tuổi mới lớn; khoe nhau trong cặp sách đang dấu cái kẹo, mấy thẻ tre, mấy viên sỏi đánh đáo… rồi có gói muối ớt, mấy trái me chua, vài quả ổi sẻ, vài trái xoài xanh… Các em ơi! Thế giới dù có bao la đến mấy, dù trăm ngàn tính toán đến đâu, thì thế giới ấy cũng không bằng một góc nhỏ trong chiếc cặp của thế giới trẻ thơ… Ngồi trong lớp học, chúng ra dấu với nhau, chúng khẽ mỉm cười trong ánh mắt bi-ve, chúng chờ tiếng trống báo giờ ra chơi…
Tiếng trống vang lên, sân trường vỡ òa trong tiếng cười nắc nẻ, chỗ này đánh nẻ, chỗ nọ kéo co, nhảy dây… Còn có mấy cô bé làm bộ già rọm tụ đầu vào nhau rù rì kể chuyện… Mươi em bé xúm xít hít hít, hà hà bên mấy trái xoài xanh, trái cốc, trái ổi, chùm ruột và một gói muối ớt, chúng nhóp nhép cười cười nói nói nước miếng chua ngọt ừng ực nuốt vội nơi mấy chiếc miệng xinh xinh…
Các em ơi! Một tiếng nổ tai ác xé toạt không gian hạnh phúc đơn sơ của tuổi thơ! Những chiếc miệng xinh mới đó thì nay đã há hốc, tan xác, mắt vẫn còn mở choàng ngỡ ngàng nhìn lên trời xanh thăm thẳm; có em tay vẫn còn cầm chặt quả xoài xanh, quả cốc, quả ổi đang cắn dở; gói muối ớt đỏ trắng lấm tấm bắn tung nơi nào, những hạt lấm tấm đỏ trộn lẫn với dòng máu vô tội vỡ òa ra lênh láng!
Ôi! Các em gái của cô ơi! Hãy tưởng tượng mà xem, những quả xoài xanh vẫn còn nắm chắc trong bàn tay non dại. Nào… nào trẻ thơ nào có tội tình gì cho cam !!”
Cô không đọc nên lời, vai cô rung lên, cô òa ra khóc như một người mẹ khóc con, một người chị thất lạc em gái trong mù mịt đất trời… Cô nấc lên mấy tiếng “… nào … nào có tội tình gì …” thì vỡ òa ra, cả ngàn tiếng nấc sụt sịt của các nữ sinh các trường. Bọn học sinh trai thì mắt đỏ hoe, cúi đầu xấu hổ vì cố che dấu mình yếu đuối.
Cô giáo đứng đó, nước mắt chảy dài trên má, khăn quàng màu tím than phất phơ bay trong gió lạnh. Hình tượng các em gái nhỏ vô tội chết oan khiên trong một cuộc chiến lạ lùng! – Cô phát biểu không một lời trách móc ai, lên án ai, tuyên truyền cho ai… Cô phát biểu như một lời nấc vô vọng của những thân phận yếu đuối giữa một trận chiến tranh tàn khốc. Chỉ thế thôi! Chỉ có thế, nhưng âm vang của nó còn hơn cả ngàn lời hoan hô, đả đảo. Phải chăng,xin ai đó trả lời, chiến thắng sẽ vinh quang hơn khi chiến thắng nằm trên một núi xương khô?
Tôi chỉ nghe kể lại cảnh tượng này và nghe nói, sau buổi lễ, cô bị Ban tổ chức mít-tinh chê trách cô không lên án kẻ chủ mưu pháo kích vào trường. Cô chỉ muốn trả lời , khúc ngâm Cung Oán là oán thương cho thân phận người đàn bà trong cung cấm chứ nào phải oán trách đấng quân vương bỏ mặc cho thân phan bẻ bàng? – Dẫu rằng…..
-- 3 --
Cơn bão dữ lùa qua, bao số phận đổi thay. Gió tạm yên dịu qua cơn sốc lớn, trên một cuộc sống lềnh bềnh xác chết và rơm rác, số phận dịch chuyển… Người ta vội chiếm cái sẽ có thể không là của mình, vội bỏ qua một bên cái chắc sẽ là của mình và như thế đó trường nam Y vào số phận cho cỏ mọc dây leo. Trường nữ X thì nay các cậu nam sinh tóc ngắn đã đan xen trong lớp áo dài xanh ngày nào – các tà áo dài óng ả được thay thế bằng các cặp áo quần “ bình dân không giai cấp “. Bắt đầu một vở kịch lớn, ai ai cũng cố áo quần lùi xùi, dáng đi khúm núm… sân khấu và kịch sĩ là cả một nửa đất nước đang tập tành vào vai. Sự thật dù ở khía cạnh nào cũng trở nên khó nghe, lố bịch, chỉ có đóng-cho-tròn-vai là được xưng tụng.
Khó khăn đấy, nhưng muốn tồn tại, phải làm quen với những nghịch lý, phải tìm cho ra quy luật cuả một nền văn-hóa khác với mình !!
Các thầy cô giáo ở Dalat, gốc lính thì vào trại tập trung cải tạo; một số được cho nghỉ dạy vì vốn là gốc lính nhưng đã giải ngủ, nay cho về vườn kiếm việc làm khác; một số được lưu giữ lại trường hoặc chuyển trường với hai chữ : “Giáo viên lưu dung “. Người ta xác định rõ, là lưu dung chứ không phải lưu dụng (lưu dụng là giữ lại để sử dụng; còn lưu dung là dung tha cho mà giữ lại). Có vài người đặc biệt không lưu dung mà ung dung ở lại trong vai trò lãnh đạo vì họ là người bên kia đã cài sẵn trong lòng địch.
Cô giáo của chúng ta là giáo viên lưu dung, cô lủi thủi âm thầm như kẻ bên lề; lúc gió bão con gà mẹ chỉ lo xoè cánh rộng ủ các con, mắt ngơ ngác nhìn mây chì cuồn cuộn trong gió!!
Tôi còn nhớ, sau mấy năm đi học tập cải tạo trở về, nhìn thành phố như xiêu vẹo, ngơ ngác chưa hòa nhịp được trong đời sống mới. Đâu đâu cũng rực màu cờ đỏ, cổng chào; đâu đâu cũng muôn năm và vĩ đại… Đã quen sống trong trại nhỏ có rào kẽm bao bọc, có quản- giáo dắt thành hàng đi tới đi lui như bầy vịt con theo vịt mẹ; nay ra sống trong cái trại lớn, không có hàng rào mà như có ngàn ánh mắt vô tình theo dõi, như người quen trong bóng tối ra ngoài ánh sáng, tôi bở ngở, xa lạ và lo sợ… Cái cảm giác đất trời xám xịt, hoang vắng… đâu đâu cũng tiếng loa đinh tai nhức óc với thứ nhạc rầm rập áp đảo vẫn mãi còn đeo đẳng tôi trong những giấc mơ dữ nữa khuya. Tôi thảng thốt sợ hải những ngày tháng ấy, không phải vì áo cơm mà như người hốt hoảng thấy mình mất bóng, thấy mình lừ lừ cùng mọi người, xếp hàng cuộn vào chiếc máy vô tri khổng lồ ầm ì nuốt chửng.
Để khỏi đi kinh tế mới, một số người xin vào các tổ hợp và hợp tác xã sản xuất trong thành phố. Tôi và một số cô thầy giáo cũ xin vào HTX Bình Minh và tổ hợp da thỏ. Có lần tôi hỏi chồng cô giáo dạy văn, anh là giáo sư hóa học trên đại học rằng ở tổ da thỏ có nhiều soude dư dúng để ngâm da, họ muốn bán, anh có làm xà phòng được không? Nếu được thì anh em mình sản xuất để cải thiện cái ăn. Anh trả lời chắc chắn làm được và thế là chúng tôi lên kế hoạch nhỏ sản xuất xà bông để cô giáo và học trò cô, là vợ tôi, đem ra chợ bán lẻ mua gạo.
Tôi đi giao hàng ở Miền Tây ,mua về một can dầu dừa ,một chiều tôi mua mươi ký soude, đạp xe chở qua nhà anh ở gần Trường X để xem anh tổ chức sản xuất. Tôi vốn dốt khoa học, nên cùng với con trai anh ngồi trố mắt nhìn anh pha pha, chế chế, nấu rồi khuấy… và cuối cùng một thau chất sền sệt như chè đậu nếp được anh đổ vào một khuôn bằng tôn sắt anh làm sẵn có 20 cây xà phòng dai cỡ 30 phân. Mấy chú cháu nín thở nhìn thầy phù-thuỷ của giả-kim-thuật đang làm phép biến chất bột trắng trắng và dầu dừa thành bo bo, bột mì và có thể có chút thịt cá tươi !! Cháu con trai lớn của cô giáo tò mò sờ tay vào thành hộp khuôn, anh trợn mắt bảo ngồi im. Mấy chú cháu ngồi im chờ đợi cái ước mơ có it cơm cá thành hiện thực. Gần sâm sẩm chiều hôm, cái khuôn bí hiểm đã nguội mà ước mơ cầm một cục xà phòng về khoe và tặng vợ cũng không thành hiện thực. Chất nhão sền sệt vẫn không đông. Cô giáo đi đâu đạp xe về, nhìn thấy mấy chú cháu ngồi im, nhìn thấy nhà giả-kim-thuật đang trầm ngâm suy tư bèn lảng xuống bếp. Đến khi chạng vạng tối, tôi sờ vào thành khuôn còn ấm ấm, thầy nghiêm trang bảo: “Hãy kiên nhẫn!, trên nguyên tắc thì nó phải thành xà phòng thôi, điều lạ là sao không đông cứng lại phải chờ“. Tôi và hai cháu trai, vét một chút chất sền sệt nhớt ở đáy thau ra rửa tay, các cháu cười nắc nẻ (như Archimède reo lên Eureka vì tìm ra sức đẩy của nước) khi thấy đám bột trắng xốp của xà phòng hiện ra trong lòng tay!
Tôi bèn đạp xe về và hẹn mai kia đến xem thành quả hợp tác sản xuất.
Mấy ngày sau tôi đến, xà phòng đã đưa ra khỏi khuôn, các thỏi hình vuông dài nằm thỏng thượt trên bao bố ở nền nhà. Ôi , nhà khoa học hình như chưa có kinh nghiệm thực tế: cây xà phòng chỉ thẳng khi nằm im trên nền nhà, còn cầm lên thì nó oằn xuống như sợi bún, như miếng sương sâm! Thầy giả-kim-thuật buồn rầu, vớt vác: “Nếu cắt ngắn lại khoản sáu phân thì chắc nó cũng tạm tạm cứng, giống cục xà phòng”. Tôi nhìn anh, nhìn chị và mấy cháu, thấy mà thương vị thầy hóa học lý thuyết có bao giờ phải quơ quào với nợ áo cơm ? – Rồi chúng tôi cố thêm mấy lần lấy soda ,dầu dừa về thử nghiệm pha pha, chế chế, thêm bột cao-lanh, bớt đi ít dầu… khuấy tới, khuấy lui… và nó cũng ỉu xìu, èo uột !! Hai nhà sản xuất tạm dừng sản xuất, còn hai nhà tiếp thị tiêu thụ thì sao? Hai cô trò làm gì với sản phẩm gần giống như xà - phòng đã sản xuất? Sau đó mấy tuần, có một hôm, vợ tôi đạp xe ra chợ mua cám heo trở về, nói với tôi :
 -Thương cô quá anh à, em gặp con H bạn học, bán chạp phô dưới chợ, nó nói : “Cô giáo gởi tau mươi cục xà phòng nhờ bán hộ mà mi coi để trong thúng trưa trời nóng là nó nhão ra, răng bán chừ? Còn mấy cục tui với bà chia nhau mua giúp cô, thấy cô xách giỏ lát có mấy mươi cục xà phòng mềm ỉu nhờ học trò cũ mỗi đứa mua giúp vài cục mà thương quá!” – Anh biết không, , em đâu có dám nói với bạn là xà-bong đó là do anh và thầy làm”. Khi em chở cám qua ngõ dốc Hàm- Nghi gặp cô đap xe đi đâu về, cô gọi em bảo qua nhà lấy bớt xà phòng về giặt dủ cho lũ nhỏ, chứ chẳng biết bán cho ai.
Ở thành phố ấy, bao năm nay, những người dạy học không giàu sang gì nhưng với đồng lương của mình thì gia đình, vợ con không phải quay quắt trong nổi lo cái ăn, mặc, học hành… Còn bây giờ, tất cả mọi ngưới chỉ quay quắt một việc là gia đình sẽ có gì để ăn, các con sẽ được học hành ra sao, sẽ có gì để may mặc… được tồn tại ra sao ?. Trời đất, cỏ cây hình như cũng bị lùa vào một thời cơm-áo-gạo-tiền, cái sự được ban phát cho đủ ăn mặc và cho tồn tại như một loài động vật, nó khẩn thiết đến độ chẳng ai nghĩ được cái gì khác ngoài hai cuốn sổ : sổ hộ khẩu và sổ lương thực. Mỗi gia đình như gia đình cặp thỏ trắng với bầy con ẩn dưới hang tối trong rừng… quây bày con nhỏ vào lòng, trao tráo mắt trong đêm đen mà lắng nghe từng bước đi rầm rập ngoài cửa hang, chúng lo sợ thợ săn và chó săn!! Chợt nhớ đến câu trả lời phỏng -vấn của một nhà văn Nga về hạnh phúc trong thời Xô-viết là: “Không hạnh phúc nào lớn hơn ở nơi này, bằng khi đêm xuống nghe tiếng gỏ cửa, mở ra thấy người gõ cửa không phải là KGB”. Ôi, hạnh phúc quả là đơn giản biết bao cho bầy thỏ trắng được sống trong khu rừng không có cáo và sói!!
 Những ngày tháng ấy, buổi sáng mờ sương, tôi đạp xe ra hồ Đội Có vớt bèo thồ về cho heo ăn, hai con heo do một cô học trò thương cho Thầy Cô nuôi rẻ để chứng tỏ rằng có việc làm trong thành phố. Có hôm tôi ngồi xem mấy chàng trai trẻ đứng bên cầu ống nước gần nhà Hướng- Đạo ở bờ hồ câu cá. Họ có một cách câu cá lạ lùng, họ rải một ít bột cám trên mặt nước hồ, xong dùng cây cần cứng như que củi dài hơn sải tay, cước lớn sợi dài khoản hơn hai sải, đầu sợi cước cột một chùm lưỡi câu khoản bảy tám lưỡi, gắn xoay hình hoa thị. Họ không gắn mồi vào lưỡi như câu cá bình thường ở trong Nam mình, mà ném giật vun vút khi chùm lưỡi chìm xuống hồ. Tiếng vun vút chụp giật, tiếng rít gió xé ghê rợn… Xoẹt, xoẹt… thi thoảng có chú cá rô phi, cá chép bị lưỡi câu móc xé đầu, xé bụng bị kéo giật lên máu loang trên bờ cỏ… Tôi bỡ ngỡ nhìn và hỏi các bạn trẻ . Họ cười thản nhiên:
 - Chú không biết cách câu giật vun vút, vui tai, này à? Ối giời ạ, ở ngoài quê chúng cháu, hợp- tác- xã nông nghiệp nào mà chả có ao cá Bác, chờ cuối năm thì tát cạn, tính điểm chia phần. Ôi trời ạ ! Hơi đâu mà chờ cuối năm, chờ đánh kẻng tát ao, chia phần cho rách việc ! Đây là cách ai dạn tay thì cải thiện, ai ngoan ngoản thì húp gió !!Hi hi!!, Chúng cháu đi làm về, qua ao, ngó trước sau chẳng có ai, giả vờ rửa cái chân, cái cuốc … thế là thả chùm lưỡi xuống giật phứa nó mươi phát, chụp được chú trắm, chú mè nào là bỏ vào túi, tối đến có cái để chén. Cứ giật phứa! giật tuốt là được, có khó gì đâu chú. Ha ha ..giật tuốt !!Giật tuốt. Cái gì cũng vậy, có khó gì đâu chú, chụp được, vớ được là giật lấy tuốt! Giật tuốt, giật tuốt!
Tiếp sau hai từ :”Giật tuốt ! Giật tuốt !”, các cậu quật cần vun vút, luỡi chùm xoàn xoạt xé mặt nước… một con cá chép màu hồng bị xé toát mảng bụng hất lên bờ cỏ giãy đành đạch và máu trào ra trong nền nắng nhạt.
-Chú cho rằng tụi này lấy cắp à ? Oi, chán chê gì Chú ơi, chúng ăn cắp cả vạn lần hơn mà vẫn sống nhăn răng, sống phây phây, sá gì vài con trắm, con mè ?
Tiếng rơi tõm, tõm của chùm lưỡi câu khi cắm phập xuống mặt nước; tiếp theo là tiếng véo xé gió của cây cần giật mạnh lên vun vút. Thi thoảng, một chú cá bị lưỡi câu móc xé toạt lưng , bụng, bị giật bắn vào lề cỏ dãy đành đạch, há mồm trợn mắt nhìn trời xanh như muốn hỏi vì đâu nên nổi ?.
Tôi nhìn hai cậu cười ha hả, quật vun vút phá tan cái yên ả của buổi sáng bên hồ xanh, mây trắng… Tôi chợt nhớ đến anh bạn dạy văn trường Y, Anh rất mê câu cá, nói với tôi về thú câu cá, giọng Huế nhẹ và mượt mà: “Nì, cái thú câu cá không phải chỉ là câu được cá, mà lắng nghe cho được, trong trí tưởng tượng, sự mon men của chú cá dưới mặt nước trong xanh, êm ả, quanh mồi câu… lắm lúc chờ đợi, thổn thức… như chờ bước đi của người yêu tới nơi hẹn hò”.
Cái thời của Lã vọng ngẩn ngơ câu không lưỡi, không mồi; cái thời của những người như bạn tôi nhìn sợi cước mong manh sóng sánh bóng dưới mặt hồ, tim rộn ràng như ngóng đợi người yêu; và nay, thì cái thời của “ giật tuốt, cướp tuốt”… mọi thú vui cao nhả nay chỉ còn dồn vào giác quan: đầy bụng, đầy mồm, ngập răng…!!
Như thế đó, từng bước, từng bước một thứ văn hóa “ cơm-áo-gạo-tiền, thứ văn hóa ngó-trước-ngó-sau và “ giật-tuốt” đã tràn vào chiếm ngự !! Lạ thật, chỉ mấy mươi năm chia cắt mà hai miền khác biệt đến thế sao? Có lẽ, ngoài hơi thở là giống nhau, còn họ và ta khác nhau mọi thứ. Những người như Mai, Loan trong Nửa Chừng Xuân, Đoạn Tuyệt, như Thu trong Bướm Trắng, như … trong Gió Đầu Mùa ở nơi đâu? Mà chỉ thấy toàn Chí Phèo với Xuân tóc đỏ ,trong một thời buổi đảo điên?- Hay những người xưa cũ ấy ta chưa được gặp. Chắc họ cũng ngở ngàng cho một cuộc đời lạ, chắc họ cũng như ta quấn quanh mình một áo choàng sợ hãi và ẩn đâu đó, chỉ cầu mong được tồn tại. Họ cũng ngậm ngùi trốn nhũi đâu đó để cho qua phận người. Trong giai đoạn ban sơ này, trong giới ta được tiếp xúc thì ta chỉ gặp những người xem tất cả chúng ta là một lò toàn các ông Bá Kiến, mà đã là Bá Kiến thì hoặc là đứng đó để bị ăn đòn anh Chí Phèo, hay bỏ của chạy lấy người !!
Rồi như thế, tôi đã thấy Thành phố Dalat êm ả thay đổi vì cái thời : “Giật tuốt! Giật tuốt!”, đã cưỡng bức và thay thế cho văn hóa sinh hoat cũ; cái thời: “Lắng nghe sự êm ả của lòng mình và của đất trời“ dần dần tàn lụi. Thiên nhiên không có chỗ cho chân không! Quyền lực mới ùa vào lấp chỗ trống và mang theo đông đảo lớp người: “Giật tuốt! Giật tuốt!” tràn vào chiếm lấy những gì có thể chiếm được, lấy được. Trước khí hậu và đất đai trù phú như Dalat thì họ “chi viện” cho một văn- hóa sống mới theo cách “giật phứa, giật tuốt !!... mười người mới vào vừa ổn là về quê kéo vào mười người khác, và mười người mới lại … Cứ thế, chỉ trong vòng mười năm, số mới đã xấp xỉ bằng dân bản địa, khi dân bản địa bỏ chạy đi nơi khác cũng không ít… Một tầng lớp mới hả hê tỏa ra khắp nơi thay thế cho đám người: “Bỏ của chạy lấy người” – Đó là nguồn cơn đổi thay từ gốc mọi chuẩn của Dalat hôm nay, nơi mà người đi xa trở lại thấy mọi sự đều khác lạ, chỉ có đỉnh núi Bà là còn nguyên như cũ.
Một thời buổi mới đã tràn ngập Dalat xưa, thay đổi rất lớn vì thái độ bỏ phứa, giật tuốt dưới mọi dạng thức, nó như vết dầu loang,tràn vào thay thế cho nếp sống êm đềm lắng nghe nhịp đập của đất trời… Còn nhớ , Amicis trong Grand Coeur:” nhìn vào hành vi ứng xử của người dân đi trên đường, ta có thể biết được nền giáo dục của quốc gia đó “. Cứ xem sinh hoạt của một xã hội ,thì sẽ hiểu ngay văn hóa nào đã tạo dựng nên nó. Từ hành vi giật tuốt, cho đến trò chận đường đánh thầy, người tình chặt người yêu từng khúc bỏ vào bao bố ném thùng rác, hiệu trưởng mua dâm nữ sinh, nữ- sinh đánh hội-đồng và xé toạt áo quần bạn học, quay phim đưa lên mạng, sát thủ cướp của giết người tuổi vị-thành-niên… tất cả chỉ là hệ-luận tất yếu từ nếp sống xã hội mấy mươi năm chứ chẳng phải chuyện một ngày … Tôi biết và yêu đất Bắc trước kia qua Tự-Lực văn-đoàn, sau này qua Sáng-Tạo của những người di-cư 54,tôi yêu ngôn ngữ dịu dàng trau chuốt, tôi yêu cả bề dày văn hóa, học thuật lẫn con người kẻ -sĩ Bắc hà..Nhưng nay, trong giai đoạn đầu tiên ấy, nơi này, các phẩm-chất ấy nơi đâu rồi? Đâu đâu, trong cảnh ngộ của chúng ta, chúng ta gặp toàn anh Chí, anh Xuân tóc đỏ hảnh tiến !!
Một nền giáo-dục lạ, một nền văn-hóa lạ đã thay thế, và dĩ nhiên để tồn tại thì bằng cách nào đó chúng ta như mọi sinh vật buộc phải thích nghi với môi trường sống mới: con chim cánh cụt dùng cánh ngắn để bơi trong nước; cánh dài thướt tha như chim én sẽ là thừa thải trong thế giới chim cánh cụt!! – Đó là bi kịch của thân phận một lớp người trong một giai đoạn! Làm sao thích nghi mà không bị đồng hóa ? Tồn tại mà vẫn giữ cho được phẩm cách con người ? Lạ lùng thay, có thời buổi nào, nhiều người hốt hoảng lơ láo, bỏ của chạy lấy người, sẳn sàng bỏ mạng sống để vượt ngàn biển khơi … …và một bọn người thì hăm hở xông xáo vào một hồ nước đầy cá lúc nhúc, nghênh ngang ném từng chùm lưỡi câu thèm khát và quyền- lực vun vut, vun vút …giật tuốt, giật tuốt:” Chết mày này !!! Tao giật phứa, không trúng đuôi thì cũng trúng mắt !!”
Một thời có biết bao sự kiện phong phú đến thế, lá cây rừng nào đủ để ghi cho hết , tài năng nào đủ sức gánh vát làm kẻ biên-niên ?
  -- 4 --
Vết chém treo ngành ngày 30/4 ngọt và sắc quá! Lưỡi kiếm vừa lướt qua, thịt da còn liền mí, mới đầu chưa ai thấy được nổi đau ghê rợn của nó. Rồi thời gian, rồi vài ba năm sau, trên vết chém ngọt đó đã sưng tấy, máu mủ tươm ra, người ta mới giật mình thấy: “Hỡi ơi! Ta đã mất mát nhiều đến thế sao!” – Cả thành phố bao lâu nay thiêm thiếp gà gật ngủ, mới choàng tỉnh, mới thấy mình bị “giật tuốt” khá nhiều thứ, “giật tuốt cả đất trời mơ mộng của tôi rồi sao” ?
Những tháng năm đó, trong giới những người đi dạy ở thành phố, đã thấy lắm cảnh trái ngang. Tôi đã thấy bạn dạy học với tôi ở Võ Bị, Bồ Đề nay lầm lủi vát quang gánh bốc xếp cám gạo ở nhà máy xay góc chợ Dalat; tôi đã gặp một anh bạn dạy Anh-văn, sau bốn năm đi cải tạo trở về ngơ ngác như khùng như điên, bởi về đến nhà thì vợ đã lấy cậu học trò của mình, cậu ấy làm lơ xe đò Dalat-Nha Trang và vợ thầy là người buôn chuyến chạy gạo nuôi 03 con nhỏ dại; tôi đã gặp các cô giáo bị cho nghỉ việc về bán áo quần cũ ở lề đường, về làm thợ thêu… Và ngoài những người thất thế đó, tôi cũng đã gặp những người bạn cũ, mắt họ ngời lên: “Ngày ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chiếu trong tim” – ( thơ Tố Hữu) – Họ hân hoan trong nắng hạ nên tránh gặp, tránh nhìn những người đang tê tái trong hoàng hôn đông giá!!
Trở lại chuyện cô giáo ở đầu câu chuyện. Cô giáo lưu dung sau bao cay đắng “hàng thần lơ láo” ở trường cũ, nay bị chuyển qua trường khác; không được dạy văn cấp ba, cô xuống đứng lớp cấp hai và đổi về trường ngoại ô. Cô được học cách dạy văn không cần giảng rộng, không cần cảm xúc, mà cần nhất là không sai những gì sách giáo khoa đã viết. Không thêm, không bớt. Cô không còn có Đoạn Trường, Cung Oán, Hoa Tiên để mà mơ màng tình yêu đích thực. Biết tính mẫn cảm của cô giáo dạy văn, nên có người bạn cũ khuyên cô đừng dạy văn nữa. Cô không nghe theo vì làm sao bỏ nghề cô đã yêu mấy mươi năm rồi .… Rồi, một lần nữa, định mệnh văn chương lại trêu ngươi cô giáo dạy văn. Ở trường cấp hai, khi cô giảng bài đọc thêm môn văn ,có bài về “ Mỹ Ngụy thả bom cày xới làng quê” Một em học sinh được cô gọi đứng lên đọc bài đọc thêm cho cả lớp nghe :” Những em bé gái sơ tán bị bom thù phủ lên tan xác, trong khi cặp sách vỡ vẫn còn ôm ghì trong vòng tay thơ dại…”
-Thôi em , đừng đoc nữa !!
  Cô giáo như thấy cảnh chết chóc của bao trẻ thơ non dại trong trận chiến tàn khốc bày ra trước mắt, lớp học lặng như tờ, mấy mươi đôi mắt bi-ve đăm đắm nhìn cô giáo xanh gầy thất thần,mặt tái mét trong từng cơn gió lạnh đầu đông lùa vào khung cửa… Cô ngồi đó, trước đám học trò nhỏ dại, cô rả rời thẩn thờ, nghẹn ngào chẳng biết vì đâu, và vì đâu mà hai hàng nước mắt ràn rụa nhoà trên đôi mắt mệt mỏi, chán chường… Cô đang nhớ đến những trái xoài xanh ngày nào, hay nghĩ đến hàng triệu mái đầu xanh vô tội lùa vào một trò chơi tai ác? Cái chết của trẻ thơ, dù ở đâu, dù bất cứ ly do gì, đều là tội ác của người lớn !!!
Cô chẳng giảng một lời, cô chỉ nấc lên và thút thít trong nước mắt, như biết bao đau khổ, oan nghiệt nén xuống, nay có dịp vỡ òa ra..…
Những ngày tháng ấy, thật là hiếm hoi có một bài giảng văn bằng nước mắt trong lớp học… rồi sự việc cũng đến tai Ban giám- hiệu, rồi cũng đến tai Trưởng bộ môn Văn của Sở Giáo dục. Trong cuộc họp bộ môn Văn khối trường trung học thành phố tại trường X, cô giáo lưu-dung ngồi yên một góc, cố thu mình nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa, trước cái nhìn xăm xoi của các anh chị sống trong “mặt trời chân lý”. Anh trưởng bộ môn, giọng Huế thơn thớt nói: “…Chúng tôi không quên trước kia, ngày ấy cô gào lên: “ôi! Những quả xoài xanh…”, rồi cả ngàn học sinh thút thít khóc trước các luận điệu… trước sự đóng kịch tài tình của cô… mục đích là chi rứa? - Cô gây căm thù, cô làm cho nhân dân… Cô nghĩ sao khi bây giờ cô được lưu-dung mà còn vờ vĩnh rỏ nước mắt giả dối trong lớp học…”
Cô giáo đứng yên đó, mắt thẩn thờ nhìn hoang ra khung cửa sổ, ra sân chơi quen thuộc của ngôi trường cô đã gắn bó mươi mấy năm, ngoài ấy có hàng liễu rũ bông đỏ rún rẩy trong gió đông tê tái lạnh. Tay cô mân mê cuốn sổ lương thực mà mới khi sáng cô lên phòng đời sống được ký cho mua thêm mấy lạng bột ngọt và nửa cân đường… Cô mông lung nghĩ đến các con, nghĩ đến dàn su su chiều nay sẽ hái vài trái um với chao cho chồng con ăn. Lại cái giọng Huế mướt như nhung và cay như ớt hiểm ấy tiếp tục đay nghiến: “Cô nọi răng lạ rứa! - Mô phải cái chết mô cũng như cái chết mô! Đâu phải dạy văn-chương là chỉ truyền cảm xúc, ảnh tượng của văn thơ cho học sinh là đủ?... Cô nhợ cô là giáo viên lưu-dung! Cô phải hiểu, dạy văn là phải có tính giai- cấp, tính quần- chúng, tính chiến- đấu cho lớp trẻ!! Bọn trẻ bị sát hại, bị mất mạng là vì ai? Đạt được điều gì?... Đọ đọ, đâu phại chị rủ ra mờ khọc ủy mị như kiểu nhựng trại xoài xanh ngày trước kia nạ …”
giáo vẫn đứng yên như một tượng đồng hoen rỉ, mắt vô hồn nhìn xa xa… Cô không nghe gì hết, không thấy gì hết… Cô nhìn xuống nhà trú mưa của hoc sinh trường, nhớ bài nói chuyện của cô lúc mới về trường: “Tuổi trẻ và tình yêu”, cô thoáng như thấy cả ngàn tà áo xanh rờm rợp, lung linh vào ra trên sân trường ngày nào… Cô lẩm bẩm như trong mơ:
- Mới đó mà đã hơn 15 năm rồi! Mười lăm năm xót xa trong cuộc đời Kiều nhi !
- Xin cô phạt biệu lớn lên! Anh tổ trưởng bộ môn dằn giọng.
Mọi người quay xuống nhìn. Cô lặng lẽ ngồi xuống và xếp cuốn sổ vào giỏ, lặng lẻ chẳng chào ai, chậm bước ra khỏi phòng, tay cầm chặt cuốn sổ lương thực, như đang đi trong giấc mộng du… mặc cho cả phòng họp ngỡ ngàng.
Rồi tôi nghe người ta kể lại, cô “bị” cho nghỉ dạy văn, cô “được” cho dạy toán lớp 6 , cô phải nhờ chồng dạy cho cô môn toán hàng đêm để sáng mai lên lớp. Rồi cô giáo phải xin nghỉ và rời xa thành phố Dalat, nơi cô rất đổi yêu thương, và nơi đó đã có một thời thật đáng nhớ .
 NGUYỄN
 (Dalat,09/10/2011)
Kết quả hình ảnh cho chia tay trường cũ
Chia tay trường cũ
Trở về sân trường cũ,
Tìm chút kỷ niệm xưa....
Đây cỏ vàng nhung nhớ,
Phượng đỏ mắt trông chờ !

Cũng là phương trời ấy,
Sao thấy lòng chua cay....
Đâu còn bài giảng cũ,
Đâu ý thơ đắm say !?

Đành quay về phố thị,
Hình ảnh mái trường xưa...
Tôi  vẫn hoài thương nhớ.,
Giờ chỉ gặp trong mơ !!
NM
 
Mầm khóc
Tôi về lại làng vào đầu mùa hạ. Mùa hạ quê tôi lúc nào cũng ngập ngụa trong mớ rơm rạ và dúi chín vàng. Tôi mang theo túi hành lý cỏn con, định bụng sẽ không bao giờ quay lại thành thị nữa. Tôi bỏ trò, bỏ trường, bỏ hết để trốn về đây mà không thèm ngoái đầu lại chỉ một lần. Anh giáo chốn thị thành về làng có khác, ai nấy đều tròn mắt. Để mặc những ánh tò mò sau lưng, tôi băng con đường ruộng chưa bao giờ bằng phẳng, ráng bám lên từng thớ bờ chậm rãi tiến về ngôi nhà nằm chênh vênh bên kia cánh đồng con con.
Những ngày đầu tiên từ Sài Gòn trở về, tôi ở lỳ trong nhà. Má tôi rầy hoài, nói về đến nhà mà co đầu rút cổ, không ló được cái bản mặt ra ngoài cho chòm xóm hỏi han. Tôi ưỡn người ngái ngủ, xách chiếc võng tre cũ kĩ ra sau hè, đặt dưới gốc xoài chi chít trái, trèo lên đánh một giấc. Gió từ ngoài đồng thổi vào êm ru, khẽ luồn tay đưa võng kẽo kè kẽo kẹt, đều đều như âm thanh của con lắc thôi miên cứ trôi qua trôi lại níu chìm mí mắt. Tôi mơ về những buổi lên lớp thấy học trò ngồi chắp tay lên bàn cười rạng rỡ. Ông giáo tôi lật từng trang sách giày cộm vì cũ, đọc ê a những câu những chữ, ngắm học trò dưới lớp mở tròn mắt thơ ngây.
Tôi lội con đường ruộng phía sau hè, đi về gò đất trống nằm khuất sau đám mía vừa chớm lá. Hồi còn bé, tôi hay dành cả ngày trên gò đất này chỉ để nằm dài dưới gốc bồ đề đọc sách. Những cuốn sách ngày đó của tôi là những mảnh lượm lặt nửa còn nửa mất, chắc từ bận ấy, cuộc đời tôi mới chênh chao như thế. Tôi nằm cả ngày dưới cây bồ đề lắng nghe lá mía va vào nhau xào xạc, nắng rớt long tong trên mí mắt, gió xoa vào lòng bàn chân mát rượi. Gò đất bây giờ vẫn vậy, nhưng cây bồ đề bỗng nhỏ hơn nhiều so với kí ức của tôi, rễ mọc ngang dọc nhìn như bộ râu bạc phết của ông già còm cõi nào đó sắp lìa khỏi cuộc đời này. Tôi gối đầu lên bộ râu chằng chịt đó, luồn tay rút trong túi quần cuốn Quy luật của muôn đời của Nođar Đumbatzê, lật đến đoạn đang đánh dấu, thả hồn vào cuốn sách như ngày xưa lơ xưa lắc. Rồi tôi thiếp đi, thiếp đi khi vừa đọc xong đoạn Batsana đau đầu vì con khỉ gian manh giả làm nhà văn mà không ai nhận ra, tôi nghe bước chân của những chú chim nhảy lóc chóc từ cành cây này sang cành cây nọ, tiếng bò nhà ai thả đồng rống lên từng hồi uể oải, tiếng những trang giấy bị gió đẩy va vào nhau soàn soạt và cả tiếng tôi ngáy nhè nhẹ dưới bóng mát hiền lành. Nhưng thật kì lạ, có một thứ tiếng tôi không sao nghe được trong cơn ngủ của mình, mà phải đến khi thức dậy, tôi mới giật mình. Đó là tiếng bước chân của một cậu bé, một cậu bé đến từ đâu đó ngoài cánh đồng, băng qua đám mía còn chưa mọc mắc, đến bãi gò trống hoang dại sâu hút và ngồi nhìn tôi ngủ say sưa. Khi tôi còn đang ngái ngủ, cậu bé nhoẻn miệng cười, nụ cười rực lửa như nắng hạ, kéo tôi về với thực tại. Tôi ngồi dậy, thấy mặt trời đang lặn dần xuống phía sau đứa trẻ, tựa hồ như có một vầng sáng kì lạ toát ra từ em vậy. Cậu bé chớp mắt nhìn tôi hỏi:
- Thầy là con bác Bốn Ròm hở thầy?
Tôi nhìn cậu bé, phát hiện khuôn mặt này quen quá, quen đến nỗi tôi nghĩ mình đã từng gặp và nói chuyện. Nhưng nghĩ lại hơn mười năm qua tôi lăn lộn ở thành phố, về quê cũng được có dăm ba bữa lẩn quẩn trong căn nhà cách biệt của má con tôi thì lấy ai gặp gỡ chuyện trò chốn này. Tôi ừ nhẹ, cậu bé càng cười tươi hơn.
- Em tên Ri, ở xóm trong lận! Nhưng em thích cái gò này lắm, em cũng hay ra đây nằm đọc sách như thầy vậy đó!
Ri càng nói chuyện tôi lại càng thấy thân quen, như hồ có cái gì đó vừa lãng đãng trong tâm trí tôi… rồi lại biến mất. Tôi cố lục lại hàng đống gương mặt đã nhàu nát đã từng đi qua đời tôi, nhưng không tìm thấy ai giống Ri cả, hình như tôi biết em, đó cũng chỉ là ý nghĩ thoáng qua mà thôi.
- Bữa sau em ra đây nữa được không thầy?
- Gò đất này đâu phải của riêng tôi, em cứ tự nhiên, tôi không ra thường xuyên lắm, thỉnh thoảng chắc ta cũng gặp nhau!
Từ đó Ri hay đến sau giấc ngủ của tôi. Lúc nào mở mắt ra tôi cũng bắt gặp khuôn mặt Ri, khuôn mặt như đang đắm chìm trong một giấc mộng đêm hè. Em hay kể cho tôi nghe những câu chuyện không đầu không đuôi, những chiều em nằm dài trên bờ đê ngắm mặt trời lặn, những lổ cun cút chi chít dưới cây xoài mà em không nỡ thổi hay những cuốn sách nào đó em vừa lật đến trang đầu tiên. Tôi nghe em kể, nhìn khuôn mặt sáng rỡ của em, tự nhiên thấy buồn man mác. Tôi không hiểu vì sao tôi buồn, chắc vì những kỉ niệm em kể sao cứ vừa vặn với những trăn trở trong lòng tôi, hay vì đôi mắt em không giấu nổi điều gì đó hoang hoải chảy dài trong chiều tím ngắt.
- Thầy dạy em học được không thầy?
Tôi nhìn vẻ mặt mong đợi của Ri, nhớ lại những gương mặt trẻ thơ từng ôm tôi khóc nấc rồi ức ưởi hỏi tương tự. Lòng tôi không kiềm được mong muốn ôm lấy Ri. Tôi gật đầu nhẹ tênh rồi quay lưng đi về phía đồng mía, khóe mắt chảy dài. Hoàng hôn sụp xuống nhè nhẹ, nuốt chửng cả bóng Ri đang ngơ ngác giữa gò.
Vào những đêm trăng mờ ảo, hai má con tôi hay nằm ngửa chiếc chõng tre ngoài sân. Ánh trăng vuốt ve khuôn mặt, chảy dài trong tay mà không sao bắt được. Má hỏi tôi khi nào trở lại thành phố, tôi không buồn trả lời, lặng lẽ nhắm mắt lại vờ ngủ. Má chậc lưỡi:
- Ở lại đây không dạy dỗ gì được đâu con ạ! Nhà mình nghèo lắm…
Tôi khép chặt mắt hơn chút nữa, sợ cái chậc lưỡi của má xộc lên mũi, xộc vào trái tim tôi vốn chưa từng yên ổn.
Dạo này tôi dạy Ri cách đọc sách, Ri bảo sao có nhiều cuốn đọc khó hiểu quá trời, đọc tới cả chục lần mà vẫn không hiểu nổi.
- Tôi chỉ dạy em cách đọc để nhớ thôi, còn hiểu thì để thời gian dạy!
Tôi mang những cuốn sách hay mang về từ phố thị cho Ri đọc, kể cả cuốn Quy luật của muôn đời mà tôi thích nhất. Đọc đến đoạn bác thợ giày Bulika – một người bệnh nằm cùng phòng với Batsana – nói rằng ông có thể biết được con người ta qua cách nhìn đôi giày của họ, Ri liền hỏi tôi:
- Thầy có tin vào cách nhìn của Bulika không thầy?
Tôi không trả lời Ri, chỉ nhoẻn miệng cười trừ. Một gã thầy giáo như tôi, luôn đi một đôi giày giả dối thì làm sao Bulika nhìn ra được. Có chăng bác ta cũng chỉ nhìn được cái mặt giả dối của tôi mà thôi.
Lần đầu tiên tôi đến ngôi trường nằm nghênh ngang trên con đường đông đúc đó, tôi chỉ mang một đôi giày xăng đan đơn giản. Lúc đó tôi không hề biết rằng, khi đã bước vào trong cánh cửa, gã tôi phải sống một quảng đời thương tâm như thế. Tôi lột đôi xăng đan cất vào gầm giường, mang vào đôi giày tay bóng lộn. Rồi chẳng biết từ lúc nào, đôi giày tây bóng nhoáng ấy cứ ôm lấy chân tôi chẳng chịu rời, như một bóng ma quái quỷ ác nhơn nào đó thèm rút hơi người từng li từng tí.
- Những lúc không ở đây thì em làm gì? – Tôi hỏi Ri.
Ri nhe hàm răng trắng sáng cười toét, đôi mắt lấp lánh.
- Thầy biết gì không? Đây là lần đầu tiên thầy bắt chuyện trước với em đó nha!
Tôi cười khan, rồi chẳng biết làm gì vì ngượng nên tôi quay mặt nhìn ra cánh đồng mênh mông.
- Em hay lên trường ngồi chơi. Nghỉ hè nên trường vắng, muốn vào phòng nào cũng được thầy ạ!
- Em không được đi học sao?
Tôi nhẹ nhàng hỏi, nhẹ nhàng nhìn Ri như muốn an ủi em. Mặt Ri hơi chùng xuống, nhưng em vẫn trả lời rất rành mạch.
- Dạ!
Rồi thôi, Ri không nói vì sao, tôi cũng không hỏi. Cuộc đời là một chuỗi câu hỏi, tôi không dám lật từng ô lên để giải đố, tôi sợ lòng tôi thêm bùng bão, và sợ chạm vào nỗi niềm riêng của Ri.
Một hôm khác Ri mang cho tôi một chùm hoa phượng đỏ rực. Em bảo em hái ở sân trường, phải co giò chạy té khói vì suýt bị bác bảo vệ bắt được. Tôi nhìn từng cánh phượng còn mọng nước, chợt nhớ ngôi trường tôi từng dạy ở thành thị chẳng có cây phượng nào, chỉ toàn song sắt và những khuôn mặt xám xịt.
Tôi mang chùm phượng về nhà đặt lên cửa sổ, má nhìn tôi bằng ánh mắt ngơ ngác, chắc má thấy sắc phượng chói quá với một kẻ suốt ngày ủ dột như tôi chăng?
Tối đó tôi nằm mơ. Một giấc mơ đã từng lặp lại suốt bao nhiêu lần. Tôi thấy đoàn lân rộn ràng đèn sắc, tiếng trống vang lên hừng hực. Những cậu bé mặc bộ đồ màu vàng rồng, có vẩy dưới chân nhún nhảy nhịp nhàng theo trống. Mọi người xúm xít nhau vây lấy đoàn lân, khuôn mặt ai cũng ngời ngời mừng rỡ. Và tôi cũng ở trong đám người ấy, cũng vây lấy đoàn lân, cũng bị dòng người trên vỉa hè đưa đẩy như hội. Chợt tôi quay người lại, đằng sau song sắt của một tòa nhà cao ngất, là những đôi mắt xám đang biến thành tro nguội. Những đôi mắt nhìn tôi như cầu cứu, rồi những cái miệng bắt đầu mở ra và đồng thanh hét lên một thứ âm thanh kinh dị. Tôi vùng dậy, mồ hôi ướt trán, thấy mắt mình ướt nhòe lúc nào chẳng hay.
- Nghỉ hè xong thầy lại vào thành phố hả thầy? – Ri hỏi, tay mân mê trang sách tôi vừa đem tới.
- Tôi không vào nữa!
Ri nhìn tôi một hồi lâu, đôi mắt em tự nhiên trong suốt. Em không hỏi tôi vì sao, nhưng lòng tôi tự nhiên bị đôi mắt em mở khóa. Tôi mông lung không biết kể với em như thế nào, để dịu nỗi đau trong tôi và để không làm em hụt hẫng.
- Ngôi trường đó chẳng có gì giống trường cả. Chỉ có học sinh, còn những kẻ khác đều là quỷ dữ. Học sinh bị cầm tù và tôi cũng vậy. Tôi trở về vì tôi dần nhận ra rằng, nếu sống thêm một ngày ở đó, tôi cũng trở thành quỷ dữ mà thôi.
Bỗng nhiên vai Ri chùng xuống. Em cuối gầm mặt, tay vẫn tiếp tục mân mê những trang sách.
- Thầy bỏ học sinh lại cho quỷ dữ sao?
Lòng tôi buốt nhưng lặng lẽ. Tôi không dám nhìn vào mắt Ri, em cũng vậy. Em đột nhiên đứng dậy chào tôi rồi lững thững băng qua đám mía non. Bóng em khuất dần, tôi thèm được òa khóc, nhưng lại thôi. Chắc Ri không biết tôi đã bật khóc biết bao nhiêu lần khi nhìn thấy ánh mắt của đám học sinh hướng ra song sắt một cách thèm thuồng, khi đang ở cái tuổi ăn tuổi chơi mà chúng ngày ngày cắm đầu vào học những con chữ khô khan với chiếc roi bỏ ngỏ trên bàn, khi những bức thư hộc bàn bị những người mang danh thầy cô xé tan xé vụn. Chắc họ không biết rằng mình đang xé nát nhiều thứ hơn bức thư ấy, xé nát một quảng đời tuổi trẻ của những con người vô tội.
Có lần vì thương các em, tôi dạy các em làm lưu bút. Những quyển lưu bút đầy màu sắc ra đời, những bài thơ, những câu nói ngộ nghĩnh, những lời tỏ tình khờ dại, những dòng trăn trở về ngôi trường như rào cản với cuộc đời này, những lời gọi thầy ơi, thầy ở đây với tụi em mãi nha thầy…. Nhưng chẳng bao lâu, lưu bút bị tịch thu rồi vò nát, học sinh ôm nhau khóc rưng rức, tôi bị gọi lên phòng hiệu trưởng cảnh cáo, mọi chuyện tan hoang.
Sau lần đó, Ri chẳng ra gò đất nữa. Tôi biết Ri giận tôi, giận gã làm thầy như tôi hèn nhát, giận cuộc đời sao nỡ chua ngoa với những bông hoa vừa chớm. Tôi hỏi má chùm phượng tôi đặt trên cửa sổ đâu rồi, má nhìn tôi ngơ ngác hỏi chùm phượng nào, bữa giờ má có thầy hoa hòe gì ở nhà đâu.
Tôi lò mò qua bờ ruộng vào xóm trong, tôi đến ngôi trường làng mà Ri thường chơi đùa, nhìn quanh quất tìm kiếm. Dưới gốc phượng có vài ba đứa trẻ đang chơi ô ăn quan, tôi tiến lại gần.
- Các em có thấy anh Ri ở đây không?
Bọn trẻ ngước lên nhìn tôi lắc đầu.
- Dạ không! Làng này đâu có ai tên Ri!
Tự nhiên gai sống nổi hết lên lưng tôi. Tôi nhìn vội vào các phòng học, thấy phòng nào cửa cũng đóng kín. Tôi chạy vội đi tìm hỏi má về Ri, một cậu bé trạc mười lăm mười sáu ở xóm trong. Má nhìn tôi chăm chú, đôi mắt ngập ngụa trong bóng tối.
- Mấy đứa nhỏ không biết là phải rồi! Tại thằng Ri nó chết trẻ quá!
Tôi nuốt nước bọt, cố lắng tai nghe lời má nói, nhưng sao tai tôi cứ lùng bùng. Tiếng được tiếng mất. Tôi ngồi thụp xuống chiếc chõng tre, thấy đời vừa chênh đi một nhịp.
Má kể hồi đó Ri thích học ở trường làng, nhưng ba mẹ Ri cứ nhất quyết đưa Ri lên thành phố học. Ri khóc lóc xin ở lại, bảo rằng học ở đây có bạn có bè, có ba có mẹ con quen rồi. Nhưng ba mẹ Ri như bị nhập, nhất quyết đưa Ri đi. Trước vài ngày, Ri bỏ sang kho trấu của nhà máy gạo trốn. Ba mẹ Ri cuống cuồng đi tìm, cuối cùng cũng lôi được Ri về. Sợ Ri lại bỏ trốn, hai người mua dây thừng trói chân Ri vào chân giường rồi khóa trái cửa nhà. Ri khóc inh ỏi, hàng xóm hai bên chỉ biết quẹt nước mắt mà thương.
Ri lên thành phố, vào học một ngôi trường tư thục. Học sinh ở luôn trong trường, một tháng mới cho về một lần. Ba mẹ Ri đi đâu cũng tự hào kể lể, bảo học trường đó thách trời nó mới hư được. Ừ thì không hư, nhưng rồi một bữa người ta nói Ri chết rồi, xác Ri về lạnh ngắt, ba mẹ Ri khóc ngất, nghĩa trang nổi gió dữ dội, những ngọn cờ trắng tang tóc vần vũ giữa hoàng hôn. Chẳng ai biết vì sao Ri chết, nhưng tôi biết.
Lần đó, trong giờ học của tôi có các thầy cô đến kiểm tra. Một cô bé học sinh quên làm bài tập. Tôi cho em ngồi xuống và nhắc nhở lần sau nhớ làm bài đầy đủ. Nhưng những người mang danh thầy cô kia bỗng dưng nhảy dựng lên, cầm chiếc roi trao vào tay tôi, thầm thì bảo phải phạt thì tụi nó mới sợ, không lần sau sẽ trơ mặt ra. Tôi nhỏ nhẹ lắc đầu, bảo các em lớn rồi, không nên dùng roi vọt, nếu dùng thành ý thì các em sẽ nghe lời thôi. Vậy mà gã quỷ dữ đó gọi phắt cô bé nữ sinh đang diện bộ áo dài trắng thướt tha ấy đứng dậy. Em nhìn tôi van nài, tôi cố giằng chiếc roi từ trên tay gã những bị những người khác khóa chặt tay. Em uất ức nằm úp lên chiếc bàn dài , đôi mắt ráo hoảnh nhìn tôi.
- Đừng! Đừng mà!
Gã quỷ dữ vụt roi lên người em, tà áo dài nhàu nát. Học sinh ngồi lặng lẽ, hoang mang, có vài tiếng thút thít, tiếng tôi cố giằng ra khỏi hai gọng kìm chặt cứng và tiếng roi quất lên người em gái bé nhỏ.
Hôm sau tôi nghe nói cô bé đó chết rồi, em treo cổ trong nhà tắm, trên người vẫn còn mặc nguyên bộ áo dài bị đòn roi làm cho nhàu nát. Em chết ở cái tuổi mười sáu, tuổi đẹp nhất đời người. Tôi nhớ ánh mắt ráo hoảnh của em nhìn tôi, như giận dỗi, như bất cần, như buông xuôi. Có lẽ Ri cũng vậy, Ri cũng buông xuôi, cũng chênh chao một mình mà nào có ai hay.
Tôi mang cuốn Quy luật của muôn đời lên thăm mộ Ri. Ngồi trước mộ em, tôi giở từng trang sách đọc lại mà nước mắt cứ chảy dài. Tôi không hiểu tại sao giữa tôi và Ri lại có mối liên hệ kì lạ như vậy, chỉ là tôi thấy đã gặp Ri ở đâu đó trong cuộc đời này, có lẽ là trong một giấc mơ lạc lối, hay trong lúc tôi loay hoay tìm cái chết cho thằng tôi hèn nhát, tôi đã gặp Ri nơi cửa địa ngục, chúng tôi cũng đã ngồi xuống bên nhau, nói cho nhau những niềm trăn trở và bởi sợ tôi không vững vàng trên điểm chới với này mà Ri đã theo tôi trở lại nơi này?
Tôi xách ba lô quay về thành phố, ôm má một cái thật mạnh rồi chậm chạp bấu chân lên bờ ruộng sang bên kia đường. Đứng bên này nhìn sang, thấy bóng má nhạt nhòa trong nắng chiều. Má vẫy tay bảo tôi đi nhanh lên, tôi thèm ôm má thêm cái nữa nhưng rồi dượm chân bước đi. Tôi sẽ trở lại ngôi trường đó, sẽ trở thành một con người thật sự, để những tâm hồn non trẻ không còn gục ngã trước những hụt hẫng, những thất vọng, những chán chường. Dù chỉ là mình tôi, tôi cũng muốn thử. Để mai này trên đường xuống cõi âm, tôi gặp Ri mà không phải hổ thẹn, không phải bắt gặp cái cúi đầu thất vọng của em.
Tôi ngoái đầu lại lần nữa, thấy có bóng người li ti trên gò đất hoang, gió sà vào tóc tôi như cái đập vai của một người con trai, như cái mỉm cười an nhiên tiễn người ra đi không hề vướng bận.
Phan Mai Thư Nhã
Kỷ niệm không quên !...
Một giờ nữa anh quay về phố thị,
Nhớ hương xoài lại nhớ bóng dáng em....
Xa dẫu xa nhưng chắc sẽ không quên,
Những kỷ niệm êm đềm tuy ngắn ngủi !

Lau bạc trắng rập rình theo gió đuổi,
Trắng như mây trên núi bạt ngàn xa....
Gặp một lần rồi lại mãi phôi pha,
Em chắc nhớ hiệp sĩ Ngàn Lau cũ ?!

Chuyện ngày qua, tình riêng em ấp ủ,
Kỷ niệm xưa người nhớ, kẻ quên về....
Anh như người chợt tỉnh giữa cơn mê,
Lòng tiếc nuối giá như mình chưa gặp !!
NM
  Hương Xoài
Hai tuần nằm dài, thực hiện các chế độ nghiêm ngặt của bác sĩ, sức khoẻ Thái bắt đầu bình phục nhưng chứng mất ngủ vẫn cứ bám riết lấy anh. Vẫn còn những đêm trắng, mắt chong chong nhìn vào đêm tối, vẫn còn những giấc ngủ đầy mộng mị.
Buổi sáng ra viện, Thuỷ đến đón Thái, đưa cho anh một bức thư nhỏ, nói: "Em vừa xin tổng biên tập cho anh nghỉ thêm một tuần. Anh sẽ đến nhà một ông chú họ của em. Giữa một rừng xoài, tha hồ mà tĩnh dưỡng". Thái cầm phong bì, liếc nhìn địa chỉ, mặt chợt nóng ran, tim đập loạn xạ như một con chim mắc bẫy. Thuỷ lom lom nhìn anh, hỏi:
- Anh biết nơi này rồi hở?
- Biết... Nhưng chưa một lần đến.
- Sao biết?
- À... một người quen... cũng lâu lắm rồi...
Thuỷ nhướng đôi mắt sắc lẻm răn:
- Anh về đó là để nghỉ ngơi và để chữa chứng mất ngủ đấy nhé.
Thái choàng tay qua vai Thuỷ, cười cười:
- Em viết thư giới thiệu anh với ông chú ra sao?
- Còn viết sao nữa, rằng đây là chồng chưa cưới của con. Chú xem có ưng cái bụng không thì ký duyệt cho một chữ cho con nhờ.
- Vậy thì anh chỉ còn một cách là làm con ong chăm chỉ trong vườn xoài của ông chú em, được chưa?
Thái như vừa qua một sự chấn động, một thoáng như nghẹt thở vì một cảm giác rất lạ. Phải chăng đây là sự đùa cợt của số phận. Anh sẽ về một ngôi làng mà dăm năm trước, khi còn là một sinh viên, tên làng vang lên thiêng liêng như tên một thánh địa.
Bên anh, Thuỷ đang ríu rít điều gì đó. Thuỷ giỏi giang, xinh đẹp. Tương lai của Thái sẽ đầy hứa hẹn khi có một người bạn đồng hành như Thuỷ. Những nhân vật khả kính trong thành phố này đều là bạn chiến đấu thuở nằm hầm của ba Thuỷ.
Thuỷ thực tế, nhìn xa trông rộng. Mà sao Thái lại có một chuyến hành hương đầy bất ngờ thế này.
° ° °
Những vườn xoài rộng, nối tiếp nhau như không bao giờ có tận cùng. Gốc xoài to, một người ôm không xuể, tán lá xoè rộng và vươn cao. Đang là mùa ra hoa. Một mùi hương dịu ngọt lan toả khắp vườn khắp ngõ. Chú Tư Râu nói với Thái, vườn xoài này cha con chú trồng từ những năm chú mới lên mười. Bây giờ chú đã sáu mươi. Hơn 40 năm nay, đều đặn, cứ vào mùa, hoa xoài lại nở bung ra, vào hè thì quả đã bắt đầu vàng ruộm.
Hàng giờ liền, Thái lang thang trong những vườn xoài. Hương xoài ngọt, hoa nở bung, vàng ươm, trông xa như một trời pháo hoa.
Không hề có những lời lẽ bi lụy, những ánh nhìn ướt át. Không có cả những câu hỏi thăm bóng gió. Cô sinh viên mơ mộng ngày nào giờ đón Thái như đón một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Thái cố cười to, cố bắt chặt tay Quyên rồi khẳn khái buông ra. Quyên cũng cười theo, tiếng cười trong trẻo. Em đưa đến một xâu mực khô, để hai chú cháu lai rai với nhau.
Quyên nhóm xong bếp lò, đặt bên cạnh chiếc chõng tre đầu hè rồi xin phép về. Nhìn màu chiều xuống chậm trên tán xoài, Thái thấy mắt mình cay cay. Vì rượu, vì khói than bay xộc vào mắt hay vì điếu thuốc rê to sụ trên tay? Lần đầu tiên trong đời, anh ngượng nghịu quấn một điếu thuốc rê rồi châm lửa hút. Đầu óc chếch choáng. Thái có cái cảm giác gần như là sự đau đớn khi vừa mất đi một điều gì đó quý giá. Nhưng đó là điều gì vậy...
Sáng hôm sau, anh theo chú Tư Râu lên rẫy. Những hàng xoài đứng thành hàng, đều tăm tắp như những người lính già toả bóng xum xê. Xoài rẫy ra hoa muộn hơn xoài vườn. Thái giúp chú Tư Râu cưa bớt những cành thấp nhỏ. Đó là một cách làm cỏ xoài, chuẩn bị cho mùa hoa. Anh mải mê làm, mồ hôi túa ra, thở phì phò như kéo bễ. Tuy vậy trong anh dâng lên một cảm giác vừa dễ chịu, vừa thanh thản. Được vài chục gốc xoài thì mệt lử. Thái ôm lá chất thành đống lớn rồi nằm lăn ra trên cái nệm gây gây mùi nhựa cây đó. Những tia nắng mai lọc qua tán cây, nhẹ mảnh như những sợi tơ giăng. Ngự trị lên tất thảy là một sự thinh lặng mênh mông, vĩnh cửu. Thái cảm thấy cơ thể mình như đang từ từ rã ra, đang dần dần hoà tan vào vô biên, rồi anh chìm sâu vào một giấc ngủ nhẹ nhõm. Một giấc ngủ thần tiên chưa bao giờ anh trải qua trong đời.
Thái mơ thấy Quyên. Em mặc chiếc áo vàng nhạt như hoa cải. Họ cùng đi, tay trong tay, đi mãi. Tay em nhỏ nhắn và nóng ấm. Vòm xoài xanh trên đầu, những gốc xoài già đều tăm tắp như một hàng rào kéo dài đến vô tận. Gió mơn man, tiếng cười của em trong trẻo. Hương xoài thơm ngọt quyện với hương tóc thơm nồng quấn quýt quanh anh.
Thốt nhiên Thái thức giấc, ngơ ngác nhìn quanh. Anh cố nhớ về gương mặt Thuỷ nhưng đó là một sự cố gắng vô vọng. Nhập nhoà trong anh hình ảnh Quyên, chiếc áo vàng hoa cải, tóc xoã xuống vai. Em đang nhìn anh, mỉm cười. Thái xoè hai tay ra trân trân nhìn. Anh vừa nắm tay Quyên, cảm giác mềm ấm của bàn tay nhỏ nhắn dường như vẫn còn.
Buổi trưa, Thái và chú Tư Râu đang ăn cơm thì nhân viên bưu điện mang đến một bức điện. "Chắc con Thuỷ nó nhớ mày, nó muốn điệu mày về rồi đó", chú Tư Râu đủng đỉnh nói. Đúng là bức điện của Thuỷ: "Ba sắp ra bộ họp ba ngày. Anh sẽ đi với cụ. 6 giờ chiều nay, xe sẽ qua đón anh về. Em đợi anh ở nhà hàng Lạc Cảnh lúc 8 giờ kém 15. Thuỷ".
Thuỷ là vậy, bao giờ cũng rõ ràng, có kế hoạch, nhìn xa trông rộng. Sự chần chừ, những ý nghĩ vẩn vơ đối với Thuỷ đều xa lạ, phù phiếm.
° ° °
Quyên đang ngồi nướng bánh tráng cho mẹ bán trong một cái quán nhỏ ở trước nhà. Chồng bánh vàng ruộm, phồng rộp, thơm phưng phức cứ cao dần. Vừa chăm chú lật qua lật về những chiếc bánh trên lò than em vừa hỏi:
- Mấy giờ xe đến đón anh?
- Gần một giờ nữa.
Phía bên kia đường, những vườn xoài chập chùng chạy dọc theo con lộ lớn. Miên man một màu vàng ươm của hoa xoài. Nắng chiều nhạt dần trên các tán lá. Chỉ nghe tiếng rì rào của vườn xoài, tiếng lách tách của bếp than và tiếng rù rì của một con ong bay lạc.
Một giờ nữa, anh sẽ lên xe. Sau một giờ trên chiếc xe máy lạnh 8 chỗ ngồi của ba Thuỷ, anh sẽ về đến thành phố. Nhà hàng Lạc Cảnh sẽ đón anh bằng món thịt bò nướng trứ danh toả khói mù mịt. Cả biển người ồn ào, tiếng khui bia, tiếng đập đá, tiếng cười nói, tiếng dzô... dzô... trăm phần trăm... Thuỷ sẽ dặn dò anh như dặn dò một đứa trẻ lần đầu tiên đến trường. Ra Hà Nội phải cẩn thận thế nào, sẽ phải hầu chuyện những ai, quà cáp đến những đâu... Nhất cử nhất động phải được tính toán trước, sẽ hối không kịp nếu có điều gì sơ sẩy.
Chồng bánh tráng đã quạt xong, Quyên mang đến đặt trước anh mấy chiếc, còn lại, em cho tất cả vào một cái túi nilon cỡ lớn. Quyên ngồi bó gối trước mặt anh, nói:
- Anh ăn đi, và thử nói xem ba ngày ở cái xứ xoài này anh đã làm được gì nào?
Bánh tráng nóng hổi, thơm giòn trên tay. Thái bẻ từng miếng nhỏ bỏ vào miệng. Miếng bánh giòn tan, thơm ngậy. Vị ngọt thơm cứ còn mãi. Anh nói:
- Làm được hai việc lớn: Phụ chú Tư Râu làm cỏ xoài và đọc nát cuốn Tom Xoyơ. Cuốn sách càng đọc càng thấy tuyệt. Chuyện cả trăm năm trước, lại viết về mấy đứa nhỏ bên Mỹ mà đọc lên cứ tưởng chuyện của bạn bè mình thời thơ ấu.
Quyên cười nhỏ:
- Chỉ tiếc một điều là trong đó không có chuyện ăn trộm xoài hay chọi dế.
Thái chợt sôi nổi, nói:
- Anh quyết phải viết cho được một cuốn sách cho thiếu nhi. Một vùng quê, những con đom đóm, lũ dế và một đám trẻ con. Sẽ không nhìn thấy tivi, không có những tập truyện tranh nước ngoài dài bất tận, không có trò chơi điện tử... Em tặng anh một cái tên nhé?
- Tên...
- Một cậu bé lối mười một mười hai, nghịch ngợm như Tom Xoyơ.
Quyên thoáng ngần ngừ:
- Em tặng anh một cái tên, nhưng anh phải hứa là chỉ khi nào bắt tay vào viết thì mới được giở ra.
- Anh hứa.
Thái đưa cho em cuốn sổ tay, Quyên mở sổ hý hoáy ghi vào đó rồi chạy vào nhà lấy keo dán cẩn thận niêm phong lại.
° ° °
Sau nhà hàng Lạc Cảnh là một chuyến công du ra Hà Nội. Thái thực hiện xuất sắc vai trò của người trợ lý, tháp tùng bố vợ tương lai đi du ngoạn và đặt các mối bang giao cần thiết cho bước đường danh vọng sau này.
Dòng đời cứ thế tuôn chảy. Mấy năm sau, trong một đêm mất ngủ, mắt chong chong nhìn vào đêm tối, anh chợt ngồi bật dậy, mò tìm lại cuốn sổ tay cũ; tìm đến toát mồ hôi, lục tung cả chồng sách vở, báo chí mà không thấy. Sau một hồi lâu, anh mới thấy nó nằm trong một ngăn kéo dăng đầy mạng nhện.
Một thoáng ngần ngừ, Thái mở trang vở có dấu niêm phong của Quyên. Trên trang giấy, nguệch ngoạc bức ký hoạ một cậu bé mặc chiếc quần cộc, áo hở rốn, cười toe toét. Lơ thơ mấy sợi tóc trên đầu. Có một hàng chữ nhỏ mềm mại ở dưới: Chân dung hiệp sĩ Ngàn Lau. Từ trang giấy toả ra một mùi hương dịu nhẹ như có như không. Mùi hương có vị ngọt như hương hoa xoài, lại thoảng vị nồng ấm của hương tóc.
Thái lặng đi, tê dại. Ký ức cũ hiện về rõ mồn một. Lần đó, anh tham gia một chuyến du khảo do Thành đoàn tổ chức. Đến nơi cắm trại, anh men theo một con suối, lang thang đi một mình. Dưới chân một con thác nhỏ, anh bắt gặp một cô sinh viên. Thái hỏi:
- Này em bé, thác tên gì?
Cô bé hơi nheo mắt nhìn anh:
- Thứ nhất, tôi không còn là em bé, tôi chỉ học sau anh một khoá thôi, thứ hai, tên thác được đặt theo tên suối.
Thái cười xoà:
- Vậy suối tên gì?
- Suối mang tên núi.
- Chẳng lẽ núi còn mang tên một người anh hùng, một trận đánh?
- Không, núi có tên là Ngàn Lau, anh xem kìa.
Theo tay em chỉ, Thái nhìn xuống triền núi. Bạt ngàn lau trắng như mây. Vẻ hoang sơ, hùng vĩ của rừng núi khiến anh ngơ ngẩn. Lúc quay lại thì em biến đâu mất. Buổi tối, khi đốt lửa trại, Thái tìm đến anh trưởng đoàn, thao thao bất tuyệt về căn cứ địa Ngàn Lau. Vị trưởng đoàn nhìn Thái như nhìn một sinh vật kỳ dị. Anh ta kêu lên: "Này, cậu đang khoác lác về cái gì đó?". Hoá ra núi có một tên khác, suối có một tên khác và tên thác lại khác nữa. Thái hậm hực lao bổ ra ngoài đi tìm em...

Gấp lại cuốn sổ tay, đặt lên giá sách, Thái thầm thì: "Nhưng giá như đêm đó tôi không gặp em..."
Nguyễn Hoa Lư