Xuân về!
Những mầm cây cựa mình
run rẩy. Gió thổi hiu hiu, dịu dàng, vuốt ve chiều chuộng. Mưa bay rất
khẽ, từng hạt bụi sương lướt nhẹ qua đầu. Cây đào trơ trụi suốt mùa đông
giá lạnh, cái cành khẳng khiu trồi mấu rồi nhú lên vài mầm xanh bên nụ
hoa màu hồng nhỏ xíu. Không gian rộn ràng hơn khi bầy chim về hót. Trên
sườn núi áo váy được giặt phơi nhìn giống những cánh bướm sặc sỡ nhiều
màu sắc đang xập xoè bay lượn. Vài nhà đã thịt lợn tết, họ mời xóm làng
đến ăn một bữa thật vui, số còn lại được treo gác bếp để ăn dần.
Cứ
sau mùa vụ, khi những bắp ngô đã về nằm trên gác, công việc nương rẫy
đã cạn là lúc người Mông ăn tết. Tết của người Mông mỗi nơi một khác,
kéo dài từ đầu tháng chạp đến sau tết. Có nơi ăn tết lần lượt theo họ,
có nơi ăn tết lần lượt theo các gia đình trong họ.
Tết của người
Mông là một ngày hội, những cuộc chơi, những buổi hẹn hò. Người già nhớ
về một thời trai trẻ, hướng về tổ tiên dòng họ. Người trẻ kiếm tìm tương
lai, hướng tới một ngày mai tốt đẹp hơn, khát khao một tình yêu lớn,
một cuộc sống vẹn nguyên hai chữ hạnh phúc.
Lễ hội năm nay nghe
đâu khác hẳn với mọi năm, lần đầu tiên Uỷ ban xã đứng ra tổ chức, các
trò chơi như đánh yến, đánh cù, ném pao,... mọi năm chỉ là trò bày ra
chơi cho vui năm nay còn có giải thưởng đem về nữa. Các điệu múa, bài
khèn, lời hát giao duyên,... là tiết mục để các xóm đua tài với nhau...
Sình
rủ tôi đi huyện chơi, nghe nói có đoàn nghệ thuật ở dưới xuôi lên biểu
diễn mấy ngày. Bọn thằng Sèo rủ tôi đi khám phá phía trong khoảng tối
của Thác Tiên. Thằng nào cũng nói những lời hay lời ngọt để tôi đi cùng.
Tôi chưa biết phải từ chối chúng như thế nào. Bố tôi đang ốm nằm trong
nhà, mẹ tôi đến giúp bà ngoại tôi dọn sang ngôi nhà mới, tôi không thể
đi đâu lúc này.
Bọn chúng ra về với sự thất vọng hiện rõ trên nét
mặt, "Sẽ còn rất nhiều dịp khác để cả bọn cùng đi chơi", tôi nói vậy
không đứa nào nói thêm nữa, chúng đã hiểu được lý do. Bọn chúng đi rồi
tự nhiên nỗi buồn không biết từ đâu kéo đến xâm chiếm lòng tôi.
*
Buổi
học cuối cùng của năm cũ hơi ồn ào, chẳng có mấy đứa để tâm đến bài vở,
chúng đang nghĩ tới những ngày vui sắp tới. Cô giáo hôm nay dễ tính
không kỷ luật những đứa lắm lời. Thời gian chậm chạp trôi.
Ra
chơi, tôi tha thẩn một mình đi về phía hàng cây cuối sân trường, mùi
thơm từ hoa lá thoảng bay nhè nhẹ. Một cơn mưa mỏng chợt đến, chợt đi
rất nhanh làm tôi vừa kịp nhận ra đã vội tan biến giữa đất trời. Một cơn
gió tràn tới, mùi rượu ngô nhà ai đang cất toả bay ngào ngạt. Thằng
Sình vỗ vào vai làm tôi giật mình, đúng lúc đó thằng Sùng ào đến, trống
báo vào lớp.
Cô giáo dặn dò cẩn thận lũ học trò trước khi nghỉ
tết. Gớm, sao mà chúng nó ngoan thế, đứa nào cũng luôn mồm "vâng ạ!". Và
tôi dám chắc rằng những đứa to mồm nhất kia là những đứa chóng quên
nhất. Vừa nghe cô nói xong chúng đã quên mất gần nửa, ra đến cửa lớp
chúng chẳng còn nhớ gì nữa.
Trống tan trường. Vỡ oà sự náo động,
rồi nhanh chóng tan về khắp nẻo, sân trường lại yên vắng một mình. Ngôi
trường buồn lặng lẽ. Mưa bụi lất phất bay từng lớp nối đuôi nhau là là
trên mặt đất. Tôi lững thững đi về nhà, lòng cô đơn đến lạ. Mưa dày hơn.
Gió lạnh nghiêng nghiêng thổi. Con đường loang loáng ướt.
*
Chiều.
Trời
không mưa nhưng xám ngoét. Gió thổi vẫn đầy hơi lạnh. Cây đào đã bung
vài cánh hoa. Cái màu hồng mỏng manh ấy đang run lên trước cơn gió lạnh.
Vẫn còn vô khối cành khẳng khiu mới trồi lên những mấu. Còn hai chiếc
lá không biết có phải từ xuân trước đang cố bấu víu vào cái cành đã già
nua cằn cỗi, mỗi đợt gió thổi lại bạt đi, chỉ mạnh chút xíu nữa thôi sẽ
lìa cành. Những chồi non mơn mởn đầy sức sống đang xoè ra ngay cạnh đó.
- Mơ mộng quá!
Tôi
quay lại gặp ánh mắt thằng Sùng, cái nhìn của nó có gì là lạ. Tôi chưa
kịp hỏi câu nào thì nhìn thấy cô giáo và thằng Sình đang đi vào vào từ
đầu ngõ. Tôi vội trở về và mời cô giáo vào nhà. Cô đặt gói quà lên bàn.
Bố tôi ngồi nhỏm dậy.
- Cảm ơn cô giáo đã đến nhà, mang quà làm gì, chỉ cần đến chơi thôi...
Cô giáo vội nói:
- Nghe tin anh ốm, em tới thăm. Anh đã đỡ tí nào chưa ạ?
- Đỡ rồi! - Bố nói. - Khỏi đến nơi rồi ấy chứ, cái thuốc của y sĩ Kiên tốt thật đấy.
Mẹ
tôi đi lấy rau về thấy cô giáo đến chơi, vui quá bỏ bó ngồng cải ngoài
cửa vào nhà ngồi nói chuyện. Câu chuyện kéo dài từ chuyện chồng con của
cô giáo đến chuyện làm nương, dựng nhà, lễ hội ,bánh trái, bếp núc, tết
nhất,... Không ngờ cô giáo là người Kinh mà lại biết nhiều về phong tục
của người Mông đến thế. Bố mẹ tôi nói chuyện với cô giáo nổ giòn như
rang ngô trên bếp...
- Chơ ơi, về đây cô bảo.
Bỗng cô giáo gọi tôi lại gần.
-
Thấy em thích đọc sách cô cho mượn cuốn này, đọc hay lắm, tri thức nhân
loại phần nhiều đến từ sách vở, thích đọc sách là một điều tốt.
- Dạ. Em cám ơn cô ạ!
Tôi
đáp rồi đón lấy quyển sách từ tay cô. Lần đầu tiên tôi được cầm trong
tay một quyển sách dày và đẹp đến vậy. Sùng và Sình ngồi sát lại bên
cạnh. Tôi đặt cuốn sách lên đùi, hàng chữ mạ vàng trên nền bìa màu nâu:
"Truyện cổ các dân tộc Việt Nam". Sùng đưa tay rờ lên mặt chữ.
- Đẹp thật đấy! - Nó suýt xoa. - Lúc nẫy thấy cô giáo cầm tao cứ tưởng là hộp bánh, sao nhìn thấy giống thế.
- Mày thì suốt ngày nghĩ đến ăn. - Sình nói.
- Dễ mày không ăn mà sống được chắc. - Sùng cãi lại.
Mẹ
bảo chúng tôi đem sách ra ngoài hè, trời sáng dễ xem hơn. Cả ba thằng
chạy tót ra sân. Chúng tôi ngồi chụm đầu lại đọc. Một thế giới đầy mầu
sắc huyền thoại hiện ra, cái thiện luôn thắng cái ác dù trong cuộc đấu
tranh sinh tồn ấy nó luôn phải chịu muôn vàn khổ cực. Cuối cùng cái
thiện cũng đến được thiên đường hạnh phúc.
Bất giác tôi thấy câu
chuyện vừa đọc có cái gì đó giống với thời tiết lúc này đến thế, mùa
đông héo úa dẫu có dài dằng dặc rồi cũng phải đi qua để mùa xuân tràn
về, cây cối cằn cỗi rồi cũng đến ngày đâm chồi nảy nở những mầm xanh./.
ST
Vì sao lạc,
Sao lung linh huyền ảo,
Trong thời khắc đón Xuân...
Chợt thấy hồn thanh thản,
Dưới trời sao thênh thang
NM
"Cuối năm... gặp Mim!"
Có người như mình. Về ăn Tết
muộn. Lại đi một mình. Có vấn đề đây. Tránh ra không dây dưa - Tôi tự
nhủ khi thấy bóng một cô gái ở chỗ đón xe dù đi Huế.
- Bạn đi mô ? - Một giọng Huế cất lên.
- Truồi - tôi đáp
Kinh nghiệm của một thằng bần hàn chảy trong huyết quản cho tôi biết
cô ta cũng dạng rách như mình. Tôi có hai lời nguyền từ thuở bán cả máu
để lết vô giảng đường đại học - Không lấy vợ sớm. Không lấy vợ nghèo.
Kết hợp hai cái nghèo ra cái mạt. Tốt hơn là tránh từ xa. - Truồi có dâu ngọt lắm!
- Ừ.
- Bạn là sinh viên?
- Ừ.
- Trường mô?
- Bách khoa.
- Khoa mô?
- Hỏi chi kỹ rứa? - Tôi khó chịu ra mặt.
Thấy cái vẻ khó ưa của tôi, cô ta bĩu môi quay lưng .Nghĩ mình cũng mất lịch sự, tôi hỏi cho có chuyện:
- Học trường mô ?
- Bách khoa - Ngành cơ khí - Cô ta khinh khỉnh đáp.
Ôi mẹ ơi! Con gái! Tôi đã nê nể nhưng vẫn hoài nghi :
- Sao không gặp?
- Mới dứt sữa phổ thông mấy tháng.
- Hèn chi... giọng Hoa Học Trò !
- Còn hơn giọng cụ non - Cô ta trả miếng...
Tôi lén nhìn cô ta. Tóc dài. Suôn mượt. Đen tự nhiên. Không nhuộm.
Không duỗi. Giờ của ấy thuộc loại quý hiếm. Mái tóc “nhà quê” ấy ưa nhìn
thật, cứ muốn “sờ” bằng mắt! Vũ khí hủy diệt của cô ta chính là bộ lông
mày đậm như mực tàu trên đôi mắt to và sáng. Đúng là “nét xuân sơn” cụ
Nguyễn Du tả. Nhưng xách hành lý cũ mèm, áo quần tầm tầm, chắc hàng
sida!
Một chiếc xe đò trờ tới. Cô ta vẫy tay rối rít. Tôi cũng vẫy. Lơ xe hỏi:
- Đi mô?
- Huế. Còn chỗ không?
- Khối! Đưa xách đây! - Anh lơ bảo cô gái. Nhưng cô ta không đưa, ôm khư khư vào lòng
- Mấy? - Tôi cảnh giác.
Hắn xòe một ngón.
- Chém ác rứa! Sinh viên mà! - Tôi nhăn mặt.
- Bước lên hay đợi xuống ẳm? - Tên lơ gầm gừ.
Líu ríu lên xe. Ghế ken kín, thiếu đường ngồi chồng lên nhau. Thằng
lơ lấy một miếng ván bắc cầu giữa hai dãy ghế bảo cô ta ngồi còn tôi hắn
để mặc. Tôi phải lấy cái xách bỏ xuống sàn xe làm ghế. Chưa ấm chỗ hắn
đã đập thùng xe cho bác tài thắng gấp và cố nhét một người đàn ông nữa
vào chỗ cô ta.
- Gãy ván! - Cô ta càu nhàu
- Gãy biết ngay. Chật mới ấm. Thích chết còn vờ!
Thằng lơ mất dạy nhe răng cười. Hắn bắt đầu thu tiền, vừa văng tục
vừa dọa tống cổ xuống xe hành khách nào dám kèo nài thêm bớt.
Tôi quên ngay cô ta và bắt đầu nghĩ đến anh tôi. Anh viết thư ra lệnh
năm nay tôi phải về ăn tết, với lại mừng anh đã có tiệm sửa xe. Bốn năm
học xa nhà tôi chỉ về tết có hai lần. Tôi tận dụng từng mẩu thời gian
để kiếm tiền ăn học. Đồng tiền đối với tôi to lắm. Không to sao được khi
đến ba cuộc đời góp lại để làm nên một thằng sinh viên. Người ta sinh
ra bị nhốt trong cái cơ thể mình không hề chọn lựa, trong một gia đình
cũng không thể chọn nốt. Tôi ghét nhất câu “ở hiền gặp lành”. Gia đình
tôi đều là người hiền lành thế mà họ gặp toàn điều dữ. Cha tôi chết vì
kiệt sức, thổ huyết. Mẹ tôi bị sét đánh giữa đồng. Anh cả tôi liệt hai
chân từ nhỏ. Vốn nung nấu ý chí kiếm sống bằng chính thân thể tật nguyền
của mình, anh kiên trì học nghề sửa xe đạp, Honda. Khi được tin mẹ mất
anh đang ngồi sửa xe ở tiệm chủ. Dầu mỡ trộn với nước mắt nhòe nhoẹt.
Khi ấy tôi đang học lớp 10. Anh không cho nghỉ học. Anh bảo anh và thằng
em út học không vô sẽ hành nghề sửa xe nuôi tôi học tiếp. Hai thợ nuôi
một thầy. Nghĩ đến cảnh người tật nuôi người lành, em nuôi anh trái
khoáy nên tôi vừa học vừa làm đủ mọi thứ kiếm tiền. Bản năng kiếm sống,
khát vọng thoát đói nghèo rượt đuổi tôi khắp mọi nơi, mọi lúc. Tôi đọc
ngấu nghiến những bài viết nói về những con người thành đạt từng có một
quãng đời bất hạnh, nghèo khó để động viên và mơ mộng. Tôi lao vào học
như điên để ra trường xếp loại giỏi. Không thế, không tiền, không giỏi
sẽ không có việc làm.
Tiếng còi ầm ĩ cắt ngang dòng hồi tưởng của tôi. Hộp thịt di động bắt
đầu lên cơn. Lồng lên. Vượt phải. Lấn trái. Không nhường xe nào. Những
cú xỏ chỉ làm tim mọi người như ngưng đập. Bàn tay cô ta bấu vào vai tôi
trong nỗi sợ hãi điếng người khi những mũi xe ngược chiều cứ như đâm
thẳng vào mình. “Trả tiền để về quê ăn tết chứ không phải để chết dọc
đường” - một hành khách la lên. Rồi nhiều người phụ họa. “Chết biết
liền. Giờ này mà đủng đỉnh có nước tết ăn cứt!”. Đó là câu nói duy nhất
bác tài liều lĩnh bặm trợn cất lên.
“Oẹ... oẹ...”. một thứ nước có mùi kinh hãi văng bắn vào quần tôi.
Thì ra cô bạn đồng hành đang nôn thốc nôn tháo khi xe qua đèo. “Đi xe
không được sao không đi tàu? Người ta có một cái quần đàng hoàng...”.
Nhưng câu ấy chưa kịp vọt ra khỏi miệng thì tôi níu lại. Cô ta tóc tai
rũ rượi tái xanh tái xám ngó thật đáng thương. Tôi lấy khăn mu xoa lau
quần bắt gặp chai dầu Nhị cồm cộm trong túi lấy đưa cho cô ta. Cô ta
không cám ơn còn đưa cái bì ni lông vừa nôn cho tôi quẳng qua cửa sổ .
- Dân cơ khí chi mà không chịu nổi mùi xăng dầu.
Có mẩu đèo còn rứa... - Tôi chọc quê.
- Rứa mới luyện.
Qua hết đèo cô ta tỉnh như sáo và bắt đầu hỏi đủ thứ. Dẫu sao tôi
cũng có dịp cho cô ta biết sự “uyên bác” của mình về mấy thứ hoa dại
linh tinh dọc đường, về “thiên hạ đệ nhất hùng quan” vua Lê phong tặng
khi dừng ở Hải Vân quan trên đường đi đánh Chiêm Thành, về những con thú
rừng tôi biết nhờ một thời theo cha đi kiếm củi. Cô ta nghe say sưa
quên ói. Tôi cũng nói say sưa, suýt quên xuống Truồi. Khi sực nhớ cái
chòi sửa xe gần chợ anh tôi khoe trong thư, tôi gọi thằng lơ xe:
- Cho xuống Truồi!
Quay qua cô bạn đồng hành, tôi vỗ vào cái xách cô ta từ biệt:
- Bye nghe!
- Meo...meo... - cái xách trả lời .
Tôi ngơ ngác. Cô ta hoảng hốt ôm chặt cái xách vào lòng. Tiếng
meo... meo... phát ra từ đó càng lúc càng to. Bác tài quay lui quát
thằng lơ:
- Mi hại ông rồi! Có mèo trong xe! Tống xuống
Xui lắm!
- Mèo mô? - Thằng lơ hùng hổ tiến tới.
Cô ta mếu máo nhìn cái xách:
- Tau cho mi uống thuốc ngủ cả viên rồi răng
không tới nhà rồi dậy. Chừ mần răng?
- Tống con mèo xuống! - bác tài giục.
- Thả con mèo xuống! - Thằng lơ ra lệnh. Hắn xông tới định giật cái
xách có con mèo. Cô ta càng ôm chặt cứng. Con mèo không ngớt meo meo. Cô
ta nhìn tôi cầu cứu. Dưới “nét xuân sơn“ bây giờ là “làn thu thủy” thực
sự. Tèm nhem nước mắt!
- Quẳng con mèo xuống! - Tôi khuyên nhưng cô ta lắc đầu.
- Không chịu thả thì xuống luôn đi! - thằng lơ đậ
cửa cho xe ngừng rồi kéo cô ta xuống.
- Đồ vô hậu! - Cô ta giận dữ.
Xe chạy. Cô ta ôm cái xách có con mèo đứng bơ vơ giữa đường cái quan trong bóng chiều chạng vạng.
Dẫu sao cũng tại tôi vỗ vào cái xách mà con mèo thức dậy. Tôi chậc lưỡi rồi gọi:
- Cho xuống !
Tôi nhảy xuống, đi tới. Cô ta lau nước mắt, mừng khôn xiết.
- Ai bảo đem mèo cho phiền.
- Người ta quẳng em nhặt về cho mẹ. Nó được sống. Mẹ đỡ buồn. Nhà đỡ chuột. Nhà chỉ hai mẹ con chứ mấy!
- Cô định lên Huế bằng cách nào?
- Đón xe đi nhờ.
- Không sợ như cái cô nữ sinh báo đăng hả?
Cô ta không đọc báo. Khi nghe tôi kể chuyện cô học trò đi xe đò về
quê, xe hư dọc đường xin quá giang xe tải bị hiếp tập thể, cô ta sợ tái
mặt.
- Chừ răng?
- Tui không biết.
Tôi bước. Cô ta lẽo đẽo theo.
- Không sợ tui hiếp hả? - Bỗng dưng tôi nổi cáu
Cuối năm rước nợ vào
thân. Cô ta nghe tôi quát giật mình lùi lại rồi ôm túi lủi thủi theo
tôi. Cứ thế đến chợ Truồi. Tôi nhận ra tiệm sửa xe anh tôi tả trong thư.
Đó là một cái chòi thì đúng hơn. Mấy thước đất che tạm bợ mấy tấm tôn
ven đường. Chiều 28 Tết, anh vẫn chưa dọn “tiệm”. Hai anh em vẫn cặm cụi
sửa xe. Thấy tôi, anh quẳng đồ nghề, chùi tay vào áo, líu lưỡi vì mừng:
- Ui chao ! Về... rồi! Về... rồi!
Thằng em út nhảy tưng tưng. Mặt hắn lem luốc như ông ẹ. Chỉ có tôi
sạch sẽ trắng trẻo. Cô ta đang đứng sau lưng nhìn cảnh anh em tôi trùng
phùng.
- Ai rứa ? - Anh hỏi.
Tôi kể vắn tắt cho anh nghe.
- Tối rồi xe mô mà lên Huế? Tối ni đành ở lại thôi. Đợi anh sửa nốt
cho xong cái này rồi về. Người ta lấy cho kịp Tết - Anh ra lệnh.
Anh lết 2 cẳng chân cong queo như cây sậy đến bên chiếc xe đạp sửa dở
dang. Tôi muốn giúp anh nhưng loay hoay chẳng biết làm gì. Còn cô ta
không nói không rằng tìm sợi dây cột mèo lại rồi cầm cái ruột xe đang vá
dở vá tiếp. Anh tôi ngẩn người khi thấy cô ta thao tác thành thạo.
- Nhà không có đàn ông, em làm hết - vá xe, vá tôn, sửa điện, sửa nước... - Chặp quen! - Cô ta cười giải thích.
Tối ấy mái tranh nghèo khó có kẻ lạ. Chỉ thằng em lăn ra ngủ. Anh tôi
và tôi thức nói chuyện nhường cái giường duy nhất cho cô ta nằm. Cô ta
ngọ nguậy hoài. Cả con mèo cũng thao thức vì lũ chuột. Khi anh tôi mệt
mỏi ngủ thiếp trên ghế, tôi ra hiên ngồi. Đêm quê yên ắng nhưng nỗi buồn
cũ cứ quẫy cựa trong lòng. Tôi nhớ hồi còn sống mẹ ước giá nhà mình có
một lần nấu bánh tét cuối năm. Ước mơ nhỏ nhoi ấy đến giờ vẫn chưa thực
hiện...
- Anh không ngủ à? - Cô ta bồng con mèo ngồi xuống cạnh tôi.
- Lạ nhà không ngủ được phải không?
- Em lo không thấy em về, mạ em...
- Gọi điện đi !
- Chưa sắm dế. Anh cũng không có à?
- Có mà hết tiền. Nghèo gặp mạt - Tôi lầm bầm trong họng.
- Anh nói chi?
- Mai tui mượn xe chở lên Huế sớm.
- Để em đi xe thồ cũng được.
- Con gái đi rứa... không an toàn. Chớ tin người quá. Gặp người khác là cô toi!
- Anh hay lo như ông cụ! Mẹ em nói em như cọng rau muống. Vô tâm. Ở đây sướng ghê! Đêm ngủ không cần đóng cửa.
- Nhà nghèo có chi mà đóng?
- Có êm ấm, người ta lấy trộm uổng lắm!
- Răng về muộn rứa?
- Vì con mèo.
- Mèo... mèo... mèo xui lắm!
- Hên thì có. Được quen cụ... Được ở khách sạn ngàn sao. Này, em cũng
là mèo đấy. Mẹ gọi em là Mim, gọi chệch miu đấy mà! Anh có ghét mèo
không? Gặp mèo thấy xui không?
- Xui.
Thấy lặng im, ngó qua đã thấy cô ta nghẹo đầu ngủ. Không nỡ lay cô ta
dậy, tôi ngồi im không dám cựa quậy. Muỗi vo ve. Tôi nhè nhẹ đuổi. Bầu
trời cuối năm đen nhưng nhức và lấp lánh sao. Chưa bao giờ tôi thấy sao
lung linh huyền ảo đến thế. Có lẽ vì tôi chưa bao giờ thức một đêm ở quê
với tâm hồn thanh thản. Bỗng dưng trong đầu óc khô cằn mụ mẫm vì cơm áo
của tôi hiện lên hình ảnh lãng mạn của anh chăn cừu và cô chủ nhỏ trong
một đêm đầy sao trên núi cao trong cái truyện tôi đọc ở thư viện (1).
Trên vai tôi nằng nặng một vì sao lạc.