Nhật Chinh
(Kính dâng lên hương hồn ba tôi)
Phần 1
Đang đi chợ VN ở Orange County với bà xã tự nhiên thèm một chén canh rau dền, tôi bèn
đẩy xe đi kiếm rau. Rau mồng tơi, mướp khía thì có. Rau dền hôm nay
kiếm không ra. Thường thì ở chợ hay bán loại rau dền tím, cọng dài, lá
lớn, bó lại thành từng bó, nhưng hôm nay thì không thấy. Kiếm một hồi,
tôi mới để ý thấy có mấy bọc rau lặt sẵn giống như đọt đậu, nhưng nhìn
kỹ thì không phải. Lật qua lật lại, coi tới coi lui một hồi, tôi chợt
reo lên:
– Rau dền cơm!
– Sao giống đọt đậu quá vậy? …..
Nhưng tôi không còn nghe tiếng bà xã tôi nói nữa. Nãy giờ thấy cá
linh, cá lòng tong đông lạnh từ VN qua, rồi bây giờ thấy đọt rau dền
cơm, tự nhiên hình ảnh thời thơ ấu lại hiện về.
Phần 2
Lúc đó tôi còn nhỏ lắm, khoảng năm 1959. Gia đình ở dưới quê Tịnh
Thới, Cao Lãnh. Ngay sau mùa nước nổi, ba tôi lên Sài Gòn để thi tú tài 2
thì bị công an bắt, ngay tại bến xe Phú Lâm. Cô năm Cam, người cô họ đi
chung chuyến xe đò Huê Mỹ với ba tôi sáng hôm đó lật đật đón chuyến xe
chiều ngược về báo cho mẹ tôi hay. Mẹ tôi tay chân rụng rời, mặt xanh
như tàu lá chuối.
– Làm sao bây giờ chị năm? Mà tại sao họ lại bắt ảnh vậy?
Cô năm kề tai mẹ tôi nói nhỏ:
– Hồi xưa nó theo Việt Minh mà bây giờ không chịu tập kết ra Bắc. Chắc là họ nghi nó nằm vùng!
Mẹ tôi chắc không nghe thấy gì, đứng nhìn trân trân ra trước sân nhà
lúc trời đã sẩm tối. Từ lúc hai người lấy nhau tới giờ, mọi chuyện quan
trọng đều có ba tôi lo. Mẹ tôi chỉ bếp núc nuôi con, không phải lo toan
chuyện tiền nong thóc lúa. Nhà lại ở vùng quê hẻo lánh, cộng sản quốc
gia bắt đầu lộn xộn, phải có người đàn ông trong nhà, mà bây giờ một
thân một mình với hai đứa con thơ làm sao xoay sở.
– Có con tiếp, mợ ba đừng lo.
Nghe chị Phi, chị giúp việc nhà, lên tiếng, mẹ tôi mới hoàn hồn. Chị
là người Miên, nước da đen đúa, tay chân vạm vỡ như đàn ông nhưng tính
tình trung hậu, giúp đỡ ba mẹ tôi rất nhiều. Tối hôm đó mẹ con tôi sợ
lắm. Lần đầu tiên trong đời không có ba bên cạnh nên động tịnh gì ai nấy
cũng đều giựt mình. Sợ nhất là khi có tiếng chó sủa hay gà vịt nhốn
nháo dưới sàn nhà, mà ngoài trời thì tối đen như mực. Chị Phi thì thản
nhiên ngủ ngáy khò khò.
Mấy hôm đầu cá mắm có bà con tiếp giúp. Gạo thì mẹ tôi không lo vì
dưới quê nhà nào cũng có một bồ lúa đủ ăn quanh năm. Mẹ tôi chỉ không
dám đi chợ hay mua sắm gì hết, ráng dành dụm tiền bạc để tìm manh mối
chạy lo cho ba tôi. Mà người ta cũng giấu, đâu có cho mẹ tôi biết tin
tức gì. Chỉ có ông ba Dần, bạn ba tôi, người có thế lực trên tỉnh là có
thể lên Sài Gòn dò la tin tức. Nghe ông kể lại là ba tôi không bị đánh,
ngoài ra thì ông không biết gì thêm. Mẹ tôi nghe vậy cũng an lòng. Sau
đó thì ngày nào cả nhà cũng giở mắm ra ăn. Mắm sặc, mắm lóc, chuối chát,
đọt xoài trong vườn chấm húp qua ngày. Hai anh em tôi còn nhỏ, ăn riết
ngán gần chết không muốn ăn cơm nữa.
Tháng 6 trời mưa, nước lên trắng đồng. Đến tháng 9 tháng 10 thì nước
giựt. Con nước sổ đồng theo sông chảy xiết ra biển. Một buổi sáng theo
chị Phi xuống con sông nhỏ trước nhà gánh nước, hai chị em thấy màu nước
khác thường. Nguyên một khúc sông lấp lánh bạc. Nhìn kỹ thì thấy cá lội
đặc ngừ.
– Cá linh! Trời ơi! Hùng! Chạy lên nói mợ ba lấy cho chị cái rổ.
Mẹ tôi nghe nói liền xách rổ chạy xuống, quơ theo một lon cám. Cám
vừa rải trên mặt nước là đàn cá bu lại. Lấy rổ nhanh tay xúc một cái là
được gần chục con cá nhảy soi sói. Con nào con nấy vảy bạc lóng lánh,
mập và lớn hơn con cá lòng tong, thứ cá có quanh năm suốt tháng mà không
ai thèm ăn, như câu ca dao con nít hay hát:
Chèo xuồng bán cá lòng tong
Mủi chảy lòng thòng hỏi chẳng ai mua
Mấy con cá linh rất khỏe, nhảy một hồi văng hết ra khỏi rổ. Chị Phi
chạy trở lên nhà lấy cái thúng và cái nắp lu chạy xuống. Hai mợ cháu xúc
cá đổ vô thúng lấy nắp lu đậy lại. Một hồi thấy cái thúng nặng chịch
hai người mới thôi. Hôm đó mẹ tôi một mớ thì kho lạt chan húp, một mớ
thì kho mặn với xả chấm xoài tượng bằm. Cá linh xương mềm, không cần
đánh vảy hay cắt đầu cắt đuôi. Chỉ cần mổ bụng bỏ ruột là nấu ăn được.
Ai thích ăn mật đắng như chị Phi thì có thể để nguyên con nấu như cá
bóng kèo.
Mà đâu phải chỉ có cá linh không. Mấy tháng sinh sôi nảy nở trong
đồng sâu miệt biển hồ hay Đồng Tháp Mười mênh mông nước, rồi tới khi
nước rút đủ thứ cá lần theo con nước ra sông bé sông lớn, như cá lóc, cá
trê, cá he, cá chốt, mè vinh, thác lác, cá rô, cá sặc. Thời đó cá lội
đầy sông, chỉ cần lấy rổ xúc hay kéo vó là có cá. Người dân cũng chống
xuồng vô ruộng đặt ống bắt lươn, chạch lấu, đặt lợp bắt cá trê, cá lóc.
Con nít thì xách nơm lội đồng bắt cá rô. Khi nước ròng người ta xách rổ
lội sình đi cào hến, hay giậm cho cá chạch ngoi ra bắt về kho nghệ. Tối
thì đi soi ếch. Ai có ghe chài thì ra sông quăng chài, hay kéo đáy, đóng
đăng bắt được cá rất nhiều. Một đêm có ghe lớn kéo đáy được cả ngàn vạ
cá linh, bỏ cho mấy vựa cá gài mắm.
Buổi trưa đó chị Phi chống xuồng chở tôi len lỏi ra đồng bắt cua bắt
ốc, giữa đám cò vạc đang tranh nhau bắt cá, con này rượt con kia kêu
quang quác. Cua thì chỉ có cua đồng, nhưng ốc thì có ốc bưu, ốc lác, ốc
đắng, ốc gạo. Tôi không dám bắt cua vì cua đồng kẹp rất đau. Cua lại bơi
nhanh nên con nít như tôi không dễ gì bắt. Xúc cá thì chậm tay không
dính con nào. Cua thì không đụng tới được. Chỉ có bắt ốc là tôi thích
nhất vì nó nằm một chỗ trên ngọn lau cọng cỏ, bám theo rễ lục bình hay
gốc bình bát, trâm bầu. Tôi chỉ gỡ nó ra thảy vô xuồng là xong. Nhìn tôi
mải mê bắt ốc, chị Phi cười nói:
– Từ rày trở đi, hễ có bị đòn thì Hùng nhớ hát, “Má ơi đừng đánh con đau. Để con bắt ốc hái rau má nhờ.” Nghe không? Nhờ được rồi đó!
Chống xuồng về nhà luộc ốc lên, mấy chị em bẻ gai bưởi lể ra chấm nước mắm ăn ngon lành.
Sáng hôm sau, chị Phi xách rổ dẫn tôi xuống sông định xúc cá tiếp thì bác bảy Mừng bên kia sông gọi qua:
– Con Phi qua đây kéo vó nè. Xúc chi cho mệt!
Hai vợ chồng bác bảy Mừng rất tốt bụng. Bác bảy trai chạy xe lôi.
Chúa nhật nào, bác cũng chở gia đình tôi qua chợ đi nhà thờ, bất kể trời
mưa hay trời nắng. Mới mấy hôm trước, con đường 2 cây số từ nhà lên lộ
đá lầy lội quá sức, bác cố gắng kềm chiếc xe nhưng không xuể. Xe trợt
qua trợt lại một hồi rồi quăng cả nhà tôi xuống mương, ai cũng ướt như
chuột lột. Bác áy náy lắm nên lúc nào cũng muốn kiếm cách để đền bù. Mùa
này hai bác bận rộn kéo vó xúc cá linh đem ra chợ bán hay ở nhà làm mắm
để dành ăn.
Hai chị em băng qua cây cầu khỉ xuống bờ sông nhà bác bảy tháo dây
đạp cần vó xuống, rải cám trên mặt nước một hồi rồi đạp cái đuôi cần để
nhấc miệng vó lên. Cái vó khá lớn, lại có cá nên hai chị em nhấc không
nổi. Bác bảy gái phải nhào ra vừa đạp vừa nắm dây kéo tiếp. Cá linh, cá
chốt rất nhiều, nhảy lưng tưng trắng xóa. Tôm tép búng lạch tạch. Chen
lẫn trong đó thêm một mớ cá sặc, lòng tong, lìm kìm. Bác bảy lấy vợt xúc
được cũng gần một thúng vạ. Chị Phi xúc một rổ đầy cá lẫn tôm. Năn nỉ
trả tiền nhưng bác bảy không chịu. Năn nỉ riết cuối cùng bác mới chịu
lấy năm cắc, vì chị Phi cương quyết nằm vạ không về.
Rồi khi ráo sình, mặt đất liền phủ một màu xanh. Tự nhiên ở đâu rau
dền nhú ra rồi lớn lên như thổi. Loại rau dền cơm màu xanh cọng nhỏ
nhưng nấu canh với cua giã nhuyễn hay với tép vừa xúc dưới sông lên
thiệt ngọt. Chung quanh nhà tôi năm đó không hiểu sao mọc toàn loại rau
dền này. Mẹ tôi và chị Phi bận rộn cả ngày với nguồn thức ăn trời cho.
Vui vì có thể tự nuôi con. Buồn vì không biết ba tôi mệnh hệ thế nào,
sống chết ra sao. Chỉ biết thầm cám ơn và vái van trời đất.
Trời nuôi gia đình tôi được khoảng một tháng thì một hôm trong lúc mẹ
tôi hái rau, chị Phi xúc tép, hai anh em tôi ngồi chơi trong chõng thì
chiếc xe thông tin của dượng sáu Thục trờ tới ngừng lại trước cổng.
Đường quê chật hẹp lầy lội, năm thì mười họa mới có chiếc xe hơi chạy
xuống nên con nít hiếu kỳ chạy theo coi đông lắm. Người đầu tiên bước ra
khỏi xe là ba tôi. Mẹ tôi mừng rỡ quăng hết mọi thứ, hét lên “Ba về! Ba
về!” Lật đật dẫn hai anh em tôi chạy ra cho ba tôi bồng, rồi đứng khép
nép một mình nhìn ba tôi khóc sướt mướt mà không dám ôm lấy người chồng
của mình, vì lúc đó cả xóm bà con bu lại đông nghẹt. Dượng sáu đem đồ
trên xe xuống nhiều lắm. Chị Phi và tôi để ý thấy có một cái thùng vuông
vức thiệt ngộ nhưng không biết nó là cái gì.
Chiều lại ăn uống xong xuôi bà con thân quyến lại kéo tới. Ba tôi
thắp sẵn cây đèn dầu ống khói, ngồi trên bộ ván phía trước nhà kể lại
những gì đã xảy ra. Quả thực là họ nghi ba tôi nằm vùng, nhưng ba tôi
nói ba tôi là con đỡ đầu của đức cha Ngô Đình Thục. Do đó họ không dám
đánh để tra khảo nhưng nhốt để điều tra hư thực. Sau khi xác nhận lúc
trước ba tôi chỉ theo Việt Minh chống Pháp chứ không tập kết ra bắc hay ở
lại nằm vùng hoạt động cho cộng sản, có theo học khóa Cần Lao Nhân Vị
trên Đà Lạt, nhờ đậu thủ khoa, lại là người công giáo nên được đức cha
Ngô Đình Thục nhận làm con đỡ đầu, thì họ thả. Ra tù lỡ kỳ thi tú tài 2.
Tiền trong túi hổm nay không xài ba tôi lấy mua cái máy hát, là cái hộp
mà chị Phi và tôi để ý. Về đến Cao Lãnh, ba tôi liền đi báo tin cho ông
trung tá Phát, tỉnh trưởng Cao Lãnh, người bạn công giáo và cùng là Cần
Lao Nhân Vị. Lúc ở Cao Lãnh, ba tôi dạy học có ông che chở, công an mật
vụ không dám bắt. Đợi tới khi ba tôi ra khỏi Cao Lãnh lên Sài Gòn họ
mới thộp cổ. Sau khi nghe nói về tình cảnh dân trong xóm Tịnh Thới, ông
liền kêu xe thông tin chở ba tôi lại trạm y tế lấy thuốc chủng đậu mùa
về “trồng trái” cho bà con.
Sau đó, ba tôi đem cái máy hát dĩa ra mở cho mọi người nghe mấy tuồng
cải lương vọng cổ với hề Minh và Thanh Nga, và mấy vở kịch vui của Trần
Văn Trạch. Vừa nghe tiếng trong máy phát ra hai chị em hết hồn bỏ chạy.
Cha sanh mẹ đẻ tới giờ mới nghe máy hát lần đầu tiên nên hai chị em
tưởng đâu có ai nằm trong đó.
Sáng hôm sau, nhờ xe thông tin của dượng sáu Thục bắt loa kêu gọi, bà
con lối xóm tề tựu lại nhà cho ba tôi trồng trái. Ba tôi cầm cây viết
có ngòi lá tre, hơ lửa trên chiếc đèn hột vịt rồi chấm vô thuốc, kêu chị
Phi lại trước, rạch rạch vài cái trên cánh tay chị đến rướm máu cho
thuốc thấm. Chị không sợ nhưng thắc mắc hỏi ba tôi:
– Rồi nó trổ ra trái gì vậy cậu ba?
Chị thắc mắc thiệt tình. Dầu cho ba tôi giải thích, trấn an cách gì
đi nữa chị cũng không hiểu. Đối với chị, hễ trồng trái là phải ra trái.
Làm tôi cũng phát sợ theo. Vậy là hai chị em bị cả xóm xúm lại chọc.
Ba tôi về, mẹ tôi vui lắm, lăng xăng nấu nướng cho ba tôi ăn để lại
sức. Cũng cá linh kho, xoài bằm, tô canh rau dền nấu tép, nhưng mấy hôm
nay còn có thêm mồng tơi, mướp khía, gà xé phai hay nồi cháo vịt. Gia
đình quây quần bên mâm cơm ấm cúng. Tuy đơn sơ mộc mạc nhưng thấm đượm
hạnh phúc gia đình, tưởng đã mất đi nay tìm lại được.
Ngày hôm đó tôi đích thân nấu nồi canh rau dền tiếp bà xã cho bữa cơm
chiều, vẫn miên man nghĩ tới những kỷ niệm xưa. Cả nhà ăn ai cũng
thích. Đứa con gái út của tôi hỏi:
– Ba thích canh nào nhất?
Tôi trả lời không đắn đo suy nghĩ:
– Canh rau dền.
Đúng ra con tôi nên hỏi bây giờ tôi thích ăn cái gì nhất. Để tôi có thể trả lời là canh rau dền với cá linh kho.
ST
Sen mùa nước nổi
Đúng hẹn, Thanh, Lân và một
cô gái khoảng ba mươi tuổi đến. Thanh giới thiệu bông đùa với chúng
tôi: - Đây là Liên, “người giúp việc” của mình bữa nay.
Liên
cười e thẹn, nhanh nhảu nâng thùng sơn cũ đựng cái gì đó khá nặng cùng
một bình đựng trà đá lên mũi vỏ lãi. Rồi cô phóng gọn lên đó, khệ nệ lần
hai chiếc thùng đưa tuốt xuống đuôi vỏ. Chúng tôi lần lượt lên vỏ, mỗi
người ngồi dựa ngửa một ghế nhựa màu xanh sậm. Vỏ nổ máy xình xịch rồi
lạch bạch chết máy.
Máy lại nổ, tiếng chân vịt quậy nước ràn rạt nhưng
không sao lui vỏ được. Liên lần ra đầu vỏ nhảy xuống nước đẩy vỏ ra giữa
kênh. Vỏ nổ máy ngon lành, băng ào ào trên dòng nước đỏ ngầu màu tràm,
lướt qua hàng bao nhiêu vạt bông súng ma trắng ngà phơn phớt tím, lúc
lúc bắt gặp những cánh bông súng đỏ thẫm hòa màu đỏ hồng tinh khiết của
những cánh sen vượt trên nền lá xanh phủ tràn mặt kênh.
Bên trái hàng tràm xanh lả ngọn trong gió. Bên phải
hàng bao nhiêu năn chông đưa mũi nhọn như muốn chĩa lủng bầu trời đầy
mây của một ngày nắng nóng. Rồi những cánh đồng lúa ma liên tiếp nhau
chạy hoài mút mắt. Cảnh quan hoang dã khiến ai nấy tranh thủ bấm máy
ảnh. Trong lúc đó Liên với tay nắm nhanh những chiếc bông súng rập rờn
trong sóng nước. Cọng bông súng đứt rễ dài thậm thượt được Liên cuộn
tròn một cách điệu nghệ thảy vào lòng vỏ. Rồi những búp lá sen non cũng
được bàn tay trắng xinh của Liên với hái. Cô nói:
- Cái thứ bẹn sen này ăn với cá lóc nướng trui thay bánh tráng hết sảy.
Anh Nhựt trong đoàn nghe tiếng bẹn lạ lẫm hỏi Liên là gì. Cô đỏ mặt. Thanh cười ha hả:
- Ông dòm hình dáng nó và tưởng tượng ra coi giống cái gì.
Anh em cười thích thú.
Chừng một tiếng, vỏ ghé vào một nơi gọi là ruột rừng.
Cũng là Liên nhanh nhảu đứng trước mũi vỏ níu thân tràm già giữ yên vỏ,
thân tràm đong đưa rơi lả tả những cánh bông trắng thơm thơm mùi hoang
dã. Mùa nước nổi. Nước dâng cao nhưng không tới chân cầu xi măng, để lên
cầu phải bước qua khúc đòn dài mềm oặt. Ngâm chân trong làn nước đỏ
ngầu, Liên nắm tay từng người, gượng đưa chúng tôi lên cầu. Rồi cô khệ
nệ xách thùng sơn đưa vào nhà thủy tạ.
Liên lấy từ trong thùng ra nào bếp lò, củi, than. Chẻ
nhỏ củi xong Liên đặt vào bếp lò, xé tờ giấy báo làm mồi nhúm. Lửa cháy,
cô chất xéo vài thanh củi lớn. Khi củi cháy phừng, cô chất nhẹ lớp than
đước lên, vừa quạt vừa đưa tay áo chùi mồ hôi túa đầy mặt. Đặt bọc
nilông cá lóc lên sàn gạch, Liên cầm thanh củi nhắm vào đầu từng con đập
mạnh. Lấy từ thùng ra bọc rắn ri voi, cô nắm đuôi từng con quất mạnh
đầu nó vào lan can nhà thủy tạ. Xong xuôi, cô đặt mấy con cá lóc bự xổn
lên ngay mặt than đước cháy đỏ rực.
Cá chín một mặt, vẫn bàn tay không Liên trở mình từng
con một. Cô lột vỏ từng cọng bông súng, vặn từng khúc ngắn vừa ăn, trộn
mớ bông điên điển vàng hươm màu nắng rồi lấy trong thùng ra nào muối ớt,
chanh, rau sống... bày trên mâm dã chiến là những tờ giấy báo cũ. Xong
xuôi đâu đó cô ra chiếc cầu dẫn vào nhà thủy tạ, vòng hai tay quanh
miệng hú gọi chúng tôi đang đứng trên chiếc đài cao say mê ngắm cảnh
rừng tràm rộng bao la.
Ngồi vào mâm, theo Liên chỉ dẫn, chúng tôi vừa cầm bẹn
sen banh phần lá non cuộn sâu kèn ra, nhét vào đó nào bún, nào rau, nào
thịt cá lóc trắng ngần tỏa hơi nóng hổi rồi cuốn lại chấm nước mắm me.
Những miếng ngon còn đậm chất khẩn hoang, theo kiểu Đồng Tháp Mười. Ly
cụng ly. Càng uống càng rôm rả tiếng nói cười. Liên vẫn nướng phần cá,
phần rắn còn lại, cũng trở chúng bằng tay không, rồi nướng mấy con khô
cá lóc để chúng tôi đổi món. Mãi mới xong, Liên nhẹ chen vào đám nhậu,
than:
- Nãy giờ khát nước muốn chết mà hổng thấy anh nào cho em uống miếng!
Rồi tiếp: “Phạt anh này nè”.
Cô uống ngọt ly rượu đánh “ót”, rót tràn ly đưa anh bạn
ngồi kế bên, kế bên... Không khí xôm tụ hẳn lên. Liên lấy giấy lau tay
phát cho từng người, riêng cô chùi tay bằng mẩu giấy báo trải làm bàn.
Nhựt đùa:
- Ê, chữ nghĩa không đó để người ta đọc nhe. Bộ hổng biết chữ sao?
- Dốt đặc cán me - Lân khẳng định.
Liên cười cải chính:
- Dốt nhưng biết đọc à nghen. Trưa nào nằm võng em cũng lấy tờ báo che mặt. Hổng biết chữ sao.
Cả bọn cười rân.
Liên nhắc:
- Rắn bông súng nè mấy anh.
Rồi ngắt khúc con rắn đưa tận tay từng người. Cô “tiếp thị”:
- Đừng có chê nhe. Rắn bông súng nướng lèo là món ngon
độc đáo mỗi năm chỉ có một lần vào mùa nước nổi. Chấm nước mắm me, cắn
rồi nhai luôn xương ngon te tua.
Ngon “te tua” thật. Khúc rắn bông súng nhỏ cỡ ngón tay
cái cháy đen giòn tan lớp vỏ. Thịt rắn đỏ hồng như còn máu ngọt lừ thẩm
thấu tận dạ dày. Còn xương rắn kêu rau ráu trong răng. Nhờ Liên mà chúng
tôi mười người cạn hết ba chai rượu ngâm ổ ong vò vẽ.
Ngật ngừ say. Xuống vỏ. Lại mắc kẹt bờ đất. Liên nhảy
xuống nước đẩy vỏ ra giữa kênh. Vỏ lại phóng như bay về nơi xuất phát,
chấm dứt buổi du ngoạn của chúng tôi. Chia tay hai anh bạn, chúng tôi
hẹn ngày gặp lại. Nắm chặt bàn tay Liên, tôi nghe hơi nóng bếp lò vẫn
còn tỏa ra từ những vệt chai tội nghiệp. Cả bọn ai cũng khen Liên duyên
dáng, là người nội trợ tuyệt vời, nên cánh đàn ông mơ tưởng... ra mặt.
Lân cười, kề tai tôi nói nhỏ:
- Liên từ nơi khác tới đây bán quán bia kiếm tiền nuôi đứa con trai đang học lớp bốn.
Buổi xế chiều tự nhiên buồn, không vì chia tay.
PHÙ SA LỘ