Người học trò cũ của thầy Thân
Mùa mưa năm ấy thật khắc nghiệt. Mưa tầm tã hết ngày này qua ngày
khác. Sông suối đầy ắp. Nước lũ bao vây chúng tôi hàng tháng trời. Không
đi cõng gạo được, khẩu phần ăn cứ rút xuống dần, đến bữa mỗi người chỉ
nhận được một mẩu sắn luộc. Khổ nhất là khi có người ốm nặng, không cáng
đi bệnh viện được.
Bộ phận của tôi, mọi người đi công tác cả, chỉ còn hai người: Thân
đang ốm và tôi là lính mới vào chiến trường. Hai đứa mắc võng hai bên
một bếp lửa râm rỉ cháy ngày đêm, dưới một mái lá sơ sài chỗ nào cũng
dột. Trời mưa lạnh, ướt át, bụng lại đói, chúng tôi gần như suốt ngày
nằm co ro trong võng. Ngủ chán lại thức dậy, nếu không hí hoáy nhật kí
lại tán chuyện tầm phào để quên cái thèm ăn và khuây nỗi nhớ nhà.
Thân người miền Bắc, tôi là dân tập kết quay về. Nhưng hai đứa có
nhiều cái giống nhau: cùng tuổi thân, đều đã có vợ và con gái đầu lòng,
cả hai bên đều là giáo viên văn. Thân vào chiến trường trước tôi mấy
năm. Tạng người Thân vốn không khoẻ lại trải qua cảnh cực khổ, thiếu
thốn, anh ốm đau luôn, khi tôi vào thì trông anh đã suy sụp lắm, cư vài
ngày lại lên cơn. Nhưng bên trong thân hình gầy yếu và tiều tuỵ ấy, là
một quả tim nhân hậu và một cái đầu đầy mộng tưởng. Những khi nói về
mình, thân thương nhắc lại câu tôi nghe đã quen tai "nếu còn sống đến
ngày ấy, mình sẽ..."
Một đêm lạnh giá không ngủ được, tôi nằm chờ trời sáng. Bỗng có tiếng Thân hỏi sang:
- Thức đấy chứ?
-Thức.
- Mình cho cậu xem cái này vừa nói Thân vừa chồm người dựa sang một
tờ giấy nhỏ - Cậu chỉ cần đọc câu đầu, rồi mình kể cho nghe.
Tôi bấm đèn bin đọc:
"Ôđetxa, ngày...
Thầy kính mến,
Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi nhận được thư này của em. Em vừa sang
đây được ba hôm, và đây là những dòng chữa đầu tiên em viết trên đất bạn
để gửi về tổ quốc. Hôm tiễn em ra ga mẹ em cứ dặn đi dặn lại: sang bên
ấy thế nào con cũng phải đánh thư về cho thầy ngay, không có thầy thì
con không có được như ngày nay đâu. Rồi mẹ em khóc..."
Tôi liếc nhanh xuống cuối thư:
"Học trò cũ của thầy, Ninh Thị Vữa".
Tôi vừa tắt đèn bin thì Thân kể:
"Em Vữa này là một trong học sinh giỏi của lớp mình vừa dạy văn vừa
chủ nhiệm, khổ nỗi nhà quá nghèo, lại gặp nạn - bố làm thợ xây, một viên
gạch bê tông rơi từ trên cao xuống, đập nát cả bàn chân, phải nằm bệnh
viện suốt mấy tháng. Mẹ làm cấp dưỡng ở trường sư phạm tỉnh. Sau Vữa lại
còn hai đứa em. Thấy cảnh nhà khốn khó quá, em quyết định nghỉ học, xin
làm phụ nề để giúp mẹ. Mình nhớ mãi hôm ấy. Cuối buổi học là giờ trả
bài tập làm văn của mình. Bài của Vữa được điểm cao, được đọc cho cả lớp
nghe. Khi tan lớp học sinh ra về cả, mình thấy Vữa vẫn ngồi lại, vẻ mặt
rất buồn khổ. Mình bước xuống hỏi, em cắn môi một lát rồi đứng dậy chỉ
nói được hai tiếng "thưa thầy" lại ngồi thụp xuống gục đầu trên bàn khóc
nứa nở, hai chiếc đuôi sam cứ rung lên bần bật trên vai áo. Mình đã
hiểu hoàn cảnh của Vữa nên đứng đợi cho em đỡ xúc động để tìm lời an ủi.
Nhưng bỗng nhiên em đứng bật dậy, chìa vội cho mình lá đơn xin thôi học
rồi ôm sách vở chạy vù ra khỏi lớp.
Đêm đó mình không ngủ được. Thương và tiếc cho nó quá. Hôm sau mình
đến nhà. Mẹ Vữa thấy mình đến vội nói ngay: Cảnh nhà em nó "hoàn cảnh"
quá, không nói thì thầy cũng đã hiểu cả rồi. Nói thực bụng thì gia đình
em chưa có ý định cho cháu thôi học. Nhưng nó thấy cảnh nhà túng bấn
quá, lại không muốn cho hai đứa em nó học hành dở dang nên cứ nằng nặc
bảo mẹ phải ký vào đơn. Nên rồi cũng chiều cháu. Mình biết tuy ngoài
miệng bà nói vậy nhưng thực bụng thực bụng cũng muốn cho Vữa nghỉ học để
phụ giúp bà, nhà cực quá, nó lại là con gái học chi cho cao. Nên mình
nói đại ý: cái khó của gia đình là tạm thời, tương lai con cái là quan
trọng. Vữa lại học rất tốt, rất có triển vọng, vả lại cũng chẳng còn bao
lâu nữa là hết cấp III. Rất thông cảm với khó khăn của gia đình, vợ
chồng chúng tôi cũng chẳng dư giả gì nhưng còn đỡ hơn hai bác, chúng tôi
xin được giành ra mỗi tháng mười đồng để giúp thêm cho Vữa học hết cấp
III. Nếu hai bác ngại thì coi là tôi cho vay, sau này em Vữa trả lại
cũng được.
Nghe mình nói thế, mẹ Vữa lặng đi một lúc rồi rưng rưng nước mắt nói:
Xin hết sức cảm ơn thầy cô và cũng không dám phiền đến thầy, thôi thì
rau cháo qua ngày, chúng em cố gắng động viên cháu tiếp tục đi học.
Và bây giờ thì ... như cậu thấy đấy. Cậu không thể tưởng tượng nổi
khi nhận được thư Vừa, biết nó được đi học nước ngoài, mình sung sướng
đến mức nào đâu. Con bé này triển vọng lắm. Mình tin những đưa trẻ như
vậy sau này sẽ rất khá. Nếu mình còn sống đến ngày ấy, mình sẽ..."
Đang nói sôi nổi bỗng nhiên Thân dừng lại. Và dừng lại rất lâu. Tôi
hiểu là Thân đang xúc động. Một lúc sau, anh mới nói chậm rãi, giọng
buồn buồn.
- Bác này, chẳng may mình đi theo thằng Nghĩa, mà cậu còn sống cậu cố
ghé thăm vợ con mình, xem con cún nhà mình có được học đến nơi đến chốn
không. Và nhớ hỏi thăm Vữa.
Nghĩa là một cán bộ trong cơ quan vừa hy sinh tháng trước trong một
chuyến đi công tác xuống các tỉnh. Không hiểu sao, gần đây Thân cứ nhắc
đến Nghĩa như một nỗi ám ảnh.
Và thật đau đớn, điều mà Thân gửi gắm cho tôi đã trở thành lời trăng
trối một cái chế hình như được linh tính báo trước. Chỉ sau đó dăm hôm,
sau một đêm vật vã, quằn quại với cơn sốt ác tính, Thân đã vĩnh biệt
chúng tôi. Cả cơ quan Ban Giáo dục khu 5 lúc đó còn ở nhà không đầy 10
người. Chúng tôi xúm lại sửa soạn cho Thân. Trời rất lạnh. Trong ba lô
của Thân có bao nhiêu áo quần chúng tôi lấy ra mặc cả vào cho anh rồi
gói anh vào tấm võng dù. Trời vừa tạnh mưa, chúng tôi khiêng Thân ra bìa
rừng. Nhưng vừa đào huyệt xong, mưa lại xối xả, chúng tôi phải vừa tát
nước dưới huyệt lên, vừa mai táng Thân trong đất nhão.
Sau ngày giải phóng, nhân những chuyến công tác ra Bắc tôi tranh thủ
lên thăm gia đình Thân mấy lần. Nhưng lần nào cũng vội vội vàng vàng
chẳng hỏi han gì được nhiều. Mãi đến chuyến thăm vừa rồi sau khi đã nghỉ
hưu, tôi mới biết cô học trò cũ của Thân. Vừa nghe tôi nói đến cô Ninh
Thị Vữa, vợ Thân nói ngay, giọng không ra vui cũng chẳng ra buồn:
- Ối dào, cô ấy giờ thì khác lắm. Chồng cũng học ở Nga về, mấy năm
nay bỏ nhà nước buôn hàng Tây, giàu sụ. Nhà vừa lên tầng. Còn cô ấy vẫn
dạy toán ở trường cấp III thị xã, cái trường ngày trước, anh Thân nhà
tôi dạy và cô ấy học đấy. Dạy ở trường để có cái chân biên chế thôi. Chủ
yếu là cô dạy thêm ở nhà. Được cái, cô dạy cũng khá nên học sinh học
rất đông, kiếm lắm!
Nói xong chị dẫn tôi ra cổng chỉ ngôi nhà mới xây bên kia hồ. Tôi vừa
đi bộ đến nhà Vữa, vừa miên man nghĩ lại những ngày cuối cùng của Thân
với những tình cảm tốt đẹp của anh về người học trò cũ. Tự nhiên bước
chân tôi trở nên hối hả, lòng ham hở như mình mang một món quà quý đến
cho một người mà chắc khi nhận được, họ sẽ vui sướng lắm.
Tôi đến nhà Vữa đúng lúc cua học thêm sắp tan. Đứng ngoài cửa sổ, tôi
nghe tiếng cô giáo vang lên the thé, trong tiếng ồn ào của học sinh vào
cuối buổi học.
- Xin mời ba em ... (tôi không nghe rõ tên) ở lại gặp tôi!.
Khi học sinh đã ra khỏi lớp, tôi liếc nhìn vào thấy hai em trai, một
em gái đến đứng trước mặt cô, đầu hơi cúi vẻ tội lỗi. Tôi ý tứ quay mặt
ra đường nhưng áp sát lưng vào của sổ lắng nghe xem việc gì đang diễn
ra.
- Sao đó? Hôm nay đầu tháng sau rồi mà tiền học tháng trước các vị vẫn chưa nộp? Riêng cô này thì nợ cả hai tháng rồi...
Hai em trai nói gì đó tôi không nghe rõ. Riêng em gái thì giọng van vỉ:
- Xin cô thông cảm, mẹ em tháng trước bị xe tông, lâu nay phải nghỉ chợ ...
- Thôi thôi thôi! Tôi chẳng hơi đâu nghe đủ thứ lý do lý trấu của các
vị cuối tuần này không nộp tiền học thì tuần sau nghỉ, để chỗ cho khác
ngồi. Thế nhá!
Ngay sau đó, nghe tiếng gót giày nện mạnh lên sàn, tôi vội quay lại
nhìn qua cửa sổ, chỉ kịp nhìn thấy tấm lưng của cô giáo sau rèm cửa. Còn
ba em học sinh thì tiu nghỉu, tủi cực bước ra. Tôi chú ý đến em nữ sinh
đi sau, tóc em chẳng tết đuôi sam nhưng không hiểu sao tôi cứ tin là nó
rất giống hình dáng của bé Vữa tội nghiệp trong tâm tưởng của Thân trên
20 năm về trước.
Như bị tạt nước bẩn vào mặt, tôi bỏ ý định vào gặp người học trò cũ
của Thân, tôi thắp ba nén hương lên bàn thờ để tạ lỗi với bạn. Từ trong
khung ảnh, Thân nhìn tôi, đôi mắt hiền từ phảng phất một chút lãng mạn,
vẻ mặt vẫn bình thản như không hề tin vào chuyện vừa xảy ra có thật.
Khuyết danh
Thầy Dạy Triết
Phượng
cho xe vào garage. Trước khi bước xuống xe, nàng nhìn vào gương chiếu
hậu lần cuối cùng, hất hất mái tóc vừa mới uốn ngắn, mỉm cười thỏa mãn.
Ðẩy cửa vào nhà, Phượng nhí nhảnh đến trước mặt chồng hỏi:
- Mình xem em cắt mái tóc ngắn thế nầy có đẹp không?
Cường
đang đọc lại cuốn sách “Rèn Nhân Cách” của tác giả Hoàng Xuân Việt mang
từ Việt Nam qua Mỹ bỏ nằm ụ trên kệ sách mấy năm rồi mà không có thì
giờ rảnh rỗi để nghiền ngẫm. Hôm nay nhân ngày lễ, ông lấy được một tuần
lễ Vacation đầu tiên sau bao năm lận đận với công việc làm ở hãng. Nghe
vợ hỏi, Cường đăt cuốn sách lên bàn, ngước mắt nhìn vợ đang tươi tỉnh
chờ đợi ở chồng một lời khen.
Tỏ
vẻ khó chịu, Cường nhíu hàng lông mày rậm như hai con sâu róm bám trên
đôi mắt sáng quắc đầy cương nghị mà ngày xưa lũ học trò trung học sợ ông
Thầy Dạy Triết còn hơn sợ Thầy Giám Thị. Thấy ánh mắt chồng nhìn
mình, Phượng biết ngay là ông ấy không bằng lòng. Nàng cắn môi bước vào
phòng đóng cửa lại. Những giọt nước mắt tủi thân rơi lả chả trên ngực áo
nàng. Lấy nhau đã mười mấy năm rồi, Phượng lạ gì cái tính bảo thủ của
chồng dầy như lớp khiên chống đỡ đường tên mũi dáo của lính trận thời
trung cổ. Cuộc sống trên đất nước văn minh mà cứ co mình trong vỏ ốc.
Ðành rằng công việc làm hàng ngày đã cuốn hút ông. Nhưng tại sao ông
buộc vợ phải sống lệ thuộc theo ý mình như thời đại của mấy ông thầy đồ
hủ nho. Bạn bè ở hãng cứ chê nàng ăn mặc quê mùa. Ðầu tóc thì búi cao
trông như mụ chủ tịêm cầm đồ bệ rạc ở tỉnh lẻ. Ðã mấy lần Phượng xin
chồng cắt tóc ngắn nhưng nhất định Cường không cho lại còn lên giọng
triết lý:
-
Xin em để lại cho anh chút gì dáng dấpViệt Nam, đó là hình ảnh ngày
xưa của cô bé “Phượng Hồng”. Với mái tóc dài của em đã một thời khiến
cho tim anh xao xuyến.
Khi
nghe chồng nhắc đến kỷ niệm thuở còn trung học ở quê nhà là nàng mềm
lòng ngay. Nhưng dưới sự tác động khá mạnh mẽ của bạn bè hàng ngày tại
sở làm nhiều lúc khiến cho nàng xiêu lòng. Chúng nó bu quanh, đứa bàn
để tóc cách nầy, đứa cho ý kiến kiểu kia.
Con bé Kim ngắm nghía khuôn mặt Phượng hồi lâu, bảo:
- Khuôn mặt trái soan của bồ mà cắt tóc ngắn, uốn úp vào sẽ tôn thêm vẽ đẹp thùy mị ra đấy.
Con Mai, bạn thân nhất tự động xổ mái tóc Phượng xuống, gom phần tóc dài dấu phía sau gáy của nàng rồi tiếp:
-
Ðúng đấy, uốn theo kiểu nầy thì “Phượng Hồng” sẽ biến thành “Phượng Ðỏ
có chàng tới hỏi”. Con nhỏ Mai nhái theo đầu đề cuốn tiểu thuyết của
Viên Linh: “Hạ Ðỏ Có Chàng Tới Hỏi” rồi cười ha hả.
Phượng cũng thường tâm sự với chúng bạn:
- Ông xã mình khó tính lắm. Từ vấn đề ăn mặc cũng như trang điểm hễ khác một chút là ông ấy cằn nhằn mãi.
-
Ôi, ở Mỹ mà, Lady first. Nhỏ Kim tán vào - Bạn cứ làm trước báo cáo
sau. Biết đâu mái tóc mới làm bồ trẻ ra càng khiến cho ông giáo sư triết
lại mê vợ “ngất ngư con tàu đi”.
Ðã
mấy tháng qua nàng cố tình tránh né. Chiều nay lũ bạn đẩy Phượng vào
tiệm uốn tóc gọi là “đi tham khảo”. Cuối cùng, nàng quyết định hớt ngắn
mái tóc. Quả thật, chúng nó nhận xét không sai, trông Phượng trẻ ra,
tươi mát và thêm phần nhí nhảnh.
Khi
thầy Cường bước vào lớp học, tiếng ồn ào như vỡ chợ chợt im bặt. Chỉ
một vài tiếng nói lẻ loi còn sót lại ở cuối lớp là đủ cho đôi lông mày
thầy nhíu lại cùng với ánh mắt nghiêm nghị phóng về hướng có tiếng ồn là
trật tự lập tức vãn hồi.
Ðứng trên bục giảng thầy bảo:
-
Trước hết tôi khen các em đã giữ được tính tự trọng mà thầy đặt niềm
tin lớp thầy không nằm trong nhóm “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Các
em là lớp đàn anh, đàn chị của trường . Hết niên khóa nầy các em sẽ thực
sự trưởng thành chuẩn bị bước vào đời trên mọi nẻo đường. Hãy làm gương
cho các lớp đàn em noi theo.
Thầy
Cường áp dụng luật lệ trong lớp của thầy phụ trách rất khác lạ. Em nào
vi phạm kỷ luật, không làm đầy đủ bài tập, thầy không hề cho zero trong
sổ điểm mà bắt nhảy xỏm, hít đất hoặc chạy vòng quanh sân trường. Tùy
theo lỗi sai phạm mà các em tự ấn định số lượng hình phạt sao cho xứng
hợp. Riêng bài tập thiếu, thầy buộc ngồi tại lớp làm cho xong mới được
ra về. Ðó là hình phạt đặc biệt “rất lính” của lớp thầy Cường đã được
Ban giám đốc nhà trường chấp thuận.
Sau
bốn năm phục vụ trong quân ngũ, Cường được biệt phái về dạy lại trường
cũ. Ông thấy hình phạt đó vừa tăng sức chịu đựng cho học sinh vừa khiến
cho các em ngại ngùng trước mặt học sinh toàn trường. Nhờ thế mà các em
luôn luôn tự nguyện giữ kỷ luật và chuyên cần học tập .
Hồi
còn là học trò, biết bao nam sinh mê mệt mái tóc Phượng. Mái tóc đen
dày chảy mượt mà quá thắt lưng. Làn da hồng hào trắng mịn càng làm nổi
bật thêm đôi mắt bồ câu đen lay láy giữa đám nữ sinh tuổi còn mơn mởn.
Cái giọng “Bắc Kỳ” như chư chim hót đã làm cho lắm kẻ trồng cây si. Mấy
anh chàng đệ nhất A1 đã làm thơ dán trước cửa lớp ca ngợi mái tóc nàng:
“Ôi, mái tóc mượt mà tràn lối mộng.
Ðể hồn thơ đậu bờ bến si mê.
Cõi trời hoang réo gọi áng mây về
Cũng lặng lẽ, tần ngần bên suối tóc...”.
Nữ
sinh cùng lớp có lắm người ganh tỵ trước những câu thơ tán tỉnh đó.
Riêng Phượng chẳng hề rung động. Vậy mà vài câu thơ tình của thi sĩ
Nguyên Sa được đọc lên từ giọng trầm ấm của thầy Cường đã khiến cho con
tim Phượng phải nhiều đêm thao thức:
“Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa màu áo tím...”.
Từ
đó, mỗi tuần Phượng thay một màu áo. Lần lượt áo dài màu vàng, đến màu
xanh và tuần kế là màu tím. Bạn học cùng lớp ít người để ý nhưng có lẽ
thầy Cường là người nhạy bén về Tâm lý, hiểu rõ tình cảm kín đáo của cô
học trò.
Buổi
học đầu tiên, học sinh tỏ ra chẳng thiện cảm chút nào với ông thầy có
cặp chân mày chữ nhất trông khó đăm đăm. Tuy nhiên, nội tâm thầy lại rất
dễ cảm xúc. Có lẽ Phượng đã nhìn thấy một tâm hồn thi nhân nằm trong
lớp vỏ khô khan, chai lỳ của ông thầy dạy triết.
Lớp
Ðệ nhất A2 có hai nữ sinh trùng tên. Ðó là Nguyễn Thị Phượng và Trần
thị Phượng. Ðể phân biệt hai Phượng, bạn bè trong lớp gọi Phượng họ Trần
là “Phượng Ðỏ” còn Phượng họ Nguyễn là “Phượng Hồng”. Phượng Ðỏ có mái
tóc cắt ngắn thoạt trông như nữ minh tinh Thẩm Thúy Hằng. Phượng Hồng
thì tóc dài như nữ nghệ sĩ Thanh Nga. Cả hai cô nàng được sắp hạng hoa
khôi nên kỵ nhau như nước với lửa. Ngày đó Phượng Hồng yêu thầm thầy
Cường. Ngược lại, Phượng Ðỏ thì trề môi trước cái cung cách “rắn như
thép”của ông thầy chẳng khác gì một anh chàng lính trận.
Chỉ
còn hai tháng nữa là hai lớp đệ nhất dự thi lấy bằng Tú Tài. Ðột nhiên
trường đóng cửa và sau đó là cảnh chạy loạn. Rồi miền Nam Việt nam thay
đổi hoàn toàn nếp sống theo chế độ mới. Ðời sống ngày một khó khăn. Bố
mẹ mất hết tiền hưu trí, Nguyễn thị Phượng bỏ học theo bạn bè đi buôn
hàng chuyến để giúp đỡ gia đình trong thời gạo châu củi quế.
Một hôm, trên chuyến xe đò đi Ðà lạt, bất ngờ Phượng gặp thầy Cường. Cả hai đều xúc động.
Thầy trò ngồi trong một tiệm giải khát tại Ðịnh Quán lúc xe ghé vào ăn trưa. Phượng nêu thắc mắc:
- Sao thầy không bị tập trung cải tạọ như những giáo viên biệt phái khác mà đến giờ nầy họ vẫn chưa được thả về?
Thay vì trả lời, Cường hỏi:
- Phượng còn nhớ trò Nguyễn Văn Bảy đệ nhất A2 không?
Phượng nhìn đăm đăm thầy Cường:
- Làm sao quên được. Cùng lớp với em mà thầy.
Nàng
nhớ lại một ngày đầu năm học đệ Nhất. Thầy Cường đang giảng bài, chợt
hai người cảnh sát và một an ninh quân đội xuất hiện trước cửa lớp đòi
vào khám xét. Thầy Cường chận lại yêu cầu họ phải xin phép Ban giám đốc
trường trước đã. Trong lúc thầy đưa quý vị đó xuống văn phòng thì trò
Nguyễn Văn Bảy bất ngờ phóng qua cửa sổ chạy mất dạng. Khi toán an ninh
được phép vào lớp kiểm tra từng học sinh thì không tìm được tên Nguyễn
Văn Bảy mà họ cho biết là tên hoạt động nội tuyến VC. Cả lớp đều sửng
sốt nhưng chẳng một ai dám hé môi.
Chủ quán bưng hai ly nước chanh đặt trên bàn khiến cho Phượng sực tỉnh. Nàng mời thầy uống nước rồi lên tiếng hỏi:
- Có phải Nguyễn Văn Bảy nhảy qua cửa sổ không thầy?
Cường gục đầu:
- Ðúng. Sau ngày “giải phóng” Bảy về giữ chức vụ Trưởng phòng Giáo dục huyện. Tôi trình diện gặp anh ấy.
Bảy nói:
-
Diện giáo chức biệt phái phải cải tạo 6 năm. Nhưng thầy đã có công cứu
thoát cán bộ cách mạng nên em đề nghị cấp trên cho thầy đi học lớp chính
trị một năm. Sau đó thầy được tiếp tục dạy trở lại.
- Hiện giờ thầy dạy ở đâu? Phượng hỏi.
-
Chẳng được dạy đâu cả. Sau sáu tháng học chính trị, họ chuyển qua trại
cải tạo, ngồi tù thêm ba năm, lý do "sĩ quan ngụy" biệt phái. Hiện giờ
tôi và người bạn làm đường kết tinh tại khu kinh tế mới Tân Hội thuộc
huyện Ðức Trọng.
- Thầy có mang theo vợ con lên đó?
- Tôi vẫn chưa lập gia đình.
- Thế thầy đợi đến bao giờ nữa?
- Ðến khi nào mộng ước của tôi thực hiện xong.
Cái
mộng ước thầm kín của thầy Cường đã được sự tiếp tay của cô học trò
ngày xưa. Hai người tổ chức vượt biển thành công và đã làm lễ thành hôn
tại đảo Pulau Bidong. Hiện giờ họ đã có hai mặt con trên đất Mỹ nầy.
***
Cường đẩy cửa bước vào phòng thấy vợ ôm mặt khóc, ông bực mình quát to:
- Cô còn chưa thỏa mãn sao. Muốn đi thẩm mỹ viện nữa chắc?
Phượng lấy giấy tissue lau nước mắt, nhìn chồng giận dữ:
-
Tôi cấm ông hạ nhục tôi đấy nhé. Ðã mười mấy năm nay tôi nhường nhịn
ông đến kiệt sức rồi. Ông chồng nào cũng chiều vợ, chỉ có ông bắt vợ
chiều chồng. Ông độc đoán, khắt khe đến tàn nhẫn.
Cường biện giải:
- Ðó là nghệ thuật giáo dục con cái. Mẹ cha phải làm gương cho chúng nó trong nếp sống hàng ngày.
- Ông đòi hỏi người mẹ phải sống khổ hạnh như người tu hành sao?
- Có cả tôi trong đó nữa, Cường xen vào.
-
Cô nên nhớ tôi không hề ăn chơi buông thả, trụy lạc. Tôi cố giữ cốt
cách của một giáo sư ngày xưa nữa đấy, Cường gằn từng tiếng.
Phượng cười chế giễu:
-
Cái đầu ông chỉ gôm lại một cục: “Giáo sư”, cái tước vị hào nhoáng mà
không có thực lực ở đất Mỹ nầy. Muốn làm giáo sư đích thực hãy học lấy
cho được bằng Ph.D.
Câu
nầy đã xúc phạm lòng tự ái của Cường không ít. Chàng cau mặt, quay lưng
đóng sầm cửa lại. Những ngày mới định cư ở đất nước nầy, chàng có ý
định vào đại học để lấy cho được bằng cử nhân Triết, nhưng rồi bận rộn
với con cái và công ăn việc làm. Vốn liếng Anh ngữ của Cường rất giới
hạn, chỉ vừa đủ giao dịch hàng ngày với những người bản xứ. Cường và vợ
ghi tên vào học College được một năm nhưng cái bầu của vợ càng ngày càng
lớn gây nhiều trở ngại, hai người đành bỏ học.
Phượng
biết câu nói vừa rồi đã xúc phạm khá nặng nề đối với chồng. Nhưng tại
ông ấy miệt thị nàng. Người vợ nào lại không muốn làm đẹp cho chồng.
Với
dáng hình thon gọn cùng với gương mặt thanh tú, loại áo quần nào Phượng
mặc vào đều hợp cả. Những lần tham dự tiệc tùng cưới hỏi, nàng rất muốn
mặc bộ áo đầm dạ hội hở vai để hợp cùng chúng bạn. Nhưng Cường nhất
định không cho, buộc nàng phải mặc áo dài. Ông ấy lập luận:
-
Trong các loại áo quần phái nữ trên thế giới, chỉ có chiếc áo dài Việt
Nam là đẹp hơn cả. Nó vừa kín đáo vừa khoe trọn vẹn dáng nét mỹ miều của
người phụ nữ . Phơi bày cái sắc đẹp da thịt của người đàn bà chỉ là
kích thích thị hiếu dục tính trong phần rất nhỏ của khía cạnh thẩm mỹ mà
thôi. Còn mình đang có mái tóc dài, đẹp mượt mà óng ả tại sao không giữ
lấy mà cắt bỏ đi thay vào mái tóc uốn khô khốc, cong queo. Phượng biết
đó là cách lý luận của người đặc sệt óc thủ cựu nên lặng thinh cho qua
chuyện. Lần nầy thì quá lắm. Ông xem vợ như đứa học trò tiểu học, cướp
hết cả quyền tự chủ. Càng nhìn cảnh bạn bè được chồng chiều chuộng, được
mua sắm tự do chẳng có một ràng buộc nào, càng khiến Phượng tức tối
thêm.
“Mặc
kệ, muốn ra sao thì ra”, nàng nghĩ thầm, rồi lên xe dạo quanh một vòng
đến nhà Mai để tinh thần bớt căng thẳng. Nàng xem như làm một “cuộc cách
mạng” trong đời sống vợ chồng.
“Quả
thật mình đã quá khắt khe với vợ. Nhưng hôm nay sao cô ta tỏ ra bướng
bỉnh lại bỏ nhà đi trong giờ dùng cơm tối. Có hẹn hò với ai chăng ?”
Cường nhủ thầm rồi nằm dài trên ghế sô-pha chờ đợi. Mãi đến 12 giờ khuya
Phượng mới quay về. Vừa bước vào trong nhà là bị Cường mắng ngay:
- Cô không phải là người vợ hiền, không xứng đáng là bà mẹ gương mẫu. Cô đã bị bè bạn rủ rê làm hư hỏng cả rồi!
Phượng đốp chát:
- Hư hỏng thì bỏ tôi đi. Không còn xứng đáng làm vợ ông thì ly dị!
Cường
trố mắt nhìn Phượng trước thái độ thẳng thừng và cách trả đũa bất ngờ
của vợ mà từ xưa không hề có. Ông lặng lẽ lấy va-li xếp một ít áo
quần mang ra xe rồi lái xe đi giữa đêm khuya.
Nàng gieo mình trên ghế sô-pha, tê điếng cả tâm hồn.
Cường
đi rồi, mỗi buổi sáng Phượng phải dậy sớm hơn để chở con đến trường
học. Chiều đi làm về phải thay Cường đến đón chúng. Cảnh trống vắng, cô
đơn đã làm cho nàng mất ngủ. Mỗi lần con hỏi sao bố chưa về là lòng nàng
càng thấy xót xa.
***
Một
tuần lễ sau, bất ngờ Phượng nhận được cú điện thoại của Cúc, cô em gái
từ Việt Nam gọi sang. Bên kia đầu giây tiếng Cúc vang lên khẩn cấp:
- Chị Hai ơi, chuyện gì đã xảy ra mà vợ chồng chị đi đến ly dị?
Phương ngạc nhiên hỏi:
- Ai nói với em thế?
- Anh Cường chứ ai.
- Ông ấy gọi em à?
- Không, anh Cường về Việt Nam.
Phượng khựng lại một giây, rồi tiếp:
- Thấy chán nhau mà phải ép mình sống chung thì trở nên cực hình.
- Hèn chi mà anh Cường bảo em gọi chị gởi đơn ly dị về Việt Nam để anh ấy ký. Sẵn dịp anh tìm vợ ở đây luôn thể.
- Ôi, đầu đã hai thứ tóc, muối nhiều hơn tiêu mà đòi cưới vợ, ham hố! Muốn làm trò cười cho thiên hạ chăng.
- Lầm to rồi chị Hai ơi, chưa gì mà đã có người bám chân anh Cường rồi đó.
Họ có tiền, sẵn sàng nuôi anh ấy năm nầy qua năm khác, chỉ cần bảo lãnh họ qua được Hoa Kỳ thôi.
- Mầy nói thật hay đùa vậy Cúc.
- Chuyện một đời người em đâu dám đùa cợt với chị Hai.
- Thế con đĩ nào níu kéo anh ấy?
- Của chị buông ra thì người ta hứng có tội lỗi gì đâu mà bảo níu với kéo. Anh ai ở đây là vàng ròng đấy, Việt kiều mà!
- Nhưng tao hỏi mầy đứa nào muốn lấy ảnh, nói nhanh?
- Người đó có xa lạ gì với chị đâu!
- Nó tên gì?
- Chị Phượng, Trần Thị Phượng, hồi học cùng lớp 12 với chị.
Phượng cười mũi:
-
Tưởng ai. Ngờ đâu con “Phượng Ðỏ Mõ Dài”! Ngày đó, mỗi lần thấy ông
ường là nó trề môi trước mặt tao chê anh chàng thô kệch như nông dân.
-
“Ðừng tin những gì con gái nói...” Biết đâu ngày đó chị Phượng Ðỏ nói
ra nói vào để chị Hai tránh xa thầy Cường cho bà ấy thế chân, chẳng hạn
như bây giờ vậy.
- Ông Cường về Việt Nam bao lâu rồi?
- Gần một tuần lễ. Chị Hai ơi, thế nào chị cũng phải gởi gấp đơn ly dị cho anh Cường nhé.
- Hay nhỉ, mầy là em gái tao lại đi bênh vực người ngoài.
- Sao lại người ngoài. Dù thế nào đi nữa anh Cường cũng là “cựu” anh rể em, là cha đẻ hai đứa cháu thân yêu của em bên Mỹ mà.
-
Nhưng tại sao mầy xúi anh Cường lấy con quỷ Phượng Ðỏ. Tao mà thấy mặt
nó ở trên đất Mỹ nầy chắc tao tự tử chết để lại hai đứa con côi. Mầy nói
với anh Cường lấy ai cũng được trừ cái bản mặt con đó ra. Tao sẽ không
gởi đơn ly dị, ông ấy phải về Mỹ giải quyết.
- Nhưng mà chị Phượng Ðỏ thúc anh Cường tổ chức buổi tiệc ra mắt đấy.
- Nhất định không được, mầy bảo ông Cường gọi điện cho tao gấp.
Phượng
gác điện thoại, lòng rối bời. Chỉ một cơn giận hờn mà sinh ra đổ vỡ.
Khuya hôm ấy nếu Cường không bỏ đi, thế nào nàng cũng xin lỗi chồng để
làm hòa. Suốt ba đêm, Phượng trằn trọc không hề chợp mắt. Nàng nghĩ đến
những ngày tháng không chồng. Cảnh cô đơn, lạnh lẽo trong gia đình sẽ
đưa đến hậu quả nào đây. Nhất là hai đứa con bỗng nhiên không cha khiến
tim nàng quặn thắt. Mình có bước thêm bước nữa, thì lại cảnh con anh,
con em, con của chúng ta. Rồi lại sinh ra những bất hòa mới.
Từ hôm đó, ngày nào Phượng cũng gọi về Việt Nam để gặp Cường cho kỳ được, nhưng không có ai bắt phôn.
Ðêm
nay, cơn rét chợt đổ về. Ngoài đường tuyết bắt đầu rơi. Hai đứa con đã
ngủ từ lâu, Phượng cố dỗ giấc ngủ để lấy sức cho ngày mai đến sở làm.
Nhưng mắt nàng cứ mở thao láo hết nhìn trần nhà lại nhìn đồng hồ. Chợt
tiếng điện thoại reo vang. Phượng với tay lên đầu giường bắt phôn:
- Alô, tôi nghe.
- Xin cho gặp cô Phượng Hồng.
- Anh Cường, sao anh không về, em gọi anh suốt mấy ngày nay mà chẳng ai bắt phôn.
- Thì bây giờ anh gọi lại em đây.
- Anh đang ở đâu vậy?
- Ở trước cửa nhà.
Phượng
vất điện thoại vội vàng ra mở cửa. Cường vừa bước vào nhà, chưa kịp đặt
va-li thì Phượng đã nhào đến ôm lấy chồng, gục mặt vào ngực Cường khóc
rấm rứt. Dòng nước mắt vừa mừng vui, vừa hối hận của vợ đã khiến cho
Cường mỉm cười. Tiếng tít tít liên hồi của tổng đài điện thoại báo hiệu
điện thoại chưa off. Phượng lau nước mắt nhìn chồng rồi đến tắt phôn:
- Anh về sao không báo cho em đến phi trường đón.
- Có đi đâu xa mà cần đến hãng hàng không.
- Anh về Việt Nam mà.
-
Cô Phượng Hồng cản mũi kỳ đà thì làm sao Phượng Ðỏ dám đụng đến thầy
Cường. Ðó chẳng qua là sáng kiến của Cúc. Cô em biết rõ bài tẩy của bà
chị ruột mình mới được cái màn đối thoại vô cùng hấp dẫn qua điện thoại
đấy chứ.
Phượng sà vào lòng chồng, bẹo vào má Cường mắng yêu “Ông già mắc dịch”, rồi hai người hôn nhau.
Ngoài
trời tuyết rơi trắng xóa dưới cơn bão tuyết từ lục địa Canada thổi qua
như đánh bạt cơn bão trong nhà vợ chồng Cường để trở về với cảnh yên ấm.
Hạnh phúc lại được vun bồi nhờ vợ chồng hiểu rõ nhau hơn.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Kim Quy st
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEitpkG6MM74YOCYv1u6jVVOT0diASkDJkRJl-97hp2avD-t6Goa94O5w0SeyWMNdhfxswXsj7iQkJtTYQsWRuZFfoQRqXuxBYP40NoxsHtpyDcD0Cm9Ls5R_jcXLzMMGTgyVgQALKZgEn8/w400-h300-rw/Xuat-Khau-Gao-Sang-E.jpg)
Thầy Giáo Đi Gạo
Sau
năm 1975, đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, phải đối mặt với muôn
vàn khó khăn. Các nước tư bản bao vây cấm vận và chính sách kinh tế bao
cấp làm cho cuộc sống người dân
vô cùng khốn khó. Cơn lũ đói nghèo đã ập xuống. Sản xuất công nghiệp
như khựng lại vì thiếu vật tư nguyên liệu. Mọi nhu cầu vật chất thông
thường đều hạn chế, từ cây kim, sợi chỉ, viên đá lửa …
Không phải chỉ người thất nghiệp mà cả những cán bộ, công nhân viên
chức cũng thiếu thốn mọi bề, ngay đến cái ăn hằng ngày.
An là giáo viên
chế độ cũ được lưu dụng. Hằng tháng anh lãnh 54 đồng (sau đợt
đổi tiền lần đầu), mua trợ giá 13 ký gạo và một ít nhu yếu phẩm như xà
bông, bột ngọt, mắm muối … Gia đình với vợ và hai đứa
con gái mới lên năm, lên ba thì thu nhập ấy không thể nào đủ, ngay
cả chỉ riêng bản thân anh. Điều lo lắng nhất là gạo nấu hằng ngày. Thức
ăn có thể qua quít với tương chao, rau đậu, nhưng gạo
thì không thể thiếu. Mười ba ký gạo, dù có dè xẻn độn thêm khoai bắp
cũng chẳng thể đủ cho bốn miệng ăn trong tháng. Mua gạo ở thị trường
chợ đen bên ngoài giá rất cao, tiền đâu để An kham nổi.
Vợ anh mua rau cải bán dạo trong xóm, đồng lời rất ít, chủ yếu kiếm
thêm chất độn cho bữa ăn.
Mới
giữa tháng, nhà đã hết gạo. Chiều hôm qua, vợ An
vét mót hủ còn gần nửa lon. Chị mang về một rổ lớn rau đắng, thứ rau lá
nho nhỏ, mặt dưới màu tím, thân rễ trắng, thường mọc hoang nơi chân
ruộng góc vườn, vị rất đắng. Vợ An nấu nồi cháo lõng bõng.
Rau rửa sạch cho vào tô lớn trộn với ít mỡ nước và rắc thêm chút muối,
chút bột ngọt. Xong múc nước cháo nóng vào tô. Cần ăn nóng vì để lâu rau
chín sẽ rất dai và càng thêm đắng. Đứa nhỏ không thể
nào nuốt được thứ ấy, còn chị nó vì cơn đói cồn cào nên phải cố ăn. Nhìn
con trợn trạo nhăn mặt nuốt nhúm rau trong miệng, lòng An xốn xang. Cả
ba đều ăn rau để chút phần cháo đặc cho đứa nhỏ. An ăn
nhiều lần nên đã quen, rồi cảm thấy ngon. Từ vị đắng tiết ra chất ngọt
ngọt. Lòng thấm thía vị ngọt cơ hàn ẩn trong cái đắng nghét cuộc đời.
Nhưng An chẳng thể cầm lòng nhìn hai con đói thèm dù chỉ
là cơm lạt. An nghĩ đến chuyện về quê xin gia đình ít gạo. Anh cũng biết
chuyện mang gạo từ thôn quê ra tỉnh là vi phạm chủ trương chính sách
nhà nước, nhưng đâu còn giải pháp nào khác. Và anh cũng
hy vọng có thể giải bày tình cảnh của mình nếu bị chận xét.
Gạo
bấy giờ là mặt hàng lương thực bị quản lý và
kiểm soát rất gắt gao. Mỗi tỉnh đều lập ra các chốt trạm ngăn cấm người
dân mang lúa gạo rời khỏi địa phương. Một trạm nổi tiếng mà tất cả xe đò
miền Tây đều ngán ngại là trạm T.H. của tỉnh T.G.
Ngoài trạm cố định, còn có những toán du kích lưu động đột xuất. Có
quyền khám xét tịch thu tất cả mọi nhu yếu phẩm từ gạo, bắp, cá thịt đến
cả vài xấp bánh tráng, vài đòn bánh tét. Chính việc ngăn
cấm nầy làm cho giá gạo mỗi nơi mỗi khác và biến động hằng ngày. Từ quê
An cách thị xã chỉ hơn 30 cây số mà giá gạo chênh lệch gấp bốn lần (có
lẽ cái câu: Một uốn bốn lời phát sinh từ
đó).
Sự
chênh giá quá lớn nầy tạo ra đội ngũ đông đảo
người buôn chuyến, đi gạo lậu. Họ là dân thành thị, không nghề nghiệp,
không việc làm và đa số thuộc thành phần vợ con các quân nhân, công chức
chế độ cũ. Nạn thất nghiệp tràn lan đã sinh ra những
nghề chưa hề có trước kia: Bơm mực viết bi, bơm quẹt ga, vá dép, chạy xe
đạp ôm, quấn thuốc lá …
Dọc
theo quốc lộ khi ấy, người ta chứng kiến từng
toán người thường là phụ nữ, có cả trẻ em và người già. Họ mang đội
những bao gạo đi bộ giữa trời chang nắng, Các xe đò không dám nhận chở
họ vì sẽ bị phạt nặng, giam xe nếu cán bộ bắt gặp có gạo
trên xe. Gần đến trạm kiểm soát, cả toán tách lộ, lội ruộng băng đồng,
đi luồn lách trong vườn để vượt qua trạm. Có những cảnh tượng mắc cười
mà đau thắt: Những phụ nữ gầy gò hóa thành mụ robot phì
nộn bởi nhiều bịch gạo hoặc các tản thịt heo độn vào bụng, bó vào tay
vào đùi, che phủ bên ngoài bộ áo quần rộng thùng thình. Và các chị chạy
nhanh như vận động viên khi gặp quản lý thị trường, du
kích chận xét. Cũng có điều cay xót ở các trạm thường thấy cả đống thịt
hôi thối chưa kịp mang chôn hoặc nhiều bao gạo bị vứt đổ tung tóe, ẩm
ướt mốc meo. Và những chuyện tiêu cực thì thời nào cũng
có. Cán bộ mắng nhiếc, tịch thu người mang năm mười ký gạo, nhưng có kẻ
chở cả tấn gạo qua trạm dễ dàng trót lọt. Đó là những tay buôn lậu gộc,
đã móc nối chung chi với trưởng trạm hay có trong tay
giấy phép của ông lớn nào đó!
* * *
Buổi
trưa trên quốc lộ xuôi về miền Tây, trời nắng
đổ lửa. Nhựa đường như tan nhão dưới sức nóng rang rang. An lầm lủi đạp
xe, phía sau ba ga cột chặt bao gạo 15 ký mà gia đình gởi cho. Trên
đường xe cộ ngược xuôi ít hơn ngày trước. Xăng dầu khan
hiếm nên phương tiện vận chuyển cơ giới hạn chế. Người dân có khi phải
xếp hàng chờ đợi hơn nửa ngày mới mua được chiếc vé xe đi năm sáu chục
cây số. Đã xuất hiện những chiếc xe cải tiến chạy bằng
than đá, phun khói bụi mịt trờ
Thỉnh
thoảng An gặp từng toán năm bảy người đi dọc
lề lộ, người nào cũng vác một bao trên vai hoặc tay xách chiếc giỏ đệm.
Phía trên giỏ ngụy trang chất vài nải chuối, mấy trái đu đủ. Chắc chắn
bên trong bao và dưới giỏ đệm ấy là gạo. Đi hơn nửa
đường, An thấm mệt, mồ hôi rịn khắp người. Anh tưởng tượng đến khuôn mặt
hí hửng của con lúc anh về và nỗi vui mừng được ăn bữa cơm không độn
thật no. Sự tưởng tượng giúp An thêm sức, anh nhấn mạnh
bàn đạp.
Bỗng
xuất hiện hai cậu du kích trờ ra chận ngay
trước xe An. Họ đứng khuất sau một thân cây ven đường nên trước đó An
không nhìn thấy. Một người cầm cây gậy nhỏ đầu nhọn chọt đâm vào bao gạo
phía sau nói:
- Ông đi gạo lậu, bị tịch thu. Mời sang bên kia đường lập biên bản.
Đã
lường nghĩ đến trường hợp nầy nên An bình tĩnh
dắt xe qua lộ, lòng hy vọng gặp người tổ trưởng sẽ trình bày và xin lại
gạo. Đẩy xe vào sân căn nhà nằm ven lộ, thấy phía trước thềm nhốn nháo
nhiều người. An biết họ là dân đi gạo lậu bị bắt. Có lẽ
đây là trạm kiểm soát đột xuất của địa phương nên họ bất ngờ và không
kịp thông báo cho nhau. Bên trong nhà phía góc sau chất đầy các bao lớn
nhỏ, các túi đệm đựng gạo. Chệch phía ngoài, một cán bộ
còn rất trẻ, tay mang băng vải đỏ, vẻ mặt nghiêm nghị đang ngồi trước
chiếc bàn nhỏ. Có nỗi mừng khi An nhận ra đó là Dứa , đứa học trò lớp 9
của mình trước năm 75. Sự gặp tình cờ càng vấy lên nỗi hy
vọng tràn đầy mình sẽ nhận lại được gạo. Anh bước đến bàn, cũng có chút e
ngại của người phải xin xỏ. Dứa ngẩng lên, khẽ gật đầu nhận ra thầy
mình nhưng nét mặt vẫn lạnh lùng. Cậu ta nói
ngay:
- Ông là
thầy giáo có hiểu biết về chủ trương, chính sách nhà nước mà còn đi gạo lậu, tiếp tay phá rối thị trường. Vậy ông còn dạy ai!
An
như bị xối gáo nước lạnh vào mặt. Tiu nghỉu, lòng
quặng nỗi đau. Bao ý định giãi bày tan biến, An im lặng bước vội ra
ngoài, thấy bao gạo của mình bị anh du kích vụt chồng lên đống gạo. An
suýt đụng một bà lão ngồi lom khom quét bằng tay, gom những
hạt gạo rớt vãi ra đất do các bao bị lủng rách lúc mang vào góc chứa.
Nét mặt bà buồn buồn, lo lắng. An đoán bà cũng là người đi gạo bị bắt?
Từ đám người đứng trước hiên nhà, một cô gái bước
lại bên An. Có lẽ cô nghe câu vừa rồi của Dứa, hỏi An:
- Thầy còn
nhớ em không? Em là Liên, học trò cũ của thầy.
An
quay lại, nhận ra cô học trò trước đây. Anh gật
đầu và nói: “Liên Miên” để xác nhận mình nhớ cả đến biệt danh của em.
Liên có nước da ngâm ngâm, nét mặt rất có duyên. Cái duyên khó tả, dễ
gây cảm tình người đối diện. Có thể nhại câu thành ngữ để
bảo: Cái duyên đâm xuyên cái đẹp. Các bạn trong lớp chọc đùa, đặt biệt
danh là “Liên Miên” (Người Campuchia có da ngâm đen gọi là người Miên).
Liên hỏi :
- Thầy còn
đi dạy không?
Câu mỉa mai của Dứa: “Vậy ông còn dạy ai” vẫn âm
vang trong đầu nên An trả lời như một phản ứng cay cú:
- Không,
thầy nghĩ rồi
- Chắc
thất nghiệp nên thầy đi gạo, phải đến nông nỗi nầy?
An chẳng muốn kể lể tình cảnh của mình với đứa học
trò mới gặp nên khó trả lời, bèn hướng câu chuyện:
- Hoàn
cảnh gia đình em ra sao? Em cũng bị bắt gạo?
Giọng buồn buồn, Liên kể:
- Mẹ đang
bệnh, nhà còn hai em nhỏ. Em phải liều đi buôn.
Liên lấy một túi nilông, sớt từ chiếc giỏ đệm ra
chừng hai ký gạo đưa ấn vào tay An:
- Thầy cầm
lấy về dùng. Cho em chia sẻ với thầy
Liên nói tiếp như để An không kịp phản ứng, không kịp từ chối:
- Em bị tịch thu
50 ký, năn nỉ van xin đủ cách họ mới cho lại 10 ký … Thôi, em chào thầy
Liên vội bước nhanh ra lộ. Cầm bịch gạo trong tay, An xúc động, nói với theo:
- Thầy cảm ơn em.
Tiếng
cảm ơn như ép con tim làm An bật ứa nước mắt. Chẳng biết nước mắt vì
nghĩa cử của Liên hay vì câu trọ trẹ của đứa con nhỏ chiều hôm qua bỗng
vang lên: Con
đói bụng quá ba ơi
Máng
bịch gạo vào tay cầm xe, An đạp đi. Tấm lòng của Liên làm An nhớ lại
mới vừa tháng rồi, cũng vào
ngày cuối tháng, nhà hết gạo. An đến Sang, người bạn rất thân ở cùng khu
phố, cùng học chung rồi dạy chung một trường. Tình bạn gần 20 năm, đủ
dài lâu để hai gia đình khắn khít thân tình. Vợ Sang
cũng quý mến An, nhà có đám tiệc đều mời gọi nhau. Lúc bạn hữu sự thiếu
kẹt tiền bạc, An sẵn sàng cho mượn mà chẳng hề suy tính.
Lúc qua nhà Sang, gặp chị vợ. An hỏi mượn đỡ hai lít
gạo. Chị có vẻ suy nghĩ, lưỡng lự rồi nói:
- Nhà tôi
cũng hết gạo rồi. Anh thông cảm
An
khựng cả người nghe vợ Sang từ chối. Mới hôm qua,
lúc ngồi uống trà, Sang còn hồ hởi khoe: Có thằng em vợ làm trong ban
quản lý thị trường. Nó tịch thu gạo của dân buôn, mang cho tao hơn hai
chục ký. Lặng nỗi buồn thế thái nhân tình, An tự biện bác:
Trong thời buổi khó khăn, người đàn bà nào cũng lo xa, phòng thủ cho gia
đình chồng con mình.
Lúc
bình thường dư giả người ta có thể giúp nhau dễ
dàng, nhưng trong tình cảnh khốn khó thể hiện được tấm lòng chia sẻ với
nhau mới thật trân trọng đáng quý. Thế nên đôi lít gạo của Liên đã làm
An xúc động, rưng rưng …
* **
Dù
không nghĩ nhiều về chính trị, nhưng sự thay đổi
của đất nước hôm nay đã minh chứng một điều: Trong một chính thể có
những lãnh đạo sáng suốt, luôn lo nghĩ đến dân, biết trăn trở với những
khiếm khuyết sai lầm. Mạnh dạn tìm cách thay đổi, không bảo
thủ giáo điều thì chắc chắn đất nước ấy sẽ tiến bộ, chính thể ấy sẽ được
lòng dân, được dân tin tưởng. Lòng tin nơi chế độ đã thể hiện khi một
số người trước kia từng vượt biên đôi ba lần, nay lại
tuyên bố: Nếu được cho ra đi tự do không điều kiện thì cũng chọn ở lại
quê hương nầy, và nhiều Việt kiều đã trở về sinh sống làm ăn.
Vâng,
sau hơn 20 năm đổi mới, từ nền kinh tế bao cấp
chuyển sang kinh tế thị trường có định hướng, mở cửa hội nhập với các
nước, xã hội thay đổi rất nhiều. Bộ mặt đô thị phát triển mở rộng đến
ngỡ ngàng người xa xứ. Cuộc sống người dân sung túc đầy đủ.
Chuyện sắp hàng chen lấn, chờ đợi cả buổi chỉ để mua ký đường, mét vải
nghe như trong cổ tích. Các vật dụng từng là cao sang quý giá trước kia
như máy lạnh, máy giặt, xe gắn máy … trở thành tiện nghi
thông thường của cư dân đô thị. Lúa gạo dồi dào, xuất khẩu gạo đứng hạng
nhì thế giới. Nhiều gia đình kén chọn, chỉ ăn gạo ngon gạo thơm đặc
sản.
Giờ
đây, tuổi đời gần xế bóng, đôi lúc An bùi ngùi
nhớ lại chuyện ngày xưa, chợt thèm tô rau đắng nước cháo thuở cơ hàn. Vị
đắng của thứ rau tầm thường như thấm sâu vào ký ức kéo nhớ đến lần bị
bắt gạo, đến cô học trò tốt bụng. Từ đó đến nay An chưa
gặp lại Liên, anh suy đoán có thể Liên đang định cư ở Mỹ vì ba em là sĩ
quan chế độ cũ. Còn với gia đình Sang, An vẫn giữ thân tình như thuở
trước.
Cứ
nghe An nhắc chuyện khó khăn thời bao cấp, hai
đứa con gái cho rằng An lẩm cẩm, bảo: Phải sống theo thời, khi có điều
kiện thì cứ tiêu xài thỏa thích, việc gì phải ép mình tiết kiệm, chết có
mang theo đâu! Nhưng sự thiếu đói của ngày ấy và chứng
kiến hiện nay còn không ít người vẫn khó khăn làm An luôn tiếc xót, bức
xúc trước thói xa hoa, tiêu xài hoang phí. Trong nhiều tiệc liên hoan,
cưới hỏi ở nhà hàng, những tô cơm trắng, những dĩa thức
ăn vung đầy cá thịt bỏ thừa mứa, mang đổ bỏ. Hình ảnh đứa con mếu máo vì
đói, hình ảnh bà lão ngồi lượm từng hạt gạo rơi rớt lại hiện ra trong
trí tưởng của An.