- Này là sông Hậu chảy qua đất quê mình. Dẫu có đi trăm phương ngàn hướng rồi sông cũng dẫn mọi người tìm về đất quê…
Đó là câu mở đầu bài thơ của bạn tôi viết mười lăm năm trước. Mười lăm năm cảnh báo về sự mòn xói, tiêu biến một giá trị văn hóa thuần Việt, được hình thành theo bao số phận người nông dân từ núi qua trung châu tới đồng bằng sông Hồng.
Giờ ngẫm càng thấm, vì tôi cũng có cánh đồng tầm khúc của riêng mình, có bánh khúc mẹ làm mỗi độ mùa sang. Ăn bánh khúc hái rau tầm khúc. Ngọn rau đồng chiếc bánh quê, những thức thân thuộc đến mức trơ lỳ rồi thành xa lạ; tới một ngày ta theo thói quen với tay ới gọi, thì mới bần thần ngơ ngác nhận ra xung quanh chỉ là khoảng trống của đêm đen.
Mỗi sớm mai se sẽ hơi may hay đêm khuya xa lạnh nhức tiếng rao của người bán dạo ấm áp, đơn độc đủ xuyên qua những bức tường rêu những cánh cửa khép chặt mà các chủ nhà hay gia nhân đang thiu ngủ bỗng choàng tỉnh.
“Khúc đơ…ơ ơ ơ. Bánh khúc lóng đơ …ơ ơ ơ”
Thoáng nghe thực khách đã biết cần phải ra đón hay là chờ một tiếng rao khác. Bởi nó là thứ âm thanh chứng nhận xuất xứ của bánh khúc.
Ai người Hà Nội ai người phố thị dọc mấy triền sông xứ Bắc đã mấy quên hình ảnh gã nông phu từ quần dải rút dép lốp đến quần bộ đội vá mông vá gối, giày vải lòi ngón chân út, so vai rụt cổ lầm lũi đội đầu chiếc thúng đại đan cật tre xông khói rơm. Gã chuyển động bền bỉ tự tin như trên luống cày, hai tay bơi gió lạnh, chiếc thúng đu đưa theo nhịp bước.
Tiếng kẹt cửa mơ hồ hay âm tiết cuối rơi tõm sau lưng. Chỉ bằng trực giác, gã bánh khúc cũng phân biệt được đâu là âm thanh níu giữ. Xoay người như nghệ sỹ xiếc, thoắt, gã đã đứng trước mặt ta, nhún thân, hạ người nửa quỳ nửa ngồi đỡ chiếc thúng trên gối.
Câm lặng và âm u, chỉ đôi bàn tay thô nhám như cành khô bỗng uyển chuyển, gợi đến miền thành kính. Gã trịnh trọng mở năm tầng bảy lớp lá chuối khô, đậy vài lượt vải buồm lá cói khui ra và nâng niu chiếc bánh khúc sáng mờ khói ấm. Cùng lúc mùi ngon bồn chồn dâng lên. Bởi mùi bánh khúc nóng là cái mùi đa sắc của mấy loại sản vật tươi mới kết hợp với nhau nhuần dịu được gieo trồng nâng đỡ trên cùng một cánh đồng. Một mùi thơm ngậm ngùi liên tưởng đến bao nhiêu vùng miền…
Hấp tấp hai lòng tay chao chuyền chiếc bánh rau tầm khúc nóng giãy, vừa đợi nhận lại tiền lẻ, ta vừa tìm cách cắn ngay một miếng cho bõ thèm. Giời ạ, một cái rùng mình vì nóng và…vì vị ngon hư thực bâng khuâng. Miếng tiếp theo, hay tiếp theo nữa, miếng nào cũng hấp tấp như là miếng đầu tiên của chiếc bánh đầu tiên. Dù có đang khuya lạnh, khoan khoái ta bỗng thấy cả cánh đồng xanh, cả cơn mưa Giêng Hai tắm lộc, và bóng hình cô bé hàng xóm bê rổ ngang lưng bước nghiêng nghiêng đi kiếm hái rau tầm…
Gã bánh khúc chờ ta nuốt xong miếng bánh mỉm cười viên mãn.
Mùa bánh khúc của năm bắt đầu khi cữ gặt tháng Mười. Ấy là lúc hạt rau tầm âm thầm bật mầm dưới gốc lúa chân ruộng cao hay cánh bãi trồng màu khô ẩm. Ngô lúa vào bồ, lẫm chưa ấm chỗ thì nơi chân rạ gốc ngô, giữa vạt rau má lá tròn, lá gai và rau xương cá xanh mướt là những lan man tầm khúc nếp phủ dày lông tơ sáng mịn xôm xốp đeo long lanh những hạt cườm sương mới nơi chấm hoa li li vàng màu cúc.
Một mùi thơm hắc ngọt, trầm dịu la đà khi có khi không trước cảm giác kéo lơ lửng qua suốt thì Tết tới Giêng Hai. Mùa rau tầm khúc.
Háo hức những bàn chân trần tấy đỏ, ướt lạnh tung bước xua châu chấu cào cào xập xè trong chuỗi cười giòn như chuông pha lê. Ấy là mỗi sớm mai lũ trẻ làng đi kiếm rau tầm…
Sương giăng loang, mỗi khi giẫm lên mùn chuột đào hang, tôi rùng mình vì cái cảm giác lạnh nhột nơi gan bàn chân, nhưng không bớt đi sự hung hăng chạy lên phía trước xí phần những khoảng mặt ruộng sáng trắng. Chỗ nào càng sáng thì rau tầm khúc mọc càng nhiều.
Và tôi, học đến lớp năm mà vẫn phải để cho “con bé lớp ba” giảng thế nào là tầm khúc nếp, tầm khúc tẻ. Bài học ấy đận nào tôi cũng lẩm nhẩm nhập tâm, vậy mà thứ tôi kiếm về bao giờ mẹ cũng lựa bỏ hơn nửa là tầm khúc tẻ. Tiu nghỉu bỏ đi, tôi vẫn còn kịp nghe “con bé lớp ba “ trong lúc phụ giúp nhặt thóc, lựa sạn ngâm gạo xôi, phân bua với mẹ rằng cháu đã bảo anh í là khúc nếp lá nhỏ, phiến dày, đốt ngắn cành mau và thơm nưng nức í.
Đã thành lệ mấy chục năm cứ đầu mùa rau tầm nhà tôi làm hai chõ bánh khúc tân, biếu mấy người bạn thâm giao của ông nội thuở học trường Bưởi và để cả nhà thưởng thức. Lệ biếu bánh khúc, được mẹ giữ nếp ngay cả khi ông nội mất.
Cho đến bây giờ tôi vẫn cảm được sự tất bật lo lắng và cả thành kính khi mẹ xoay xỏa cho đủ những thức ưng ý giữa thời gạo hẩm mắm khem. Mẹ nhờ người này, nói khó người kia mua cho kỳ được gạo nếp cái hoa vàng Hưng Yên, gạo tẻ Thượng Bằng La - Nghĩa Lộ, mật mía de Tuyên Quang, đỗ xanh, vừng, lạc nhân Nghệ An, cùi dừa tươi Thanh Hóa, thịt ba chỉ lợn ỉ Hòa Bình, hành hoa trồng đất cát. Cối đá xanh Ninh Vân và chày gỗ nhãn…
Gương mặt mẹ rạng rỡ sắm nắm thứ này, nhấc đặt thức kia. Mẹ dạy rằng, bánh khúc là thứ bánh bình dân, ai cũng làm được, ai ăn cũng hợp nhưng để nó trở thành quý phái, sang trọng, ngoài tay nghề tinh tế thì nguyên liệu tươi ngon giữ vị đứng đầu. Và nữa…mẹ thì thào, mình phải thương yêu những chiếc bánh khúc mình làm con ạ.
Chọn gạo nếp cái hoa vàng Hưng Yên vì nó được trồng ở nơi hồ ao nuôi cá một vụ, cây lúa chỉ dùng màu mỡ tự nhiên. Gạo tẻ của giống lúa gié Nghĩa Lộ sinh trưởng dài ngày ở miền núi, bột xay mát mịn, khi kết hợp với bột gạo nếp sẽ được phần thịt bánh dẻo mềm đàn hồi.
Mía de Tuyên Quang thơm thanh ngọt dịu nhờ chất đất đá vôi. Dừa, lạc nhân, vừng miền Trung bùi đậm có hậu là do ở nơi thời tiết hai miền khắc nghiệt giao tranh. Lợn ỉ vốn là giống lợn nhiều mỡ, nên thịt ba chỉ làm nhân không ngấy mà còn thơm chẳng kém bơ Pháp. Hành hoa đất cát thì xanh giòn, ít hăng cay. Cối Ninh Vân lỳ mặt giã nhiều không bị thôi bột đá, chày gỗ nhãn dai bền không tiết chất độc,…
A, còn điều quan trọng: dụng cụ hấp bánh. Chõ đồ nếu có “hông” làm bằng gỗ dái khỉ, một thứ cây thuộc họ sung của người Mường Hòa Bình thì hợp nhất. Lựa chọn thứ hai được chấm cho chõ gốm Hương Canh. Nhưng chõ gốm phải luộc kỹ trong nước chè xanh đậm đặc vài lần, ngâm suốt tuần. Nồi chưng hơi nước dùng đồ gang mới tránh được vị tanh kim loại.
Tôi không thể nào rời mắt mỗi khi mẹ làm bánh khúc. Hình như mẹ đang tiến hành những thao tác của một nghi lễ trang trọng. Mẹ mặc chiếc áo phin nõn nâu non mới, tóc quấn cao sau gáy thơm mùi bồ kết, gian bếp gạch bát đỏ son sáng rỡ. Chiếc nia cật tre ngả màu cánh gián óng ả. Bột rau tầm lọc xơ tỏa khói, bột nếp khô trắng ngời ngợi, đỗ xanh đồ vàng mơ, nào làm nhân mặn, nào dành nhân ngọt, thịt lợn ba chỉ thái hạt lựu, xào cháy cạnh, hành hoa, hạt tiêu đen,…
Cũng là bột ấy, cũng là rau tầm đồ lọc xơ ấy dưới tay mẹ nhồi mươi phút đã là thứ bột xanh ngọc lóng lánh thơm ngẩn tưởng có thể ăn vụng. Mỗi lẫn miết nhón vào khối bột vẩy cổ tay nghiêng xuống mặt nia mẹ đã lẩy ra được một phôi bánh. Những phôi bánh xếp hàng trông như bầy ốc bươu ăn mỡ, mười chiếc bằng nhau cả mười.
Chỉ bằng uớc lượng và cảm giác, mẹ kết hợp các nguyên liệu hỗn độn cho đến khi xếp bánh là vừa khít trong chõ đồ. Không thừa không thiếu đến một cọng hành, mảnh lạc, hạt vừng…
Vạn vật được hun đúc bởi ngũ hành nên nghệ thuật dùng lửa sao cho bánh không hấy, không nồng, gạo nếp bao se bóng, mặt bánh căng, nền bánh giữ được màu xanh nguyên thủy của rau tầm. Khi cắn miếng bánh nhỏ nhẹ nhai và ngẫm nghĩ thì ngay cả với người không mấy sành vẫn nhận ra mùi vị của từng thức, dù đó là nhân mặn hay nhân ngọt.
Đầu vị mùi rau tầm ẩn tàng trong mùi nếp cái hoa vàng, tiếp là đậu xanh…nữa là…thôi tôi không dám nữa, kể thêm chỉ những nặng lòng.
Xưa ăn miếng bánh khúc tôi nào nhận ra có bao nhiêu sự kỳ công của mẹ. Khép cửa tránh gió tạt, mẹ ngồi lui cui bên hỏa lò, củi chẻ đun liu riu, ngọn lửa bùng loang vừa kín đáy nồi. Mồ hôi cũng loang trên trán, thi thoảng mẹ âu yếm đặt tay lên nắp vung lót lá chuối tươi, như lắng nghe tiếng nói của những chiếc bánh. Mẹ ru rín và cưng nựng chúng như là sắp sửa hát cho chúng nghe. Cữ mười lăm phút lại rút củi, dập lửa hai phút. Trầm ngâm.
Một tiếng sau cánh của bếp mở, mẹ ngân nga gọi tôi lấy chiếc hộp sơn mài cốt tre màu đỏ tịm, chiếc làn tre hình giỏ ấm lót bông gòn trong ngăn bên phải tủ chè.