Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

Nhạc - Thơ - Văn Tết đến rồi, về nhà đi con!

Hoàng Oanh - Hoa Xuân


 

Trở về thôi
Hoa mai chừ nở rộ.
Đón mừng Chúa Xuân về...
Mong chờ con nhđến,
Xa lìa khỏi bến mê

Khúc Xuân chờ sum họp,
Ngoài sân kìa gió Xuân.
Chờ người xa về đến,
Vui Xuân biết bao lần !?

Hoa đào chúm chím nở,
Đợi chờ phút Xuân sang...
Chờ phút giây hạnh ngộ,
Ôi, tình Xuân nống nàn !!

Ta về nơi quê cũ,
Lòng đau đáu nhớ quê...
Liệu người xa xôi ấy,
Chừ biết ta quay về ?!!
NM


 

 

 

  

 

Tết đến rồi, về nhà đi con!

1. Đã bao lâu rồi kể từ lúc Luân về nhà lần cuối?

Giữa lúc ngớt việc tạm thời trong một ca làm thêm, Luân bất chợt nghĩ đến điều ấy. Cậu trai mới lớn bỗng chốc cảm thấy kì lạ với những cảm xúc đang len lỏi trong lòng mình.

Gia đình Luân cũng chẳng phải kiểu khá giả gì nhiều cho cam, chỉ thuộc dạng đủ ăn đủ mặc trong xóm. Ba má chỉ có mình Luân. Ngày trước, nhà nội Luân nghèo lắm, ba lại là con cả trong gia đình, bỏ học sớm, quần quật sớm hôm phụ giúp ông bà, để rồi đến khi giật mình lại, thì tuổi xuân đã trôi xa lắm rồi. Đến lúc cô Út tự lo được cho cuộc sống của mình, cũng là lúc bà nội ngỡ ngàng nhận ra thằng con cả nhà mình vẫn phòng không chiếc bóng.

Bà thương lắm, thế là bà đi hỏi người mai mối, bà dò hỏi khắp làng trên xóm dưới, xem có ai chịu thương thằng con số khổ của bà không. Bà chẳng dám hi vọng chi nhiều, vậy mà có thật, có cô thợ may cuối xóm chịu về với thằng con trai bà. Đám cưới của ba má Luân ngày ấy chẳng có chi nhiều, chỉ có vài ba mâm cơm ra mắt gọi là có lễ. Thế là xong.

Trong những câu chuyện sau này ba kể, mỗi khi nhắc về má, ông luôn không ngại ngần che giấu sự biết ơn của chính mình. Luân ra đời khi ba đã ngoài 40, nên có lẽ vì thế mà trong tình yêu thương của ông luôn mang theo sự nghiêm khắc và âu lo. Lo Luân chưa kịp lớn thì ông đã già, lo không bên Luân được lâu dài trên chặng đường sau này. Nên ngay từ những ngày tấm bé, Luân luôn có phần gần gũi má hơn ba.

2. Má Luân là người phụ nữ tuyệt vời. Bà dịu dàng và hiền dịu đến nỗi thằng Tèo trong xóm ngày ấy luôn tị hiềm cùng Luân, vì sao cả hai đứa cùng nghịch dưới ruộng, cả hai đứa đều lấm bẩn đầy mình, mà chỉ mình nó bị má rượt đánh khắp xóm, trong khi má Luân lại chẳng hề nói nặng một lời. Trong kí ức thơ dại ngày ấy, với Luân, má là người có nụ cười đẹp nhất, có bàn tay đẹp nhất, là người khéo nhất cả xóm. Mỗi lần có ai đó hỏi, Luân vẫn luôn ưỡn chiếc ngực nhỏ bé của mình lên rồi dõng dạc giới thiệu má mình.

Tuy nhiên má Luân bệnh nhiều, những căn bệnh nặng có, nhẹ có cứ khiến má cậu gầy yếu hẳn đi. Có những thời điểm, ba phải gửi Luân lại nhà cô Út để đưa má đi chữa bệnh khắp nơi. Má luôn cười và trong những kí ức về khoảng thời gian cuối cùng ấy, chưa bao giờ Luân thấy nụ cười tắt trên môi má. Má đi khi Luân vừa tròn 15, cái tuổi vừa đủ để biết khoảng trống một người thân yêu để lại là hoang vu và đớn đau đến nhường nào.

Đã từng có khoảng thời gian, Luân giận ba ghê gớm, giận ba đã không thể giữ má lại, giận ba đã không cố gắng hết sức, mặc dù Luân cũng hiểu được những điều ấy là vô lí đến chừng nào.

Đến mãi sau này Luân mới hiểu, cậu giận ba như một cách để trốn tránh sự dằn vặt của bản thân mình. Dằn vặt khi không kịp hiểu chuyện sớm hơn, dằn vặt khi không kịp lớn để mang đến cho má nhiều điều tốt hơn, dằn vặt khi chưa bao giờ nói với má rằng cậu thương má biết chừng nào.

Lần đầu tiên Luân thấy ba khóc ấy là khi cậu đột ngột trở về nhà sau khi đã xin phép ở nhà bạn. Giữa màn đêm thăm thẳm, cậu thấy ba đứng trước bàn thờ má, nâng niu lau tấm di ảnh má một cách chậm rãi và từ tốn, mặc cho khóe mi hoe đỏ những dòng lệ chảy dài.

Và đó cũng là lần đầu tiên Luân chợt hiểu, ba mình là người đàn ông giàu tình cảm đến độ nào. Những giọt nước mắt ấy như chiếc cầu nối vô hình, khiến Luân gần lại với ba hơn hẳn.

Cậu học cách nấu ăn, học cách dọn dẹp nhà cửa, học cả cách đơm cúc áo. Tuy rằng những món ăn cậu làm có đôi khi vẫn nhầm đường thành muối, mặc dù có đôi khi căn nhà cậu dọn dẹp bề bộn hơn lúc ban đầu và cũng lắm khi chiếc cúc vừa đơm chẳng thể nào gài được vì lệch vị trí, thế nhưng cậu thấy ba vui nhiều. Và cũng vì một lẽ, cậu muốn ba cảm nhận được rằng, cậu kính trọng và thương ông biết bao nhiêu.

3. Rồi ba lấy vợ, phải lòng người phụ nữ góa bụa đầu thôn. Chồng mất sớm, bà ấy cũng một mình đơn độc, chẳng con chẳng cái.

Luân khi ấy, gần như phát rồ cả lên. Cậu có cảm giác như bản thân mình bị đâm một nhát dao “phản bội” bởi chính người mình kính trọng nhất. Cậu cảm thấy gia đình ấy, đã chẳng còn là một gia đình mà cậu luôn muốn trở về nữa rồi.

“Ba mong con hiểu”.

“Con không bao giờ hiểu được”.

Luân nói như thế trước khi lên đường trở lại thành phố, bắt đầu chạy đua với chương trình học dày đặc, với những công việc làm thêm liên miên, cốt để không trở về nhà, trở về một nơi mà Luân đã mặc định “xa lạ”.

Đêm.

Luân trở về căn nhà trọ vắng hoe. Giờ này có lẽ thằng Hiếu đã say bí tỉ ở chốn nào rồi. Có tiếng gõ cửa phòng khe khẽ, bà chủ nhà gửi Luân một phong thư. Ai nhỉ? Ai lại viết thư giữa thời đại 4.0 như thế này?

“Luân,

Là dì đây. Con thế nào rồi? Khỏe không con?

Con ăn uống đầy đủ không? Có thiếu thốn gì không con?

Dì không biết mình có nên viết những dòng này không nên cứ nghĩ hoài, nghĩ mãi. Nhưng thấy ba con mong con quá, nên dì lại chẳng đành lòng. Ba con cứ ngồi bên điện thoại mãi, nhấc lên rồi lại để xuống. Những lần như vậy là ổng lại ngẩng đầu nhìn bàn thờ má con rồi thở dài.

Càng gần những ngày cuối năm thế này, ba lại càng mong con. Tuy ba con chưa từng mở miệng nhắc tới, nhưng dì biết ba luôn đợi tin con về. Luân à, Tết này về nha con! Về cho ba con được vui, về thắp cho má nén hương nha con.

Dì Tâm”.

Những dòng chữ tròn tròn, nắn nót ấy chẳng hiểu sao lại khiến lòng Luân buồn quá đỗi! Luân nhìn ra ngoài kia, không khí Tết đã rộn ràng lắm rồi mà sao Luân chẳng cảm nhận được nhỉ. Đã 2 năm rồi, Luân chưa có cho mình một cái Tết trọn vẹn. Luân cứ nhìn người ta vui Tết, rồi tặc lưỡi vội vàng di chuyển đến những nơi làm thêm.

Bỗng nhiên Luân thèm Tết, thèm những lúc má nhóm lò trước sân, gọi ba nhắc lên giùm nồi nước. Thèm cả lúc hai cha con hì hục đi lựa gốc mai trên rẫy, cự nự qua lại hồi lâu mới chọn được cành mai mang về. Thèm luôn cả cái không khí nôn nao, nhà này sang nhà kia biếu cặp rượu hay mấy hũ kiệu, dưa món. Nhớ lắm lúc má kéo dậy tinh sương sớm 30, cùng má đi chợ. Đi rã cả chân để rồi đổi lấy hai bàn tay đầy ắp đồ. Chỉ được cái sướng dạ khi nghe mấy cô mấy bà khen: “Con nhà chị Thơm lớn tướng chưa kìa, má nhờ được rồi! Sao mà nuôi giỏi thế!”.

4. Chiều 30, Tết đã về trên khắp các con ngõ của xóm nhỏ thân thương. Lũ trẻ nô nức chạy từ nhà này sang nhà khác. Mai đã rộ bên hiên nhà ai từng bông vàng ruộm nắng. Hương Tết thấm đượm cả không gian.

Luân chần chừ trước ngõ hồi lâu, nhìn người đàn ông đi đi lại lại trong sân, chốc sửa sang lại vị trí của nhành mai, chốc chốc chỉnh lại chiếc bàn trước sân để chuẩn bị cho đêm nay cúng giao thừa. Luân chẳng ngờ, mái đầu ba đã bạc đến nhường ấy, tấm lưng kia cũng chẳng còn thẳng như trước.

“Ba!”.

Người đàn ông ấy quay sang tắp lự, đôi mắt sau cặp kính lão sáng lên những tia rạng ngời.
Ông không cười, cũng không có chút cảm xúc khác biệt nào trên gương mặt, nhưng Luân biết, ba đang mừng lắm, vì bàn tay đang vỗ lên lưng Luân vẫn run run.

“Về là tốt rồi! Về là tốt rồi!”.

Luân vào thắp hương cho má. Bàn thờ má sạch tinh tươm, hương hoa ly má thích nhất thoảng trong gió chút hương bình an đoàn viên, trái cây đơm đủ đầy và tươi mới. Nụ cười của má, vẫn luôn dịu dàng như ngày ấy.

Luân xuống bếp, nồi măng hầm nóng hôi hổi, những đòn bánh tét xanh màu lá tươi vẫn đang đợi đêm nay nhóm bếp.
Chỉ nhìn thôi, cũng đủ biết tất cả những tinh tươm này đều nhờ tay một người phụ nữ.

Luân quay sang ba, ngập ngừng mãi hồi lâu rồi mới hỏi:

“Dì Tâm đâu rồi ạ!”.

Ba ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đành nói thật.

“Dì lo con không vui nên trở về căn nhà dì ở trước đó rồi!”.

Luân yên lặng, chẳng ừ hử gì thêm.

Gần khuya, Luân cùng ba sửa soạn mâm cúng. Khi mọi thứ đã xong xuôi, Luân khoác thêm áo rồi ra ngoài.

“Con định đi đâu?” - Ba Luân gọi với ra.

“Con… đi gọi dì”.

Nói rồi cậu trai chạy mất hút vào màn đêm, mượn sắc đen của trời để che đi đôi tai đang ửng đỏ lên vì ngượng của mình.

Tết về rồi! Và thật may, khi Luân vẫn còn nơi để trở về.

ST 

 

                             
       Ấm áp Xuân về

Một mùa Xuân nho nhỏ,
Ấm áp đến vô cùng...
Hương mai vàng đang nở,
Đón chờ chúa Xuân sang !!

Ta nghĩ về gian nhà nh,
Nhìn Xuân đang thắm tươi...
Chợt thấy lòng ấm áp,
Như nụ hoa đang cười !!
NM

Mùa Xuân nho nhỏ...

Gần về khuya trời lạnh, lại thêm những hạt mưa lây rây nên cảm giác càng lạnh hơn. Con đường cũng bớt dần tiếng xe gầm rú. Tuấn thắp một nén nhang lên chiếc bàn thờ đơn sơ trong căn lán quây tạm giữa công trình, định tăng volume chiếc tivi nhưng chiếc máy cũ, đã bị tha lôi hết công trình này đến công trình khác vẫn ì ra, âm thanh có vẻ càng tậm tịt.

Giờ này chắc Vân đang thịt gà, chuẩn bị cỗ cúng giao thừa. Đến tội, lát nữa cúng khấn thể nào cũng mếu máo. Tuấn đã mua, để sẵn cuốn sách Văn Khấn Nôm vào ngăn tủ từ ngày lang bạt theo các công trình, dặn Vân lễ nào lịch nấy, cứ lấy sách ra mà đọc.

Thằng cu hẳn là ngủ rồi, hoặc đang xem tivi. Hôm kia, lúc tạt vội về báo hai mẹ con là Tết này anh phải trực công trình, thằng bé đần mặt ra: “Thế mình không về ông nội, ông ngoại hả bố?”. Suýt Tuấn rơi nước mắt trước mặt thằng bé. Anh giải thích loanh quanh, nào là năm nay mọi người vất vả cả rồi, có bố là còn tương đối thảnh thơi, lại thỉnh thoảng vẫn được về thăm nhà nên phải trông công trình cho mọi người về quê ăn Tết; nào là mai kia ra Giêng, bố về thì bố con mình đi sau. “Lúc ấy Tết mới to”, anh nháy mắt nhưng thằng bé xịu hẳn mặt xuống.



Vân cũng buồn không kém. Nghe anh nói, Vân im lặng. Một sự đồng cảm không lời. Vân biết, lý do này nọ anh đưa ra chỉ là ngụy biện thôi. Sâu xa là anh muốn kiếm thêm ít tiền. Tuần trực Tết, lương ngày công tăng gấp ba cũng thêm vài triệu.

Năm 2022 là một năm kỳ lạ. Qua Tết Nhâm Dần, dịch dã được kiểm soát, anh được công ty động viên trở lại thành phố đi làm. Lại được công đoàn lo bố trí thuê giúp sẵn chỗ ở. Xe công ty về tận nơi đón anh cùng mấy chục công nhân trong huyện đi làm. Đời làm công nhân như anh chưa bao giờ được thế...

Những tháng đầu năm tăng ca ào ạt, phúc lợi lên cao. Ai cũng mừng. Rồi không hiểu sao mỗi ngày lại thấy mọi sự thít lại, việc giãn ra. Anh và đồng nghiệp phải nghỉ cầm chừng. Đến tháng 7, tháng 8 thì việc đứt hẳn. Công ty kêu khó, công đoàn động viên. Mỗi người nhận ít trợ cấp rồi trở về nhà.

“Không đi làm xa nữa anh ạ, vất vả, bấp bênh mà được đồng nào rải đường hết. Ngay ở đây có doanh nghiệp xây dựng đang tuyển bảo vệ, anh thử xin vào làm xem có được không?”, Vân nói.

Tuấn xin việc và được nhận. Đó là một doanh nghiệp xây dựng nhỏ. Hai năm dịch bệnh, họ “đắp chiếu” đến gần chục công trình ở mấy huyện quê anh. Chỗ này một trường tiểu học dở dang, chỗ kia đoạn kênh mương thủy lợi, chỗ nọ một trạm y tế, chỗ khác nữa là một bức tường rào khu hành chính cơ quan...

Cứ tưởng công việc ổn định, gần nhà, ai ngờ chừng một tháng thì anh bị điều đi công trình khác. Ở đó chừng một tháng lại bị điều đi công trình khác nữa. Cứ thế, đến công trình này là thứ năm hay thứ sáu rồi.

Lần đầu bị điều động đi nơi khác, Tuấn định gặp giám đốc trình bày xin ở lại, anh bạn đồng nghiệp tên là Thảo bảo: “Thôi ông ạ, họ điều đi thì cứ đi thôi”. “Nhưng đây và chỗ mới khác gì nhau. Tôi lại mới đi làm được một tháng?”. Anh bạn cười hì hì: “Họ có lý cả đấy. Mèo già hóa cáo. Ở lâu một chỗ, ông quen biết dân địa phương, nếu có tính tắt mắt thể nào cũng ăn cắp ít sắt thép, xi măng tuồn ra ngoài. Họ có kinh nghiệm từ những vụ trước ông ạ”...

Tuấn lấy chiếc đèn pin, dạo một vòng quanh khu vực công trường. Khắp nơi, gạch đá ngổn ngang; mấy chục bao xi măng được vất chèn đầy một cầu thang xây dở. Trong lòng một căn phòng mới hoàn chỉnh phần mái, một đống sắt thép, loại cuộn tròn, loại cây thẳng đến mấy tấn vất chỏng chơ. “Ông Thảo nói đúng. Lúc này mình ăn cắp vài cây thép cũng chẳng ai biết. Còn xi măng có cho mình cũng không thèm, chẳng được bao nhiêu tiền, đèo hỏng cả xe”, anh thầm nghĩ.


Có chuông điện thoại, Tuấn mở máy nghe. Đầu dây bên kia tiếng Thảo lẫn với tiếng nhạc ầm ĩ: “Ông có ở công trình không hay đi đâu?”. Anh giải thích mình đang đi ngó xung quanh. Thảo nói to: “Ông về lán ngay nhé, giám đốc đến thăm đấy!”.

Tuấn vội vàng chạy về lán thì thấy ba người đã ngồi đó. Ngoài giám đốc công ty còn có trưởng phòng hành chính, nhân sự và một chị còn trẻ mặc chiếc áo màu xanh, ông giám đốc giới thiệu là cán bộ công đoàn huyện. “Công đoàn đến thăm, tặng quà anh trực Tết. Lẽ ra chúng tôi báo anh sớm hơn, nhưng đến bất ngờ thế này để anh vui”.

Chị cán bộ công đoàn nói ngắn gọn, đại ý, công đoàn huyện có mấy trăm suất quà cho người lao động trực Tết, ở công ty này anh được chọn. Quà ít, lòng nhiều, chúc anh và gia đình mạnh khỏe, bình an. Dù đã từng nhận quà công đoàn ở công ty cũ, Tuấn vẫn thấy xúc động, chỉ nói được mấy câu lý nhí cảm ơn. Anh thầm nghĩ: “Mấy ông bà này đúng là cơm nhà vác tù và hàng tổng. Chắc chồng con phải dễ tính, thông cảm lắm thì giờ này mới bỏ gia đình đi chúc Tết người dưng”.

Mấy người về rồi, anh còn mân mê mãi túi quà. Không có gì nhiều, mấy gói bánh kẹo, cái phong bì trong có năm trăm. Điều làm anh nghĩ và lấy làm lạ là sao họ, cái chị công đoàn ấy, phải khổ sở đêm hôm đội mưa đến thăm nom, tặng quà Tết cho mình?

Sắp giao thừa, mưa đã tạnh, trời sáng lên đôi chút. Tuấn định lát nữa gọi về nhà thì vừa may Vân gọi tới. Qua camera, anh thấy căn phòng nhỏ của hai vợ chồng sáng bừng lên. Vân đã bày mâm cỗ lên bàn thờ, hai bên đặt hai cây mía, giàn bóng điện xanh đỏ nhấp nháy.

Thằng cu ló vào màn hình điện thoại. “Chưa ngủ hả con?”, giọng anh nghẹn lại. “Chưa bố ạ, mẹ bảo thức tý nữa xem pháo hoa”. “Thế có chuyện gì hay kể cho bố không?”. Thằng cu nhảy nhót, cười váng lên: “Không có bố ạ, chỉ mong bố về sớm thôi”. Tuấn phải quay đi, lặng một giây kiềm chế giọt nước mắt đã cay cay nơi khóe mắt.

“À, con quên”, thằng cu lại ngó vào màn hình điện thoại. “Quên gì con?”. “Con chúc bố khỏe mạnh, hạnh phúc và kiếm được nhiều tiền”. Lần này thì Tuấn tắt máy. Anh khóc.


Chưa bao giờ anh xấu hổ về sự nghèo. Cái giàu và nghèo có làm nên giá trị con người không? Có là thước đo hạnh phúc không? Đã đành không có tiền anh sẽ vất vả hơn, như đang vất vả, xa cách hôm nay; nhưng anh đã nỗ lực hết sức và mọi sự không chiều theo ý muốn của anh. Hay tại anh bằng lòng với những gì mình có nên không quyết liệt thay đổi tìm hướng đi mới, kiếm thật nhiều tiền cho vợ con sung sướng, tự hào?

Một thằng bé cũng biết nói đến tiền, biết niềm vui được hưởng thụ nếu có tiền thì có nguy cơ gì không, nó có còn trong trẻo để lớn lên không bợn vật chất không? Và có thật nó chúc bố kiếm tiền hay đó là ý của mẹ nó, như một lời trách, hay như một sự ghi nhận, cảm thông?.

Đồng hồ điểm giao thừa. Tiếng nhạc từ chiếc tivi cất lên trang trọng. Loáng thoáng có tiếng pháo nổ đì đùng. Lệnh cấm pháo gần ba mươi năm qua vẫn chưa được thực thi triệt để.

Tuấn thấy lòng mình trùng lại. Có lẽ anh đã hơi cả nghĩ. Anh thắp thêm một nén nhang, cắt khoanh bánh chưng và tự thưởng cho mình một ly rượu nhỏ. Một cái gì như niềm hạnh phúc len lỏi vào từng tế bào thần kinh. “Ba hôm, chỉ ba hôm nữa mình sẽ về với con”, anh nhủ thầm và thấy vui vui.

“Mùa xuân. Mùa xuân. Một mùa xuân nho nhỏ...”, tiếng hát bỗng vang lên. Bài hát anh đã nghe cả nghìn lần mà cảm giác chưa bao giờ thấy hay đến thế...

Lưu Hiện








 

 


 

 

 

 

Nốt nhạc trầm

GN - Con ngồi chờ ở đây để má lượm ít con ốc về làm mồi cho ba con nhấm rượu nhe?

Nói xong má đặt tôi ngồi vào cái thúng như để chuẩn bị gánh tôi về với đầu gánh bên kia là thúng khoai lang chuẩn bị sáng hôm sau đem ra chợ bán. Nhưng tôi bật dậy như cái lò xo, bước ra khỏi thúng lẽo đẽo theo sau má. Má lội xuống mương, nước ngập quá gối, khom lưng thò tay xuống rồi nắm lên liền một nắm ốc như thể má biết rõ chỗ nào lũ ốc tập trung nhiều nhất vậy.


Má cũng không bỏ sót những con ốc đeo trên mấy chà tre, thân rau nhút, rau muống xung quanh đó. Bàn tay má nhanh thoăn thoắt nhưng không hề lẫn lộn ốc to với ốc nhỏ; má chỉ bắt ốc lớn thôi, còn ốc nhỏ má bỏ lại xuống mương “để cho sau này con nhỏ nào lấy Út của má thì bắt lũ ốc ấy về làm mồi cho Út nhậu hỉ!”. Má nhìn tôi cười tươi trong khi bàn tay còn ngắt luôn mấy đọt rau muống mềm mọng nổi lênh đênh trên mặt nước.

Tôi không thể nào quên được nụ cười đó của má. Nụ cười đã ám ảnh tôi, theo tôi suốt cuộc đời như một biểu hiện của tình yêu, sự lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn nhất của đời người. Nó như một sự xóa tan, trút bỏ bao nhọc mệt để vươn lên, như hoa sen vươn lên khỏi mặt nước hồ lạnh lẽo đón nắng mặt trời để mà nở, mà tỏa hương. Tôi tiếc rằng mình không phải là họa sĩ tài ba hay nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp để kịp ghi lại khoảnh khắc tuyệt vời đó.

Gió lạnh từng cơn thổi rào rào trên đồng vắng. Tôi nói, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập vì lạnh: “Mình về má ơi!”…

Tôi là út trong gia đình tám anh chị em. Ông nội tôi là địa chủ. Ba tôi không quen làm lụng dù sau này đất đai đã không còn như trước nữa. Nhà nghèo, một mình má bươn chải. Tuy cực khổ lắm nhưng đứa nào má cũng dành trọn tình thương như nhau, hết đứa này tới đứa khác, một cách kiên trì nhẫn nại. Đi đâu má cũng toàn đi bộ, uống nước mương ven đường. Đã thế lại còn cõng thêm “cục nợ” là tôi đây nữa (má hay gọi tôi là “cục nợ” một cách trìu mến).

Không hiểu sao từ khi sinh ra tôi đã đeo riết bên má. Hễ vắng chừng năm mười phút là tôi thấy lạc lõng lạ thường. Sau này nghĩ lại tôi tự trách mình. Phải chi hồi đó mình không đeo theo má như vậy thì má đỡ khổ biết mấy, để mỗi buổi chợ sáng má có thêm vài ký khoai lang ở đầu gánh bên kia, để trên đường xa má không phải cõng tôi trên lưng dù chắc lúc đó chân má cũng mỏi nhừ... Nhưng có lẽ nhờ sự vô tư đáng trách đó của trẻ con mà tôi càng cảm nhận thêm thế nào là sự ấm áp của tình mẹ. Chẳng những mẹ không bao giờ phàn nàn phải cõng tôi mà có khi má còn nói đùa, gọi tôi là “ông con”.

Má cứ miệt mài làm lụng nuôi chồng, nuôi con. Má còn lo lắng chạy thầy chạy thuốc cho chị Năm hay trong nhà có ai bị bệnh. Ngày anh Bảy đi nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia, tôi nhớ như in cảnh má nhào ra xe, rồi ngất xỉu khi chiếc xe chở anh chạy qua... Sau này khi có dịp đọc kinh Bổn sanh Bổn sự nói về tiền thân Đức Phật, tôi càng hiểu thêm tâm trạng của má tôi lúc đó. Chuyện rằng có một con nai mẹ đứng liếm vết thương cho nai con vừa bị trúng tên của gã thợ săn nào đó. Liếm một hồi thì nai mẹ cũng lăn ra chết luôn, vì đau lòng đến đứt ruột.

Tôi nghe người ta nói, ông nội ngày xưa là địa chủ. Do ăn ở ác với tá điền nên bây giờ con cháu phải chịu quả báo nghèo hèn. Tôi không biết thực hư chuyện đời trước thế nào, nhưng gia đình tôi nghèo là có thật. Một số anh chị của tôi dù có gia đình nhưng chẳng những không phụ giúp gì cho mẹ tôi mà trái lại, có khi còn chạy qua xin gạo, nước mắm, muối... Má tôi đều vui vẻ đưa cho, để rồi sau đó nghe ba tôi chửi mắng. Tuy nhà nghèo nhưng ba tôi rất sang. Mỗi bữa cơm phải có đồ nhấm và một xị rượu. Nếu không thì ông sẽ cằn nhằn, mắng mỏ. Có lần ba đem đốt cả một bó lá dừa to giữa nhà để ăn cơm chỉ vì mẹ tôi đốt đèn bóng (để tiết kiệm dầu) cho ba ăn cơm. Lận đận là vậy, nhưng tôi chưa bao giờ thấy má khóc cả. Hay má muốn giữ vững tinh thần trước mặt chúng tôi mà khóc lén cũng không biết chừng?

Càng lớn tôi càng nhận thức được những khổ đau của má. Đối với tôi, không có người phụ nữ nào trên đời này chịu thương chịu khó bằng má. Sau một lần má ngã bệnh, tôi thấy má già hẳn di. Tôi nghĩ thầm chắc má không thể cõng tôi đi đâu được nữa rồi. Hình như má biết tôi đang nghĩ gì nên xoa đầu tôi nói: “Mai mốt đi đâu Út cõng má hén?”. Tôi “dạ” một tiếng rất ngoan, làm má vô cùng hài lòng. Lúc đó tôi chỉ có một ước muốn là làm sao cho mau lớn để... cưới vợ, đặng có thêm người làm phụ má mà thôi. Tôi không sợ ế vợ, vì tôi thường nghe mọi người khen tôi dễ thương, rằng “sau này lớn lên sẽ có nhiều con (con gái)... chết vì thằng Út cho mà coi!”.

Má tôi vốn là một tiểu thư trâm anh đài các, nên được học đủ các loại nữ công gia chánh, cũng như âm nhạc, hội họa - nhất là ngón đàn tranh thì thật tuyệt. Vì khi tôi mới sinh ra, má thấy tôi “dễ thương như một nốt nhạc” nên đã dạy tôi dánh đàn những khi rảnh rỗi. Có thể nói tôi là niềm an ủi duy nhất của má, gợi nhớ một thời con gái tươi đẹp nhưng ngắn ngủi (má lấy chồng năm mười sáu tuổi). Tôi không nghĩ được “vợ” tôi sau này phải như thế nào, nhưng phải giống như má và phải biết thương má như tôi mới được...

Nhưng sự đời ít ai biết trước. Càng không ai có thể ngờ tôi sẽ trở thành một tu sĩ!

Lần nọ, trên đường đi học về, tôi bị quẹt xe. Người lái xe là một ông... thầy chùa. Ông chở tôi tới chùa băng bó vết thương rồi đưa tôi về tận nhà, kèm theo rất nhiều quà. Ông cũng gửi tiền cho má tôi, nói là để mua thuốc cho tôi uống thêm. Từ đó trong tôi luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh ngôi chùa tráng lệ. Trong tôi hình thành ý muốn xuất gia với ý nghĩ rằng chỉ có cách đó mới… giàu được, mới có điều kiện đem lại sự sung sướng cho má, bù đắp những tháng ngày cực khổ. Và tôi đã đi tu với lời hứa rằng: “Má ráng sống đến mười năm nữa con sẽ mua xe du lịch chở má đi chơi!”.

Thời gian trôi qua nhanh quá, mười năm, rồi mười năm nữa, nhưng đứa con “chí hiếu” của má vẫn là một Tăng sinh nghèo. Chẳng những tôi không thể mua xe du lịch chở má đi chơi như đã hứa mà có khi còn để cho má phải lo lắng khi thấy “ông thầy” ăn mặc sao lam lũ quá. Má thỉnh thoảng còn nhét vào túi tôi ít tiền mỗi khi tôi về thăm nhà... Mấy đứa bạn học chung với tôi hồi phổ thông bây giờ đều giàu có cả. Phải chăng, chọn con đường đi tu để mong thoát nghèo là một chọn lựa sai lầm? Hỏi không phải để hối hận, mà là để trêu cái thằng nhóc tôi năm xưa sao mà ngây thơ quá đỗi! Có ai chọn con đường đi tu để làm giàu bao giờ!

Thời gian tu học ở chùa cũng là thời gian chuyển hóa dần cách nghĩ trẻ con ấy của tôi. Tôi dần dần nhận ra một cách chân thành rằng vật chất chỉ là gánh nặng trên đôi vai trần, không hề đem lại hạnh phúc gì cho con người cả, có chăng chỉ là bóng hình huyễn ảo, chập chờn như bóng đèn trên tường và phù du còn hơn cả con phù du sống trên mặt nước nữa. Được quy y Tam bảo và được sống theo chân lý của Phật-đà mới là hạnh phúc tối thượng, dù cho vẻ bề ngoài có lam lũ và đạm bạc đến đâu. “Đại phú do mệnh, tiểu phú do cần”.

Má à, giả sử như nhờ phước kiếp trước mà con của má được giàu có thì chắc con cũng không mua xe du lịch đâu... Cho đến lúc này, tôi phần nào hiểu được nụ cười giữa hoàng hôn ngày nào của má. Tuy cực khổ nhưng do thấy được ý nghĩa việc làm của mình là nuôi chồng nuôi con nên cực về vật chất mà vẫn vui về tinh thần. Cũng như tôi bây giờ, là người nghèo nhất trong đám bạn, nhưng để thấy đời mình có ý nghĩa thì chưa chắc ai đã hơn ai?

Ngày má bệnh, tôi về thăm và cho má xem bài báo đầu tiên của tôi được đăng và tặng má tiền nhuận bút. Coi như số tiền đầu tiên do chính sức lao động của tôi có được. Bài viết về ý nghĩa của chữ hiếu trong đạo Phật. Má đọc xong rồi nhìn tôi cười, nói: “Xe du lịch của thầy đó à?”. Tôi bỗng lúng túng, vì không ngờ má còn nhớ lời hứa ấy và đã nhắc lại trong giờ phút này. Tôi không hiểu má đang khen hay chê, yêu hay trách tôi khi hỏi vậy, nên đã trả lời bâng quơ: “Ai bảo hồi đó má cho con đi tu chi?”.

Tôi chợt nhớ hình ảnh má dắt tay tôi rời khỏi con đường làng gập ghềnh sỏi đá. Má con chia tay nhau trước cổng chùa vì má không nỡ nhìn thấy tôi xuống tóc. Hơi ấm từ bàn tay má xa dần, xa dần... theo năm tháng. Chợt má nhìn tôi mỉm cười: “Sau khi hết bệnh, má sẽ lên chùa quy y Tam bảo”. Má nắm lấy bàn tay tôi. Ôi, lâu rồi tôi mới cảm nhận lại hơi ấm từ bàn tay ấy. Nhưng có hơi khác một chút, vì ngoài ý nghĩa yêu thương ra, còn hàm ẩn một lời cảm ơn, rằng “má đã giác ngộ được đạo Phật, nhờ con đó”. Tôi hiểu được những gì má muốn nói và vui mừng khôn xiết. Tôi tặng má kinh sách, băng đĩa về Phật giáo... gọi là để xem, nghe “mỗi khi buồn hay nhớ con”. Tôi chỉ có thể giáo hóa má bằng cách gián tiếp mà thôi chứ đâu dám nói thẳng là mẹ đã lỡ tạo những nghiệp không lành trong đời. Bởi vì dù đó là nghiệp xấu gì đi nữa thì cũng chỉ vì con cái chứ vì ai! Tôi nắm chặt tay má và nhìn vào mắt như thầm cảm ơn má đã hiểu tôi và không trách tôi không giữ lời (mua xe) như đã hứa.

Tôi lấy chiếc đàn tranh xuống dạo một khúc. Má con nhìn nhau mỉm cười. Tôi đã không thể đem đến cho má sự vinh hoa phú quý, không có nhà cao cửa rộng, không có xe hơi để chở má đi chơi giữa phố phường, giữa bà con lối xóm cho má được nở mặt nở mày như tôi đã từng mơ ước. Nhưng những gì tôi có thể làm cho má hôm nay còn quý hơn những điều đó rất nhiều, đó là “con đường giác ngộ” mà tôi đã “vô tình” thấy được, đã “hiến dâng” cho má một nơi nương tựa không chỉ đời này mà đời đời kiếp kiếp đến tương lai: Quy y Tam bảo.

Tiếng đàn vẫn réo rắt, khi lên cao, khi lắng đọng... Nghĩ lại đời má nghèo nhưng không khổ, vì lúc nào má cũng có niềm vui tinh thần, trước đây là niềm vui được lo cho chồng con, bây giờ là vui với Chánh pháp. Tôi ví niềm vui đó của má như nốt nhạc trầm vậy. Không ồn ào nhưng sâu xa, nuôi dưỡng lòng người trong sáng mãi không thôi...








Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2023

Nhạc - Thơ - Văn Những ngày Tết của Mẹ

Nhạc Xuân Hay Nhất

Những quả bóng ước mơ,
Bay cao đi hỡi bóng ơi,
Mang theo hi vọng tuổi đời thanh xuân
Đông qua Xuân đến bao lần,
Mà hình bóng mẹ vẫn không phai mờ
 Mẹ là tất cả tuổi thơ,
Mẹ luôn chắp cánh ước mơ cho tròn
Cả đời mẹ sống vì con
Dẫu cho thân mẹ héo hon trăm chiều...
Ôi thương đời mẹ quạnh hiu,
Sớm trưa vất vả trăm điều nuôi con,
NM

Những ngày Tết của mẹ

Mẹ là quê hương của con.  

  Cứ mỗi độ xuân về, lòng tôi chợt bồi hồi nhớ lại những ngày tháng xa xưa và thoáng trong miền kí ức đầy sương ấy, hình bóng hao gầy của mẹ tôi hiện ra mỗi lúc một rõ dần, rõ dần      

 Thuở ấy, nhà tôi nghèo lắm. Tôi mới lên mười. Ba chị em tôi còn nhỏ nên chẳng giúp được gì cho mẹ. Bố tôi bỏ đi làm xa lâu lâu mới trở về thăm nhà một lần. Bởi vậy, mẹ tôi - một cô giáo trường làng - ngoài giờ lên lớp phải một mình “lặn lội thân cò” để kiếm tiền nuôi chúng tôi ăn học. Năm mười hai tháng không ngày nào mẹ rảnh tay. Tuy vất vả thật nhưng thấy con cái đứa nào cũng học giỏi nên mẹ rất vui lòng. Ở cùng chúng tôi còn có bà ngoại. Tuổi bà đã xế chiều. Ngày ba bữa, nhà tôi đã ăn cháo hết hai. Những lúc ấy, bà thường kể cho chúng tôi nghe về nạn đói năm một chín năm hai. Bà bảo rằng:“Người ta phát chẩn cho những người bị đói nhưng do họ nhịn quá lâu ngày nên bấy giờ họ cố ăn thật nhanh, thật nhiều, giành giật nhau mà ăn, ăn quá nhiều đến mức bao tử không thể chứa được nữaVà thế là họ chết ! ”. Tôi nghe mà rợn cả người.       

Những ngày tháng vô cùng thiếu thốn và gian khổ ấy vẫn cứ trôi qua. Bỗng một hôm cây mai trước cửa nhà tôi chợt rụng lá. Khí trời trở gió se se. Tôi biết: Mùa xuân sắp về.     

 Là những ngày giáp Tết mà không khí chuẩn bị ở quê thật sơ sài. Mẹ tôi thường ngày đã vất vả bây giờ lại càng vất vả nhiều hơn. Mẹ luôn thức dậy từ sáng sớm. Trong màn sương muối dày đặc mang theo cái lạnh thấu xương của miền Trung, mẹ bấm chân dò từng bước trên con đường đất đỏ lầy lội. Ra đến chợ, mẹ lấy hàng của đại lý rồi đem bán lẻ để kiếm lời. Công việc có vẻ nhẹ nhàng nhưng thực chẳng dễ chút nào. Ở chợ cũng có nhiều người bán như mẹ nên số tiền thu được chỉ tính từng đồng. Vậy mà có hôm, đứa em út của tôi  đòi mẹ một gói kẹo, tôi dỗ cách nào nó cũng không nín, mẹ liền bảo: “Thôi con lấy cho em một gói kẹo đậu phộng da cá (loại nhỏ nhất, rẻ tiền nhất) cũng được !”. Cầm bao kẹo trên tay, vẻ mặt nó rạng rỡ hẳn lên. Tôi ngồi cạnh bên...im lặngGần hết buổi sáng mà chưa có ai mua cả, thỉnh thoảng có dăm ba người tới hỏi vài câu rồi lại bỏ đi ngay, mặc cho mẹ tôi mời mọc hết lời. Độ giữa trưa, tôi về nhà mang ra cho mẹ một nắm cơm đã trộn sẵn với muối tiêu. Nắm cơm bé xíu lọt thỏm giữa những ngón tay gầy guộc, xương xương của người. Mẹ nhìn hai chị em tôi bằng ánh mắt xót xa rồi bẻ cho mỗi đứa một mẩu nhỏ. Từ trong khóe mắt mẹ, một giọt nước mắt long lanh từ từ rơi xuống đôi gò má nhô cao, khô ráp. Trong thoáng chốc, hai mắt tôi cũng như nhòa đi  

    Hai chín Tết. Pháo tất niên nhà ai nổ lộp độp. Mẹ tôi dậy muộn hơn mọi ngày. Mẹ bảo sáng nay sẽ đi chợ để mua sắm đồ Tết cho mấy chị em tôi, nhân tiện người sẽ mua thêm cho mỗi đứa một chùm pháo tiểu. Bỗng “soạt”. Tôi chạy vội xuống bếp xem. Thì ra trên giàn bếp, con miêu đang dòm ngó cân thịt lợn mà bà tôi mới cân hồi sớm của cô hàng xóm. Lúc đi chợ về, mẹ mua cho tôi đôi dép có quai sau tiện thể dùng để đi học, chị tôi lớn hơn nên được cái mũ rộng vành có gắn một bông hoa và cành lá xung quanh, còn bé út tôi thì nhỏ nhất nên nó được một bộ quần áo rất xinh, mới tinh với nhiều hình vẽ cùng màu trang trí. Vậy mà...tết nay bố tôi lại vẫn không về...      

  Mồng một tết. Nắng xuân ấm áp chan hoà trên con đường xanh biếc cỏ non. Mọi người ai nấy đều hăm hở đi viếng mộ tổ tiên, ông bà. Vài bà cụ mặc áo dài, quần the cũng tất bật hoà vào dòng người. Mẹ tôi là con gái duy nhất của ông ngoại nên việc hương khói ông bà đều do mỗi mình mẹ gánh vác. Tôi thấy mẹ quỳ xuống đốt nhang và thì thầm khấn điều gì đó trước mộ ông. Dáng mẹ trông thật bé nhỏ làm sao trước không gian rợn ngợp chỉ toàn là mộ và cát trắng tinh.        

Tết ở miền quê buồn và yên ả, không có những hội chợ hay các trò chơi nhộn nhịp như ở phố thị. Đâu đó bên góc đường tiếng cãi vả ồn ào của một đám người đánh “bầu, cua, tôm, cá, nai, gà” mỗi lúc một to dần. Cả người lớn và trẻ con như bị hút hồn vào nơi ấy. Còn tôi, tôi biết rõ đó là thứ trò chơi mà mình càng chơi càng cay cú. Do vậy, tôi không bao giờ dùng tiền mừng tuổi của mình để chơi cả. Tôi luôn nghe theo lời dạy của mẹ. Ngược lại, tôi có một công việc khá dễ để làm. Tôi lon ton theo mẹ ra chợ và giúp mẹ bán các con số ghi trên những tấm vé ứng với sáu mặt của một con xúc xắc bỏ vào đĩa rồi đậy chiếc chén nhỏ lên trên. Sau đó mẹ tôi xóc vài cái cho nó đảo đều. Mẹ tôi gọi trò chơi ấy là “Rung Tam Hường”. Tôi rất khoái trò chơi này  (mặc dù nó cũng chẳng khác trò kia là mấy). Và, bọn trẻ con trạc tuổi tôi cũng vậy. Lúc đầu, bọn chúng tỏ ra dè dặt và có ý thăm dò. Chỉ một lúc sau chúng hiểu luật và thích ngay. Đặc biệt là giá trị của phần thưởng cũng khá “hậu” so với số tiền mà chúng bỏ ra. Vì vậy, chúng say sưa bên những ván “Tam Hường” mà quên cả sớm trưa. Chúng cũng nhanh chóng trở thành “thượng đế” của chúng tôi tự lúc nào. Nhìn những đôi mắt đen tròn, mở to chăm chú của mấy cô, cậu bé lên năm, lên sáu rồi nhìn vào những đường gân nổi rõ trên đôi tay xanh xao của mẹ mình mà tôi cảm thấy vừa vui vừa chạnh lòng.      

  Hai hôm sau chúng nó trở nên thân với tôi hơn. Mới sáng sớm chúng đã vây quanh chiếc sạp bé nhỏ của chúng tôi rồi. Chúng còn giục mẹ tôi đi lấy phần thưởng về thật mau. Khi thấy tôi tay ôm tay xách thì chúng vội vàng chạy đến đỡ lấy ngay. Mẹ tôi xổ ván đầu tiên. Cả bọn im lặng, hồi hộp, chờ đợi. Khi vừa thấy mẹ tôi mở chiếc chén ra, tức thì thằng Tèo- con ông Tư hàng xóm- háo hức reo lên : “Con trúng rồi ! ”. Thằng bé cười- một nụ cười hồn nhiên đầy “thắng lợi”. Suốt ngày hôm đó, tôi luôn bận rộn. Hơn thế, chính cái tài rao vặt khéo léo của tôi đã khiến chiếc cổ họng tôi khan cứng tự lúc nào, giọng nói cứ rè rè chẳng khác nào chiếc ra-đi-ô bị hỏng.   

     Đến chiều mồng ba “khách” bắt đầu thưa dần. Có đứa buồn bã, tiếc rẻ khi mẹ tôi tuyên bố ngày mai sẽ thôi không chơi nữa. Chúng hỏi tại sao thì người chỉ cười, một nụ cười hiền lành, đôn hậu, mẹ đùa:         

  - Thế các cháu không cho cô về ăn tết hả ?   

      Bọn chúng lặng nhìn nhau. Chợt có đứa thỏ thẻ:   

       - Vậy Tết sang năm cô có chơi nữa không ?      

   Rồi nó nói thêm:         

 - Bọn con hứa là sẽ chờ cô mà !  

     Nghe xong, mẹ tôi cố nén xúc động, nhìn bọn trẻ bằng ánh mắt yêu thương rồi nhẹ nhàng bảo:        

 - Ừ, hẹn sang năm, cô cháu mình sẽ gặp lại nhau nhé !...     

            Ba ngày xuân ngắn ngủi trôi qua. 

    Mồng bốn Tết. Chợ đầu năm đã họp. Người dân quê tôi thường mang ra chợ những thứ gọi là “cây nhà lá vườn” bán để cầu tài. Họ cũng không quên mua thêm một ít muối hạt gọi là “muối sống” theo phong tục cổ truyền “đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi.” Riêng mẹ tôi thì khác. Mẹ chẳng có gì để bán nhưng ngược lại thứ mà mẹ mua về chính là túi gạo nặng trĩu trên tay cùng với chùm bóng bay chia đều cho ba đứa. Thấy mẹ về, chúng tôi chạy thật nhanh ra ngõ để đón mẹ. Chị tôi nhanh nhảu đỡ túi gạo từ tay mẹ, khệ nệ mang vô nhà bếp, đổ vào chiếc thạp sứ chỉ còn vương vài hạt tấm. Mẹ dịu dàng trao chùm bóng bay cho tôi rồi cúi người xuống nhẹ nhàng bế lấy em gái tôi, ẳm em vào lòng và hôn lên đôi má ửng hồng của nó. Tôi chạy vội vào nhà vơ lấy chiếc khăn ra lau những giọt mồ hôi chảy thành từng vệt trên trán mẹ. Hôm nay được nhìn kĩ khuôn mặt mẹ tôi thấy mẹ gầy hẳn đi. Đôi gò má của người như càng khô ráp và nhô cao hơn. Tôi biết mẹ đã vất vả vì chúng tôi nhiều quá. Tôi cảm thấy thương mẹ vô cùng. Rồi, đột nhiên mọi thứ xung quanh tôi dường như nhoà đi. Bất giác, chùm bóng bay trong tay tôi vụt mất. Tôi ngước mắt nhìn theo. Trên bầu trời cao rộng, chùm bóng bay mà mẹ dành cho chúng tôi đang vươn cao và mỗi lúc một cao dần, cao dần tựa hồ như những ước mơ, những niềm hi vọng của tuổi thơ bọn tôi sẽ được mẹ chắp cánh cho bay cao và bay xa, xa mãi..

Phạm Nguyễn Quế Linh

Tháng chạp, năm 2009

Xuân buồn
Trong ánh mắt cô đơn,
Tôi thấy dường Xuân muộn ?!
Còn nỗi buồn nào hơn,
Xuân không là tất cả...
Và Xuân của riêng em,
Là chuỗi ngày vất vả !!
NM

Công viên ngày Tết

Quãng những năm cuối thập niên 1980, cứ Tết đến, cha tôi lại mở một quầy ảnh trong công viên Lê Nin. Khách đi chơi công viên ngày lễ đều muốn chụp một bức ảnh cả đại gia đình làm kỷ niệm. Họ đứng trước đài phun nước, cạnh vườn hoa, mặc quần áo mới đủ màu sắc, em bé thì cưỡi ngựa gỗ, cầm bóng bay, cô gái trẻ ngồi xích đu có nơ hoa chăng xung quanh. 

Cha tôi bận rộn tối ngày với việc chụp, in tráng, trả ảnh. Mẹ cũng ra tiệm ảnh công viên phụ cho cha. Tôi và em gái cũng thế, mặc dù một đứa trẻ 15 tháng tuổi thì chẳng phụ được gì cả. Đấy là một trong những quãng thời gian hạnh phúc nhất của tôi cho dẫu ngay cả giao thừa, cha mẹ tôi cũng bận rộn cả ngày. Cha mẹ tôi phấn khởi vì chúng tôi đã thu được khá nhiều tiền ngay từ những ngày đầu tiên, còn tôi phấn khởi vì được ở trong công viên cả ngày.

Sang ngày thứ ba, khi tôi đã quá quen với những trò giải trí bắt đầu trở nên cũ mèm thì đột ngột trong công viên thấy xuất hiện hai nhân vật lạ. Đó là một người đàn ông mặc ba đờ xuy bằng dạ xám, đầu đội mũ phớt, chân đi giày da, và có bộ ria mép được xén tỉa cầu kỳ. Người thứ hai là một cô bé trạc tuổi tôi, tóc cắt ngắn và mặc bộ nỉ thể thao màu xanh biển rất đẹp. Chắc hẳn đấy là hai cha con dù tôi chẳng thấy họ trao đổi với nhau lời nào. Họ trải một tấm thảm hình tròn ngay cạnh tiệm ảnh của cha tôi, lại chăng thêm dây dù xung quanh trông rất giống sân khấu. Tôi không hiểu họ sẽ làm gì nhưng cảm thấy vô cùng tò mò. Tôi đứng sáp lại quan sát người đàn ông đang bày biện mấy gói giấy bản buộc kín lên rìa tấm thảm. Chừng nửa tiếng sau, người đàn ông đứng ra giữa tấm thảm và hô to:

- Xin kính mời bà con cô bác khán giả đón xem tiết mục ảo thuật vô cùng đặc sắc của đoàn chúng tôi... Những màn trình diễn kỳ lạ nhất mà chắc chắn quý vị chưa bao giờ được thưởng thức... Xin mời... Xin mời... Chúng tôi chỉ biễu diễn một buổi duy nhất... Xin mời... Xin mời...

Lời mời gọi của người làm ảo thuật thu hút được chừng hơn chục người đứng xung quanh sân khấu. Người đàn ông bắt đầu biểu diễn. Ông ta lấy từ túi áo ra một quả bóng bàn, nuốt chửng nó vào miệng, rồi trước sự ngạc nhiên của khán giả, quả bóng lại chui ra từ hốc mắt nhà ảo thuật, sau đó nhanh chóng biến mất vào không khí. Một giây sau, từ hai lỗ tai ông ta lại thòi ra hai quả bóng. Ông ép hai quả bóng vào lòng bàn tay, lập tức chúng tan chảy như sương như khói.

Hai túi áo ba đờ xuy của nhà ảo thuật cứ như cái thùng không đáy. Ông ta lôi ra từ trong túi đủ thứ đồ lỉnh kỉnh: Bóng bàn, bóng bay, dây vải lụa, cả vài tờ báo nữa. Ông làm biến mất mọi thứ rồi lại cho chúng xuất hiện trở lại trong nháy mắt trong khi tôi căng mắt không dám chớp để bắt quả tang xem ông giấu nó vào đâu. Tờ báo bị xé vụn thành chục mảnh rồi ráp lại thành chiếc khăn quàng. Khăn quàng phất phơ hóa thành quả bóng bay. Bóng bay lại chui tọt vào miệng và phì ra đằng tai thành quả bóng bàn. Cứ như thế, biến hóa khôn lường như thể có phép màu. Vừa biểu diễn, người đàn ông vừa giả bộ làm khuôn mặt ngạc nhiên, rồi nở nụ cười hóm hỉnh và nheo mắt nhìn dây vải lụa bảy màu nãy còn ở trong mũ phớt giờ chui tuốt ra từ ống tay, trong khi trên mũ trống trơn chẳng còn gì nữa hết.

- Và bây giờ tôi xin nhường sân khấu cho một nghệ sĩ trẻ. Chắc chắn quý vị cũng sẽ vô cùng thú vị với tiết mục đặc sắc này.

Cô gái lạ mặt ban nãy tiến ra giữa sân khấu. Cô ấy không có nét tươi tắn nghệ sĩ của người cha mà chẳng nói chẳng cười, mặt mũi ủ ê như đang bị chép phạt. Tuy nhiên cô ấy cũng có thể làm biến mất những quả bóng bàn và khiến các mẩu báo rách liền lại ngay trước mắt khán giả. Tôi kinh ngạc. Sao cô ấy làm được như thế? Cô ấy chỉ độ bằng tuổi tôi, mà tôi ra ngõ mua cho cha chén rượu còn ngã oạch vỡ cả chén, đổ cả rượu. Tôi gọt táo, thái hành thế nào cũng bị đứt tay. Tôi hậu đậu như thể chân tay đi mượn tạm của người khác, có học ảo thuật chắc cũng phải xấp xỉ cỡ tuổi cha cô ấy mới khiến cho giấy rách lại liền được. Tôi vỗ tay rất to bên cạnh những tiếng lộp bộp của khán giả xung quanh.

Xong màn trình diễn của cô con gái, ảo thuật gia tiến lên trước khán giả và giơ một mẩu cao màu đen bọc giấy ni lông.

- Điều gì quan trọng nhất đối với quý vị? Sức khỏe là quan trọng nhất... Đặc biệt là trong những ngày Tết, chắc không ai muốn để mình bị ốm đau bệnh tật... Chúng tôi mang đến đây một giải pháp tuyệt vời nhất cho quý vị... Đau nửa đầu, cao huyết áp, đi ngoài, khó tiêu, mẩn ngứa ngoài da, trĩ nội, trĩ ngoại... đều có thể chữa khỏi bằng cao gia truyền mười đời của gia đình chúng tôi... Cao này được làm bằng... Hãy bảo vệ sức khỏe lâu dài bằng...

Một vài người hỏi giá. Một vài người tản đi. Một hai người rút ví ra mua gói giấy bản buộc dây bốn góc đặt ở mép sân khấu.

Lát sau hai cha con người làm ảo thuật lại diễn suất thứ hai. Lại biến mất những quả bóng, lại làm liền những tờ báo đã rách và lại bán thuốc cao gia truyền. Lần thứ hai người ta chỉ xem mà không mua. Lần thứ ba người ta thậm chí còn không xem. Sân khấu chỉ vẻn vẹn có tôi và vài ba người nữa. Suất diễn kết thúc. Người làm ảo thuật không thu được đồng nào từ khán giả. Ông ta đã chào mời tất cả mọi người trừ tôi.

Từ lúc họ dỡ đồ nghề xuống bãi cỏ, chuẩn bị sân khấu, trình diễn cho đến bây giờ, khi người đàn ông xếp gọn những gói thuốc trở lại vào hòm sắt, cả hai cha con đều không để ý gì đến tôi. Cứ như thể tôi là vô hình vậy. Cô gái nói khẽ điều gì đó với cha và lập tức bị ông ta rít lên những câu mà tôi không nghe rõ, chỉ loáng thoáng thấy ông gọi con gái bằng “mày” xưng “tao”. Ông ta cằn nhằn một hồi và thái độ ấy khiến tôi kinh ngạc. Tôi vẫn thường xuyên bị mắng nhưng chưa bao giờ cha mắng tôi bằng vẻ mặt ấy. Nét tươi tắn nghệ sĩ trên sân khấu đã biến mất, giờ đôi mắt và khóe miệng đầy râu của ông ta chỉ còn lại vẻ cay nghiệt và giận dữ. Sau đó ông ta bỏ đi một hồi lâu. Chỉ còn lại cô gái ngồi trơ trọi trên chiếc hòm sắt đựng thuốc cao gia truyền, vẫn với nét mặt buồn bã như thế.

Tôi thấy cô ấy thật cô đơn. Mẹ cô ấy đâu? Mẹ tôi chưa bao giờ để tôi phải đi đâu với cha một mình ngoài những lúc ông đưa tôi theo đến nhà bạn bè. Bạn bè cô ấy đâu? Em gái cô ấy đâu? Nhà cô ấy nữa. Nhà cô ấy ở đâu, có cùng thành phố với tôi không? Cô ấy học trường nào? Người đàn ông kia có phải là cha cô ấy thật không?

Tôi cứ hình dung cô gái giống như những trẻ không gia đình trong một đoàn xiếc rong thường xuyên ế khách, không bạn bè, không được đi học. Tôi muốn lại gần hỏi thăm và bắt chuyện, muốn mời cô một dây kẹo kéo vì mặc dù cô ấy có bộ quần áo biểu diễn đẹp hơn bộ quần áo mặc Tết của tôi nhưng chắc không nhiều tiền túi bằng tôi.

Hai suất diễn sau cô ấy đã bán được gói thuốc nào đâu. Nhưng nhìn khuôn mặt ủ ê lạnh giá cứ hút mãi vào đám cây âm u không người qua lại phía bên kia khu vực Nhà cười thay vì ngắm nhìn dòng người nườm nượp cờ hoa bên đài phun nước, tôi lại không dám cất lên lời nào.

Lát sau, cha cô quay trở lại. Ông ta đưa cho con gái một ổ bánh mì và họ lặng lẽ ngồi ăn trên chiếc hòm sắt, lưng quay vào nhau. Buổi chiều, họ diễn thêm hai suất nữa, bán được đâu chừng hai gói thuốc. Sau mỗi lần diễn, người đàn ông lại làu bàu hành hạ con gái bằng vẻ mặt cay nghiệt. Còn cô vẫn im lặng như khi tôi nhìn thấy cô lần đầu vào buổi sáng.

Có một lúc tôi chạy đi ăn, khi quay về, chỉ trong vòng 15 phút, đã không còn thấy cha con người làm ảo thuật đâu nữa. Cả sân khấu và chiếc hòm sắt đựng thuốc cao gia truyền cũng biến mất, chỉ để lại một bãi cỏ trống trơn như thể họ chưa từng xuất hiện. Ngày hôm sau, cả hôm sau nữa, cha con người làm ảo thuật không đến diễn. Có lẽ họ đã không kiếm được nhiều tiền từ khu công viên này. Họ không may mắn như cha tôi, như những nghệ sĩ môtô bay, như ông lão phim đèn chiếu, ông lão nặn tò he, ông lão kẹo kéo, bà hàng bún riêu, cô gái bán vòng nhẫn hạt cườm hay thằng bé thổi bong bóng bay bên đài phun nước.

Hết năm ngày Tết, tôi quay lại trường học. Còn cô gái ấy, cô gái ảo thuật tài hoa có khuôn mặt ủ ê lạnh giá, cô ấy có đến trường giống như tôi không?

di li
Tết xưa,
Nhớ cái Tết năm xưa còn thơ ấu,
Nơi quê nhà rộn rịp đón Xuân sang...
Xuân quê hương sao thắm thiết rộn ràng,
Lòng hớn hở chờ đón ngày Tết mới,
Tuy xa cách nhưng vẫn luôn chờ đợi.
Mỗi một mùa là một nỗi nhớ mong !
Tôi luôn ôm ấp trong lòng,
Mơ ngày trở lại Xuân hồng chốn quê !!
NM

                     Những Ngày Giáp Tết

    Chuyện nhớ nhà, nhớ quê: “Mà lạ? Bên này mình có nhà cửa đàng hoàng, còn bên kia, nhà còn đâu? Sao cứ nhớ nhà ở bển hoài?” Tác giả tự hỏi.
    Cứ mỗi năm gần Tết là nhớ về quê nhà… bên Việt Nam đó. Trong lòng rộn rịp, nôn nao hay lâng lâng trộn lẫn vào nhau…nhớ cái không khí hơi lành lạnh… và nhất là gần ngày nghỉ Tết bỏ hết chuyện học hành qua một bên, tính toán, nào là đi mua quà cho Thầy, Cô, nào là làm báo, và làm tiệc tất niên.
    Tui còn nhớ năm đó trong lớp tụi nó chia ra, nhóm văn chương chữ nghĩa lai láng thì làm báo, nhóm khéo tay thì trang hoàng, còn nhóm tui chắc hay ăn vụng trong lớp cho nên được thủ nhiệm vụ gom tiền đi mua bánh mứt. Quá đã, "tự dzì" được cho giờ công khai đi "shopping" mờ. Trong nhóm nầy có Mỹ, Thảo, Nhiều và …tui. Bây giờ nghĩ lại chắc tụi nó lựa nhóm tui đi cho khuất mắt để tụi nó yên ổn làm báo khỏi bị phá hay làm bộ… phê bình.
    Từ trường Trung Thu mà đi bộ ra chợ Bến Thành đâu có gần, mà đi cả đám bốn đứa, nếu đi xe lam thì còn tiền đâu mua mứt nên rủ nhau đi bộ. Trời ơi, cả tiếng mới tới. Cả đám có dặn trước là đem theo tiền túi để ăn hàng trước, "chiện" mua mứt tính sau…
    Đứa này thì gỏi đu đủ tôm thịt, đứa nọ thì xề bên kia bánh ướt nem chua, đứa thì đứng cắn bò bía…ôi thôi hầm bà lằng trong bụng, trước khi về còn… "dọng" thêm một ly đậu đỏ bánh lọt nữa.
    Hỏng biết lúc đó tui để dành làm sao mà lúc nào cũng có tiền rủng rỉnh trong túi, đứa nào hỏng đủ thì tui cho mượn, ăn trước, chuyện khác tính sau. Lo xong phần bao tử no nê đầy bụng rồi, bây giờ tới phần chánh là mua bánh mứt!. Tiền hùn thì ít mà tụi nó dặn phải mua đủ thứ, mứt me, mảng cầu, chà là.. v.v.. Tính sao đây? Cái màn nói thách trên trời hỏng đứa nào dám trả giá hết… Đẩy qua con Thảo vì nó lanh nhất để nó trả giá, trả một tiếng bả… bán, thấy lầm rồi nên cũng biết khôn, mua 1 gram thôi. Bà bán hàng vừa cân vừa lầm thầm trong miệng "Tưởng gì mua có 1 gram mà cũng trả giá cho dữ… mấy con nhỏ này". Đi qua hàng khác lại màn trả giá…sợ chúng… chửi. Rốt cuộc cũng mua được đủ thứ, mỗi loại nửa ký…Riêng mứt dừa thì phải nhiều hơn mấy thứ kia…vì nhiều người thích…Xong trách nhiệm được giao phó…
    Bây giờ nói về cái Tết bên Mỹ đây…cũng có chợ đêm….cũng đầy đủ Mai, Lan, Cúc, Trúc…cũng bánh mứt ê hề…cũng có đầy mâm ngũ quả. Ba ngày Tết có diễn hành, có múa Lân, có dựng cái nhà lá kê cái lu giống bên quê nhà mình (cái nhà này tui thích nhất) có màn thi hoa hậu phu nhân, hoa hậu Việt Nam và hoa hậu trẻ em…còn về văn nghệ tân cổ có đủ, có luôn vỏ thuật. Hay nhứt là cái màn mấy em nhỏ xíu cầm sớ Táo Quân đọc tiềng Việt rót rót vv…. nhưng cái không khí nó vẩn còn… thiêu thiếu cái gì đó…Thiếu cái không khí Việt Nam ở đây…
    Nhớ gần Tết tui khoái nhất là cái màn xách giỏ ra chợ với má mua toàn là thức ăn cho mấy ngày Tết, nhất là củ kiệu, dưa hành để làm chua trước ba ngày cho ngấm, cuốn bánh tráng với thịt kho dưa giá và bánh tét trong mấy ngày Tết thiệt là ngon…nhưng mà ghét nhứt là cái màn lột cả rổ củ hành hương…nó nhỏ xíu mà cay mắt muốn chết…bây giờ ngồi đây nhớ lại "ủa? mà sao năm nào… cũng có mình tui với má ngồi lột củ kiệu với củ hành hương hết ta? còn mấy bà chị đi đâu hết? để Tết này hỏi cho ra lẽ….
    Ngày ba mươi, bận rộn cách gì! Nào là cúng quãy, chuyện của má, nào là quét dọn nhà cửa, chuyện này Năm Sira lo, là tui đó. Phận sự treo màn có chị hai lo. Treo cờ mới tinh là chuyện của ba lo. Còn bà ba nhăn, biệt hiệu của chị ba Xuân), bà tư điệu, biệt hiệu của bà chị kế tui là Ngọc Anh, lúc đó ở đâu ta? Hai bà này mà vô Hải Quân làm thợ "LẶN" được lảnh "CÚP" là cái chắc!! để Tết này hỏi cho ra lẽ…
    Làm gì thì làm cũng phải cho xong trước Giao Thừa.
    Thường thường ba má kiểm soát một vòng trong nhà coi có sạch sẽ không rồi mới chuẩn bị cái bàn thờ cúng đêm 30. Chuyện cúng Giao Thừa là phần của Ba, rất trịnh trọng. Bàn hương đèn ngoài sân, ngay trước cửa nhà. Trên bàn có bình bông tươi, thường là bông vạn thọ, hay bông huệ ta, trái dừa tươi, dĩa mứt đủ thứ, nước trà, nước lọc, nhang, đèn cầy phải đủ cặp màu đỏ cho hên. Nhất là hai cây mía thiệt đều nhau dựng ở hai bên bàn cúng, với ngọn được cột dính giao đầu nhau.
    Chị em tui lúc này mới sửa soạn thay quần áo mới để đi ra… đi vô, coi ba má sắp đặt…trong lòng nó nôn nao làm sao í! Lúc ba má cúng là tui chạy tới…chạy lui qua nhà hàng xóm rủ mấy đứa bạn đi coi nhà nào đốt pháo trước…đứng bịt lổ tay…dòm. Sợ pháo gần chết mà cứ hay đi kiếm để tụi "con chai" đốt liệng vô chân…la bài hãi rồi chạy… làm cho đám "con chai" ôm bụng cười rồi canh me làm tiếp…Đêm Giao Thừa thức gần sáng đêm vì ba má và mấy người lớn còn đi chùa hái lộc đầu năm nữa….Cũng có năm đám con nít được đi theo. Ba má tui tin chuyện hái lộc đầu năm nầy lắm.
    Sáng mùng một, chị em tui thức sớm lắm để diện bộ đồ mới mà tối hôm qua chưa có mấy người thấy bộ đồ chiến này, đi ra, đi vô, cắn hột dưa. Cái màn kế tiếp mà tụi tui khoái nhất là…LÌ XÌ…quần áo mới, tiền mới thơm phức. Đầu tiên là ba má lì xì, xong là tiếp dọn mâm cúng chay. Nguyên ngày mùng một ăn chay, mùng hai trở đi là ăn mặn. Má sắp dọn cúng Ông Bà mỗi ngày, nhang và đèn trên bàn thờ Tổ tiên hỏng tắt suốt mấy ngày Tết. Bàn thờ Tổ Tiên được chưng dọn sáng rực rỡ với bộ lư đồng, hai trái dưa hấu phải thiệt tròn trịa, cá dán tấm giấy đỏ viết chữ Tàu, chắc là chữ Phước và chữ Lộc. Má cúng ngày ba lần, liên tiếp trong ba ngày. Không quét nhà, không gây lộn, chỉ ăn với cười thôi, cũng khỏi rửa chén luôn, Má làm hết. Chắc ba má khoái nhất là mấy ngày này.
    Mùng hai, mùng ba trở đi bà con, hàng xóm bắt đầu lai rai tới chúc Tết, lì xì. Ba má nói mùng một mình không nên tới nhà người khác "xông đất", rủi trong năm có gì không may xảy ra thì người ta …"nhớ tới mình", trừ phi người ta "mượn" mình tới xông đất dùm.
    Tui khoái nhất là dì Bảy mà mấy chị em tui kêu là Má Bảy, trong gia đình tui, tất cả mấy dì tui đều kêu bằng Má hết. Má Bảy phốp pháp, vui tánh. Má ưa nói đứa nào chúc hay và dài thì được lì xì nhiều, mà phải khoanh tay lại đàng hoàng. Nghe chúc Tết xong Má Bảy cười ha hả rồi móc túi kéo mấy bao đỏ ra, nên mùng hai năm nào tui cũng tính sẳn mấy câu dài thiệt là dài để chúc cho riêng Má Bảy. Má Bảy buôn bán quanh năm không nghỉ ngày nào, nên vào dịp Tết, sau màn đi lòng vòng ngày mùng hai lì xì cho hết thảy mấy đứa cháu xong là Má Bảy bắt đầu ngồi sòng tứ sắc luôn cả ngày đêm cho hết mấy ngày Tết. Má Bảy lựa một ngày tốt mở cửa hàng lấy ngày, xong tiếp tục ngồi sòng. Ai có cần gì thì cứ tới sòng tứ sắc thì gặp Má liền.
    Mùng hai. Có tiền rủng rỉnh trong túi bây giờ kiếm chổ đi chơi. Đi sở thú…coi thú?. Năm nào cũng đi coi thú thì ít mà đứng ngồi làm duyên để chụp hình thì nhiều.
    Mùa Tết trong sở thú có đủ loại bông hoa nở đẹp lắm, đủ màu sắc. Tui thích hết tất cả loại hoa trừ hoa… Mồng Gà (ghét cay ghét đắng) mà sao ba tui cứ kêu đứng kế Mồng Gà mà chụp hình thành ra tấm hình nào Mồng Gà cũng… đẹp hơn tui. Tui đoán chắc ba nghĩ… Tết có sẵn quần áo đẹp, và bông hoa đủ màu sắc rực rở, tươi thắm thì hên cả năm cho nên la cà chụp hình ở sở thú cả ngày trời, nhất là lại có tiền bạc rủng rỉnh trong túi nên …thiệt là vui ….Tui khoái nhất cái màn coi mô tô bay…hồi hộp, nín thở!!. Mua vé vô cửa xong, được người hướng dẩn chỉ lên thang lầu…Kiếm được chổ ngồi gần lan can…nhìn chung quanh thấy nhiều hàng ghế sắp từ thấp lên cao theo hình tròn (cái nhà này hình tròn, khán giả ngồi phía trên nhìn xuống giống như mình đi coi xiệc vậy, nhưng cái nhà này có chiều cao hơn nhiều. Từ trên nhìn xuống thấy chung quanh vách ván được đóng hơi lài lài từ phía dưới lên lần lần tới trên là thẳng đứng. Phía dưới là nền bằng xi măng …có chiếc xe mô tô dựng đó…kế cái kệ nhỏ trong góc.
    Giờ bắt đầu… nghe tiếng còi thổi lớn mọi người lồm chồm nhìn xuống phía dưới… thấy một người con gái nhỏ nhắn, mảnh mai, bước ra cúi đầu chào xung quanh bốn phía xong bước lại chỗ cái… kệ nhỏ trong góc nhà… chấp tay lại và cúi đầu xá …tôi nghĩ "chắc đây là bàn thờ Tổ của ngành mô tô bay", xong rồi cô ấy mới lấy cái nón "sắt" đội lên đầu…nhảy cái thoắt lên xe bắt đầu nổ máy…tiếng máy xe nổ …bùm… bùm thiệt là lớn làm sôi động hết cả một vùng…mọi người nín thở, mở lớn mắt ra coi…Cô ấy rồ ga lớn chạy một vòng chung quanh dưới thấp nhất "chắc cho nóng máy" một tay dơ cao chào mọi người, xong đảo thêm hai ba vòng nữa rồi…rồ ga mạnh hết cở là bắt đầu phóng lên cao thật nhanh chạy theo vòng tròn từ thấp lên cao…lên tới gần lan can chổ khách ngồi rồi vòng trở xuống…cũng theo vòng tròn…lập đi…lập lại mấy vòng…có lúc tui có cảm tưởng như cô ta sắp rớt ra khỏi xe vì cái độ nghiêng của xe.
    Hú hồn!!!
    Và đó là lần đầu mà cũng là lần cuối cùng tui đi coi mô tô bay…
    Sáng mùng ba. Ba má đem mấy chị em tui ra thăm ông Tỉa, bà Ý ở đường Huỳnh Thúc Kháng Sài Gòn (ông dượng, bà dì kêu theo tiếng Hoa). Bên nội người Triều Châu …nói toàn tiếng… Tàu hông hà! mà tụi tụi thì hỏng đứa nào biết nói hết thành ra thân bên ngoại hơn bên nội, mà ba làm thành thông lệ nên mùng ba năm nào cũng đi thăm ông bà, và tụi tui cũng phải mặc aó đầm, chân mang giày bít, dớ trắng rất giống mấy "little chinese girls" lắm. Gia đình ông bà nói chuyện với ba tui bằng tiếng Tàu vui vẻ lắm, còn tụi tui thì ngồi…ngớ ra đó. Vậy mà ông Tỉa, bà Ý lúc nào cũng bắt ở lại ăn cơm tới chiều mới về. Nhà bà Ý lúc nào cũng có sẳn bánh ngọt cho con cháu ăn hết!.
    Qua chiều mùng ba…Đi coi hát…Bước ra cửa nhìn tới nhìn lui coi có "con chai" hông… sợ tụi nó liệng pháo vô mình. Nếu tụi nó… bận hết thì mình yên tâm bước, còn nếu tụi nó đứng… lấp ló đâu đó thì quay trở vô nhà chờ tụi nó đi...Hỏng biết tại sao lại đi coi hát dịp Tết? Chen lấn mua vé bị người ta đụng…chổ này…cạ chổ kia…Mấy cha đợi dịp…chờ nước đục thả câu…Về tới nhà là hết ngày mùng ba.
    Qua mùng bốn. Ăn trưa xong, bày bộ Bầu Cua Cá Cọp ra… rủ luôn mấy đứa hàng xóm qua chơi. Vui thiệt là vui. Đứa thắng thì vui nhiều, đứa thua cũng hỏng buồn, vì Tết mà, buồn thì xui suốt năm sao?.
    Tết bên này cũng có bộ Bầu Cua Cá Cọp nhưng cũng hỏng vui bằng lúc nhỏ bên quê nhà….Ở thành thị qua mùng bốn, mùng năm là bớt đi không khí Tết rồi…Bắt đầu quét nhà mà phải quét ngược vô, vì quét ra là sợ tiền cũng theo ra…nhất là quét hột dưa rải rác đầy nhà… dọn dẹp rác rến. Nhưng nếu ở dưới quê thì người ta còn ăn Tết lai rai tới hết cả tháng lận…Sướng thiệt.
    Hơn ba chục năm nay tui chưa từng có được dịp ăn cái Tết đúng nghĩa y như hồi còn nhỏ ở Việt Nam. Ước gì một hai năm nữa, tất cả mọi chuyện "xuôi chèo mát mái", tui sẽ đem mấy nhỏ trở về quê nhà vào dịp Tết để hít thở cái không khí Tết của năm xưa, cả ở thành thị lẫn thôn quê…
    Mà lạ? Bên này mình có nhà cửa đàng hoàng, còn bên kia, nhà còn đâu?
    Sao cứ nhớ nhà ở bển hoài?
    Chúc tất cả mọi người một năm mới nhiều sức khỏe, tâm thần an bình và tài lộc dồi dào… 
Trương Kim Loan