Hoàng Oanh - Hoa Xuân
Trở về thôiHoa mai chừ nở rộ.
Đón mừng Chúa Xuân về...Mong chờ con nhớ đến,Xa lìa khỏi bến mê
Khúc Xuân chờ sum họp,Ngoài sân kìa gió Xuân.Chờ người xa về đến,Vui Xuân biết bao lần !?
Hoa đào chúm chím nở,Đợi chờ phút Xuân sang...Chờ phút giây hạnh ngộ,Ôi, tình Xuân nống nàn !!
Ta về nơi quê cũ,Lòng đau đáu nhớ quê...Liệu người xa xôi ấy,Chừ biết ta quay về ?!!NM
Tết đến rồi, về nhà đi con!
1. Đã bao lâu rồi kể từ lúc Luân về nhà lần cuối?
Giữa lúc ngớt việc tạm thời trong một ca làm thêm, Luân bất chợt nghĩ đến điều ấy. Cậu trai mới lớn bỗng chốc cảm thấy kì lạ với những cảm xúc đang len lỏi trong lòng mình.
Gia đình Luân cũng chẳng phải kiểu khá giả gì nhiều cho cam, chỉ thuộc dạng đủ ăn đủ mặc trong xóm. Ba má chỉ có mình Luân. Ngày trước, nhà nội Luân nghèo lắm, ba lại là con cả trong gia đình, bỏ học sớm, quần quật sớm hôm phụ giúp ông bà, để rồi đến khi giật mình lại, thì tuổi xuân đã trôi xa lắm rồi. Đến lúc cô Út tự lo được cho cuộc sống của mình, cũng là lúc bà nội ngỡ ngàng nhận ra thằng con cả nhà mình vẫn phòng không chiếc bóng.
Bà thương lắm, thế là bà đi hỏi người mai mối, bà dò hỏi khắp làng trên xóm dưới, xem có ai chịu thương thằng con số khổ của bà không. Bà chẳng dám hi vọng chi nhiều, vậy mà có thật, có cô thợ may cuối xóm chịu về với thằng con trai bà. Đám cưới của ba má Luân ngày ấy chẳng có chi nhiều, chỉ có vài ba mâm cơm ra mắt gọi là có lễ. Thế là xong.
Trong những câu chuyện sau này ba kể, mỗi khi nhắc về má, ông luôn không ngại ngần che giấu sự biết ơn của chính mình. Luân ra đời khi ba đã ngoài 40, nên có lẽ vì thế mà trong tình yêu thương của ông luôn mang theo sự nghiêm khắc và âu lo. Lo Luân chưa kịp lớn thì ông đã già, lo không bên Luân được lâu dài trên chặng đường sau này. Nên ngay từ những ngày tấm bé, Luân luôn có phần gần gũi má hơn ba.
2. Má Luân là người phụ nữ tuyệt vời. Bà dịu dàng và hiền dịu đến nỗi thằng Tèo trong xóm ngày ấy luôn tị hiềm cùng Luân, vì sao cả hai đứa cùng nghịch dưới ruộng, cả hai đứa đều lấm bẩn đầy mình, mà chỉ mình nó bị má rượt đánh khắp xóm, trong khi má Luân lại chẳng hề nói nặng một lời. Trong kí ức thơ dại ngày ấy, với Luân, má là người có nụ cười đẹp nhất, có bàn tay đẹp nhất, là người khéo nhất cả xóm. Mỗi lần có ai đó hỏi, Luân vẫn luôn ưỡn chiếc ngực nhỏ bé của mình lên rồi dõng dạc giới thiệu má mình.
Tuy nhiên má Luân bệnh nhiều, những căn bệnh nặng có, nhẹ có cứ khiến má cậu gầy yếu hẳn đi. Có những thời điểm, ba phải gửi Luân lại nhà cô Út để đưa má đi chữa bệnh khắp nơi. Má luôn cười và trong những kí ức về khoảng thời gian cuối cùng ấy, chưa bao giờ Luân thấy nụ cười tắt trên môi má. Má đi khi Luân vừa tròn 15, cái tuổi vừa đủ để biết khoảng trống một người thân yêu để lại là hoang vu và đớn đau đến nhường nào.
Đã từng có khoảng thời gian, Luân giận ba ghê gớm, giận ba đã không thể giữ má lại, giận ba đã không cố gắng hết sức, mặc dù Luân cũng hiểu được những điều ấy là vô lí đến chừng nào.
Đến mãi sau này Luân mới hiểu, cậu giận ba như một cách để trốn tránh sự dằn vặt của bản thân mình. Dằn vặt khi không kịp hiểu chuyện sớm hơn, dằn vặt khi không kịp lớn để mang đến cho má nhiều điều tốt hơn, dằn vặt khi chưa bao giờ nói với má rằng cậu thương má biết chừng nào.
Lần đầu tiên Luân thấy ba khóc ấy là khi cậu đột ngột trở về nhà sau khi đã xin phép ở nhà bạn. Giữa màn đêm thăm thẳm, cậu thấy ba đứng trước bàn thờ má, nâng niu lau tấm di ảnh má một cách chậm rãi và từ tốn, mặc cho khóe mi hoe đỏ những dòng lệ chảy dài.
Và đó cũng là lần đầu tiên Luân chợt hiểu, ba mình là người đàn ông giàu tình cảm đến độ nào. Những giọt nước mắt ấy như chiếc cầu nối vô hình, khiến Luân gần lại với ba hơn hẳn.
Cậu học cách nấu ăn, học cách dọn dẹp nhà cửa, học cả cách đơm cúc áo. Tuy rằng những món ăn cậu làm có đôi khi vẫn nhầm đường thành muối, mặc dù có đôi khi căn nhà cậu dọn dẹp bề bộn hơn lúc ban đầu và cũng lắm khi chiếc cúc vừa đơm chẳng thể nào gài được vì lệch vị trí, thế nhưng cậu thấy ba vui nhiều. Và cũng vì một lẽ, cậu muốn ba cảm nhận được rằng, cậu kính trọng và thương ông biết bao nhiêu.
3. Rồi ba lấy vợ, phải lòng người phụ nữ góa bụa đầu thôn. Chồng mất sớm, bà ấy cũng một mình đơn độc, chẳng con chẳng cái.
Luân khi ấy, gần như phát rồ cả lên. Cậu có cảm giác như bản thân mình bị đâm một nhát dao “phản bội” bởi chính người mình kính trọng nhất. Cậu cảm thấy gia đình ấy, đã chẳng còn là một gia đình mà cậu luôn muốn trở về nữa rồi.
“Ba mong con hiểu”.
“Con không bao giờ hiểu được”.
Luân nói như thế trước khi lên đường trở lại thành phố, bắt đầu chạy đua với chương trình học dày đặc, với những công việc làm thêm liên miên, cốt để không trở về nhà, trở về một nơi mà Luân đã mặc định “xa lạ”.
Đêm.
Luân trở về căn nhà trọ vắng hoe. Giờ này có lẽ thằng Hiếu đã say bí tỉ ở chốn nào rồi. Có tiếng gõ cửa phòng khe khẽ, bà chủ nhà gửi Luân một phong thư. Ai nhỉ? Ai lại viết thư giữa thời đại 4.0 như thế này?
“Luân,
Là dì đây. Con thế nào rồi? Khỏe không con?
Con ăn uống đầy đủ không? Có thiếu thốn gì không con?
Dì không biết mình có nên viết những dòng này không nên cứ nghĩ hoài, nghĩ mãi. Nhưng thấy ba con mong con quá, nên dì lại chẳng đành lòng. Ba con cứ ngồi bên điện thoại mãi, nhấc lên rồi lại để xuống. Những lần như vậy là ổng lại ngẩng đầu nhìn bàn thờ má con rồi thở dài.
Càng gần những ngày cuối năm thế này, ba lại càng mong con. Tuy ba con chưa từng mở miệng nhắc tới, nhưng dì biết ba luôn đợi tin con về. Luân à, Tết này về nha con! Về cho ba con được vui, về thắp cho má nén hương nha con.
Dì Tâm”.
Những dòng chữ tròn tròn, nắn nót ấy chẳng hiểu sao lại khiến lòng Luân buồn quá đỗi! Luân nhìn ra ngoài kia, không khí Tết đã rộn ràng lắm rồi mà sao Luân chẳng cảm nhận được nhỉ. Đã 2 năm rồi, Luân chưa có cho mình một cái Tết trọn vẹn. Luân cứ nhìn người ta vui Tết, rồi tặc lưỡi vội vàng di chuyển đến những nơi làm thêm.
Bỗng nhiên Luân thèm Tết, thèm những lúc má nhóm lò trước sân, gọi ba nhắc lên giùm nồi nước. Thèm cả lúc hai cha con hì hục đi lựa gốc mai trên rẫy, cự nự qua lại hồi lâu mới chọn được cành mai mang về. Thèm luôn cả cái không khí nôn nao, nhà này sang nhà kia biếu cặp rượu hay mấy hũ kiệu, dưa món. Nhớ lắm lúc má kéo dậy tinh sương sớm 30, cùng má đi chợ. Đi rã cả chân để rồi đổi lấy hai bàn tay đầy ắp đồ. Chỉ được cái sướng dạ khi nghe mấy cô mấy bà khen: “Con nhà chị Thơm lớn tướng chưa kìa, má nhờ được rồi! Sao mà nuôi giỏi thế!”.
4. Chiều 30, Tết đã về trên khắp các con ngõ của xóm nhỏ thân thương. Lũ trẻ nô nức chạy từ nhà này sang nhà khác. Mai đã rộ bên hiên nhà ai từng bông vàng ruộm nắng. Hương Tết thấm đượm cả không gian.
Luân chần chừ trước ngõ hồi lâu, nhìn người đàn ông đi đi lại lại trong sân, chốc sửa sang lại vị trí của nhành mai, chốc chốc chỉnh lại chiếc bàn trước sân để chuẩn bị cho đêm nay cúng giao thừa. Luân chẳng ngờ, mái đầu ba đã bạc đến nhường ấy, tấm lưng kia cũng chẳng còn thẳng như trước.
“Ba!”.
Người đàn ông ấy quay sang tắp lự, đôi mắt sau cặp kính lão sáng lên những tia rạng ngời.
Ông không cười, cũng không có chút cảm xúc khác biệt nào trên gương mặt,
nhưng Luân biết, ba đang mừng lắm, vì bàn tay đang vỗ lên lưng Luân vẫn
run run.
“Về là tốt rồi! Về là tốt rồi!”.
Luân vào thắp hương cho má. Bàn thờ má sạch tinh tươm, hương hoa ly má thích nhất thoảng trong gió chút hương bình an đoàn viên, trái cây đơm đủ đầy và tươi mới. Nụ cười của má, vẫn luôn dịu dàng như ngày ấy.
Luân xuống bếp, nồi măng hầm nóng hôi hổi, những đòn bánh tét xanh màu lá tươi vẫn đang đợi đêm nay nhóm bếp.
Chỉ nhìn thôi, cũng đủ biết tất cả những tinh tươm này đều nhờ tay một người phụ nữ.
Luân quay sang ba, ngập ngừng mãi hồi lâu rồi mới hỏi:
“Dì Tâm đâu rồi ạ!”.
Ba ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đành nói thật.
“Dì lo con không vui nên trở về căn nhà dì ở trước đó rồi!”.
Luân yên lặng, chẳng ừ hử gì thêm.
Gần khuya, Luân cùng ba sửa soạn mâm cúng. Khi mọi thứ đã xong xuôi, Luân khoác thêm áo rồi ra ngoài.
“Con định đi đâu?” - Ba Luân gọi với ra.
“Con… đi gọi dì”.
Nói rồi cậu trai chạy mất hút vào màn đêm, mượn sắc đen của trời để che đi đôi tai đang ửng đỏ lên vì ngượng của mình.
Tết về rồi! Và thật may, khi Luân vẫn còn nơi để trở về.
ST
Mùa Xuân nho nhỏ...
Giờ này chắc Vân đang thịt gà, chuẩn bị cỗ cúng giao thừa. Đến tội, lát nữa cúng khấn thể nào cũng mếu máo. Tuấn đã mua, để sẵn cuốn sách Văn Khấn Nôm vào ngăn tủ từ ngày lang bạt theo các công trình, dặn Vân lễ nào lịch nấy, cứ lấy sách ra mà đọc.
Thằng cu hẳn là ngủ rồi, hoặc đang xem tivi. Hôm kia, lúc tạt vội về báo hai mẹ con là Tết này anh phải trực công trình, thằng bé đần mặt ra: “Thế mình không về ông nội, ông ngoại hả bố?”. Suýt Tuấn rơi nước mắt trước mặt thằng bé. Anh giải thích loanh quanh, nào là năm nay mọi người vất vả cả rồi, có bố là còn tương đối thảnh thơi, lại thỉnh thoảng vẫn được về thăm nhà nên phải trông công trình cho mọi người về quê ăn Tết; nào là mai kia ra Giêng, bố về thì bố con mình đi sau. “Lúc ấy Tết mới to”, anh nháy mắt nhưng thằng bé xịu hẳn mặt xuống.
Vân cũng buồn không kém. Nghe anh nói, Vân im lặng. Một sự đồng cảm không lời. Vân biết, lý do này nọ anh đưa ra chỉ là ngụy biện thôi. Sâu xa là anh muốn kiếm thêm ít tiền. Tuần trực Tết, lương ngày công tăng gấp ba cũng thêm vài triệu. Năm 2022 là một năm kỳ lạ. Qua Tết Nhâm Dần, dịch dã được kiểm soát, anh được công ty động viên trở lại thành phố đi làm. Lại được công đoàn lo bố trí thuê giúp sẵn chỗ ở. Xe công ty về tận nơi đón anh cùng mấy chục công nhân trong huyện đi làm. Đời làm công nhân như anh chưa bao giờ được thế... Những tháng đầu năm tăng ca ào ạt, phúc lợi lên cao. Ai cũng mừng. Rồi không hiểu sao mỗi ngày lại thấy mọi sự thít lại, việc giãn ra. Anh và đồng nghiệp phải nghỉ cầm chừng. Đến tháng 7, tháng 8 thì việc đứt hẳn. Công ty kêu khó, công đoàn động viên. Mỗi người nhận ít trợ cấp rồi trở về nhà. “Không đi làm xa nữa anh ạ, vất vả, bấp bênh mà được đồng nào rải đường hết. Ngay ở đây có doanh nghiệp xây dựng đang tuyển bảo vệ, anh thử xin vào làm xem có được không?”, Vân nói. Tuấn xin việc và được nhận. Đó là một doanh nghiệp xây dựng nhỏ. Hai năm dịch bệnh, họ “đắp chiếu” đến gần chục công trình ở mấy huyện quê anh. Chỗ này một trường tiểu học dở dang, chỗ kia đoạn kênh mương thủy lợi, chỗ nọ một trạm y tế, chỗ khác nữa là một bức tường rào khu hành chính cơ quan... Cứ tưởng công việc ổn định, gần nhà, ai ngờ chừng một tháng thì anh bị điều đi công trình khác. Ở đó chừng một tháng lại bị điều đi công trình khác nữa. Cứ thế, đến công trình này là thứ năm hay thứ sáu rồi. Lần đầu bị điều động đi nơi khác, Tuấn định gặp giám đốc trình bày xin ở lại, anh bạn đồng nghiệp tên là Thảo bảo: “Thôi ông ạ, họ điều đi thì cứ đi thôi”. “Nhưng đây và chỗ mới khác gì nhau. Tôi lại mới đi làm được một tháng?”. Anh bạn cười hì hì: “Họ có lý cả đấy. Mèo già hóa cáo. Ở lâu một chỗ, ông quen biết dân địa phương, nếu có tính tắt mắt thể nào cũng ăn cắp ít sắt thép, xi măng tuồn ra ngoài. Họ có kinh nghiệm từ những vụ trước ông ạ”... Tuấn lấy chiếc đèn pin, dạo một vòng quanh khu vực công trường. Khắp nơi, gạch đá ngổn ngang; mấy chục bao xi măng được vất chèn đầy một cầu thang xây dở. Trong lòng một căn phòng mới hoàn chỉnh phần mái, một đống sắt thép, loại cuộn tròn, loại cây thẳng đến mấy tấn vất chỏng chơ. “Ông Thảo nói đúng. Lúc này mình ăn cắp vài cây thép cũng chẳng ai biết. Còn xi măng có cho mình cũng không thèm, chẳng được bao nhiêu tiền, đèo hỏng cả xe”, anh thầm nghĩ. |
Có chuông điện thoại, Tuấn mở máy nghe. Đầu dây bên kia tiếng Thảo lẫn với tiếng nhạc ầm ĩ: “Ông có ở công trình không hay đi đâu?”. Anh giải thích mình đang đi ngó xung quanh. Thảo nói to: “Ông về lán ngay nhé, giám đốc đến thăm đấy!”.
Tuấn vội vàng chạy về lán thì thấy ba người đã ngồi đó. Ngoài giám đốc công ty còn có trưởng phòng hành chính, nhân sự và một chị còn trẻ mặc chiếc áo màu xanh, ông giám đốc giới thiệu là cán bộ công đoàn huyện. “Công đoàn đến thăm, tặng quà anh trực Tết. Lẽ ra chúng tôi báo anh sớm hơn, nhưng đến bất ngờ thế này để anh vui”.
Chị cán bộ công đoàn nói ngắn gọn, đại ý, công đoàn huyện có mấy trăm suất quà cho người lao động trực Tết, ở công ty này anh được chọn. Quà ít, lòng nhiều, chúc anh và gia đình mạnh khỏe, bình an. Dù đã từng nhận quà công đoàn ở công ty cũ, Tuấn vẫn thấy xúc động, chỉ nói được mấy câu lý nhí cảm ơn. Anh thầm nghĩ: “Mấy ông bà này đúng là cơm nhà vác tù và hàng tổng. Chắc chồng con phải dễ tính, thông cảm lắm thì giờ này mới bỏ gia đình đi chúc Tết người dưng”.
Mấy người về rồi, anh còn mân mê mãi túi quà. Không có gì nhiều, mấy gói bánh kẹo, cái phong bì trong có năm trăm. Điều làm anh nghĩ và lấy làm lạ là sao họ, cái chị công đoàn ấy, phải khổ sở đêm hôm đội mưa đến thăm nom, tặng quà Tết cho mình?
Sắp giao thừa, mưa đã tạnh, trời sáng lên đôi chút. Tuấn định lát nữa gọi về nhà thì vừa may Vân gọi tới. Qua camera, anh thấy căn phòng nhỏ của hai vợ chồng sáng bừng lên. Vân đã bày mâm cỗ lên bàn thờ, hai bên đặt hai cây mía, giàn bóng điện xanh đỏ nhấp nháy.
Thằng cu ló vào màn hình điện thoại. “Chưa ngủ hả con?”, giọng anh nghẹn lại. “Chưa bố ạ, mẹ bảo thức tý nữa xem pháo hoa”. “Thế có chuyện gì hay kể cho bố không?”. Thằng cu nhảy nhót, cười váng lên: “Không có bố ạ, chỉ mong bố về sớm thôi”. Tuấn phải quay đi, lặng một giây kiềm chế giọt nước mắt đã cay cay nơi khóe mắt.
“À, con quên”, thằng cu lại ngó vào màn hình điện thoại. “Quên gì con?”. “Con chúc bố khỏe mạnh, hạnh phúc và kiếm được nhiều tiền”. Lần này thì Tuấn tắt máy. Anh khóc.
Chưa bao giờ anh xấu hổ về sự nghèo. Cái giàu và nghèo có làm nên giá trị con người không? Có là thước đo hạnh phúc không? Đã đành không có tiền anh sẽ vất vả hơn, như đang vất vả, xa cách hôm nay; nhưng anh đã nỗ lực hết sức và mọi sự không chiều theo ý muốn của anh. Hay tại anh bằng lòng với những gì mình có nên không quyết liệt thay đổi tìm hướng đi mới, kiếm thật nhiều tiền cho vợ con sung sướng, tự hào? Một thằng bé cũng biết nói đến tiền, biết niềm vui được hưởng thụ nếu có tiền thì có nguy cơ gì không, nó có còn trong trẻo để lớn lên không bợn vật chất không? Và có thật nó chúc bố kiếm tiền hay đó là ý của mẹ nó, như một lời trách, hay như một sự ghi nhận, cảm thông?. Đồng hồ điểm giao thừa. Tiếng nhạc từ chiếc tivi cất lên trang trọng. Loáng thoáng có tiếng pháo nổ đì đùng. Lệnh cấm pháo gần ba mươi năm qua vẫn chưa được thực thi triệt để. Tuấn thấy lòng mình trùng lại. Có lẽ anh đã hơi cả nghĩ. Anh thắp thêm một nén nhang, cắt khoanh bánh chưng và tự thưởng cho mình một ly rượu nhỏ. Một cái gì như niềm hạnh phúc len lỏi vào từng tế bào thần kinh. “Ba hôm, chỉ ba hôm nữa mình sẽ về với con”, anh nhủ thầm và thấy vui vui. “Mùa xuân. Mùa xuân. Một mùa xuân nho nhỏ...”, tiếng hát bỗng vang lên. Bài hát anh đã nghe cả nghìn lần mà cảm giác chưa bao giờ thấy hay đến thế... | |
Lưu Hiện |
Nốt nhạc trầm
GN - Con ngồi chờ ở đây để má lượm ít con ốc về làm mồi cho ba con nhấm rượu nhe?
Nói xong má đặt tôi ngồi vào cái thúng như để chuẩn bị gánh tôi về với đầu gánh bên kia là thúng khoai lang chuẩn bị sáng hôm sau đem ra chợ bán. Nhưng tôi bật dậy như cái lò xo, bước ra khỏi thúng lẽo đẽo theo sau má. Má lội xuống mương, nước ngập quá gối, khom lưng thò tay xuống rồi nắm lên liền một nắm ốc như thể má biết rõ chỗ nào lũ ốc tập trung nhiều nhất vậy.
Má cũng không bỏ sót những con ốc đeo trên mấy chà tre, thân rau nhút, rau muống xung quanh đó. Bàn tay má nhanh thoăn thoắt nhưng không hề lẫn lộn ốc to với ốc nhỏ; má chỉ bắt ốc lớn thôi, còn ốc nhỏ má bỏ lại xuống mương “để cho sau này con nhỏ nào lấy Út của má thì bắt lũ ốc ấy về làm mồi cho Út nhậu hỉ!”. Má nhìn tôi cười tươi trong khi bàn tay còn ngắt luôn mấy đọt rau muống mềm mọng nổi lênh đênh trên mặt nước.
Tôi không thể nào quên được nụ cười đó của má. Nụ cười đã ám ảnh tôi, theo tôi suốt cuộc đời như một biểu hiện của tình yêu, sự lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn nhất của đời người. Nó như một sự xóa tan, trút bỏ bao nhọc mệt để vươn lên, như hoa sen vươn lên khỏi mặt nước hồ lạnh lẽo đón nắng mặt trời để mà nở, mà tỏa hương. Tôi tiếc rằng mình không phải là họa sĩ tài ba hay nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp để kịp ghi lại khoảnh khắc tuyệt vời đó.
Gió lạnh từng cơn thổi rào rào trên đồng vắng. Tôi nói, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập vì lạnh: “Mình về má ơi!”…
Tôi là út trong gia đình tám anh chị em. Ông nội tôi là địa chủ. Ba tôi không quen làm lụng dù sau này đất đai đã không còn như trước nữa. Nhà nghèo, một mình má bươn chải. Tuy cực khổ lắm nhưng đứa nào má cũng dành trọn tình thương như nhau, hết đứa này tới đứa khác, một cách kiên trì nhẫn nại. Đi đâu má cũng toàn đi bộ, uống nước mương ven đường. Đã thế lại còn cõng thêm “cục nợ” là tôi đây nữa (má hay gọi tôi là “cục nợ” một cách trìu mến).
Không hiểu sao từ khi sinh ra tôi đã đeo riết bên má. Hễ vắng chừng năm mười phút là tôi thấy lạc lõng lạ thường. Sau này nghĩ lại tôi tự trách mình. Phải chi hồi đó mình không đeo theo má như vậy thì má đỡ khổ biết mấy, để mỗi buổi chợ sáng má có thêm vài ký khoai lang ở đầu gánh bên kia, để trên đường xa má không phải cõng tôi trên lưng dù chắc lúc đó chân má cũng mỏi nhừ... Nhưng có lẽ nhờ sự vô tư đáng trách đó của trẻ con mà tôi càng cảm nhận thêm thế nào là sự ấm áp của tình mẹ. Chẳng những mẹ không bao giờ phàn nàn phải cõng tôi mà có khi má còn nói đùa, gọi tôi là “ông con”.
Má cứ miệt mài làm lụng nuôi chồng, nuôi con. Má còn lo lắng chạy thầy chạy thuốc cho chị Năm hay trong nhà có ai bị bệnh. Ngày anh Bảy đi nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia, tôi nhớ như in cảnh má nhào ra xe, rồi ngất xỉu khi chiếc xe chở anh chạy qua... Sau này khi có dịp đọc kinh Bổn sanh Bổn sự nói về tiền thân Đức Phật, tôi càng hiểu thêm tâm trạng của má tôi lúc đó. Chuyện rằng có một con nai mẹ đứng liếm vết thương cho nai con vừa bị trúng tên của gã thợ săn nào đó. Liếm một hồi thì nai mẹ cũng lăn ra chết luôn, vì đau lòng đến đứt ruột.
Tôi nghe người ta nói, ông nội ngày xưa là địa chủ. Do ăn ở ác với tá điền nên bây giờ con cháu phải chịu quả báo nghèo hèn. Tôi không biết thực hư chuyện đời trước thế nào, nhưng gia đình tôi nghèo là có thật. Một số anh chị của tôi dù có gia đình nhưng chẳng những không phụ giúp gì cho mẹ tôi mà trái lại, có khi còn chạy qua xin gạo, nước mắm, muối... Má tôi đều vui vẻ đưa cho, để rồi sau đó nghe ba tôi chửi mắng. Tuy nhà nghèo nhưng ba tôi rất sang. Mỗi bữa cơm phải có đồ nhấm và một xị rượu. Nếu không thì ông sẽ cằn nhằn, mắng mỏ. Có lần ba đem đốt cả một bó lá dừa to giữa nhà để ăn cơm chỉ vì mẹ tôi đốt đèn bóng (để tiết kiệm dầu) cho ba ăn cơm. Lận đận là vậy, nhưng tôi chưa bao giờ thấy má khóc cả. Hay má muốn giữ vững tinh thần trước mặt chúng tôi mà khóc lén cũng không biết chừng?
Càng lớn tôi càng nhận thức được những khổ đau của má. Đối với tôi, không có người phụ nữ nào trên đời này chịu thương chịu khó bằng má. Sau một lần má ngã bệnh, tôi thấy má già hẳn di. Tôi nghĩ thầm chắc má không thể cõng tôi đi đâu được nữa rồi. Hình như má biết tôi đang nghĩ gì nên xoa đầu tôi nói: “Mai mốt đi đâu Út cõng má hén?”. Tôi “dạ” một tiếng rất ngoan, làm má vô cùng hài lòng. Lúc đó tôi chỉ có một ước muốn là làm sao cho mau lớn để... cưới vợ, đặng có thêm người làm phụ má mà thôi. Tôi không sợ ế vợ, vì tôi thường nghe mọi người khen tôi dễ thương, rằng “sau này lớn lên sẽ có nhiều con (con gái)... chết vì thằng Út cho mà coi!”.
Má tôi vốn là một tiểu thư trâm anh đài các, nên được học đủ các loại nữ công gia chánh, cũng như âm nhạc, hội họa - nhất là ngón đàn tranh thì thật tuyệt. Vì khi tôi mới sinh ra, má thấy tôi “dễ thương như một nốt nhạc” nên đã dạy tôi dánh đàn những khi rảnh rỗi. Có thể nói tôi là niềm an ủi duy nhất của má, gợi nhớ một thời con gái tươi đẹp nhưng ngắn ngủi (má lấy chồng năm mười sáu tuổi). Tôi không nghĩ được “vợ” tôi sau này phải như thế nào, nhưng phải giống như má và phải biết thương má như tôi mới được...
Nhưng sự đời ít ai biết trước. Càng không ai có thể ngờ tôi sẽ trở thành một tu sĩ!
Lần nọ, trên đường đi học về, tôi bị quẹt xe. Người lái xe là một ông... thầy chùa. Ông chở tôi tới chùa băng bó vết thương rồi đưa tôi về tận nhà, kèm theo rất nhiều quà. Ông cũng gửi tiền cho má tôi, nói là để mua thuốc cho tôi uống thêm. Từ đó trong tôi luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh ngôi chùa tráng lệ. Trong tôi hình thành ý muốn xuất gia với ý nghĩ rằng chỉ có cách đó mới… giàu được, mới có điều kiện đem lại sự sung sướng cho má, bù đắp những tháng ngày cực khổ. Và tôi đã đi tu với lời hứa rằng: “Má ráng sống đến mười năm nữa con sẽ mua xe du lịch chở má đi chơi!”.
Thời gian trôi qua nhanh quá, mười năm, rồi mười năm nữa, nhưng đứa con “chí hiếu” của má vẫn là một Tăng sinh nghèo. Chẳng những tôi không thể mua xe du lịch chở má đi chơi như đã hứa mà có khi còn để cho má phải lo lắng khi thấy “ông thầy” ăn mặc sao lam lũ quá. Má thỉnh thoảng còn nhét vào túi tôi ít tiền mỗi khi tôi về thăm nhà... Mấy đứa bạn học chung với tôi hồi phổ thông bây giờ đều giàu có cả. Phải chăng, chọn con đường đi tu để mong thoát nghèo là một chọn lựa sai lầm? Hỏi không phải để hối hận, mà là để trêu cái thằng nhóc tôi năm xưa sao mà ngây thơ quá đỗi! Có ai chọn con đường đi tu để làm giàu bao giờ!
Thời gian tu học ở chùa cũng là thời gian chuyển hóa dần cách nghĩ trẻ con ấy của tôi. Tôi dần dần nhận ra một cách chân thành rằng vật chất chỉ là gánh nặng trên đôi vai trần, không hề đem lại hạnh phúc gì cho con người cả, có chăng chỉ là bóng hình huyễn ảo, chập chờn như bóng đèn trên tường và phù du còn hơn cả con phù du sống trên mặt nước nữa. Được quy y Tam bảo và được sống theo chân lý của Phật-đà mới là hạnh phúc tối thượng, dù cho vẻ bề ngoài có lam lũ và đạm bạc đến đâu. “Đại phú do mệnh, tiểu phú do cần”.
Má à, giả sử như nhờ phước kiếp trước mà con của má được giàu có thì chắc con cũng không mua xe du lịch đâu... Cho đến lúc này, tôi phần nào hiểu được nụ cười giữa hoàng hôn ngày nào của má. Tuy cực khổ nhưng do thấy được ý nghĩa việc làm của mình là nuôi chồng nuôi con nên cực về vật chất mà vẫn vui về tinh thần. Cũng như tôi bây giờ, là người nghèo nhất trong đám bạn, nhưng để thấy đời mình có ý nghĩa thì chưa chắc ai đã hơn ai?
Ngày má bệnh, tôi về thăm và cho má xem bài báo đầu tiên của tôi được đăng và tặng má tiền nhuận bút. Coi như số tiền đầu tiên do chính sức lao động của tôi có được. Bài viết về ý nghĩa của chữ hiếu trong đạo Phật. Má đọc xong rồi nhìn tôi cười, nói: “Xe du lịch của thầy đó à?”. Tôi bỗng lúng túng, vì không ngờ má còn nhớ lời hứa ấy và đã nhắc lại trong giờ phút này. Tôi không hiểu má đang khen hay chê, yêu hay trách tôi khi hỏi vậy, nên đã trả lời bâng quơ: “Ai bảo hồi đó má cho con đi tu chi?”.
Tôi chợt nhớ hình ảnh má dắt tay tôi rời khỏi con đường làng gập ghềnh sỏi đá. Má con chia tay nhau trước cổng chùa vì má không nỡ nhìn thấy tôi xuống tóc. Hơi ấm từ bàn tay má xa dần, xa dần... theo năm tháng. Chợt má nhìn tôi mỉm cười: “Sau khi hết bệnh, má sẽ lên chùa quy y Tam bảo”. Má nắm lấy bàn tay tôi. Ôi, lâu rồi tôi mới cảm nhận lại hơi ấm từ bàn tay ấy. Nhưng có hơi khác một chút, vì ngoài ý nghĩa yêu thương ra, còn hàm ẩn một lời cảm ơn, rằng “má đã giác ngộ được đạo Phật, nhờ con đó”. Tôi hiểu được những gì má muốn nói và vui mừng khôn xiết. Tôi tặng má kinh sách, băng đĩa về Phật giáo... gọi là để xem, nghe “mỗi khi buồn hay nhớ con”. Tôi chỉ có thể giáo hóa má bằng cách gián tiếp mà thôi chứ đâu dám nói thẳng là mẹ đã lỡ tạo những nghiệp không lành trong đời. Bởi vì dù đó là nghiệp xấu gì đi nữa thì cũng chỉ vì con cái chứ vì ai! Tôi nắm chặt tay má và nhìn vào mắt như thầm cảm ơn má đã hiểu tôi và không trách tôi không giữ lời (mua xe) như đã hứa.
Tôi lấy chiếc đàn tranh xuống dạo một khúc. Má con nhìn nhau mỉm cười. Tôi đã không thể đem đến cho má sự vinh hoa phú quý, không có nhà cao cửa rộng, không có xe hơi để chở má đi chơi giữa phố phường, giữa bà con lối xóm cho má được nở mặt nở mày như tôi đã từng mơ ước. Nhưng những gì tôi có thể làm cho má hôm nay còn quý hơn những điều đó rất nhiều, đó là “con đường giác ngộ” mà tôi đã “vô tình” thấy được, đã “hiến dâng” cho má một nơi nương tựa không chỉ đời này mà đời đời kiếp kiếp đến tương lai: Quy y Tam bảo.
Tiếng đàn vẫn réo rắt, khi lên cao, khi lắng đọng... Nghĩ lại đời má nghèo nhưng không khổ, vì lúc nào má cũng có niềm vui tinh thần, trước đây là niềm vui được lo cho chồng con, bây giờ là vui với Chánh pháp. Tôi ví niềm vui đó của má như nốt nhạc trầm vậy. Không ồn ào nhưng sâu xa, nuôi dưỡng lòng người trong sáng mãi không thôi...