CHA TÔI
Cha tôi,
Suốt cả một đời cha cưu mang,
Những vòng quay bánh, lắm nhọc nhằn...
Cha về cõi ấy còn lưu luyến,
Thương trẻ một mình bao gian nan !
Con sinh từ cha, quả tim hồng,
Vì trẻ một đời, cha long đong...
Dẫu con không mẹ thì con có,
Ấm áp tình cha cả nỗi lòng !!
Cha mãi là cha yêu của con,
Tình cha cao vợi tợ núi non...
Biết bao bài học từ cha đó,
Người cha vĩ đại, tấm lòng son !!
NM
Trời mưa bong bóng
Mọi
việc tang lễ và chôn cất cha coi như đã xong xuôi, bà con xa gần đều
lần lượt về quê cả, chỉ còn tôi và ngôi nhà buồn hiu trống trải. Cơn mưa
chiều dai dẳng tràn qua ngõ phố, bong bóng nước phập phồng trôi như số
phận con người giữa dòng đời định mệnh. Tôi cố gượng dậy dọn dẹp mọi thứ
trong căn nhà bừa bộn mấy ngày nay. Bàn thờ cha thoang thoảng hương
trầm, những lọn khói cong oằn vẽ nẻo xa xăm của miền dĩ vãng. Nụ cười
hiền từ của cha trong di ảnh y như ngày nào cha còn sống. Ánh mắt cha
sâu thẳm như luôn dõi theo từng bước chân tôi.
Dọn
dẹp xong tôi làm cơm chiều cúng cha. Cái khăn tang tôi không đốt, mà để
làm kỷ niệm, kỷ niệm ngày cha về với đất. Mới hôm nào bác sĩ bệnh viện
nói nên đưa cha về nhà. Bệnh già như thế coi như sắp mãn. Trước khi mất
cha còn minh mẫn lắm. Cha nói dù giá nào tôi cũng phải học cho xong năm
cuối đại học, vì chỉ có học mới hi vọng có tương lai… Cái tủ cha cất đồ
đạc ngày trước giờ lại là cái bàn thờ cha. Cái tủ này tôi ít khi nào mở
ra và dòm ngó bên trong của nó. Nay nhìn di ảnh cha thờ trên nó, tôi
thấy nó gần như là người thân duy nhất còn sót lại. Lòng tôi dâng trào
một niềm cảm xúc đến kỳ lạ. Hai dòng nước mắt tuôn rơi. Vội lấy vạt áo
lau khô, tôi sợ làm ướt chỗ cha nằm dưới ấy, nước mắt con lạnh cha sẽ
không được ngủ yên.
Tôi
rót cho cha một chén trà, rồi lại rót cho mình một chén. Vị trà, hương
trà làm tôi phần nào bình tâm lại. Tôi sực nhớ ra hôm đưa cha về nhà,
khi ngồi trên xe cha có nói: “Cha để dành cho con cái hộp trong tủ, khi
nào cha mất con hãy mở ra và làm theo lời cha dặn”. Nhưng từ ngày đó đến
nay lu bu và ưu buồn quá đỗi nên tôi bẵng quên. Tôi vội mở cái tủ ra và
xem cha dặn điều gì. Quả là dưới mớ quần áo cũ của cha có một cái hộp
bằng gỗ, nắp hộp có một ổ khóa số. Không biết cách nào mở ra, tôi loay
hoay và chợt nhận ra dưới đáy hộp có dán một tấm hình tôi lúc chừng năm
sáu tuổi, bên góc phải bên dưới có ghi ngày tháng năm sinh của tôi. Thì
ra đó là mật khẩu để mớ ổ khóa. Tôi quá ngạc nhiên, trong hộp có rất
nhiều tiền sắp ngay ngắn, dưới cùng có một lá thư.
“Con
gái nuôi yêu quý của cha…”. Tôi ngạc nhiên quá, sao cha lại gọi tôi là
“con gái nuôi...”! Nhưng tôi cố gắng đọc cho hết bốn trang giấy xem cha
nói những gì. Chữ cuối cùng chấm dứt thì cũng là lúc tôi ngã vật xuống
giường òa lên khóc… Tôi khóc cho cha và tôi khóc cho tôi… Chiều mưa bong
bóng vẫn phập phồng trôi qua đìu hiu ngõ vắng.
Cha
tôi ngày ấy cũng như bao người, cùng gia đình lên vùng kinh tế mới, đó
là xã Tha La I ngày xưa, sau đổi tên là Tân Thạnh, nay là khu thị trấn
Tân Châu. Ngày ấy lên vùng này đời sống quá cơ cực, đói kém, thiếu thốn
mọi thứ nên chú Út dẫn bà nội trở lại Sài Thành. Nhưng cha tôi thì không
chịu về, cha làm đủ thứ nghề để sinh sống. Cuối cùng thì trạm kiểm lâm ở
Tha La II cần người làm tạp vụ, và cha tôi xin vào làm ở đó, coi như
tạm yên.
Vào
một buổi khuya, khi chuyến xe sớm sắp khởi hành qua trạm, cha tôi thức
dậy nấu nước pha trà cho các cán bộ trong trạm. Bỗng cha nghe tiếng em
bé khóc, mọi người thì cho là tiếng mèo kêu. Cha tôi cầm đèn pin ra phía
đám đất trống mọc đầy cỏ chỉ gần đó xem xét, và cha phát hiện ra tôi,
đứa bé gái chưa đầy ba tháng tuổi, nằm trong một cái thúng, không biết
ai bỏ ở đó tự khi nào. Cha vội đem tôi vô trạm, truy hô cho mọi người
cùng biết, rồi nấu nước tắm rửa cho tôi, nấu nước cháo đút cho tôi uống.
Ông trạm trưởng hỏi có ai nhận nuôi đứa trẻ này không. Không một ai lên
tiếng. Và hiển nhiên từ giây phút hữu duyên ấy mà hai con người không
máu mủ trở thành cha con... Đó là cha và tôi. Bao nhiêu tiền dành dụm
được cha tôi đều đổ vào nuôi đứa con gái nhỏ. Ngày ấy đói kém quá, đồng
tiền công tạp vụ không thấm vào đâu nên cha tôi phải đi làm mướn thêm ở
ngoài. Công việc từ sớm khuya cho đến chiều tối, nên cha mới ẵm tôi về
Sài Thành nhờ nội chăm sóc hộ để cha có thời giờ làm lụng kiếm tiền đem
về cho nội nuôi tôi.
Bà
nội ban đầu giận nên mắng cha tôi dữ lắm. Bà nói đã nghèo kiết xác mà
còn ham lấy vợ, giờ vợ bỏ phải nuôi con đỏ. Cha tôi vẫn tươi cười.
-
Má đừng giận, vợ bỏ thì con nuôi con. Con sẽ cố gắng làm đem tiền về
nuôi nó và cho nó ăn học. Má thương con thì thương cháu nha má!
Ấy,
tôi ở với nội, cha tôi làm gấp hai gấp ba để nuôi tôi trong cái thời
buổi tiền cao gạo kém ấy. Và nội tôi cứ đinh ninh trong lòng, tôi là đứa
con gái của cha tôi cho đến ngày nội tôi nhắm mắt.
Nội
tôi chết, cha tôi về Sài Thành mua được chiếc xích lô và cứ thế cha làm
con ăn học cho tới ngày tôi khôn lớn. Bí mật này chỉ có mình cha tôi
biết, nhưng cha âm thầm chịu đựng và không hề nói ra, vì cha sợ nội tôi
không ưng, chú Út tôi biết chuyện khi vào hai ba xị sẽ nói bậy bạ, tôi
lớn lên mang tiếng đứa mồ côi không cha không mẹ sẽ tủi thân. Tình cha
tôi sâu thẳm là vậy đó…
“Con
gái nuôi cưng duy nhất của cha. Số tiền này cha dành dụm, lỡ khi cha
đột ngột nằm xuống thì con có để mà tiếp tục ăn học. Hãy cố gắng nha con
gái, chỉ có học sau này con mới có cơ hội tiến thân, con mới có cuộc
sống tốt. Chú Út đã có gia đình nhà cửa riêng, chú có cuộc sống của chú.
Bà chết để lại ngôi nhà này cho cha con mình, sau này nó là của con. Bí
mật của cha con mình chỉ có cha con mình biết. Bổn phận của cha, cha sẽ
làm cho đến phút cuối cùng. Và bổn phận của cha phải cho con biết sự
thật về mình. Để sau này nếu có duyên con sẽ gặp lại cha mẹ ruột. Con
đừng oán giận họ, mà con phải thương họ. Hoàn cảnh của con người ta
không sao mà nói hết được. Con phải sống bằng tình yêu bao dung con
nhé….”.
Tôi
lớn lên trong sự chăm sóc và yêu thương của nội và cha. Cha không bao
giờ để tôi thua kém bạn bè. Từ cái áo cái quần đến đôi giày mới cha đều
chú ý lo cho con gái. Chiếc xích lô của cha rong ruổi khắp mọi nẻo đường
mưu sinh. Nắng gió làm nước da của cha chai sạm. Và tôi lớn lên trong
sự vô tư, chưa hề đắn đo suy nghĩ. Nội tôi lúc còn sống hay nói.
- Cha mày lúc còn con trai ăn chơi dữ lắm. Vậy mà khi có mày nó chịu khó làm ăn. Má mày không hiểu sao mà lại bỏ nó.
Nghe
nội nói vậy tôi cũng không quan tâm gì. Vì tôi chỉ biết có cha thương
yêu chiều chuộng cho ăn học, còn má tôi thì tôi hoàn toàn không có khái
niệm gì, nên tôi cứ thản nhiên không có gì phải bận tâm. Tôi nhớ có lần
tôi sốt cao, cha đưa tôi vào bệnh viện, suốt đêm cha không hề chợp mắt.
Mỗi khi thức giấc, tôi đều thấy cha giấu niềm lo âu trong nụ cười hiền
hậu. Cứ sau mỗi lần tôi bệnh, cha lại mua cho tôi nào là quần áo mới,
giày dép mới… Tôi chỉ biết vui thích với những món quà đó, nhưng tôi nào
có thấu hiểu sự vất vả của cha, những món quà song hành với bao vòng
bánh xe xích lô nặng nhọc.
Năm
tháng gió mưa và sự nhọc nhằn làm cho cha tôi ngày một già yếu. Rồi cha
đổ bệnh. Rồi cha lặng lẽ bước qua cuộc đời đầy giông bão này. Trước
những ngày sắp ra đi, cha ít nói điều gì. Cha chỉ dặn tôi vụ cái hộp,
nhưng tôi cũng nghĩ cha nói trong cơn mê sảng mà thôi. Có ai ngờ…
- Cha ơi!
Tôi
lại lấy cái khăn tang đội lên đầu và quỳ lạy trước bàn thờ cha thêm lần
nữa. Cha ơi… sinh mạng bé nhỏ này của con là do cha cứu lấy. Đời cha
vốn đã vất vả nhưng cha lại cưu mang thêm phần vất vả. Cả đời cha không
có vợ nhưng lãnh phận nuôi con. Bà nội mắng cha, cha vẫn cười vui vẻ giữ
gìn bí mật cho con. Cha bị mọi người cười là bị vợ bỏ, cha vẫn không
lấy làm buồn giận. Cha chỉ miệt mài, lam lũ làm kiếm tiền cho con ăn
học. Hơn nửa đời cha chỉ biết tận cùng cho hai chữ hy sinh, hy sinh cho
một sinh linh bé nhỏ, một giọt máu, dù không rớt ra từ ngón tay mình.
- Cha ơi…!
Tôi
thu xếp xong mọi thứ để chuẩn bị trở lại trường đại học. Tôi phải làm
cho kỳ được ước vọng của cha tôi. Những bài học từ cuộc đời này nhiều vô
kể, nhưng sao sánh bằng bài học từ cuộc đời của một người cha vĩ đại.
Tôi nào có phải là đứa con nuôi của cha tôi đâu. Tôi là đứa con gái máu
mủ ruột thịt của cha tôi đấy chứ. Tôi không có mẹ, cha tôi sinh tôi ra
từ quả tim hồng ấm áp
Cha tôi nuôi tôi và yêu thương tôi từ trong ruột
trong gan.
Có ai đó vừa rao câu hát qua ngõ phố
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai ?
Tôi ở với cha tôi chứ ở với ai !
Đào Thái Sơn
Tình xuân
Tình yêu như đám mây bay,
Thoắt đi thoắt đến phôi phai bất ngờ...
Tuổi xuân thương nhớ vu vơ,
Người đi kẻ ở thôi chờ đợi chi !
NM
Mưa bóng mây
Nhà tôi ở ngoại ô thành phố. Nơi có
những hàng cây xòe tán rộng, ruộng lúa mênh mông và khoảng trời bao la
trong lành, thoáng đãng. Nhưng nghèo và quê mùa hơn vùng nội ô.
Dù vậy, mấy nhỏ bạn học của tôi cũng thích mê. Chúng thường
sang thăm tôi để được hít thở không khí trong sạch, không chút ô nhiễm.
“ Những lá phổi xanh” đã lọc bớt chất độc cho những lá phổi đỏ tha hồ
khỏe khoắn. Thục Trinh, Thu Đông và Liên Chi còn chê tôi ngu, chẳng biết
mắc võng như “ trong rừng Trường Sơn” để …học bài, có ao đầm mà không
chịu cắm câu! Và chim hót véo von, vui đến lạ mà lỗ tai chẳng chịu
thưởng thức. Có là …tai trâu mới vậy. Làm sao tụi nó hiểu được những thứ
đó tôi đã thưởng thức từ hồi mới lọt lòng đến giờ. Chúng đã trở nên
thân thuộc và thấm đẫm vào tôi như máu chảy khắp cơ thể. Tôi không bao
giờ quên mình đã được nuôi dưỡng và lớn lên trên mãnh đất nầy. Tôi đâu
chối bỏ quê hương. Nhưng ai ngăn được những háo hức tìm kiếm, khám phá
điều mới lạ. Từ khu phố đông đúc, những con đường tráng nhựa bóng loáng,
thênh thang, hai hàng trụ điện đứng song song, mỗi cái giữ một bóng đèn
tròn ngộ nghĩnh, giống như vầng trăng mười sáu nhưng ánh sáng đẹp và tỏ
hơn. Ở đó lại có ngôi trường tôi đang học, cho tôi lớn thêm nhờ tri
thức và còn biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò.
Tôi thích đến nhà Thục Trinh để ngơ ngác nhìn cái cổng sắt
kiên cố có gắn chuông điện. Ngôi nhà nhiều tầng đứng sau hàng phượng vĩ,
nhô đầu lên cao hơn ngọn cây như đùa nghịch. Mấy ô cửa trên đó luôn
đóng kín. Nắng không chui vào được, trong nhà âm âm, u tịch lạ lùng. Nó
tựa như một lâu đài cổ kính. Hoặc tôi ghé vào nhà Liên Chi nằm lọt thỏm
trong chợ. Ở đó, tôi mặc tình ngắm hàng hóa bày la liệt, người qua, kẻ
lại, tiếng nói, tiếng cười rộn rã. Thỉnh thoảng chen lẫn những trận cãi
vã. Tôi và lũ bạn tha hồ vui rồi buồn, tức tối, hồi hộp hoặc lo lắng.
Trong nhóm, Thu Đông nghèo nhất. Ngôi nhà gạch tuy lớn gấp
đôi nhà tôi nhưng bước vào chật chội, tù túng làm sao! Từ trước ra sau,
chỗ nào cũng có giường. Năm cái giường cả thảy . Một cái dành cho ba mẹ
Thu Đông. Bốn cái kia tám đứa em nó làm chủ. Còn Thu Đông phải chạy tuốt
lên gát xép, trải chiếu trên sàn ván. Làm chị hai thì phải vậy. Ở đó
chẳng khác gì một cái kho chứa đồ cũ tạp nhạp.Những chiếc ghế ba chân,
hai cái bàn gãy, một rương quần áo cũ và hàng trăm thứ linh tinh khác
được dồn vào một góc. Phần còn lại khoảng bốn mét vuông thì thuộc về Thu
Đông. Đây là giang sơn của nó. Ngay khung cửa sổ nhỏ chỉ bằng tấm
lịch, Thu Đông kê tấm ván lên trên hai chồng tập cũ, làm thành cái bàn
cho góc học tập. Thu Đông ngồi xếp bằng ghi chép, trông như một cô gái
Nhật Bản đang học hành. Tôi cũng mê căn gác. Ở đó, hai đứa tha hồ nằm
dài, gác chân lên nhau rì rầm học. Mặc dù những phút thảnh thơi kéo dài
không lâu. Chốc chốc, Đông lại phải sầm sập chạy xuống nhà để phân xử,
giải hòa khi bầy em đánh nhau. Hoặc ra sau bếp trông chừng nồi nếp dùng
kháp rượu khi mẹ bạn đi chợ. Đây là cách làm kinh tế phụ của gia đình để
góp vào tiền lương của ba Đông nuôi bầy con chín đứa, chưa kể bốn con
heo lứa …phải ăn hèm.
Tuy sống rất vất vả nhưng Thu Đông vẫn lạc quan, yêu đời.
Nhìn mấy chú heo không chuồng trại cố định mặc tình đi lại luôn tuồn
trong nhà như …chủ, đôi khi chúng nằm ườn giữa cửa cái, Đông cười và
bảo:
– Hình như chúng say rồi mầy ơi! Vừa chén sạch một nồi hèm.
Đông còn ngân nga :
– Người say mặt mũi đỏ gay. Heo say, heo cũng lăn quay, ai cười!
– Sao hai bác không làm một cái chuồng heo?
– Làm ở đâu? Không lẽ trên đầu tao. Có chỗ nào trống, mầy chỉ đi?
Quả thật, chật chội đến nghẹt thở nhưng tôi vẫn thích đến đây và thân
thiết với Thu Đông hơn hết. Gần nó, tôi hiểu ra rằng trong hoàn cảnh
nào, dù khó khăn mấy mà có nghị lực thì không việc gì phải sợ. Thu Đông
vừa ẵm em vừa học bài vừa trông chừng bếp lửa cho nồi rượu. Vậy mà khi
lũ bạn ngõ lời tội nghiệp là nó gạt phắt:
-
Thôi đi! Đừng có làm nãn chí cô nương.
Thục Trinh lè lưỡi:
– Tao mà như mầy, tao khóc một ngày mười bận.
Thu Đông nhún vai, những sợi tóc dài buộc gọn sau ót đung đưa :
– Khóc giải quyết được gì? Vừa mất công hĩ mũi vừa phải giặt thêm chiếc khăn tay, càng khổ.
– Sao mầy cứng rắn đến thế? Tụi tao phục mầy sát đất!
Chúng tôi đã lầm. Thật ra, Thu Đông mềm như lá cỏ. Trái tim bao dung ,
rộng mở của nó dễ bị lung lay hơn ai hết. Nhỏ bạn hiền hậu của tôi đã
bị một cú “sét đánh” lăn quay. Bắt nguồn từ chuyện thích môn văn, yêu
thơ ca mà ra.
Khi nghe tôi thông báo:
– Ê, tụi bây, cái quầy báo ở chân cầu vừa xuất hiện một tập thơ.
Cả bọn nhao nhao:
– Thơ tình hay thơ … con cóc?
– Thơ tình một trăm phần trăm. Nội nghe cái tựa cũng biết: “Những ngày tháng yêu và chết”.
Liên Chi bật cười:
– Vậy ai dám yêu!
Thục Trinh giảng giải:
– Chúng mầy không nghe người ta hát sao? “Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa. Một mai thức dậy, chợt buồn như lá cây…”
Thu Đông lặng yên, mắt nhìn xa xăm. Thấy vậy, tôi hỏi:
– Mầy làm sao vậy?
Thu Đông tuyên bố:
– Tao sẽ yêu và … chết!
Chúng tôi cười rũ ra, Liên Chi hỏi:
– Nhưng mầy yêu ai cơ chứ?
– Tao sẽ yêu … nhà thơ ấy!
– Nhưng lỡ ông ấy không yêu mầy thì sao?
– Thì tao sẽ chết!
Tôi xua tay:
– Thôi đi, yêu kiểu đó vắn số lắm.
Thục Trinh tỉnh queo:
– Tụi bây đừng lo, ổng làm sao mà quen với nó mà yêu rồi chết.
– Tao sẽ làm quen với ổng – Thu Đông lại thông báo tin … rùng rợn.
Tôi thắc mắc:
– Quen bằng cách nào?
– Mua tập thơ ấy.
Chiếc cầu vắt ngang dòng sông, thả con dốc dài ra hai phía như một gạch
nối giữa đôi bờ. Mỗi lần qua cầu tôi thường bước chầm chậm, hít đầy
lồng ngực chút hơi hướm của biển lùa theo gió vào tận đây. Đôi khi, tôi
cùng lũ bạn dừng hẳn lại, tựa vào thành cầu, nhìn theo triều nước. Sóng
nhấp nhô, đục ngầu đẩy đưa vài cụm lục bình hoa ngan ngát tím. Mấy chiếc
thuyền con lững lờ phía xa. Thu đông mê chiếc cầu này lắm nhưng bây
giờ, nó tuyên bố;
– Tao yêu cái quầy sách báo ở cuối con dốc cầu hơn.
Cái quán mới mọc lên khoảng một tháng nay thôi. Nó nằm lọt sang vùng ngoại ô mới lạ. Liên Chi thường cằn nhằn:
– Sao chẳng cất cái quán bên kia cầu nhỉ? Ở bển bán đắt hơn, bên này có mấy người đâu mà mua với bán.
Tôi đoán:
– Chắc tại bên này mát hơn.
Đúng là mát thật. Những lúc rảnh rỗi, tôi thường ra đó đọc… “báo cọp”.
Mượn một tờ rồi ngồi bẹp bên gốc dừa gần đấy, đọc ngấu nghiến tới giờ
nấu cơm chiều mới chịu đứng lên, mua một tờ khác để chị chủ quán khỏi
nổi nóng. Hôm qua, xảy ra một hiện tượng lạ. Giữa những tờ báo quen
thuộc, lủng lẳng mấy quyển tập thơ khá xinh. Tôi định mượn một quyển đọc
thử thì chị chủ quán vội nói:
– Không được đâu em. Ông nhà thơ nầy khó lắm, dặn đừng làm dơ hay nhèo thì xấu tập thơ đi.
– Không cho đọc thử thì làm sao biết hay dở, ai thèm mua.
– Ai biết đâu. Ông bảo thơ ổng đáng giá nghìn vàng mà chỉ bán có mấy chục ngàn đồng. Phải giàu, ổng phát không còn hơn.
Nghe tôi kể lại, cả nhóm cười rộ, trừ Thu Đông. Nó kéo chúng tôi đến
quán báo. Chị chủ quán biến đi đâu mất . Bây giờ, người trông chừng hàng
là một anh chàng râu ria xồm xàm nhìn phát khiếp. Gã đang cầm một quyển
tập thơ, ấp vào ngực, mắt nhìn tận đâu đâu. Thục Trinh nắm tay tôi, hỏi
nhỏ:
– Ai vậy?
– Người lạ! Hình như là tù vừa vượt ngục.
Thu Đông thì thầm:
– Tao nghi ổng là nhà thơ quá. Để tao… tính ổng.
Thu Đông bương bả đến bên quầy. Giả đò ngây thơ:
– Ông gì ơi! Ở đây có bán tập thơ “Những ngày tháng yêu và chết “ của nhà thơ Xuân Xanh không?
Như từ trên cung trăng rơi xuống, hắn giật nẩy mình, ấp úng:
– Cô bé… hỏi gì?
– Ở đây có bán tập thơ “Những ngày tháng yêu và chết” không ông? Như từ dưới đất bay lên tận cung trăng, hắn tươi ngay nét mặt, liền cà….cà lăm:
– Có…có, sao …sao …bé…bé biết tập thơ đó vậy ?
Chúng tôi vội đưa tay che miệng cười khúc khích. Đông tán tỉnh:
– Dạ, em nghe tụi bạn đồn quyển đó hay lắm. Mượn đọc,tụi nó không cho, sợ mất …màu. Tức quá , em tìm mua cho xong.
– Vậy…vậy… sao….sao!
Chẳng biết cái gì cựa quậy trong áo mà nhà thơ Xuân Xanh xoay
trở đủ hướng như bị nhột. Rồi sực tỉnh. Nhà thơ vội dùng cả hai tay đưa
tập thơ ra phía trước:
– Có phải quyển nầy không em?
Đông vờ reo lên:
– Đúng rồi! Ôi, đúng nó rồi!
Hình như những sợi tóc và râu của nhà thơ đều dựng đứng cả lên, hai gò má đỏ bừng như con gái, hắn lại cà lăm:
– Phải …phải…nó …rồi …hả em?
Đông dạ rất ngoan. Nó ấp tập thơ lên ngực, lim dim:
– Dạ , bao nhiêu một quyển vậy ông?
Nhà thơ vung tay một cách hào phóng:
– Khỏi, khỏi trả tiền. Tặng cô bé đó!
– Chết! Vậy kỳ lắm!
– Không sao, không sao! Tặng các em mỗi người một quyển.
Thế là mỗi đứa được một tập thơ với chữ ký của nhà thơ Xuân
Xanh. Xong, cả nhóm còn được nhà thơ chiêu đãi một chầu kem. Ra về, đứa
nào đứa nấy tươi hơn hớn, khoan khoái vô cùng. Chỉ riêng nhỏ Thu Đông là
bị “dị ứng”, Nó nhiễm vi rút tình yêu và chờ chết.
Trong một tuần mà đã có hai buổi nó không thuộc bài và một
buổi trốn học để đi ….bán thơ giùm người yêu. Con nhỏ bạo gan tới nổi
đem thơ vào lớp. Giờ ra chơi, nó lên bục giảng rao hàng:
– Xin các bạn lưu ý! Xin các bạn lưu ý! Đây là tập thơ “Những
ngày tháng yêu và chết “ của nhà thơ Xuân Xanh. Một tác phẩm bất hủ
trong làng thơ. Xin hỏi các bạn đã yêu chưa? Các bạn sẽ tìm thấy sự đồng
cảm nếu các bạn đang xuyến xao vì tình yêu. Còn như ngược lại, các bạn
hãy…mua rồi đọc đi để khám phá tình yêu và nỗi chết.
Cả lớp bò ra cười. Xong, mỗi đứa mua giùm một quyển vì …tội
nghiệp. Nhưng điều chúng tôi khám phá ở đây không phải là tình yêu mà là
năng khiếu chào hàng của nhỏ bạn. Nó bán sạch những tập thơ mà bấy lâu
nay …ế ẩm. Và nhà thơ cũng tiêu tiền bán thơ sạch sẽ để đền ơn người
đẹp.
Kết quả, lúc tiền bạc đội nón ra đi, nhà thơ bỗng trở nên cáu
gắt, nóng nảy. Hai người yêu nhau bắt đầu …cãi nhau và giận nhau. Cho
đến một hôm, nhà thơ Xuân Xanh ra đi không hẹn ngày trở lại. Báo hại Thu
Đông nhớ đứt từng đoạn ruột. Nó khóc như ri. Chẳng còn lạc quan yêu đời
nữa. Đã vậy, nhà trường phát sổ liên lạc cuối năm, có bốn môn Thu Đông
không đạt điểm trung bình. Mùa hè đến mà nó học. Nó học trối chết nếu
không muốn hai năm ngồi một lớp. Ba Thu Đông kêu trời như bọng. Còn mẹ
bạn thì hăm dọa sẽ tự tử nếu nó học dở và tiếp tục yêu.
Bây giờ, chúng tôi phải công nhận nhà thơ Xuân Xanh tài
thiệt. Đúng là những ngày tháng yêu đã qua và tử thần xuất hiện. Thu
Đông đang chết trong mớ bài học tồn đọng lâu nay.
Nguyễn Thị Mây
Sóng,
Cơn sóng biển tựa sóng đời xô dạt,
Dây tơ hồng sớm ràng buột kiếp duyên...
Bao nhiêu nông nổi muộn phiền,
Xin theo sóng biển triền miên xuôi dòng !
NM
Bóng đổ nơi chân sóng
Tôi vừa đi qua hơn hai chục cây số đường rừng, cánh rừng nguyên sinh này
sau hơn hai mươi năm mới có dịp trở lại, miệt biển đảo Cát Bà. Không
gian phảng phất vị rêu trên đá xám. Giờ đây ven rừng đã có thêm những
ngôi nhà bê tông một tầng, nằm rải rác dọc đường dựng đứng vách núi.
Cách đây hăm mốt năm, quãng thời gian không dài, tôi lạc rừng. Lầm lũi
đi bộ hàng chục cây số mà không nhìn thấy một ngọn khói bếp nào. Đi
trong cảm giác hoang vu. Ngay cả vẻ đẹp hoang oải của thiên nhiên vẫn
đan xen nỗi sợ hãi vì không tìm thấy lối ra. Rồi bất chợt tôi gặp một
người đang trên đường đi lấy xạ đen về đun nước uống. Mừng rỡ, nhờ em
đưa tôi ra tới vịnh Lan Hạ, thuê một chiếc thuyền vào một ngày biển lặng
sóng, biển cũng vừa nhuộm thắm hoàng hôn. Dong hỏi lúc chia tay: “Chị
tìm gì ở nơi chân sóng vào ngày biển lặng này?” Tôi nói, tôi cần đi
biển, tôi tựa vào biển, lần duy nhất bị bạn tình bỏ rơi.
Nghe xong Dong cười:
- Sóng biển cũng biến đổi như trò ảo thuật, có khi chị phải cảm ơn cái tay yêu chị và bỏ chị đi.
- Cậu nghĩ thế à. Nếu đúng vậy thì chuyến đi này, có câu nói này, tôi sẽ vượt qua được nỗi buồn để sống tiếp.
Người
trẻ khi ra biển thì nôn nóng ra đảo Cát số 3, sóng cũng duềnh lên lúc
bình minh nhô lên biển đẹp nhất, sóng cũng tung trắng bờ đẹp nhất. Sóng
luôn gây cho ta cảm giác bất ngờ, cả mất mát lẫn bất chợt gặp gỡ ai đó
sau rất nhiều năm xa cách.
Lần này
khi tìm gặp Dong, người đi lấy xạ đen năm nào. Em đen đúa, cứng cáp hơn,
kể ra hồi đó, em mới ngoài hai mươi tuổi hay dẫn khách đi tua du lịch,
mới đầu vác giúp đồ xuyên rừng cho khách, vẫn đi nhanh như gió. Sống với
rừng, làm một ngư dân cũng học cách đi chậm hơn trên đường bộ. Đời Dong
đã nếm trải quá tam ba bận thất bại trong kinh doanh nuôi cá nước mặn,
thứ đến việc thu mua tôm mực ở bè đổ cho nhà hàng. Cái thời của năm
1993, thời thế xoay vần, nó thật khác với thực tại bây giờ. Dong bảo:
-
Em đã hai lần vay ngân hàng để mua thuyền đi đánh cá, gặp một trận sóng
lật, may còn về đến đảo nhìn mặt vợ con. Không thì nằm ngủ, không dậy
mãi mãi dưới sóng.
Mất thuyền vì
sóng, Dong lại tính, tìm cách kinh doanh nhỏ, cũng từ các loại đồ biển,
các thứ rắn biển, hải sâm, bào ngư, con chân gấu, ngâm rượu bán, trả
dần, vòng quanh mãi đến năm hai nghìn mười mới trả hết nợ cha và nợ con.
Chao
ôi đời Dong chẳng còn thiếu những đợt sóng biển lật thuyền. Con sóng
đời, cũng từng cố lật cả em và gia đình vào món nợ không trả nổi.
Rồi
cũng tự phải đứng lên từ chân sóng thôi; nuôi con gái vào đại học cũng
nhờ những món quà tặng của biển: ngọc trai nuôi, ốc phong thủy, túi hạt
trai... Nghĩa là đem bán những sản phẩm lưu niệm, bán những thứ mà bọn
trẻ con thích khi đi ra biển. Bọn tuổi teen ở Hà Nội, Hải Dương, Tam Đảo
ra biển, chúng thích và khoái những thứ mà dân biển cho là bình thường,
với chúng đó là báu vật. Hoán đổi mà chị.
Lại
có thời Dong từng ra đảo Cát Ông hướng dẫn khách du lịch chèo thuyền
kayak, rồi làm đủ thứ dịch vụ linh tinh, miễn là có tiền cho gia đình.
Dong
phải tiêu mất chuỗi thời gian hơn mười năm làm ăn trả nợ, năm hai nghìn
lẻ một, vợ Dong đi rừng mua mật ong, ngã từ trên vách núi trẹo khớp,
teo cơ. Miếng đất mua chưa kịp xây nhà, bán đi mua lại miếng nhỏ, rồi
xây nhà cho khách thuê, chịu cảnh “chó chui gầm chạn” ngậm miệng ở nhà
vợ ba năm mới xàng xê có tiền chữa bệnh. Cũng những năm tháng ấy Dong
còn nhận đi làm thêm cho tua du lịch, dẫn đường xuyên rừng, hướng dẫn
viên nửa mùa cho một đoàn của công ty lâm nghiệp. Tình cờ, cái dây tơ
hồng hình như định sẵn từ kiếp trước thế nào ấy, lại buộc Dong gặp lại
em Xạ, mối tình si mê từ lúc còn tắm truồng trên biển khi cả hai cùng
lên bẩy tuổi. Dong và Xạ cùng lớn lên ở hòn đảo này. Bố Xạ mê cây còn
lấy cả tên cây xạ quý dành đặt cho con gái. Bố nàng còn có học vị, sau
đó đã đưa cả hai mẹ con về thành phố Hải Phòng. Xạ học đại học xong thì
lấy chồng và có con. Thuở xưa, tình yêu trẻ con, và khi người ta yêu một
cô bé trẻ con, ngỡ quên, mà chưa quên. Thời gian cũng chôn vùi quá khứ,
thuở xưa dù cô bé Xạ không xinh lắm nhưng rất hay cười, rất ưa nhìn.
Bây giờ gặp lại, Xạ vẫn như hạt nam châm hút vào Dong, hút vào nhau.
Giống như là khi ta về đất liền nhớ biển và nhớ chân sóng vẫn duềnh vào
nhau vậy. Mê đắm.
Dong lại hỏi tôi:
-
Bà chị sống ngần ấy năm đã đam mê tình ái bao giờ chưa? Bọn em mê nhau
từ thuở còn cởi truồng và cùng nhau tắm biển. Cái dây tơ hồng đã đứt bao
nhiêu năm lại nối, và lại đứt dài dài.
Nhớ
lại, Dong đã hò hẹn với Xạ, ít ra cùng nhau đi núi, ít ra Xạ cũng cho
Dong những ngày đẹp nhất trên biển. Thật đấy. Khi còn trẻ, Dong cũng
điên lắm, dám nhờ chị gái đến chăm nom vợ, con gái, để đi tua. Thực ra,
Dong đi với Xạ ra đảo Cát Dứa, hòn đảo chỉ là 1 trong số 367 hòn đảo ở
đây mà thôi. Đảo này có một con đường lên núi chênh vênh, nhìn sóng cũng
chênh vênh. Đi khám phá rừng, chìa tay ra cho nhau nắm kéo lên dốc đá
là việc bình thường. Thế mà Dong cứ như bị hút vào cô bé ngày xưa. Có
lần nàng kể cho Dong nghe, chắc lúc đó Xạ đang rối trí, khi đó Dong đang
ngồi trên thuyền ở bến Cái Bèo, Dong phải tắt máy nổ, cho thuyền trôi
tự do để nghe chuyện. Nàng khóc, kể rằng vị tiến sỹ chồng nàng là câu
chuyện do mai mối của cha, sau này chung sống với nhau không hợp, ngay
cả đến chuyện ăn nằm chàng cũng phải đợi đúng giờ, còn phải giữ gìn vệ
sinh chung, đến giờ Hợi còn đem máy hút bụi ra hút, thế là làm sao, anh
ấy giải thích, thì ngủ với vợ cũng phải có không gian sạch kiểu như
không gian phòng nghiên cứu vắcxin viêm gan B. Rồi khi chồng lau chùi cơ
thể lại giục giã vợ súc miệng đánh răng như trẻ con trước khi ngủ.
Chồng Xạ sống kỹ càng đến nỗi làm cho vợ chẳng còn cảm giác mùi của vị
tình yêu là mùi gì. Riêng chuyện tiền nong thì anh ấy không đến nỗi ki
bo, nhưng chi tiêu thì phải chính xác, đích đáng, phải chi tiêu có
nguyên tắc. May mà Xạ cũng kiếm ra tiền; mỗi khi gặp bạn bè thì có ăn
uống tẹt ga cũng chỉ bát bún riêu, tách cà phê chẳng đáng là bao, nhưng
chồng cằn nhằn, nói dai không chịu nổi. Nàng đeo tai nghe nhạc, chồng
dứt ra không cho nghe. Nàng bỏ đi thì chồng nhốt nàng lại. Khóa cửa.
Dong
bảo nghe chuyện của Xạ “nam châm” rất lạ, tưởng bịa, ai ngờ tính cách
đàn ông có học vị tiến sỹ cũng buồn cười nhỉ, nó rất khác biệt với cánh
đàn ông miệt biển ít sách vở như bọn em. Sống ào ào như sóng, vụng dại
và chân thật. Chỉ thực tế mới dạy cho chúng em từng trải lên mà thôi.
Ngay cả khi ăn nằm, thích thì nói rằng thích, và sướng thì nói rằng
sướng, sao phải dối lòng với chính người mình yêu?
Bọn
em được sống với nhau một đêm. Coi kỷ niệm của cả hai như một tài sản
trong bảo tàng quả tim người. Cả hai đều không ngủ, chỉ trò chuyện, rồi
quấn lấy nhau, rồi lại trò chuyện. Đêm khuya bọn em còn đứng nhìn nhau,
hôn nhau. Ngay cả khi hôn, cô ấy cũng còn dạy em cả cách hôn nữa đấy.
Người ấy toàn bảo em, chàng nghếch ạ. Em bế cô ấy xuống biển, và sóng đã
hắt cả lên hai đứa, vậy mà cũng không dứt nổi hai đứa ra khi đang say
đắm hôn nhau. Nếu lúc ấy mà có một cơn sóng dồi, thì thôi rồi. Khi đó,
đám mây và ánh chớp đã kịp ghi lại cái bóng đổ của hai đứa bên chân
sóng, vẻ đẹp của biển cũng như nam châm ấy chị ạ...
Sau
này Dong đi học một cua ngắn về nhiếp ảnh, để cố ghi lại những khoảnh
khắc của biển khi ngồi nhớ về cô ấy. Chính cô ấy đã khuyên em phải chăm
sóc vợ chu đáo, khi ngã bệnh rồi thì không riêng gì phụ nữ cô đơn mà ai
cũng rất cô đơn trên giường bệnh. Cô ấy cũng hứa sẽ chịu khó bằng lòng
yên phận bên người chồng sạch sẽ tinh tươm và luôn cố chấp ấy, sống bên
anh ấy, cô không phải lo lắng sẽ có con vi rút nào xâm nhập vào cơ thể,
cô nói phải chờ con khôn lớn sẽ tính lại.
Tôi hỏi:
- Thế bây giờ hạt “nam châm” ấy còn không?
-
Còn, nhưng nam châm ở xa, mãi tận Lâm Đồng. Nàng theo chồng vào trong
đó để làm du lịch, hình như đầu tư vào nghề len thủ công xuất khẩu. Thế
cũng tiện cho nàng, thời gian sẽ xóa mờ nhiều thứ, tình cảm, niềm si mê,
và ngay cả dục vọng không phải lúc nào cũng sôi lên sùng sục mà được.
Vâng,
Dong bảo, em đã tuổi năm mươi, hai lần vỡ nợ, một lần sóng dìm không
chết. Một lần được yêu người tình từ thuở tắm truồng trên biển, khi ở
tuổi trai có vợ gái có chồng, gặp lại nhau rồi ngỡ chấm dứt hẳn. Nhưng ở
biển mùa đông dài lê thê lắm chị ơi. Xạ “nam châm” cũng có lần gọi điện
kêu nhớ nhung, nhưng rồi Xạ nói với em những câu muối xát, chắc em quên
anh thôi.
Dong còn kịp nói với Xạ, nếu sau này gặp chuyện rủi ro thì nhớ gọi cho anh, anh sẽ bay vào ngay.
Một
mùa đông lạnh giá ở Cát Hải, Dong đã bay vào Đà Lạt. Xạ chờ Dong ở một
ngôi nhà trong thung lũng gần hồ Tuyền Lâm, ven núi. Biệt thự ở nơi này
làm sao nghe tiếng sóng biển? Và Dong bỗng thấy hạt nam châm như nguội
lạnh, như băng giá. Dong lấy làm tiếc. Thiên nhiên ở Đà Lạt đầy màu sắc
mà Dong chỉ nhớ chân sóng. Con sóng cứ lăn vào bờ, chân sóng tan ra và
như tan vào hư vô. Rồi những con sóng khác cứ theo nhau xô vào rồi lại
kéo nhau tan đi. Cứ thế mà làm nên cuộc đời người trai ven biển tên
Dong. Bây giờ ở một xứ sở khác, miền đất khác Dong bỗng thấy anh không
phải là anh.
Dong đã lúng túng kể cả
khi hai cơ thể hòa nhau làm một, kể cả khi hôn nhau tiễn biệt, hai cái
cây cuộc sống nhạy cảm đang nhận ra điều gì se sắt của cuộc sống, dẫu
như vậy mà không phải vậy. Xạ thông báo tin vui. Tin vui, em đã ly dị.
Đã tự do. Khi con tốt nghiệp đại học, cháu đã đi làm ở viện nghiên cứu
hạt nhân.
Rồi Xạ cũng nói luôn, rằng em sẽ không chạm tới hạnh phúc của Dong, vì Dong cần cho gia đình. Dong hỏi lại:
- Thế em không cần gia đình sao?
Xạ im lặng. Cái im lặng làm Dong rất khó hiểu. Đàn bà cũng thật khó hiểu.
Trong
chuyến bay đêm hàng không giá rẻ Dong nhìn trời qua cửa sổ máy bay lòng
nặng trĩu nhớ biển, nhớ bát canh cá với dọc mùng, vị thìa là, trái dứa
thơm thơm quen mũi. Thôi thì sinh ra ở chân sóng lại trở về với chân
sóng thôi, đừng có mộng mơ như sóng vì Dong đâu còn trẻ nữa mà bay đi
bay lại với mộng mơ.
Xạ nói rất phải:
- Em trả anh về với biển thôi.
Sáng
sớm hôm sau Dong qua bến phà Gia Luận, không về nhà mà ra biển nhìn
chân sóng. Một câu hỏi trước biển, con người có hạnh phúc không hở sóng?
Có không? Thi thoảng. Lần nữa, Dong có gọi điện cho Xạ, nhưng điện
thoại ngoài vùng phủ sóng.
Hơn một
năm sau Dong hay tin: Xạ xuống tóc nhưng không đi tu ở chùa. Cô mua một
ngôi nhà nhỏ trong thung lũng, tiêu thời gian cho kinh kệ, đèn nhang, tu
tại gia ở một vùng cao nguyên mây trắng.
Hoàng Việt Hằng