Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Chiếc quạt mo cau

Quạt mo xưa,
Tim đâu luồng gió mát,
Của chiếc quạt mo xưa...
Những trưa hè nóng nực,
Ầu ơ nhịp võng đưa !

Trong hanh hao ngày nắng,
Con say giấc ngủ nồng...
Quạt luôn tay phe phẩy,
Mẹ nhớ ngày sang sông !
NM

Quạt mo một thời

Trưa nay, điện lại cúp. Má lom khom tìm một vật gì đó đại loại như một tờ giấy cứng, một cuốn vở để quạt. Loay hoay mãi bà cũng tìm ra thứ để làm vơi bớt cái nóng miền Trung đang gay gắt. Bà lẩm bẩm: "Những lúc như thế này lại nhớ quê, nhớ cái quạt mo ngày xưa”. 
Lời than thở của má thoáng làm tôi giật mình. Cái dáng má gầy gầy dưới ngọn đèn dầu cầm chiếc quạt mo ru thằng em ngủ trong mái nhà tranh ngày nào lại hiện về trong ký ức tôi.
Ngày mẹ tôi về làm dâu, nhà ông bà nội còn nghèo lắm. Cả gia đình mười mấy miệng ăn, ông bà cho ba má ra ở riêng. Căn nhà tranh vách đất dựng tạm bên góc vườn nhà nội hằng ngày rộn tiếng cười của chị em tôi. Ba đã quyết chí lập vườn, trồng cau, cải thiện kinh tế cho gia đình. Được ba mẹ chăm nom, nuôi nấng từng ngày, khi tôi biết chạy nhảy nô đùa, vườn cau nhà tôi đã lớn lắm rồi.
Đến mùa cau trổ bông, mẹ lại lấy bẹ cau vừa rơi xuống, tỉ mỉ dùng dao cắt mo cau thành cái quạt. Chỉ cần má huơ qua huơ lại vài vòng trên cái lưng trần là chị em tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Tôi lớn lên cùng với những chùm hoa cau tinh khiết tỏa hương bên khung cửa, với những buổi trưa hè, buổi tối cố nhích thật gần để tận hưởng làn gió mát từ chiếc quạt mo trên đôi tay gầy gò của má. Đó là chưa kể những hôm tôi hay em bị cảm sốt, má phải thức trắng đêm quạt để giảm bớt cơn sốt.
Không biết từ bao giờ, chiếc quạt mo đã gắn liền với đời sống của nhiều người nơi vùng nông thôn nghèo như quê tôi. Chiếc quạt bé nhỏ được làm từ mo cau nhặt ngoài vườn, ấy vậy mà đã xua đi bao cơn nóng hừng hực của những luồng gió tây nam len lỏi vào từng ngõ ngách, xua bớt cái mỏi mệt của một ngày làm việc nhọc nhằn...
Tuổi thơ tôi với những ngày cơ cực cũng qua đi. Tốt nghiệp đại học tôi quyết tâm lập nghiệp nơi xứ người. Lâu lâu, tranh thủ những lúc rảnh rỗi tôi chở má về thăm quê.
Diện mạo quê tôi thay đổi từng ngày. Những con đường được bê tông hóa, những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Ngang qua lối cũ, vườn cau đã không còn. Từ ngày có điện, cơm ăn hằng ngày được nấu bằng nồi cơm điện, tủ lạnh bảo quản thức ăn, máy giặt để giặt quần áo, quạt cũng chạy bằng điện..., người ta không còn thói quen dùng quạt mo nữa.
Quạt mo đã không còn giá trị, thậm chí đa số trẻ con bây giờ không biết và không còn nghe nhắc đến quạt mo. Phải chăng có những điều đã thật sự chỉ còn là kỷ niệm một thời? 
PHAN THANH LY

Quạt mo

Ký ức ngày nhỏ của tôi luôn có hình ảnh chiếc quạt mo của mẹ. Mẹ cầm chiếc quạt, huơ qua huơ lại, xua tan cái nắng nóng, làm mát rượi tấm lưng trần, các con bình an chìm vào giấc ngủ…
Trước sân nhà tôi có cây cau, ngày nhỏ chị em tôi cứ đu dưới gốc tập trèo rồi ngã kềnh xuống đất. Cây cau không cho bóng mát, trái cau trẻ nhỏ không ăn được, giá như trẻ con cũng nhai trầu, chắc tôi đã có “thiện chí” hơn với cây cau. Tóm lại, mấy chị em không vui vẻ gì chuyện nhà có cây cau trước cửa. Có lần chị Sáu đem về cây si, chị xin mẹ trồng trước ngõ cho mát. Cau ốm nhách, không có bóng mát để chơi - chị nhìn cây cau bĩu môi nói thế. Mẹ tôi không chịu, mẹ bảo, đó là cây cau bà nội trồng. Bà nội không phải là người nghiện trầu, chỉ có những ngày lễ Tết bà mới ăn trầu để vui với mấy người bạn già. Bà trồng cau vì bà lí lẽ rằng: Không phải cứ thích cây gì là trồng cây đấy được, phải nhớ “Trước cau sau chuối”. Cây có nhiều lá đem trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Trước nhà chỉ nên trồng cây mảnh, dáng cao, lá sáng… như một hàng “danh dự” đẹp mắt.
Chị em tôi lớn cùng cây cau trước ngõ, rồi tôi cũng dần hiểu những tiện ích và vẻ đẹp của cây cau… Hoa cau đẹp, thánh thiện và linh thiêng. Hương cau thoang thoảng, ngọt ngào… Hoa cau nở vào cuối xuân đầu hạ. Hoa cau đặc biệt lắm, nó nở không có ngày tàn, nở mãi cho đến khi có quả. Những ngày lễ Tết, mẹ bày hoa cau trên bàn thờ, hương thơm thanh cao, tôn kính. Trong những ngày lễ truyền thống của người Việt ta không thể thiếu cau khi “miếng trầu là đầu câu chuyện”, khi “tay mang trầu đầu đội lễ” trong ngày cưới. Đám cưới lớn thì trong quả lễ đầy ắp buồng cau trăm quả, đám cưới nhỏ, chuẩn bị đơn sơ thì cũng chẳng thể thiếu chùm cau với lá trầu đặt vừa đĩa… Lá cau là bạn của những người nội trợ. Mẹ rửa sạch lá, lau khô gói bánh tro, miếng bánh dẻo thơm mùi nếp, thơm thoang thoảng mùi lá cau.
Mùa cau trổ bông, mẹ nhặt bẹ cau mới rụng (cái nào bao bọc buồng cau thì gọi là mo cái, còn cái nào trong không có buồng gọi là mo đực) làm quạt. Mo cái thanh mỏng, ruột trắng phau làm quạt vừa nhẹ, vừa đẹp. Làm quạt mo cũng phải có “nghề” chứ không phải có mo là có quạt đâu nhé. Tôi ngày nhỏ thấy bẹ cau rơi thì lượm và bắt chước mẹ làm quạt mo nhưng rồi hí hoáy mãi vẫn không thể “chế biến” ra cái quạt mo. Hèn chi cái quạt của thằng Bờm làm phú ông thích thú đến vậy.
Mẹ bảo, khi mo cau còn tươi, vừa mới lìa khỏi cây cau, đem cắt bỏ tàu lá và khéo léo gấp hai mép ở một đầu sao cho dễ  cầm còn đầu kia cắt cho đẹp để lùa gió (nhìn quạt mo có hình tương tự chiếc lá bàng nhưng dẹt và dài hơn một chút). Sau khi đã làm xong thì lấy đồ vật nặng để ép cho quạt phẳng. Chờ ít hôm quạt khô là có thể phe phẩy vô tư. Ký ức ngày nhỏ của tôi luôn có hình ảnh chiếc quạt mo của mẹ. Mẹ cầm chiếc quạt, huơ qua huơ lại, xua tan cái nắng nóng, làm mát rượi tấm lưng trần, các con bình an chìm vào giấc ngủ…
Ngày đó nghèo, cuộc sống đơn sơ nhưng ấm áp. Đêm nào cũng vậy, sau khi chị em tôi làm xong bài mẹ trải chiếu ra giữa sân, lấy chiếc quạt mo huơ phành phạch, chị em nằm ngoan ngoãn nghe mẹ kể chuyện đời xửa đời xưa, nghe mẹ đọc ca dao… Khi chúng tôi thiêm thiếp ngủ, mẹ sẽ ẵm từng đứa vào giường. Chị em tôi lớn lên cùng tiếng ru hời của mẹ, cùng những lời hát cái cò cái vạc, cùng tiếng phành phạch của chiếc quạt mo trên tay mẹ… Thời gian qua đi, con gái mẹ bây giờ cũng đã làm mẹ…
Cuộc sống hiện đại, máy điều hòa, quạt điện, quạt hơi nước đủ kiểu. Con tôi đi học, về nhà đọc “Thằng Bờm có cái quạt mo…” rồi cười toe toét hỏi mẹ “ Quạt mo là gì hả mẹ?”. Tôi sững người, đưa mắt nhìn ra sân. Trước sân nhà tôi trồng đủ cây cảnh nhưng không có cây cau mảnh khảnh… Những kỉ niệm tuổi thơ hối hả ùa về, tôi thấy nhớ chiếc quạt mo mẹ thường bỏ trên đầu giường mà mỗi đêm trời nóng bức, dù chập chờn thức ngủ vẫn đưa tay tìm được. Tôi như nghe tiếng phành phạch của chiếc quạt trên tay mẹ…
Con gái xa quê, nhớ chiếc quạt mo, nhớ nhà, nhớ mẹ…
Nguyễn Thị Bích Nhàn(Xã Sơn Giang, Sông Hinh, Phú Yên)

 Cơm nắm mo cau,
Dẻo thơm cơm nắm nóng,
Con ngồi nhớ tích xưa...
Thuở bé thơ con ngủ,
Giữa trưa hè võng đưa.

Tiếng mẹ ru êm ả,
Gió xào xạc vườn sau..
Hương mo cau thoang thoảng,
Giọng mẹ thêm ngọt ngào !!

Bao giờ trở lại vườn quê,
Cho con nguôi nhớ nẻo về vườn sau...
Ôi thương chiếc quạt mo cau,
Thương cơm nắm nóng năm nào mẹ ơi !!
NM

Cơm nắm mo cau
Đêm mùa hạ êm đềm nơi quê ngoại. Lặng ngắm ánh trăng vằng vặc chiếu qua khung cửa sổ mở rộng đón gió trời và tận hưởng hương hoa cau dịu ngọt trước thềm nhà thoảng đến. Trong yên tĩnh của đêm, chợt nghe âm thanh của một tàu cau già khô giòn rơi bộp trên nền đất, những kỷ niệm gắn liền với chiếc mo cau lại ùa về.

***
Mảnh vườn trước nhà ngày xưa, hầu như gia đình nào cũng trồng một hàng cau thẳng tắp. Cây cho bóng mát, quả để ăn trầu và những tàu cau già rụng xuống cũng không hề bỏ phí. Những tàu lá cau buộc chụm lại, cắm vào giữa một chiếc gậy tre làm thành chổi quét sân, quét ngõ cho bà không phải cúi mỏi lưng. Mo cau ép phẳng, cắt thành những chiếc quạt vừa bền vừa mát. Ngày hè, dòng nước mưa từ thân cau được hứng bằng những tàu cau chảy vào bể dường như mát ngọt và thơm hơn như được ướp hương hoa. Đối với đám trẻ con nông thôn, mấy ai chưa từng một lần ngồi lên chiếc xe mo cau để chúng bạn kéo đi khắp sân và cười giòn giã khi đứa bạn tuột tay làm ngã lăn ra đất. Sướng nhất là được ăn cơm nắm mo cau, bởi món này ngày thường đâu phải cứ thích là có ngay. Chỉ khi nhà có người đi đâu xa hoặc vào lúc mùa vụ, công việc nhà nông bận rộn, cánh thợ cấy, thợ cày, thợ gặt tranh thủ làm, không kịp về ăn cơm trưa thì các bà, các mẹ mới làm cơm nắm. Người quê vốn tiết kiệm, bản tính lại chu đáo, hay lo xa, sợ người thân khi có việc đi đâu lỡ độ đường phải cơm hàng cháo chợ nên có mo cơm nắm vừa lành dạ, vừa yên tâm. Dạo ấy, các dì tôi đi học trường trung cấp Sư phạm cách nhà mấy chục cây số, lần nào về quê lên trường cũng được bà ngoại đùm dúm cho gói cơm nắm mo cau. Từ sáng tinh mơ, bà đã trở dậy, nhóm bếp nấu cơm. Những chiếc mo cau trắng ngà được cắt vừa vặn với lượng cơm cần nắm. Trong lúc chờ cơm chín, bà rang chảo muối vừng, ngồi giã kỳ cạch. Cơm vừa chín tới, mở vung nồi tỏa hương thơm nức, bà nhanh tay xới vào mo cau, cuộn hai đầu lại rồi dùng sức vò và nén chặt cho đến khi những hạt cơm quyện với nhau thành khối hình trụ, chắc nịch như chiếc giò thì lấy dây chuối buộc bên ngoài cẩn thận. Các dì tôi đi cả chặng đường dài, khi giở mo cơm nắm ra vẫn còn dẻo thơm, ấm nóng. Chỉ việc lấy dao cắt từng khoanh mỏng, chấm với muối vừng là ấm bụng lên lớp.
Bây giờ, trên phố cũng có hàng cơm nắm muối vừng, bán cho những người mang theo những chuyến hành hương lễ Phật. Nhớ món quê một thuở, thỉnh thoảng ghé vào mua nắm cơm về ăn, nhưng không còn thấy ngon như trước. Có lẽ là do cuộc sống không còn thiếu thốn và cơm nắm thiếu hương vị dân dã của chiếc mo cau bọc ngoài, thiếu bàn tay tảo tần, tình cảm yêu thương của bà, của mẹ./.
Lam Hồng

Gió mát từ quạt mo cau

Từ lúc bà nội hay làm những chiếc quạt mo cau như thế thì gia đình tôi cũng tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ cho việc mua quạt giấy, quạt nan ở chợ. Quạt mo cau không chỉ nhẹ, cũng tạo được nhiều gió mát cho người quạt, mà còn rất bền
Ngày tôi còn nhỏ thì đâu đã có điện cũng như những cái quạt máy chạy vù vù và mang tới làn gió mát mẻ như ngày nay, mà cuộc sống sinh hoạt của hết thảy người nông dân trong mùa hè oi nồng và nóng bức vẫn chỉ quẩn quanh bên những chiếc quạt đan nan, quạt giấy và quạt mo cau mà thôi. Những loại quạt mộc mạc bình dị ấy xuất hiện trong bất cứ nhà ai và nó làm xua tan bớt đi cái nóng hầm hập trong bữa cơm, trong lúc nghỉ ngơi, cũng như trong giấc ngủ ban trưa, buổi đêm. Mỗi thành viên trong các gia đình thường có một chiếc quạt, bởi không có quạt thì sẽ không thể chịu nổi cái nóng của mùa hè có những khi lên tới gần 40 độ.
Nhà tôi có 3 anh chị em, cộng cả bố mẹ với ông bà nội là 7 thành viên, vì thế mà trong nhà ít nhất cũng phải có 7 chiếc quạt các loại. Khi đi chợ phiên bên làng lúc đầu mùa hè bao giờ mẹ cũng không quên mua mấy chiếc quạt giấy và quạt đan nan về để phân phát cho mỗi người trong nhà một cái. Những chiếc quạt giấy, quạt đan nan to bản, nhẹ và quạt mang lại nhiều gió nhưng lại rất nhanh hỏng, nhanh rách. Có khi chỉ được dăm bữa, nửa tháng là đã hỏng, đã rách rồi và mẹ lại phải mua loạt quạt mới. Thấy việc mua quạt liên tục gây tốn tiền như vậy nên bà nội tôi đã nói mẹ không phải mua quạt nữa, mà bà nhặt những cái mo cau tách bẹ từ trên cây cau xuống để cắt làm quạt cho bền. Nhà tôi có hàng cau gần chục cây trồng ở phía trước sân để lấy quả phục vụ cho việc cúng giỗ, tết nhất, hay dùng khi nhà có tiệc tùng, vì thế mà mo cau rất nhiều. Hầu như tháng nào các cây cau cũng thay một vài tàu lá và khi tàu lá vừa rụng xuống, cái bẹ còn trắng nõn là bà tôi đã vội mang dao sắc ra cắt làm quạt. Chỉ cần một loáng là nội đã cắt, làm được một chiếc quạt mo cau có hình bầu dục.
Quạt mo cau to hay nhỏ là tùy vào chiều rộng của cái bẹ tàu lá. Quạt mo nội thường cắt xén gọn gàng dài cỡ, 30- 35cm, và rộng ngang khoảng 20-25cm. Phía đầu quạt bao giờ nội cũng “thiết kế” nhỏ nhơn, và có chỗ tay cầm nhô lên to bằng bàn tay để khi cầm vào đó quạt sẽ không bị mỏi tay. Còn phía dưới của quạt nội xén to dần trở xuống để làm sao đấy khi quạt nó đón được nhiều gió hơn. Khi cắt xén và định xong hình hài của chiếc quạt mo cau là công đoạn rửa nước cho sạch sẽ, cũng như mang quạt ra phơi nắng cho khô để chống nấm mốc. Công việc này tôi thường giúp bà nội, bởi nó đơn giản, dễ chứ không khó như cắt xén tạo hình quạt mo. Quạt mo sau khi đã rửa sạch, phơi khô dưới nắng khoảng 3-5 ngày là mang vào dung được. Trước khi dung còn có một công đoạn cuối cùng mất thêm chút ít thời gian, đó là mang ép dưới vật nặng khoảng vài, ba tiếng đồng hồ cho quạt phẳng phiu ra, bởi khi phơi nắng quạt mo cau thường bị co cong tròn lại.
Từ lúc bà nội hay làm những chiếc quạt mo cau như thế thì gia đình tôi cũng tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ cho việc mua quạt giấy, quạt nan ở chợ. Quạt mo cau không chỉ nhẹ, cũng tạo được nhiều gió mát cho người quạt, mà còn rất bền, thậm chí là siêu bền nếu như nó được “gia cố” thêm đường vải viền khâu bao xung quanh lề ngoài của quạt, cùng đoạn que nẹp làm khung xương theo chiều dài của chiếc quạt. Thường chỉ có mùa Đông giá lạnh nhà tôi mới không sử dụng tới quạt, còn suốt cả 3 mùa với gần chục tháng ròng rã như vậy, quạt mo “hoạt động” hết công suất vậy mà có khi phải tới vài năm mà quạt còn không suy suyển làm sao.
May ra là do sử dụng lâu quá, màu quạt xỉn đi, muốn thay những chiếc quạt mo mới nên nội mới làm các chiếc khác mà thôi. Khi nội làm quạt mới, mấy anh chị em chúng tôi hay tranh những chiếc quạt mới, và vứt bỏ những chiếc quạt cũ. Nội thấy tiếc nên hay mang giặt lại những chiếc quạt mo cũ, phơi khô rồi mang cho những nhà hàng xóm không có trồng cau để họ quạt, bởi có dung thêm lâu nữa quạt vẫn còn chưa thể hỏng được. Nhà có 7 người nhưng bao giờ nộ cũng tính làm tới hơn chục chiếc quạt mo cau bởi phòng khi nhà có khách khứa, hay những hôm có cỗ bàn nhiều người tới thì còn có cái mà quạt. Khi tôi còn ở tuổi mẫu giáo, mỗi lần tàu bẹ cau rơi xuống tôi vẫn thường tranh “hàng” với nội, bởi bọn nhỏ trong xóm vẫn thường rủ tôi chơi trò ngồi kéo mo cau quanh sân, quanh ngõ. Vì nhà nhiều cau, lắm tàu bẹ lá nên nội thường cười tươi nhường tôi ngay, bởi bà có thể làm quạt lúc nào cũng được mà…
Ai sinh ra và lớn lên ở làng quê Việt mà chẳng có những kỷ niệm đầy ăm ắp về những chiếc quạt mo cau tạo gió mát xua đi cái oi nồng nóng bức trong đêm hè. Tôi cũng không phải là ngoại lệ, bởi những cái gì đã trở thành kỷ niệm dù đẹp hay xấu, dù chóng vánh hay dài lâu thì sẽ khó lòng mà quên được. Giờ đây sống ở thành phố với đủ đầy những kiểu quạt điện hiện đại, thậm chí cả máy lạnh nhưng thi thoảng tôi vẫn hay hoài niệm nhớ về cái thời quạt mo nghèo khó, vất vả nhưng mà đẹp và đáng nhớ…
Nguyễn thị Loan

TIẾNG NẮNG 

(Bài nầy để tặng Ngọc Tú Mai )

Rắc… rắc… rắc…
Ngoại than, hồi đó nhà tranh vách đất không sao, giờ bị “giam” trong nhà tường mới mấy tháng sao giống mẹ con Quách Hải Thọ sống trong lò gạch mấy chục năm quá. Rồi ngoại xin cậu Út cho ngoại cái chòi lá ở ngoài vườn trầu, vừa mát mẻ vừa dễ đi vệ sinh và nhất là để ngoại được gần gũi mấy nọc trầu thương mến. “Sao mà được, má biểu chuyện cho thiên hạ cười con không hà! Ai có nghĩ má ở chòi cho mát, họ sẽ cho con là giàu có rồi búng rãy mẹ già, tiếng oan kêu mấy ông trời cho thấu?”. “Mình có hay không thì trời biết, đất biết chứ ăn nhằm gì tiếng đời hả con? Mày mà không cho má ra vườn trầu ở mà cứ “giam” trong nhà tường hoài thì coi như tao là thây ma chưa chôn đó!”
Cuối cùng thì ngọai cũng toại nguyện. Một chiếc giường tre với mùng mền sạch sẽ. Một cái bàn nước kiêm bàn ăn trầu, ăn cơm và cũng là bàn… uống thuốc. Căn chòi nhỏ như phòng trọ, ngòai vườn trầu nhưng thông với của sổ phòng cậu mợ Út, “Để tối khuya còn dòm ngó được má”, cậu bảo, mợ dẩu môi cao cả thước. Vách lá, nền đất nhưng cậu nhất quyết lợp tôn vì “Mái lá nửa đêm nửa hôm có con rắn con rít nào đó rớt xuống thì má làm sao?”. Ngọai đành nhượng bộ. Nhà mái tôn, la-phông bằng mút xốp, cũng không đến nỗi là nóng nực.
Rắc… rắc... rắc…
Ngoại ngoài tám mươi, đôi mắt đục lờ nhìn trân trân lên nóc nhà giọng khàn khàn:
- Na ơi… bé Na… ơi… mưa rồi kìa con, đi che mấy nọc trầu mới trồng giùm nội…
- Nắng chang chang muốn bể đầu chứ mưa gì hả nội?
- Vậy à? Sao nội nghe rắc rắc như ông trời vừa nhểu hột?
- Nắng quá, mái thiếc giãn ra nó kêu vậy đó nội ơi!
- Ừ! Thôi nội ngủ chút à!
Mợ Út không ưa mấy nọc trầu chằng chịt bên hông nhà. Vừa mất công tưới hao điện, tốn thời gian, vừa phải hái trầu… cho hàng xóm. Và nhất là muỗi cũng nhiều, muỗi từ những thứ lá ủ làm mát gốc trầu. Còn mấy cây cau nữa chứ, bán buôn gì, chỉ tổ cầu có người xin để cho, ấy là chưa kể trái già, trái non, bẹ rụng bất kể lúc nào. “Rầm” một phát, đang thiu thiu ngủ xem như là giật mình cái tựt. Mợ thỏ thẻ cậu bỏ vườn trầu đi, chỗ đất đó trồng một khoảng hoa thì coi như đẹp nhà mát phố. Cậu trợn mắt “Đốn vườn trầu hôm trước để hôm sau chôn bà già hả? Cứ để đó, tốn cơm tốn gạo gì, chờ má chết rồi bà muốn làm gì cũng được!”. “Biết chừng nào má chết?”. Mợ làu bàu. “Bà nói cái gì, đừng nói có luật phòng chống bao lực gia đình rồi tôi không dám dzộng bà vì câu đó nghen!”. Mắt cậu long lên.
Ông trời thiệt lạ. Hễ mưa là thối đất thối cát, mưa mịt mờ mắt mũi, mưa ẩm ương áo quần, mưa như sợ rằng ngày mai ngày kia ổng sẽ hết nước để mưa vậy đó. Còn nắng cũng nắng thiệt kỳ. Nắng như đổ sao lên mắt, như tấm gương không lồ bị nghiền vụn ra rồi rải đều xuống mặt đường, cứ chói chang đến quờ quạng cả tay chân. Nắng bắt người ta không nhúc nhích cũng phải thoát mồ hôi, nắng làm người ta choáng vì mất quá nhiều muối trong cơ thể. Ngọai kêu:
- Vợ thằng Út ơi… mẹ con bé Na à… cái quạt mo cau con giằn dưới bếp ngay chưa, cho má xin má quạt chút…
- Con để cây quạt máy cho má rồi mà, má ấn nút là xong!
- Má… sợ tốn điện… của con.
- Ối trời, vậy thì má phải sợ tốn nhiều thứ lắm đó. Cái quạt con giằn chưa ngay.
- Vậy à?
- Mà sao má cứ hay làm khổ mình vậy không biết. Thời nào thứ ấy, bây giờ mà xài quạt mo cau mắc cười lắm má ơi! Không khéo người ta lại cho rằng con nhím với má nữa là…
- Ai nói gì nói, mình không có thì thôi, bận tâm làm gì hả con? Tại bây hổng biết chứ hồi thằng Út còn ẵm ngửa nó thích ngủ bằng quạt mo cau lắm. Suốt đêm suốt ngày má quạt muốn rụng tay vậy đó. Vậy mà nó lớn nhanh, cùi cụi như củ khoai củ từ chứ có quạt máy quạt móc gì đâu!
- Trời ơi… chuyện xưa nửa thế kỷ rồi mà má còn nhớ chi cho khổ con khổ cháu? Mợ Út dài giọng vẻ khổ sở.
Tiếng rắc… rắc… vẫn không ngừng hát trên mái tôn. Người ta “Trồng hường bẻ lá che hường, nắng che mưa đậy cho hường tốt tươi”, còn ngọai thì “Trồng trầu bẻ lá che trầu” dù chẳng biết trầu tốt tươi để làm gì, mỗi ngày ngọai chỉ ăn vài lá chứ mấy. Chắc là ngọai ghiền màu xanh ngọc mát của lá trầu? Bé Na mười lăm tuổi, cái tuổi vẫn còn ham chơi ham ăn lắm, không biết mấy phen rồi cậu Út thủ thỉ với con gái rằng con ráng thay ba chăm sóc mấy nọc trầu cho nội, ba đi làm suốt ngày ở ngoài mệt lắm rồi. Mẹ con không ưa chuyện trầu cau nên đừng nhờ vả làm bả bực. Nhưng Na cứ quên hoài. Ngọai réo:
- Bé Na ơi… con đi thắt sỏi ở đâu rồi? Nắng quá, về che mấy nọc trầu cho nội đi… nắng quá con ơi… người ta còn chịu hổng thấu lấy chi là trầu?
- Nội này… con không có thắt sỏi, con lớn rồi. Con đang xếp hạc giấy.
- Hạc giấy là cái gì, có hơn mấy nọc trầu của nội không?
- Dà… để con che liền. Nhưng mà nội ơi, nội chăm trầu chi dữ vậy, mai mốt nội chết rồi cũng bỏ thôi hà! Bé Na nói một hơi rồi chợt bụm lấy miệng. Cậu Út không cho nó nói từ “chết” với bà, vậy mà nó…
- Ai chết mà hổng bỏ hả con? Tại… trầu làm bạn với nội từ hồi nội bằng con vậy đó nên không bỏ được.
- ???
- Mười lăm tuổi má của nội đã bắt nội tập ăn trầu- Giọng bà trầm như tiếng chuông chiều- ăn trầu để được chắc răng, con gái mười lăm tuổi hồi đó đã lớn, đã biết quán xuyến gia đình và sắp sửa gả chồng được rồi chứ không phải tối ngày lêu lổng như con bây giờ đâu… Đất nước giặc giã khắp nơi, ăn trầu để bôi khắp mặt mày, mình mẩy, áo quần mình cho dở bẩn ra, càng dơ càng tốt. Đó cũng là cách giữ mình khỏi rơi vào tay bọn ác ôn… Trầu cau không chỉ để ăn cho vui mà còn thể hiện tình cảm xóm làng với nhau. Hôm nay nhà này hết trầu, ngày kia nhà nọ cau chưa tới lứa… thì sang đổi cho nhau để ai cũng có mà dùng. Tàu cau khô để bó chổi, bán thì ít, tặng nhau để thắt chặt tình láng giềng là chủ yếu. Cây cau già làm cột làm kèo, một căn nhà trong xóm bị sập, mươi cây cau của làng giềng gom lại, vậy là ngôi nhà lại đứng lên. Mo cau để ủ cơm ra đồng, mùi thơm còn quyện mãi đến mấy ngày sau… mo cau để làm gàu tát nước, làm quạt mát trưa hè… hồi đó không ai bị viêm mũi viêm họng vì quạt máy, tòan là quạt mo cau thôi con à… Ba của mày cũng lớn lên từ gió quạt mo cau…
Giọng ngọai tôi dừng hẳn từ lâu mà nước mắt bé Na còn chưa ngưng đọng. Chả là nó và mẹ đã dối bà, chiếc mo cau bà “nhờ” làm quạt đã bị nó băm nhuyễn  theo lệnh của mẹ. Bởi mẹ nó không biết cắt quạt mo cau, nó thì ớn sẽ bị “rụng tay” vì cầm quạt hầu bà. Phi tang đi, quạt máy đó, bật “cốc” là xong. Gió nào không là gió!
Mấy ngày nay nắng nhiều và gay gắt quá. Bà lại bệnh, chứng viêm phế quản hành hạ tuổi già. Mợ Út cằn nhằn, tại má nằm ngoài gió, nay thốc hướng này, mai thốc hướng kia, biết đường đâu mà che mà chắn. Phải má chịu nằm trong nhà, phòng máy lạnh bật 25 độ đều đều, thánh cũng không bệnh được (?). Mấy nọc trầu không ai tưới, màu xanh ngọc mát mắt giòn kháu đã biến mất, thay vào đó sắc úa dai dẳng của nắng nung.
Mẹ tôi tức tốc về với ngọai vì e rằng bà không qua khỏi. Giọng mợ Út léo nhéo trong điện thọai:
- Chị về, về ngay đi, từ đó tới đây nửa ngày xe chứ mấy! Hôm rằm em đi chùa cầu an cho má, thầy nói má như thế là đại thọ rồi, không khéo sẽ không qua khỏi con trăng này.
Mẹ tôi ghé sát mặt xuống giường ngọai, hai khuôn mặt héo xèo không nói được lời nào. Rồi mẹ quay ra hỏi mợ Út:
- Mấy cái quạt mo cau má nhờ mợ giằn ở đâu rồi?
- Em… em…
- Ở đâu? Giọng mẹ chợt giận dữ.
- Em… bỏ rồi chị Hai! Vì em… không biết cắt sao cho thành cái quạt!
- Trời ơi… Má tui mà chết! Tui “thưa” mợ ở tù cho mợ coi!
- Sao… sao… em lại… ở tù hả chị Hai? Giọng mợ Út bất chợt lo sợ.
          - Bà già viêm phế quản mợ không biết sao mà bắt quạt máy suốt ngày đêm? Thằng Út đâu, leo lên giựt mất tàu cau xuống coi!
Nhanh như chớp, hai chiếc mo cau đã được đem xuống, bàn tay như múa của mẹ tôi chưa đầy mười phút đã biến chúng thành hai chiếc quạt của Bờm.
- Làm cách nào nhanh nhất để nó thẳng ra! Mẹ tôi ra lệnh và trao hai chiếc quạt về phía mợ.
Nắng vẫn rơi tanh tách trên mái tôn như không hề biết ruột gan mẹ tôi đang nóng như hơ lửa. Mợ Út mang quạt ra, hơi còng queo một chút nhưng mợ bảo chắc mẹ tôi rất mong và mợ đã lấy bàn ủi điện mà ủi mo cau đấy!
Mẹ tôi dưới chân, cậu Út trên đầu, hai chiếc quạt khe khẽ đưa gió đến.
Đôi mắt già nua đục lờ từ từ mở ra. Cậu Út reo như trẻ con:
- Má, má tỉnh rồi chị Hai ơi!
- Má, con đây, má khỏe không?
- Khỏe… con gái…
- Má ráng tịnh dưỡng nghe má…
- Cái quạt mo… vợ thằng Út… ngay rồi à? Ngọai chỉ tay về phía mợ
- Dạ…- mợ nhỏ giọng hối lỗi
- Thôi… má nghỉ…
Nắng vẫn rơi rắc… rắc… trên mái thiếc. Từng milimet tôn giãn ra để khi mưa về là co lại còn con tim của mẹ và cậu tôi mãi mãi ướt nhòe vì cánh tay ngọai đã thỏng xuống xa rời cõi trần gian.
Nắng hồn nhiên hay nắng vô tình chỉ có con người là là hữu ý...
Đào Phạm Thuỳ Trang (Tây Ninh)



Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Giỏ xe có hoa

Áo Dài Ơi 

Tà Áo Tím

 
Màu hoa trắng,
Màu hoa trắng, màu áo dài em đó,
Giữa sân trường hai sắc trắng tinh khôi....
Hoa và em là bảo vật trên đời,
Anh trân trọng chẳng bao giờ quên lãng !
Mây trên cao bay lững lờ lãng đãng...
Em bây giờ theo gió cuốn mây trôi,
Hoa trắng còn đây, người sớm đi rồi...
Người ở lại nhớ nhung tà áo trắng !
NM 
Giỏ xe có hoa
Miên thấy hơi tức ngực, nó đứng thở một chút rồi ghé vô hành lang ngồi nghỉ. Từ hồi chuyển trường tới giờ, Miên cứ thấy trong lòng nao nao. Không biết có phải vì nó nhớ mấy đứa bạn cũ, nhớ ngôi nhà vẩn vương quá khứ có ba nó. Hay vì…
Miên lắc lắc đầu, ngước lên trời nhắm mắt. Trời đổ bóng ánh vàng màu nhạt, gió phây phẩy mấy tán lá lùa về mùi hương của loài hoa nào đấy rất quen, thoang thoảng thơm. Chỗ khu hành lang này sát gần khu gửi xe đạp. Giờ tan trường chắc cũng đã hơn nửa tiếng, quanh đây chỉ còn vài chiếc chưa ai lấy. Chắc của mấy bạn ở lại học thêm, hay trực lớp, hay hẹn hò.
Nắng chiều tắt rất nhanh. Miên cầm điện thoại lên, đã năm giờ ba mươi lăm phút, mẹ lại tới trễ. Tự nhiên có cánh hoa trắng muốt bay là là đến chân Miên. Nó cười nhẹ nhặt cánh hoa lên, ngó xung quanh. Ở phía cuối khu để xe, cái chỗ mà xa quá không ai buồn đi tuốt xuống đấy để gửi, có một chiếc xe đạp trông cũ. Giỏ xe bị móp một bên và toàn thân xe có màu nâu ghỉ. Nhưng ở giỏ xe móp méo ấy, ai đó đã đặt vào một bó hoa trắng tinh. Miên ngó nghiêng xung quanh, hành lang tanh vắng, nó nhìn điện thoại lần nữa rồi bước lại gần chiếc xe ấy.
“Hoa đẹp quá…”
Miên cười cười lấy ngón tay khe khẽ chạm vào. “Ai được tặng chắc là vui lắm”, nó nghĩ.
“A…”
Miên thấy có ai bước ra từ sau khu hành lang, chỗ nó ngồi hồi nãy. Một bạn học sinh cột tóc cao, vầng trán sáng và vận chiếc áo dài tinh tươm. Người bạn này ôm cặp, có vẻ cũng ngạc nhiên khi thấy ai đó đang đứng trước chiếc xe đạp (mà đã cố tình để rất sâu trong khu gửi xe) của mình.
“Xin… xin lỗi nha. Tại mình thấy, giỏ xe có hoa…”
Cô bạn kia nghiêng người nhìn xe mình. Hình như cũng không ngạc nhiên, tiến lại gần rồi cầm bó hoa lên nâng niu như thể một món quà dễ vỡ. Cô phì cười nói rất nhỏ:
“Lại nữa rồi…”
Miên thấy nụ cười ấy quen quá, như là gặp ở đâu rồi.
“À bạn ơi…”
Miên giật mình, chậc, ai đời đến xe người ta nhìn hoa của người ta, rồi giờ lại nhìn chằm chằm người ta như vậy. Nó gãi gãi đầu:
“Xin lỗi nha, mình.. mình xin lỗi. Mình…”
“Hihi, bạn ngộ quá. Bạn là học sinh mới đúng không?”
Miên tránh ánh mắt của cô bạn, chắc là học sinh mới chuyển tới có vẻ rất nổi tiếng ở trường này. Nó cười gật đầu, toan bước đi.
“Tui tên Lam, tui học kế lớp bạn đó…”
Miên có hơi tức ngực một chút, nó hồi hộp vì lần đầu có ai đó trong trường mà khác lớp đang bắt chuyện với nó.
“Tui… tui tên Miên”
Rồi giờ thì hai đứa đang ngồi cạnh nhau ở khu hành lang nhìn hoa thế này dù trời cũng dần sập tối. Đã năm giờ bốn mươi chín phút, Lam nói cũng đang đợi người nhà đến rước. Lam kể cô ngại đám đông lắm, nên lúc nào cũng để xe ở xa mấy xe khác. Chỉ có một lần duy nhất gặp một người để xe cạnh cô. Nói đến đây Lam cười. Miên biết ngay người đó không ai khác chính là chủ nhân của bó hoa trên xe.
Lam nhìn Miên, cười nói:
“Rồi bạn sẽ làm quen nhiều bạn ở đây thôi. Đừng lo quá…”
Miên lắc đầu.
“Tại mình không biết cách thân thiết với người khác, ngay cả… ngay cả người thân”. Miên nói, thấy mình cũng giống Lam quá. “Với lại cũng tại…”
Lam cầm bó hoa lên nâng niu.
“Bạn còn thời gian, bạn hãy trân trọng những người ở cạnh cậu. Hãy nói cho họ biết là bạn cũng rất yêu thương họ… Bạn đâu biết khi nào bạn sẽ không thể nói được những lời đó nữa”
Miên nhìn xa xăm, tay nắm chặt điện thoại. Nó bỗng nhớ đến những cuốc xe bao nhiêu năm ba chở đi chở về, cho đến khi ba không còn đứng chờ đón nó nữa. Tay Miên đè lên ngực, thấy lòng thắt lại. Hơi thở có hơi khó khăn.
Lam để ý quay sang:
“Bạn ổn không?”
“Mình không sao…”
Lam cười nhìn Miên, cô cầm bó hoa đứng dậy.
“Người nhà của mình tới rước rồi. Mình đi nhé”. Lam giơ ra cánh tay.
Miên mỉm cười bắt lại.
“Cám ơn”
Rồi Miên nhìn Lam bước đi. Tà áo dài trắng bay theo gió. Miên giờ mới để ý, hôm nay thứ sáu rồi, sao Lam còn mặc áo dài làm chi?
Lam bỗng sực nhớ điều gì, quay sang nói lớn:
“Miên ơi, bạn hãy bảo vệ nó dùm mình nhé”
“Bảo vệ?...”
“Miên ơi… Miên hãy sống thật hạnh phúc, nhé Miên”
“Miên!!!”
Miên choàng tỉnh, điện thoại rơi khỏi tay. Mẹ đứng đó từ lúc nào, khuôn mặt trông vô cùng hốc hác. Như những ngày mẹ chăm nó từ hồi còn trong bệnh viên cả hơn một năm trước.
Lúc nó mổ tim.
“Con có sao không, có khó thở không con?” – Mẹ nó ôm vô lòng vuốt lưng – “Mẹ xin lỗi, mẹ tới trễ”
Miên thấy hơi tức ngực. Ngoài trời chỉ còn mảng tối đen. Mấy bác bảo vệ chắc cũng phụ kiếm nó nãy giờ.
Miên cám ơn mấy bác bảo vệ rồi đi chung với mẹ ra xe. Đi được đoạn có một anh nào cao cao, cầm bó hoa trắng bước vào khu để xe. Miên ngoái đầu nhìn theo. Thấy thế, bác bảo vệ đi kế mới nói:
“Thằng đấy hồi xưa học trường này. Mà chậc…” – Bác tặc lưỡi – “Có con bé bạn gái bị tai nạn chết, cái xe đạp móp đó thấy không. Ba mẹ nhỏ đó bỏ rồi, mà thằng đấy lén đem lên trường. Xin bác để đấy. Năm nào ngày giỗ của con bé cũng đem hoa tới để ở rổ xe đó”
Nói rồi bác lắc đầu:
“Con bé nó hay tâm sự với chú, có lần nó nói nó mà lỡ chết thì nó sẽ hiến tặng hết nội tạng nó cho bệnh việc. Dè đâu được có năm, là nó đi thiệt… Thương quá thương”
Miên ôm ngực nó nhớ lại lời Lam:
“Miên ơi, hãy bảo vệ nó nhé”
Miên hỏi bác bảo vệ:
“Chị ấy tên gì vậy chú?…”
Chiều đó gió nhàn nhạt bay, trên tay cậu thanh niên rơi vài cánh hoa trắng muốt. Cậu nhẹ nhàng đặt chúng vào giỏ xe. Giỏ xe có hoa.
Lam Lam
Niềm riêng
Giờ quay trở lại thăm trường cũ,
Vương vấn trong lòng nỗi nhớ nhung...

Xa xôi cách trở ngàn trùng,
Ước mong oan trái xa vùng thân yêu...
Lòng luôn nhung nhớ thương nhiều,
Những tà áo trắng dập dìu tung bay.
Nào hay oan trái vẫn đây,
Niềm riêng tôi mãi ôm hoài xót thương !!
Nơi đây vẫn chốn "chiến trường",
Còn đâu hình ảnh thiên đường tinh khôi !?
Nơi xa áo trắng lên ngôi,
Niềm riêng giờ lại sáng ngời trong tim !!
NM

Thấp thoáng áo về
Trước cổng trường đông đúc, nhộn nhịp. Bà đón cháu.
Thật ra bà chỉ việc lên một chiếc xích lô nhờ đạp tới trường, và bà đứng chờ trước cổng, bên vệ đường, như bao nhiêu phụ huynh khác. Bà không lái xe như ở “bên kia”.
Từng đợt, từng đợt học sinh đi ra. Các bạn dắt xe đạp, hoặc xe gắn máy. Ra đến cổng rồi các bạn mới leo lên xe. Bà có một chút hài lòng. Chỉ có một điều rất khác so với ngày xưa. Ngày xưa chỉ có nữ sinh. Bây giờ có cả nam và nữ.
Ngày xưa… Ồ! Bà như thấy trước mắt, cảnh các nữ sinh mỗi sáng lũ lượt nối đuôi nhau vào trường. Cái cổng trường và ngôi trường cổ kính, đã có từ một thế kỷ trước, hàng ngày chứng kiến một quang cảnh không đổi. Có vẻ như không đổi mà thôi! Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Cô giáo dạy môn Anh văn của các lớp đệ nhị cấp, cũng đảm nhận làm giáo sư hướng dẫn cho lớp Mười A9, buổi sáng. Lớp Mười A9, một lớp không có gì đáng nói, vì cũng là một lớp khá ngoan. Học trò học rất đều. Không có em nào dưới trung bình. Các thầy cô rất yên tâm về lớp này. Trường công, cần có những lớp đều như vậy. Được rèn luyện rất cẩn thận, cộng thêm sự học hành tự giác, tinh thần ganh đua và chí phấn đấu, thế là học sinh cứ tiến đều, và sẽ có kết quả tốt trong những kỳ thi lấy bằng Tú Tài.
Cô giáo năm ấy ngoài bốn mươi. Cô vui tính, hay kể chuyện hài hước, nhưng lại có một đặc điểm chưa hề thấy ở một vị giáo sư nào. Đó là cô rất khắt khe với các nữ sinh để tóc dài. Giờ học của cô, các nữ sinh đều phải cột tóc gọn gàng, không ai được xõa tóc. Ngay cả những bạn tóc mới chấm tới vai cũng phải cột lên thành một cái đuôi gà cụt ngủn. Làm trái ý cô ư? Ra khỏi lớp! Giờ Anh văn của cô, ai ai cũng chuẩn bị một cái kẹp tóc hoặc một sợi dây. Cô vào lớp, việc đầu tiên là cô đặt lên bàn một mớ dây thun. Bạn nào quên đem kẹp, cứ tự động bước tới bàn của cô, lấy một sợi dây thun mà cột tóc lại. Chỉ có các bạn cắt tóc “demi-garçon”, nghĩa là tóc tém như con trai, hoặc tóc “bum-bê” thật ngắn mới khỏi phải cột tóc. Trời nóng cũng thế, trời lạnh cũng như thế. Không ai dám cãi lại. Không ai dám thắc mắc.
Thế rồi, đến một hôm, cô trố mắt khi nhìn thấy một cô học trò cột tóc theo kiểu rất lạ. Cô bé chỉ cột dây thun một nửa mái tóc, và vẫn để lớp tóc bên trong chảy lòa xòa trên vai. Cô từ trên bục bước xuống, đứng trước mặt cô học trò. Đây là trò Hương, người nữ sinh giỏi Anh văn nhất lớp. Cô không nói. Hương ngước nhìn lên, thấy ánh mắt của cô, Hương cũng im lặng. Hai thầy trò nhìn nhau. Cả lớp nín thở.
Mấy giây sau, cô ra lệnh:
- Em đứng dậy!
Hương đứng lên, thẳng người, trông rất ngoan như bao lần. Cô giáo nghe hai má mình hơi nóng lên với cảm giác bị học trò cãi lời. Cô hỏi:
- Hôm nay em biết em đã phạm lỗi gì không?
Hương lắc đầu, giọng chắc nịch:
- Thưa cô, không ạ!
Cô nghe mặt ran rát một cảm giác bị xúc phạm
Cô xẵng giọng:
- Em thật không biết?
- Thưa cô, không ạ!
Cô cố dằn, lần đầu tiên cô thấy mình có hơi nhượng bộ đối với học sinh. Cô gắng nói một cách bình tĩnh:
- Từ đầu năm đến giờ, tất cả học sinh khi vào giờ học Anh văn, đều nghe lời tôi, cột tóc gọn gàng. Chưa một ai làm trái lại. Hôm nay em đã làm trái đi. Tại sao?
Hương thong thả đáp:
- Thưa cô, em không thấy mình làm trái điều gì
Em có nghe lời cô. Em có cột tóc ạ!
- Em không làm đúng.
- Thưa cô, cô có nói chúng em cột tóc cho gọn, thì em đã cột tóc cho gọn ạ!
- Không phải!
- Thưa cô, xin cô chỉ cho em… làm sao cho phải ạ!
Cô nói lớn, mặt đỏ bừng:
- Tôi bảo các em cột tóc hoàn toàn, không có một sợi nào được bay lòa xòa. Em nhìn em kìa, cột mà như không cột.
- Vậy thưa cô, em xin làm lại ạ!
Hương thong thả tháo sợi thun buộc tóc ra. Cô giáo và cả lớp chờ đợi. Hương đặt sợi dây thun lên bàn, và lắc đầu nhẹ một cái. Mái tóc đen mượt của cô bé đổ tràn đầy hai vai, như một dòng suối. Cô bé đứng thẳng như người lính đứng đợi lệnh cấp trên. Cô giáo trố mắt. Cả lớp như nghẹt thở.
Lại một khoảng im lặng khó chịu tỏa ra. Mấy giây sau, vẫn là cô giáo lên tiếng trước:
- Em làm vậy là có ý gì? Em không muốn nghe lời tôi hả?
- Thưa cô, em không có ý chống đối cô. Nhưng… thưa cô, em cảm thấy… cô rất vô lý khi bắt buộc chúng em cột tóc. Nếu là trong phòng thí nghiệm thì không nói gì, nhưng giờ này là giờ Anh văn. Trong khi ở các giờ học khác, chúng em không bị các giáo sư gò bó, mà giờ của cô thì chúng em lại phải… làm cho ra vẻ lam lũ. Chúng em thật sự không hiểu ạ! Hôm nay, nếu cô phạt em, em cũng đành chịu. Nhưng em phải nói giùm các bạn em, giùm cả lớp này và giùm cả các lớp khác, vì… họ không dám nói ạ!
Các nữ sinh len lén nhìn nhau, ánh mắt thay cho lời nói chuyện. Họ vừa hả dạ, vừa lo lắng cho Hương. Cô giáo nói giọng run run:
- Giỏi lắm! Em giỏi lắm! Tôi sẽ giao em cho phòng giám thị giải quyết.
Rồi cô mở sách ra, lặng lẽ bước lên bục gỗ.
Sau hôm đó, cô học trò bị một điểm xấu về hạnh kiểm.
Nhưng cô giáo thì cũng từ hôm đó, khi vào lớp không còn đặt một nắm dây thun lên bàn nữa.
o O o
Ngày xưa… Vâng, cô giáo còn nhớ lắm!
Cô bé học trò lớp Mười A9 tên Hương, khi xõa mái tóc chảy đầy vai, làm cho cô giáo có một thoáng sững sờ!
Sao cô lại không sững sờ cho được, vì hình ảnh đó giống hệt như cô mà! Tấm áo dài trắng tinh, mái tóc đen nhánh dài đến gần thắt lưng, công phu của nhiều tháng nuôi dưỡng, nâng niu. Cô chỉ xõa tóc ra khi mặc áo dài đi học, còn khi ở nhà, giữ em, làm việc trong bếp, ngoài vườn, cô cột hoặc bới cao lên cho gọn. Nhiều cậu nhóc hàng xóm cứ nhìn theo cô, ngẩn ngơ. Và rồi trong đám “nhóc” ấy, một cậu đã rơi vào đôi mắt của cô, đã trao cho cô những tờ giấy màu xanh trên đó có những dòng thơ dịu dàng. Cậu nhóc đã hẹn được cô đi chơi. Cô gan lắm! Cô đã đi chơi với cậu nhóc. Cũng là quanh quẩn nơi những hàng quà vặt trước trường, rồi lại về nhà, giữ em, làm việc nhà, học bài. Rồi một buổi kia, cô trốn học để đi xem xi-nê với cậu.
Dì của cô – vâng, cô học trò ấy không còn cha mẹ, ở với người dì họ, làm việc nhà cho dì ấy và nhận cơm ăn áo mặc – biết được chuyện, đã túm lấy mái tóc của cô mà cắt lấy cắt để, cho đến khi tả tơi ra hết rồi dì mới hả giận. Và thế là cô học trò xinh đẹp phải trùm khăn đi học, chờ cho đến khi đầu tóc mọc thêm cho dễ nhìn mới dám để lộ ra. Cái mặc cảm bị hành tội ám ảnh cô học trò cho đến rất nhiều năm sau, khi cô đã xong bậc trung học, lên học Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ra trường và trở thành cô giáo dạy Anh văn.
Cô giáo trở thành một hình mẫu tiêu biểu đáng kính trong nhà trường. Nhiều năm qua, cô hồ như quên mất kỷ niệm chua cay mà mình đã gánh chịu. Cô có gia đình, có con cái. Cô lập ra một cái nếp áp dụng với nữ sinh học môn Anh văn của cô: cột tóc lên cho gọn gàng, dù lớp học Anh văn thì không bao giờ giống như phòng thí nghiệm. Cái nếp ấy, năm này qua năm khác, áp dụng mãi rồi thành quen thuộc không ai dám phản đối. Và cũng không hại gì cho nên nhà trường không can thiệp vào.
Nhưng cô bé Hương đã dám phá vỡ cái bức tường đó, dù biết sẽ nhận lãnh một điều không hay cho mình. Như một tiếng chuông vang lên phá vỡ sự im lặng đáng ghét, Hương đã làm cho cô giáo mất mấy đêm không ngủ. Lúc nào cô cũng thấy cô bé học trò thật đẹp, thật thánh thiện trong nếp áo dài, mái tóc xõa trên bờ vai. Cô bật khóc trong đêm
Trời ơi! Là tôi đấy mà!
o O o
Biến cố 30 tháng Tư 1975 xảy ra. Có nhiều thay đổi trong hệ thống quản trị nhà trường. Cô giáo vẫn được lưu dụng để dạy môn Anh văn. Nhưng cô bé học trò tên Hương không còn tiếp tục đến trường nữa. Cô bé đã đi đâu mất.
o O o
- Bà ơi! Cháu đây! Bà đi với ai?
- Bà đi một mình, đi xích lô, cháu ạ! Bà cháu mình sẽ đón tắc-xi về nhé!
- Vâng. Bà đợi cháu một chút, cháu dặn bạn cháu cái này.
Cháu của bà chạy tung tăng chân sáo, gọi bạn ơi ới. Bạn là một cậu con trai cùng trang lứa, lái chiếc xe gắn máy, đang chống chân chờ đợi. Chá
của bà dặn dò một lát, rồi đi về phía bà. Trong khi đó, một cô học trò khác, đến bên cậu học trò kia, leo lên yên sau của chiếc xe gắn máy. Cô bé dang hai chân ngồi thật vững vàng và thoải mái, vạt áo dài được túm lại cột thành một búi trước bụng. Cô bé ngoái lại vẫy tay chào. Cháu của bà vẫy tay theo.
Bà hơi khựng lại một chút. Ngày xưa… Ồ, lại ngày xưa! Bà khi còn là cô học trò trung học, lần đầu tiên mặc áo dài, lúng ta lúng túng, không biết vén thế nào cho gọn. Khi đi xe đạp, cô học trò lót vạt áo dài lên yên, vuốt thật thẳng rồi ngồi đè lên. Hoặc cẩn thận hơn nữa, thì ràng chiếc cặp nơi yên sau bằng một sợi dây thun thật lớn, có hai móc hai đầu, rồi sau đó nhét kỹ hai góc của vạt sau áo dài vào dưới dây thun. Gió có mạnh mấy cũng không thể làm vạt áo bung ra được. Lại còn những khi ngồi ở yên sau cho bạn chở, thì mấy cô nữ sinh bao giờ cũng ngồi khép nép, hai chân để về một bên, vạt áo vén thật gọn gàng thẳng thớm vì sợ nhăn. Vậy mà cũng có một kỷ niệm đau khổ xảy ra cho cô: một hôm cô ngồi sau xe cho cô bạn chở, hai đứa lo nói chuyện cười vui không để ý, cô đã làm vạt áo sau rơi xuống, quấn vào bánh xe, bị rách toạc đứt lìa. Cô run rẩy bước về nhà và nhận lãnh một trận đòn vì tội lơ đễnh.
Tà áo dài nữ sinh, đề tài muôn thuở cho các văn thi nhân, nhạc sĩ, họa sĩ, có đâu ngờ cũng mang lại nhiều đau khổ cho các nữ sinh. Thời của cô, áo dài lúc nào cũng phải thẳng thớm, kín đáo. Đã vậy mà trò nào vô tình hay cố ý “quên” mặc áo thun lá bên trong thì sẽ bị đuổi về, không cho học ngày hôm đó. Con nhà nghèo đến đâu cũng phải ủi áo dài đi học, không để bị nhăn nheo hay gấp nếp. Trời nắng hay mưa, bão hay lụt, cũng không được mặc thứ gì khác. Học trò xứ cao nguyên thì đỡ khổ hơn, phần trên đã luôn có áo len che, các bạn chỉ lo ủi cho thẳng hai vạt áo. Học trò miền thôn quê càng đáng nể hơn nhiều, khi mỗi ngày xắn quần áo lội bì bõm qua bao nhiêu đoạn nước non sình lầy, hoặc lên ghe xuống đò, khi lên tới đường cái rửa chân và thả lai áo quần xuống, áo quần vẫn trắng nguyên, và như vậy là có thể đi đến trường.
Sau năm 1975, trường của cô không bắt buộc nữ sinh mặc áo dài. Trường có thêm nam sinh. Nam nữ đề huề. Học sinh đi học mặc quần tây xanh, áo sơ-mi trắng. Nét e dè khép nép ở nữ sinh dần dần mất đi. Cô cũng không còn nhớ đã có một thời cô bắt các học trò của mình cột tóc cho gọn. Như cô đã quên quá khứ buồn của mình vậy!
Cháu của bà mang đến cho bà một bịch chè. Ồ, con bé nhanh chân thật, vừa mới chạy đi dặn dò bạn, đã tạt ngang gánh hàng rong mua chè bịch rồi! Bà bật cười, nói:
- Bà không ăn đâu!
- Bà ăn đi, ngon lắm! Không ai nhìn đâu! Ngày nào cháu cũng ăn như vậy.
Bà liếc qua “xóm hàng rong” thấy nào là chè, nào là bánh, rồi thì trái cây - cóc ổi xoài, rồi nước mía, chuối xào dừa, xắp-xắp khô bò … Bà lắc đầu. Đứa cháu gái ăn chè bịch một cách ngon lành, không cần chén muỗng, chỉ việc cắn một góc nhỏ ở cuối bịch và kê miệng hút, thế là xong. Bà cảm thấy vui lây với nó. Cháu cũng mặc áo dài như bà ngày xưa - vâng, theo bà biết thì đến một lúc, các trường cũng trở lại cho nữ sinh mặc áo dài trắng – nhưng cách thức của các cháu có nhiều khác biệt. Các cháu nhanh nhẹn hơn, mạnh bạo hơn, không khép nép rụt rè. Các cháu sẵn sàng xắn tay áo lên cao, hoặc cột nùi vạt áo dài trước bụng khi ngồi ở yên sau xe gắn máy. Bà cười dễ dãi, tự nhủ “mỗi thời mỗi khác”.
Một cô bé chạy đến, đưa cho cháu bà một quyển vở.
- Trả lại vở cho bạn nè! Mình đã chép bài xong. Cám ơn nhé!
- Không có chi. Nè, giới thiệu với bạn, đây là bà của mình. Bà ơi, đây là bạn Hoa học cùng lớp với cháu.
- Cháu chào bà ạ!
- Nhưng không phải bà nội hay bà ngoại đâu! Bà là “bà trẻ” ấy!
Cô bạn tròn mắt chưa hiểu. Bà giải thích
- Chào cháu, “bà trẻ” có nghĩa là bà cô hoặc bà dì. Bà là “bà dì họ” của bạn đây.
- Dạ cháu hiểu rồi ạ!
Cháu của bà giải thích thêm:
- Bà và gia đình của bà ở bên Mỹ hết cả. Bà năm nay mới về chơi, thăm gia đình của mình. Bà với bà ngoại mình là “chị em bạn dì họ”, nghe rắc rối không? Nhưng họ thân lắm, vì bà chỉ có người thân là phía bà ngoại mình thôi. Bà về chơi, rồi bà lại đi qua bên ấy.
Cô bạn nhỏ gật gù:
- Vậy cháu chúc bà có những ngày ở chơi vui vẻ
Cháu chào bà ạ!
Bà chào lại. Cô nhỏ chớp nhanh đôi mắt tròn, và quay lưng đi. Cô lắc nhẹ mái tóc. Một dòng suối đổ tràn vai. Cô đi thật nhanh và lẫn vào dòng người áo trắng. Bà chợt nghe trái tim mình thắt lại một cái đau nhói. Hình ảnh quen thuộc quá!
Cô cháu nói khẽ:
- Con nhỏ Hoa này… coi vậy mà tội nghiệp lắm bà ạ!
- Cháu nói sao?
- Dạ, để hôm nào cháu kể bà nghe…
o O o
Trước cổng trường vẫn đông đúc, nhộn nhịp. Có vẻ như không đổi. Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Thầy trò họ gặp lại nhau. Cô giáo dạy môn Anh văn và cô học trò xinh đẹp tên Hương của lớp Mười A9. Hình như những nét tươi đẹp và tinh anh của mình đều truyền hết cho đứa con gái, Hương hiện ra trước mắt cô giáo, là một phụ nữ trung niên với nét khắc khổ trên gương mặt.
Họ cùng nhau đến kéo ghế ngồi bên một chiếc xe nước mía. Khuôn viên nhà trường trong kia không còn thuộc về họ.
- Hương à, sau ngày ấy, em đã đi đâu
- Thưa cô, em đi kinh tế mới, cùng với ba má và các anh chị em của em. Một nhà sáu miệng ăn, vất vả lắm thưa cô. Nhưng không thể ở lại thành phố vì áp lực nặng nề quá! Tụi em ra sức tập tành trồng trọt, chăn nuôi. Sức vóc học trò yếu ớt, không cày cấy nổi trên sỏi đá. Cho đến một ngày…. Ba của em cuốc trúng mìn và chết trên rẫy. Cả nhà đành trở về thành phố, bươn chải làm đủ mọi nghề để sống tạm. Chỉ có hai năm mà nhà em đã trắng tay, gia sản tiêu tan hết. Em cũng bỏ học luôn.
- Cùng thời gian đó, cô và chồng con của cô cũng trốn đi.
- Cô đã qua Mỹ?
- Phải. Cô và chồng cô làm mọi nghề để nuôi con. Bây giờ cuộc sống đã tạm yên. Em hãy nói tiếp cho cô nghe, sau khi về lại thành phố, em sống ra sao?
- Em cùng mẹ và các anh chị em lây lất qua ngày, rồi cũng xong. Em lập gia đình trễ nhất trong các anh chị em. Con của em là bé Hoa đó thưa cô.
- Cô đã biết, cháu giống mẹ như đúc. Cô đã giật mình khi nhìn thấy cháu. Đúng là hình ảnh của em ngày xưa, không khác một ly.
- Thưa cô, em xin lỗi cô!
- Xin lỗi chuyện gì?
- Chuyện ngày xưa… Em đã cãi lời cô, không chịu cột tóc.
- Cô quên rồi! Nếu cô không quên, cô sẽ còn đau khổ với cái kỷ niệm đau đớn của cô. Em đừng hỏi cô đó là kỷ niệm gì. Để cho nó chìm luôn đi em nhé! Cái hình ảnh em xõa tóc dài, mặc áo dài trắng, thương lắm, chính là hình ảnh của cô, và bây giờ đã là hình ảnh của các cháu.
- Vâng! Nhìn bên ngoài là như vậy, nhưng cô ơi!....
- Sao? Em muốn nói gì?
- Cô ơi! Nếu cuộc đời bình lặng như chúng ta muốn thì chắc sẽ không là cuộc đời. Em tưởng những gì mà thế hệ trước gánh vác thì sẽ không xảy ra cho đời sau. Em tưởng thế hệ con của mình sẽ được may mắn hơn. Nhưng sự thật thì còn tệ hơn nữa…
- Em muốn nói gì?
- Chỉ mới gần đây thôi, một ngày kia em không thấy con của em về nhà. Cháu theo bạn bè trốn đi chơi, nghe lời dụ dỗ và sa vào một cái bẫy buôn người. Chúa ơi! Khi em đến khách sạn thì vừa kịp thấy bọn đó tổ chức cho các gã ngoại quốc chọn lựa các cháu như chọn nô lệ. Em như nổi điên, em phá phách tan nát cái động đó, cùng những bà mẹ khác cứu các con về. Cô ơi, cháu cũng còn chút may mắn hơn những bạn trẻ khác trôi giạt qua xứ người không biết đâu mà tìm. Cô thấy đó, cháu có vẻ ngoan ngoãn thuần hậu, nhưng không thể ngờ, đàng sau lớp áo trắng kia là một kỷ niệm đau đớn. Từ đó em mang tâm bệnh trầm cảm. Em rất buồn, thưa cô!..
o O o
Cô giáo ngày xưa trở lại Mỹ. “Bà trẻ” chỉ chơi với cháu được mấy tuần. Ngoài một vài giúp đỡ vật chất nhỏ nhoi, bà cũng không làm được gì hơn. Đối với gia đình Hương cũng vậy. Bà cảm thấy nặng lòng quá! Khi máy bay rời phi đạo và cất cánh bay lên không, bà bật khóc. Bà bỏ lại những con đường đầy cỏ xanh, những khu xóm nhà cửa chen nhau chi chít, những tòa nhà cao nghễu nghện đứng bên cạnh khu ổ chuột, trông như những anh “đại bàng” hách dịch trước đám dân đen. Rồi thì dòng sông, đồng lúa, rặng núi, khu rừng… tất cả chìm vào màn mây và màn nước trong mắt bà trắng xóa.
Bà ngủ vùi mấy ngày. Trông có vẻ như người bị mệt mỏi vì sái múi giờ. Thật sự bà muốn quên. Bà cũng có cảm giác bị trầm uất như lúc xưa bị người dì họ ra tay xởn tóc. Có một cảm giác mất mát đeo nặng trong trí bà. Nhiều đêm ngủ chập chờn, bà thấy vô số những tà áo dài trắng vờn bay trước mặt, vỡ ra thành những giọng cười hồn nhiên, rồi lại quấn quít quanh người bà, khóc lóc tỉ tê như trong một đám tang làm cho bà ngạt thở.
Khi đã yên tĩnh lại một chút, bà quyết định làm một cái gì. Bà nghĩ từ nay bà sẽ viết sách, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, về những cuộc đời trầm luân của những người phụ nữ bất hạnh. Bà bắt tay vào việc ngay. Con cháu thấy bà hồi phục, ai cũng nhẹ nhõm.
Riêng có đứa cháu ngoại trai của bà, một hôm đã làm cho bà ngạc nhiên khi trao cho bà một bản vẽ và nói:
- Con tặng cho ngoại đó!
- Cái gì đây, thằng cháu cưng?
- Ngoại coi sẽ rõ. Ngoại có ưng ý không? Ngoại dùng nó để làm bìa cho cuốn sách đầu tay của ngoại nhé!
- Được! Nếu “thiết kế sư” vẽ đúng ý ngoại thì ngoại sẽ dùng…
Bà mở tròn đôi mắt. Trên bản vẽ là một tà áo dài mềm mại. Người con gái trong hình tươi tắn, cười hồn nhiên, mái tóc buông dài trên vai. Bà nghẹn ngào không nói được. Cháu của bà, cậu thanh niên sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, nói hớn hở:
- Ngoại à, con đã nghiên cứu rất lâu về chiếc áo dài Việt Nam. Con thấy có nhiều biến cải rất lạ mắt và đầy thú vị. Nhưng cuối cùng, con chỉ chọn kiểu áo này, chiếc áo dài nguyên thủy không kiểu cọ gì cả. Đó là kiểu áo dài của các nữ sinh. Theo con, đó là kiểu áo dài hoàn hảo nhất.
Bà ôm siết đứa cháu trai vào lòng:
- Cám ơn con. Ngoại ưng ý lắm!
- Ngoại có thấy cô gái này giống ngoại ngày xưa không?
- Có! Có! Giống ngoại lắm! Mà… cũng giống rất nhiều người, con ạ! 

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tháng 3/2011

Mimosa cuối mùa
Hoa vàng phai vẻ kiêu sa,
Đưa người sao thấy xót xa trong lòng ?
Người đi vào cõi mênh mông,
Mimosa vàng sẫm bên song cúi đầu !
NM

 Sân trường có hoa vàng Mimosa
Tôi và Chi học cùng suốt bốn năm cấp hai, đến cấp ba, tôi học chuyên Văn còn Chi học chuyên Lý, thời gian gặp nhau chỉ là những giờ trước trống vào lớp rồi sau trống tan trường – ngắn ngủi và nhiều luyến tiếc.
Giờ ra chơi, Chi ít khi ra ngoài. Có lẽ, Chi sợ phải nghe những từ ngữ không hay đám bạn dành cho mình. Tôi cũng từng có lần trách Chi tự ti quá! Tôi nghĩ, mập hay ốm cũng là bản thân mình, cứ mặc kệ người khác nói gì, nhưng hình như Chi không thể vượt qua như tôi bảo. Lúc ấy, Chi nặng khoảng sáu mươi cân.
Có những lần, khi chúng tôi đi cạnh nhau giữa sân trường trước khi tẻ ra mỗi đứa vào một lớp, tôi nghe những tiếng hinh hích cười, những câu đùa cũng chẳng quá ác ý, nhưng chắc làm tổn thương Chi, rằng, chúng tôi đi cùng hệt như một số mười di động. Sau vài lần phải nghe câu nói ấy, Chi tránh hẳn mặt tôi khiến tôi cảm thấy tình bạn của mình bị tổn thương quá nặng. Và, tôi cũng bắt đầu tập thói quen không ngóng tìm cái bóng tròn, cao và đầy nhút nhát của Chi mỗi khi bước chân vào hẳn trong cổng trường nữa. Đó có phải giận không, tôi không chắc, nhưng tôi chắc chắn, có một phần trong tôi – cho dù rất bé – tôi nghĩ, tôi sẽ tôn trọng quyết định của Chi.
Cuối thu – đầu đông, tôi thi thoảng nhìn thấy cái bóng quen quen của cô bạn vẫn cố lảng tránh tôi, Chi có vẻ buồn và nhiều tâm sự. Tôi vài lần nán đợi Chi sau tiếng trống tan trường, Chi cố tránh nhưng rồi cũng phải đối diện trước sự kiên trì và lì lợm của tôi. Tôi hỏi. Chi bảo, Chi thích mặc áo dài hơn, vì hình như mặc lớp áo trắng tinh khôi ấy, trông Chi ít béo hơn. Tôi lại hỏi. Chi cười buồn, bảo, chỉ vài hôm nữa thôi, chúng tôi sẽ được miễn áo dài, sẽ được mặc quần tây, áo ấm để tránh cái rét tê tái mà mùa đông nào rồi cũng như mùa đông nào. Tôi thở dài, thấy chán ngán với cái suy nghĩ thích mặc áo dài chỉ bởi để ít mập đi – theo tư tưởng của Chi thôi, chứ đã mập thì mặc cái gì chẳng mập cơ chứ! Và hôm ấy, tự tôi quyết định rẽ ngang khi chưa đến lúc chào tạm biệt nhau.
Khi những cụm mimosa chưa kịp vàng, nhà trường thông báo, nữ sinh được miễn áo dài. Tiếng rú hét thích thú của đám con gái trường tôi lớn đến độ, át hẳn đi cả cái suy nghĩ bộc phát ngay tức thời của tôi về Chi, về những câu ngắn ngủi Chi từng nói tôi nghe ở cái lần sau cùng – tính đến lúc này – tôi và Chi bước cạnh nhau. Rồi, tôi quên hẳn, không sót lại chút gì trong đầu mình, tôi cỡn lên mà nhảy, mà hét, mà gào thét như những đứa con gái còn ham chạy nhảy tự do như tôi vậy. Chúng tôi được miễn áo dài suốt mùa đông!
Bài tập làm văn tháng ấy, cô chủ nhiệm bảo, cả khối sẽ cùng làm một đề – tả về cây mimosa lâu năm giữa sân trường. Tôi ngạo nghễ tự nhủ với mình, rồi bài văn của tôi sẽ được đọc vào tiết chào cờ tuần kế tiếp. Tôi dành hai buổi ra chơi của mình để ngắm nghía cái thân cây sù sù sì sì, cong cong quẹo quẹo một cách dị biệt ngay trước lớp tôi, nghĩ mà cảm thông cho những đứa chuyên Toán, chuyên Hóa, chuyên Lý, chuyên Sinh… đã ít vốn liếng từ vựng, lại cách quá xa thứ chúng phải tả, lẽ ra, nên để lớp tôi cách xa cái cây này nhất mới phải.
Tôi nhìn, rất rõ, những chúm hoa đang cố trải vàng giữa lớp vỏ bao ngoài xanh xanh, trắng trắng. Tôi nhìn, rất rõ, từng sợi tơ vàng mỏng tang, ngắn cũn của hoa đang cố chòi ra ngoài khoe sắc. Tôi muốn viết. Tôi muốn tả. Tôi muốn kiêu hãnh nói về loài hoa mà gần như chỉ quê tôi mới có – dĩ nhiên là vài nơi khác nữa, có cái lạnh này, có cái sương này cũng có mimosa, nhưng không bao giờ rộ được vào giữa mùa – để nếu bài văn của tôi vươn ra xa khỏi lớp tôi, khỏi khối tôi, khỏi trường tôi, khỏi thành phố tôi, có ai đấy sẽ khát đến Đà Lạt chỉ để nhìn ngắm loài hoa này. Tôi biết, đây là lúc trong tôi bắt đầu thành hình một tham vọng.
Cái tham vọng ấy được thể hiện khá rõ ràng, khá rành mạch trong bài văn dài gần bốn tờ giấy học trò. Cô chủ nhiệm đọc bài văn của tôi trước lớp vào tiết chủ nhiệm cuối tuần. Cô bảo, điểm chín cho tôi là hơi keo kiệt, nhưng để cho điểm mười một bài văn thì cô quả thật chưa dám làm. Tôi có chút ức chế về cái chuyện Văn không bao giờ đến thang điểm mười, nhưng cũng ngạo nghễ cười với cái chuyện bài văn của tôi, cô giáo bảo, đọc rồi, chỉ biết nghĩ đến chuyện đặt bút đỏ và cho một điểm số cao ngất, đến nhận xét, cô cũng thấy chùn tay…
Và, cái tham vọng ấy – cái suy nghĩ đưa bài tập làm văn của mình bay thật cao, thật xa – cái suy nghĩ viễn vông quá trẻ con của tôi bị đập bẹp gí vào sáng chào cờ đầu tuần. Bài văn được đọc trước trường không phải là bài văn điểm chín của tôi. Một bài văn chỉ đến điểm tám khuyến khích của Chi mới là bài được chọn để đọc. Cái phừng phừng nóng giận và tị nạnh khiến tôi không nghe rõ hết những gì Chi viết ra và đang được cô Hiệu phó đọc. Tôi chỉ nghĩ, à, một con bé chuyên Lý làm được bài văn suýt tám nên sẽ được ưu tiên…
Cuối đông, ở những ngày cuối cùng nữ sinh không phải mặc áo dài trắng, cũng là những ngày cái buốt rét thấm cắt thịt da bọn tôi qua từng lớp áo quần dầy cụi, Chi một mình, trong tà áo dài trắng, ngồi tựa mình vào thân cây mimosa trước lớp tôi. Hình như, Chi đang đợi!
Tôi quanh quanh nhìn. Tôi quanh quanh nghe. Tôi có phần thắc mắc khi không một đứa bạn nào gần tôi cười hay nói ra một câu đùa giỡn có thể làm tổn thương Chi. Không! Không đứa nào nói gì cả! Chúng nó cũng như tôi, nhìn về phía Chi như nhìn một thiên thần không cánh đang rong chơi ở xứ sở thần tiên – nơi mà sương và nắng quyện vào nhau bằng cái quyện lạ lùng và đầy huyền ảo.
Tôi hít sâu sau một chút tần ngần, chậm rãi bước lại chỗ Chi vẫn đang tựa lưng vào gốc cây già sù sì màu xám pha trắng. Chi ngước đôi mắt ấng nước nhìn tôi rồi cụp xuống rất nhanh. Tôi chắc chắn, Chi đang che giấu gì đấy. Và, tôi muốn mình phải tìm ra. Bởi, cái thứ Chi giấu quá vội trước tôi, chắc chắn, đang bào mòn Chi một cách khủng khiếp. Bởi, Chi vẫn trong bộ dạng mập ú, đôi má phính hồng nhưng quầng mắt sâu và đen đến tội nghiệp. Tôi nhất định phải tìm ra, dẫu, tự tôi có hỏi mình, tìm ra rồi, tôi biết sẽ phải làm gì đây?
Chi tuyệt không nói gì, cho dù một câu cũng không. Chi trở lại với một Chi rất khác, hay nói, hay cười, thi thoảng lắng lại rất nhanh rồi cũng vỡ ra quá nhanh. Đôi quầng mắt thâm vẫn hằn rõ trên gương mặt Chi bắt đầu xanh xao nhưng không giấu được vẻ tinh anh và yêu đời một cách rất lạ. Chi hỏi tôi, có thể cùng Chi mặc áo dài trắng đến cuối đông hay không? Bởi, Chi không muốn trở thành quá dị biệt. Tôi gật rồi tôi lắc. Hai đứa dị biệt, cũng chẳng có gì hay ho. Tôi tần ngần thêm vài ngày nữa trong khi Chi vẫn thản nhiên vận áo dài trắng, áo len xanh cổ tim giữa cái lạnh cố nuốt chửng con người ta. Vẫn chẳng một lời xì xào nào từ bạn bè cả. Và, tôi cùng Chi mặc áo dài, trong khi tất cả nữ sinh trường tôi vẫn quần tây xanh, áo sơ-mi trắng, áo len xanh.
Vài lần trong số những ngày cuối cùng của mùa đông quá lạnh năm này, vài đứa bạn nhìn tôi và mỉm cười nụ cười rất ý nhị, vẻ như chúng nó cảm phục tôi. Tôi nghĩ, chúng điên cả rồi. Thà cứ cười nhạo. Thà cứ hỏi trắng ra. Thà cứ xì xò tôi điên tôi khùng… Làm cái trò gì mà phải nể phục tôi vì tôi muốn thành một trong hai kẻ quái đản cơ chứ?
Độ mimosa vàng rộ là độ nghỉ xuân. Chi ghé nhà tôi, ngồi cùng tôi chuẩn bị phơi dưa kiệu, hỏi, sáng mai Chi có thể đón tôi, mặc áo dài trắng đến trường ngắm mimosa không? Tôi bật cười, cười khanh khách, hỏi, có khi nào năm sau Chi xin sang lớp tôi học không? Bởi, cái lãng mạn đến không tưởng trong câu Chi vừa nói, vượt xa khỏi những cái đầu hay mơ mộng của những đứa chuyên Văn như tôi. Chi không trả lời, chỉ nhìn tôi và hỏi lại, có thể hay không.
Hình như Chi đã khóc – tôi không chắc lắm, vì, tôi không dám nhìn thêm nữa. Từ sau Chi, tôi nhận ra đôi vai trở gầy bất thường run run, tôi nhìn thấy hai bàn tay vốn từng múp míp nay hằn gân xanh đưa lên miết nhẹ thân cây đến lá cây đến từng cụm hoa nay đã vàng rực rỡ. Tôi thôi không nhìn nữa, vì, lòng tôi dấy lên một nỗi sợ không tên.
Tết, Chi ghé, trao cho tôi một phong bì khá dầy, bảo, đấy là thứ Chi đã đợi để “lì xì” cho tôi. Đấy là bài văn của Chi lần nọ. Tôi đọc nó lần đầu trong thảng thốt – thật sự thảng thốt. Tôi đọc nó lần hai trong nhòe nhoẹt nước mắt – tôi nghe trái tim mình đau. Đoạn Chi tả hoa rất ngắn, đến độ người ta có thể quên ngay. Thứ người ta phải nhớ là những gì Chi tả về một mầm xanh cố vươn lên cho dù biết chỉ đi nửa đoạn đường sẽ gục ngã…
Thầy Hiệu trưởng không từ chối, thậm chí, thầy đồng tình ngay. Tôi vội vã tiến ra sân trường, ngắt nhánh mimosa ươm cái vàng cuối cùng của mùa hoa năm này, lao đến nhà Chi trong giàn giụa nước mắt. Chi nhìn tôi, bằng cái nhìn đẹp và dịu dàng. Chi cố chống hai cánh tay giờ đã gầy như hai que củi, đỡ thân hình tiều tụy đến thảm thương của mình ra, với lấy nhành mimosa tôi vội vàng đem đến. Lúc này, Chi chỉ còn ba mươi tám ký…
Chi đi ngay cuối mùa mimosa sau khi gửi lại cho tất cả chúng tôi cái tham sống của một mầm xanh biết rõ đoạn đường ngắn ngủi của mình. Mimosa sẫm màu nâu nhạt, cúi đầu chào Chi lần cuối trong những tiếng nấc nghẹn ngào.

Nhóm 4.0