Cơn gió bấc,
Ngọn gió bấc lạnh lùng xuyên áo mỏng,
Thổi từng cơn giá buốt đến tận xương....
Bao người cùng khổ bên đường,
Có ai thấu hiểu đoạn trường nầy chăng ?
(Tùy bút của nhà văn Tường Bách đã được đăng lần đầu trên báo Ngày Nay số 1, in tại Hà Nội ngày 30/01/1935.)
Tiểu sử Cụ Nguyễn Tường Bách
Tốt nghiệp bác sĩ năm 1946, cùng thời với Bác Sĩ Ninh (Viện Việt
Học), Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàng (cùng lãnh đại Đại Việt Quốc Dân Đảng với
GS Nguyễn Ngọc Huy). Trước năm 1946, Pháp không công nhận bằng bác sĩ
cho người Việt mà chỉ gọi họ là y sĩ.
Là con út tư trong một gia đình bẩy anh chị em: Nguyễn Tường
Thụy, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long
(Hoàng Đạo), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), và Nguyễn
Tường Bách.
Tác phẩm đã xuất bản:
Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn, truyện dài
Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua, hồi ký
40 Năm Sống Ở Trung Quốc, hồi ký
Gió Bấc lạnh lùng
Mùa đông đã đem lại cho ta cái cảnh gió bấc mưa phùn trong những ngày
âm-u thảm đạm. Những cánh bàng xơ xác, những chiếc lá rụng rắc đỏ trên
đường phố, với những buổi sáng sương mù xuống bao bọc cả thành phố Hà
Nội trên các nóc nhà đỏ và các rặng cây còn xanh tươi, gieo vào lòng
người một nỗi buồn thoáng qua nhưng sâu xa, thắm thía.
Nhưng mùa đông cũng đem lại cái thi vị và những cái thú vui riêng, mà
chỉ trong ngày lạnh lẽo, người ta mới hiểu rõ hết được. Những làn gió
thoáng trên các vườn, phảng phất đưa đến mùi hương thanh đạm của bao thứ
hoa vừa nở, của những hoa cẩm chướng hay vạn thọ nhiều sắc rực rỡ, và
nhất là của những hoa cúc mềm mại như lụa hay những cành đào vừa hé nụ
cười điểm màu tươi lộng lẫy trên nền trời u-ám. Mà cảnh đông lạnh lẽo
thật đáng nên thơ cho những người muốn tìm lấy cảm giác hay.
Một buổi sáng, trong bộ quần áo ấm, điếu thuốc lá ngậm trên môi, hai
tay đút túi, ta dạo quanh bờ hồ Tây để ngắm cảnh sương mù nhẹ lan trên
mặt nước bao la, che phủ cả những xóm xa xa thấp thoáng ở chân trời. Lúc
đó, những cơn gió lạnh vụt thổi xào xạc qua cành lá gợi bao cảm giác mơ
màng trong tâm hồn thơ của nhà thi sĩ nếu ta là thi sĩ.
Những thú vị của mùa đông lại càng rõ rệt hơn đối với hạng người
phong lưu, nhàn nhã, không phải lo âu về vật chất. Trong khi ngoài đường
gió bấc đưa những giọt mưa bay đập tí tách vào cửa kính, người ta thích
quây quần trong những gian phòng ấm áp bên cái lò sưởi than hồng vui
cháy, bên cạnh một bàn tổ tôm hay bên cạnh cái bàn đèn đầy mới là tuyệt
nhất. Những lúc ấy người ta mới cảm thấy rõ rệt cái hạnh phúc không
gì bằng của gia đình.
Mùa đông tới, người ta vẫn thản nhiên sung sướng vui chơi. Vài chiếc
lá bàng rụng đủ là một dịp cho trái gái Hà-thành phối phang quần áo rét.
Như thế cũng hay, vì ta được ngắm những cô tân thời yểu điệu trong bộ
quần áo mới kiểu Lemur bằng len mùi dịu với cái khăn san phất phơ theo
chiều gió cùng mấy sợi tóc vấn vương.
Năm nay, nhiều khi ta thấy được những ngày nắng ấm, khô ráo thỉnh
thoảng nhẹ bay qua một cơn gió hây hẩy mát. Đây là những tháng ngày
thích nhất trong cả năm, vì người ta thấy trong lòng hăng hái, hăng hái
làm việc hay ăn chơi. Nhất là ăn chơi.
Sau khi dạo chơi quanh các phố để ngắm các cô tiểu thư lộng lẫy trong
cảnh rực rỡ, huy hoàng, hay đi mấy bài trong các dancing tưng bừng đàn
hát, tiết trời êm ái, hơi lành lạnh như dục người quây quần bên cái bàn
đèn ấm cúng hay mua một “đêm- ái -tình” tuỳ ý. Mùa đông đối với hạng
thượng lưu thực là vui vẻ nhất, vì đã đem lại cho họ bao nhiêu thú vui
mua được. Nhưng hơn thế nữa, mùa đông là mùa của ái tình, vì theo câu
thơ của Bán than:
“Mùa đông gió bấc lạnh lùng
Gợi tình lắm cậu, dục tình lắm cô…”
Nên trong ba tháng mùa đông có biết bao nhiêu là đám cưới! Trong ba
tháng ấy, biết bao là hạnh phúc đã xây dựng lên. Những xác pháo đỏ nằm
rải rác trên thềm, những con lợn quay vàng với những chiếc ô tô hòm kết
hoa trắng, gợi cho ta mơ tưởng tới cái diễm phúc đầy thi vị của đôi vợ
chồng mới cưới giữa lúc gió đập vi vút vào cửa sổ và sương mù xuống bao
tỏa những khóm cây xanh. Nhưng nếu những bông cúc mềm mại và những dò
thủy tình xinh xắn phảng phất cái hương vị của ngày Tết tưng bừng hớn hở
để mừng cuộc ái ân đằm thắm, thì cũng nhắc cho ta rằng sắp tới mùa xuân
nặng nề ướt át.
*
Người phong lưu trông các mùa qua bằng con mắt thân- nhiên, không
những thế, họ coi như là một sự thay đổi cần phải có, vì đối với họ,
trời cứ nóng hay lạnh mãi, thì còn thú vị gì nữa? Vì họ chỉ biết cái
lạnh thoáng qua trên những toà nhà cao, tường dây cửa kín, chứ chưa từng
biết cái lạnh căm căm buốt đến tận xương trong những gian nhà tranh lụp
sụp, trống hở tứ tung và chốc chốc lại rung động theo luồng gió. Mà các
cô thiếu nữ xinh tươi nơi thành thị, xin lỗi các cô – có rõ đâu nỗi khổ
của những cô gái quê cao váy, mờ sáng đã phải đi tát nước hay cấy lúa,
dưới những cơn gió bấc thổi vù vù trên ruộng đầy nước.
Phải đứng trên cánh đồng bát ngát, nghe tiếng gió đập xào xạc vào
nhưng bụi cây khô, mới hiểu rõ nỗi buồn vô cùng của những ngày đông u
ám.
*
Ngay ở Hà Nội, sống trong cảnh đầy đủ, lộng lẫy, xa hoa, ta không bao
giờ để ý đến một số đông người co ro với mảnh áo rách, ngày, đêm lang
thang vất vưởng trong cảnh rực rỡ, nguy nga của thành phố để ngắm nhìn
cái sung sướng, vui vẻ của người khác. Những buổi tối lạnh lẽo, mưa bay,
ta thấy họ tránh nấp dưới mái hiên những toà nhà đồ sộ và thỉnh thoảng
ghé mắt nhìn vào trong gian phòng ấm cúng, đầy những hạnh phúc gia đình
mà họ không bao giờ được hưởng. Rồi khi đường phố đã vắng, họ đi tìm chỗ
ngủ với một manh chiếu trên các bực cửa, dưới gầm cầu hay trong cổng
những đền, chùa. Vào khoảng 9-10 giờ trở đi, ở nhiều phố – phố hàng Than
chẳng hạn – người ta thấy những bọn ăn mày, những đứa trẻ mồ côi, những
người nghèo khổ kiếm công ăn việc làm, mà vì nhiều lẽ không muốn vào Dạ
Lữ hay Tế Bần Viện – co quắp nằm thành những đống thịt lù lù dưới ánh
đèn điện lạnh lẽo.
Mùa đông đến đem lại cho họ những nỗi lo sợ, buồn rầu – không phải
nỗi lo sợ, buồn rầu nên thơ của nhà thi sĩ, mà là nỗi lo sợ thiết thực,
lo sợ những hạt mưa phùn ném lạnh qua làn áo mỏng và lo sợ những cơn
lạnh buốt đến tận xương.
Và đối với họ, mùa đông hẳn là không có thú vị.
Tường Bách
Bố lại về
Qua hết rồi những ngày giông bão lớn,
Bố lại về báo hiệu một mùa Xuân...
Nắng trên cao sưỡi ấm rét ngoài sân,
Và ấm cả hoa đào trong gió lạnh !
NM
Qua mùa gió lạnh
Trời
tối dần. Lạnh. Thấm rùng mình. Nước suối buôn buốt luồn qua kẽ tay. Còn
lưng sọt khoai sọ nữa. Phải cố thôi. Thấm chợt thở dài. Còn bao nhiêu
việc phải lo. Thóc sắp hết rồi. Củi thì chưa có. Áo rét của thằng Dùng
rách rồi. Lấy đâu tiền mà mua cho em cái áo mới mặc tết? Thấm ngẩng mặt
nhìn về phía mặt trời lặn. Ðỉnh núi cao quá. Bố đi về phía ấy. Ba tháng
rồi. Bố bảo đi tìm mẹ. Ba tháng không một chút tin tức. Việc nhà nhiều
như núi chất cả lên vai Thấm.
|
Thấm
đặt lại hai sọt khoai sọ cho ngay ngắn rồi luồn đòn gánh vào tai sọt.
Lúc cúi xuống định nhấc sọt lên thì thoáng thấy bóng người. Thấm vội
vàng đứng thẳng rút đòn gánh cầm ở tay. Một người đang đứng ở đầu dốc
nhìn Thấm.
- Mày sợ cái gì thế?
- Anh Lù à? Anh ra suối làm gì tối thế...
- Ra tắm!
- Trời rét thế này mà... Thôi! Tôi về trước đây!
Thấm xỏ đòn gánh, quẩy hai sọt khoai sọ lên vai. Từ suối lên đường
phải qua một đoạn dốc. Ðường dốc ướt trơn tuột. Thấm bấm đầu ngón chân
vào đất cho khỏi trượt ngã. Lù cũng lò dò đi xuống. Mùi rượu nồng nặc
phả ra. Chợt Lù trượt chân xô vào Thấm. Thấm mất đà ngã chúi về phía
trước. Gánh khoai sọ văng sang bên cạnh. Thấm ngã nhào lên người Lù. Sau
thoáng bối rối, Thấm vội vàng vùng dậy. Thế nhưng cô chưa kịp ngồi lên
thì bàn tay Lù đã kéo Thấm xuống.
- Anh Lù! Bỏ tôi ra! Anh làm cái gì thế!
- Chiều tao một tý đi. Tao cho mày một con dê...
- Buông ra! Cứu tôi với...
Thấm hét lên. Lù vùng lên vật Thấm lăn ra đất.
- Cứu tôi với!
“Bốp”. Một cái tát làm Thấm choáng váng. Bàn tay to bè dúi Thấm
xuống. Một tay hắn bóp cổ Thấm. Hơi thở không thoát ra được. Hai tay
Thấm cào cấu nhưng Lù không buông ra. Tức ngực quá. Ðầu óc Thấm choáng
váng. Có lẽ mình sắp chết.
Chợt một làn khí ùa vào ngực Thấm. Cô ho sặc sụa. Cô cố gắng rướn
lên. Mình phải thoát khỏi chỗ này. Thấm lết lên dốc. Tiếng đấm đá huỳnh
huỵch. Hai người đang đánh nhau. Ai đã cứu mình? Ánh sáng nhá nhem không
giúp Thấm nhận ra người ấy. Bằng một cái gạt chân, tên Lù đã hất người
ấy ngã ra đất. Hắn đè lên người kia, một tay bóp cổ và một tay đấm mạnh
vào đầu, vào mặt. Thấm rùng mình. Hắn bóp chết người kia mất. Mình không
thể chạy được. Phải cứu người ấy, phải cứu mình! Thấm đứng dậy nhặt cái
đòn gánh. Con quỷ! Tao không để mày làm điều ác được. Thấm vung đòn
gánh đập mạnh vào đầu, vào lưng Lù. Thấm như kẻ điên vụt túi bụi. Ðến
khi một bàn tay nắm lấy áo Thấm kéo ra, Thấm mới bừng tỉnh.
- Chị Thấm! Chạy thôi...
Thấm bỏ chạy. Khi Thấm kiệt sức thì cũng đến cổng nhà. Người kia vẫn chạy sau Thấm. Thấm loạng choạng. Một bàn tay đỡ lấy Thấm.
- Chị Thấm. Có sao không?
Thấm há miệng hớp không khí như con cá mắc cạn. Là Mành. Trước đây,
Mành học sau Thấm một lớp. Nhà Mành ở bản người Dao lưng chừng núi. Mành
dìu Thấm qua cổng. Thấm ngồi bệt xuống cầu thang nhà sàn.
- Lên nhà thôi!
Thấm vịn vào Mành chậm chạp bước lên nhà. Lâu lắm rồi mới nhìn lại
Mành. Mành cao nhanh quá. Thấm chỉ đứng đến vai Mành thôi. Thấm nói khẽ:
- Cảm ơn Mành nhé!
- Có gì đâu. Ai gặp cũng sẽ làm như tôi thôi!
Thấm ngồi xuống bên bếp. Thằng Dùng ngồi xuống cạnh chị, vẻ mặt đầy lo lắng.
- Chị Thấm! Chị làm sao thế?
Thấm ôm em vào lòng. Một sự chua xót dâng lên. Nước mắt lại tràn ra trên má.
- Chị Thấm bị người ta đánh đấy.
Mành thủng thẳng trả lời rồi đi lấy nước vào ấm bắc lên bếp đun.
- Dùng nấu cơm chưa?
- Em không biết nấu!
- Lớp 2 rồi mà dốt thế. Từ mai học nấu cơm nhé!
★
Ba người đang ăn cơm thì có tiếng ồn ào phía ngoài. Thấm tái mặt.
Mành buông đũa cầm con dao quắm bước ra cầu thang. Tiếng người, tiếng
bước chân qua cổng xa dần. Mành quay vào buông con dao bên bếp. Thấm
vuốt ngực. Cơn nghẹn chặn ngang họng. Mành trấn an Thấm.
- Chị đừng sợ. Có tôi ở đây rồi!
- Tối nay anh Mành ngủ ở đây nhé! – thằng Dùng nhanh miệng.
- Ừ!
- Không được! Mành phải về chứ!
Thấm vội vàng phản đối. Thấm không biết lòng mình sao nữa. Thấm rất
muốn Mành ở lại nhưng miệng Thấm thì lại nói khác. Thấm sợ...
- Ðường xa lắm. Tôi mệt rồi. Tối nay tôi ngủ cùng giường với thằng Dùng.
Mành thủng thẳng nói rồi vơ bát đũa bỏ vào chậu.
- Muộn rồi! Chị Thấm đi ngủ thôi.
★
- Con Thấm đâu rồi! Ðồ con chồn, con cáo...
Thấm bước ra. Một người đàn bà cao lớn sấn tới, chỉ tay vào mặt Thấm:
- Ðồ con hoang! Chúng mày chim chuột với nhau thì mặc xác! Sao lại đánh chồng tao ra nông nỗi ấy!
- Chị Cát! Chị nói cái gì vậy? Chồng chị muốn làm nhục tôi mà...
“Bốp”. Một cái tát giáng vào mặt Thấm. Thấm ôm mặt. Người đàn bà dí tay vào trán Thấm.
- Ðồ con hoang... Mày với thằng Mành ngủ với nhau ngoài suối. Chồng tao nhìn thấy lại xông vào đánh chồng tao.
- Không phải! Chị nói oan cho tôi!
- Oan gì! Ai chả biết mẹ mày chửa hoang! Cưới chưa được hai tháng thì đẻ. Mày cũng giống mẹ mày thôi!
Thấm choáng váng. Những lời nói của Cát mạnh hơn cái tát lúc nãy. Thấm gào lên:
- Chị nói láo!
Người đàn bà lại tát vào mặt Thấm. Cơn đau, sự nhục nhã, tức giận
bùng lên. Thấm lao vào túm tóc Cát giật mạnh. Cả hai đấm đá, cào cấu
nhau trên khoảng sân đầy nắng. Tiếng chửi bới, la hét vang một góc bản.
- Dừng lại!
Một giọng nói trầm và mạnh mẽ vang lên. Hai người phụ nữ khựng lại. Mành nhanh nhẹn tách hai người ra. Cát gào lên:
- Thằng chó! Mày đánh chồng tao gần chết! Giờ định giết luôn tao à! Mày có giỏi thì giết đi!
- Anh Lù định làm nhục chị Thấm mà chị...
- Lũ độc ác! Chúng mày ngủ với nhau. Ðịnh đánh chết người để không ai
biết. May là chồng tao không chết. Chồng tao kể với cả bản rồi!
Mành hơi sững người nhưng rồi rất nhanh chóng, Mành nhếch mép cười. Cậu rút ra một tờ giấy:
- Sự thật rồi sẽ rõ thôi. Tôi viết đơn kiện rồi. Giờ tôi với Thấm lên xã.
- Mày kiện cái gì?
- Nghe thì nghe hai tai, chị Cát ạ. Chồng chị định làm nhục Thấm.
Không được lại định đổ tội lên đầu chúng tôi. Chúng tôi không sợ đâu.
Chúng tôi trẻ người nhưng không ngu. Chúng tôi không sợ kẻ xấu, kẻ ác
đâu...
Mành cầm tay Thấm kéo đi. Chỉ còn Cát đứng ngơ ngẩn giữa sân nhà Thấm.
★
Thấm ngồi bên bếp lửa. Phía sau nhà, gió ù ù trên rừng vầu. Ðêm nay,
gió mùa đông bắc về. Câu hỏi bao đêm lại trở về khứa vào lòng Thấm. Tại
sao mẹ bỏ đi? Tại sao bố cũng bỏ đi? Câu nói của chị Cát hôm trước xoáy
vào lòng Thấm. Ðồ con hoang! Ðã đôi lần Thấm nghe người bản xì xào
chuyện Thấm không giống bố. Thấm chẳng quan tâm. Bố thương cả Thấm và
Dùng. Nhưng lời của chị Cát như cái hạt độc. Nó nảy mầm ngọ nguậy trong
lòng Thấm. Nếu đó là sự thật thì chẳng còn gì giữ Thấm lại căn nhà này.
- Thấm ơi!
Có tiếng gọi thật khẽ. Thấm nghiêng tai. Gần nửa đêm rồi. Ai lại đến giờ này.
- Thấm ơi!
Tiếng gọi rõ hơn. Là chị Cát. Chị ta lại muốn sinh sự gì đây? Thấm ra mở cửa. Chị Cát đang run cầm cập. Khuôn mặt tái nhợt.
- Chị vào nhà đi!
Thấm thêm củi vào bếp. Chị Cát xoa tay trước lửa nhưng vẫn chưa hết run, răng vẫn va lập cập.
- Tôi xin Thấm! Thấm tha cho chồng tôi đi!
- Hắn ta như vậy mà chị còn xin tha cho hắn sao? Chị không thấy nhục à?
Chị ta cúi mặt. Ðôi dòng nước mắt lặng lẽ chảy. Lâu lắm, Cát mới ngẩng lên.
- Nhục chứ! Nhưng tôi biết làm sao hả Thấm? Anh ấy là chồng tôi! Là
bố của các con tôi... Chỉ thỉnh thoảng say rượu anh ấy mới điên loạn như
thế. Anh ấy ân hận rồi. Anh ấy xấu hổ lắm. Chiều nay đi cắt cỏ về, tôi
thấy anh ấy đang treo cổ. May mà tôi về kịp... Tôi ngồi nghĩ mãi. Nếu
anh ấy chết, tôi phải làm sao? Các con tôi phải làm sao? Sang gặp Thấm
thế này, tôi cũng xấu hổ và nhục nhã lắm. Nhưng tôi không còn biết làm
thế nào khác?
- Thế còn tôi? Chị có nghĩ đến tôi không? Hôm đó anh ta định làm nhục tôi, định giết tôi. Nếu không có Mành, tôi chết rồi.
Cát từ từ quỳ xuống. Ðôi mắt buồn thăm thẳm nhìn Thấm. Thấm giật mình. Sao giống đôi mắt mẹ đến thế! Thấm lùi lại.
- Tôi cũng khổ như Thấm, như mẹ Thấm thôi. Xin Thấm cho gia đình tôi một con đường sống. Xin Thấm rút đơn đi.
- Chị về đi!
Thấm cầm tay Cát kéo dậy đẩy về phía cửa. Cát chậm chạp bước ra ngoài. Thấm ngập ngừng:
- Tôi hỏi một câu!
Cát dừng lại nhìn Thấm, đôi mắt ánh lên vẻ hy vọng. Thấm hít một hơi, lấy hết can đảm nhìn thẳng vào Cát:
- Tôi là con hoang thật à?
Ðôi mắt Cát bối rối. Chị ta gật đầu rồi quay người bước xuống thang.
Bước chân như chạy. Thấm ngồi xuống bên bếp. Là sự thật. Ðau quá! Lồng
ngực Thấm như vỡ ra. Nhưng lạ quá. Nước mắt không chảy ra được. Thấm dựa
vào cột nhà thở dốc. Mình là con hoang. Là đứa con bị bỏ rơi. Mọi người
đều bỏ mình mà đi...
Có tiếng bước chân lên nhà. Những bước chân nặng nề và ngắt quãng trên cầu thang. Thấm giật mình, vơ vội lấy con dao quắm.
- Thấm ơi!
Thấm rùng mình. Giọng nói ấm áp và quen thuộc Thấm nghe gần hai mươi năm. Giọng nói mà Thấm đợi chờ ba tháng nay.
- Thấm ơi! Mở cửa cho bố!
Giọng nói như một luồng hơi ấm phá tan mọi giá rét đêm đông. Thấm ào ra cửa.
- Bố!
Thấm nhào vào lòng bố. Nước mắt lúc này mới bật ra. Thấm ôm bố khóc
nức nở. Bố đứng yên để Thấm tựa vào. Bờ vai bố vẫn vậy. Vững chãi và ấm
áp. Ðợi Thấm nguôi cơn xúc động, bố mới bước vào nhà. Lúc này, Thấm mới
nhận ra chiếc áo bố ướt sũng. Khuôn mặt gầy gò và hốc hác. Chân bố bước
tập tễnh. Thấm vội thêm củi vào bếp và lấy áo cho bố thay. Bố ngồi duỗi
chân bên bếp.
- Bố! Chân của bố...
- Bố bị tai nạn. Bố xin lỗi! Bố không về sớm hơn được!
Bố vuốt tóc Thấm. Thấm ngả đầu vào vai bố.
- Bố biết cả rồi! Khổ thân con gái. Bố về rồi. Bố không để các con khổ sở, vất vả nữa đâu.
- Con không sao đâu! Con chỉ cần bố về. Vất vả thế nào con cũng chịu được!
- Con gái bố giỏi lắm!
- Con muốn hỏi bố...
Thấm ngồi thẳng dậy. Cô muốn xác nhận một lần cho rõ. Sự mập mờ làm Thấm không chịu nổi.
- Chị Cát bảo con là...
- Là con của bố! Bố là người đầu tiên bế con. Ðỏ hỏn và bé xíu. Con mãi là đứa trẻ trong lòng bố...
Thấm vòng tay ôm cổ bố từ phía sau. Sự ấm áp lan trong da thịt, trong từng suy nghĩ. Bố vỗ nhè nhẹ vào tay Thấm.
- Gần sáng rồi. Con ngủ đi. Bố cũng nghỉ một chút. Ngày mai mình dậy dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa.
Thấm nằm yên trong chăn. Niềm vui làm Thấm khó ngủ. Mưa phùn rắc nhẹ
trên mái. Hết gió rồi... Ngày mai, ngày kia trời sẽ nắng lên thôi. Mành
vẫn bảo, qua mùa đông sẽ là mùa xuân ấm áp. Mành hứa tặng Thấm một cây
hoa đào thật lớn lấy từ trên núi. Thấm nhoẻn cười trong chăn ấm. Thấm
tin Mành.
Gió
Gió lao xao trên đọt bần trước ngõ,
Gió tràn về trên mặt sóng phù sa...
Gió vi vu qua trước mái hiên nhà,
Gió vàng óng sắc hoàng hôn lạnh lẽo !
NM
Chỉ là gió trên cánh đồng
GN - Anh bạn tôi vừa hoàn
thành xong những bức tranh sau chuyến phượt. Gã alô tôi đến rửa cọ
chúc mừng. Những bức tranh này được hắn gọi là những bí ẩn bất tận. Tôi
lại gần và cảm nhận được những thanh âm phát ra qua những vệt màu,
những vệt sơn dầu đang chảy, tôi đưa tay sờ lên một tấm, lớp sơn dầu còn
nham nhám chưa khô hẳn
Tôi cảm giác được trên những vân tay còn dính lại lớp dầu
bóng pha loãng màu mà mắt tôi không nhìn thấy rõ được. Đẹp quá. Chúng thật đẹp.
Những bức tranh được gã vẽ lại vào ngày thứ sáu của chuyến đi. Vì sao
đến ngày thứ sáu gã mới vẽ lại thì tôi không hiểu được. Gã không
trả lời cho thắc mắc của tôi. Những ngôi nhà gỗ tạp không có cánh cửa
chìm sâu giữa thung lũng, có một vài người phụ nữ, họ đang mặc những chiếc
váy thổ cẩm sọc đỏ vàng và cõng những gùi nước lớn. Có vài chú chó có đôi
mắt hiền từ đang nằm trước sân vườn. Một quả cầu bằng nhựa bị khuyết một
miếng như trái táo bị cắn. Cảm giác thật ngọt. Có điều gì đó cô độc và nhiều
nỗi đau bị nhốt lại nơi này. Có rất nhiều loại nhạc cụ được đóng đinh dọc bức
tường.
Ở một góc nào đó tôi nghe thấy chúng đang bật lên những điều du dương và
thảng thốt. Sự pha trộn. Đủ thứ. Mọi điều vẫn chưa đóng khung. Những mép vải bố
uốn cong lên như muốn níu giữ điều bí ẩn. Màu cổ đồng ánh bạc thỉnh thoảng
có chút phớt màu mun đen như đám tro rừng vừa cháy hết. Những gương mặt
cũng như thế, những khuôn miệng hay cười ngờ nghệch, thon thon dẹt dẹt như
họ đặt cái kèn lá thổi dưới bờ môi trề ra phớt thoáng niềm vui từ
khoang bụng. Gã họa sĩ này thật tài tình, gã đã gói lại tất cả
thứ âm thanh bí ẩn của đại ngàn vào trong những vệt màu quái đản,
những thứ màu đỏ bầm bầm của máu ứ, màu xanh đen úa của những vết
thương ồn ã của nội thành pha trộn với thứ cảm xúc ban sơ của núi
rừng.
Tháng trước, chúng tôi
đã đến nơi ấy theo con đường độc đạo dài hun hút. Nơi này là một
thế giới khác hẳn nhịp sống hiện đại, sự khác biệt từ phía rừng
cây yên lặng với những ồn ào náo nhiệt của thế giới công nghệ bên
kia. Chúng tôi đọc thấy những dòng chữ khai sinh của núi rừng mà chưa
một bàn tay con người nào đóng dấu vào đấy công chứng. Cuộc sống nơi
xóm nhỏ này đã mấy mươi năm không có sự hiện diện của điện, sóng điện thoại
và nước máy, không biết bao nhiêu năm ở nơi này đã kéo những con người khốn
khó cứ xa dần khỏi tầm với của lối sống văn minh. Nơi đây chỉ có mấy chục
gia đình nhỏ, tất cả họ hầu như quên mất tiếng nói.
Người ta kể lại rằng,
xưa có một gia đình rất nhỏ đã bắt đầu đến sinh sống ở thung lũng
này. Một người đàn ông biết nói và một người vợ câm. Họ đã sinh ra
những đứa con bị câm. Việc những đứa con bị câm này người ta không
thể lý giải từ thói quen giao tiếp hay từ dị tật của vòm họng. Mỗi
ngày trong buổi chiều muộn, họ thường quây quần với nhau. Một người đàn
ông ngồi ở giữa, không nghe thấy tiếng nói gì, chỉ thấy từng động
tác bằng tay, bằng miệng, đôi khi cả chân tay ông ta nhún nhảy theo, đôi
mắt lầm lừ và gương mặt có màu của rễ cây rừng.
“Sao ở đây lại toàn là
gió nhỉ” - hắn nói vu vơ, mắt chăm chú nhìn những bức tranh - “chúng
đang vi vu, không phải là gió rát mặt như ở quê mình”.
*
- “Alô”
- “Tao đây, mày qua tao
đi”.
Cả buổi sáng nay tôi
mới ngồi với hắn, chẳng còn chuyện gì để trò chuyện, hắn cứ ngồi
nghệch mặt ra đường mà ngó từng dòng xe lao vùn vụt.
Hắn đang ngồi trước giá
vẽ, bên cạnh chai rượu rum đã vơi hơn nửa, những bức tranh ngổn ngang
giữa phòng. Gã xoay người lấy bút quẹt quẹt vào bức vẽ nháp, gã
bảo: ừ, những dòng suy nghĩ hôm nay ta sẽ xé nháp đi nhé, sẽ không
bao giờ biết được, không bao giờ biết được trừ khi... Hắn ngập ngừng,
gã quàng tay lấy ly rượu hớp thêm một ngụm, nó có vị chát ngắt.
Hắn sợ những bức tranh kia sẽ luôn mách lại: Hắn là một thằng nhút
nhát! Hắn đã từng giấu nước mắt của mình chảy ngược qua hai gò má,
chảy xuống bụng rồi phun ra dưới đũng quần, hai bàn tay hắn đã rất
nhiều lần tê cứng lại khi chạm vào cánh cửa gió của đại ngàn.
Tối nay hắn không thể
gượng dậy nổi, người hắn mềm nhũn ra như sợi bún nhão. “Mày biết
không, ở nơi đấy có những con người thật thà mộc mạc đến tận cùng của sự khốn
khó, họ như những cái ruột mướp khô, người ta xé nhỏ vứt bừa bãi
vào những cái sọt tre, như những người đàn bà ở đấy, người ta xé
cả sự im lặng của gió”, hắn nói với tôi và đôi mắt không nhìn trực
diện, “ở nơi đó có thể hóa lỏng tất cả những lòng dạ rắn như kim loại,
hóa lỏng những ký ức của tao về cánh đồng đầy gió, hóa lỏng những
năm tháng tuổi thơ rát bỏng, chúng sẽ trôi đi tất cả, như gió, mày
hiểu không?”.
Tôi hiểu, gió từ thung
lũng ấy đã nằm trọn những bức tranh hắn vừa vẽ, tất cả là một sự
im lặng, vi vu.
Mắt hắn xa xăm, đó là
những ngọn gió từ cánh đồng đã chảy dài ra mặt phá Tam Giang, bốn
mùa rát rạt. Những mái đình hoang lạnh. Cây cầu đá bắc qua dòng kênh
nhỏ. Tiếng chim đang gù trong một lùm cây nào đó. Những đống rơm
vàng, hai hàng mù u... tất cả là những mảnh ghép lều tều rời rạc.
Mỗi chiều, chúng im lìm trong làn khói đục.
- “Mày thấy gì không?”
- “Không”
- “Gió đấy”
- “Chúng ở đâu?”
- “Trong đôi tai của tao”
- “Chỉ có gió thôi à”
- “Ừ, phải, chỉ có gió,
gió từ bên trong khoang bụng, năm ấy có nhiều đứa trẻ đi chân đất leo
lên những cánh cửa của những chiếc xe tải rách nát qua Lào kiếm cái
ăn đó, tao nghe tiếng bước chân của chúng, rất đông”
- “Tết này mày có về
thăm quê không?”
- “Chưa, sẽ chẳng còn
những con đường đất không có hàng rào nào chắn cho thằng bé năm xưa
chạy”, tiếng hắn cười nhỏ.
Hắn đã nói với tôi
rằng “mình đã gởi những giấc mơ lên những ngọn xương rồng”, nơi ấy
có một ngọn tháp ba tầng trên đỉnh núi rất bí ẩn, chẳng có thang
leo, có thể nó đã bị gãy bởi bom đạn, hoặc là bởi gió. Những cái
gai đang đâm vào cát, rất sâu, những giọt máu của cát đã phủ tràn
nơi gã nằm
Ngoài kia, khu phố nhỏ vẫn đang quay vòng. Những ngọn nến
đã được treo ngược ở hai bên đường dưới màn mưa trắng xóa. Hắn vẫn
mơ về một cánh đồng đầy gió, những cái roi gió đang quất vào da
thịt hắn, nỗi đau ấy thật là êm ái. Hắn vẫn đang nằm và mắt lim dim
thưởng thức cơn say, như cát. Những ngày ấy trong nỗi nhớ của hắn
chỉ còn là những khái niệm thật mơ hồ như những bài toán đi tìm
nghiệm âm. Góc quê ấy vẫn còn khoanh lại từng vòng tuổi ấu thơ của
hắn. Những nét mặt hồ hởi của những đứa trẻ khi đến vụ mùa. Nụ
cười của chúng có màu vàng óng
Hắn đã học thuộc lòng ca dao để
ngắm gương mặt của mẹ với những giọt mồ hôi trong như hạt pha lê. Hắn
đã từng can đảm tẩy xóa những con số trong học bạ để được vào học
ở một trường thành phố. Rồi hắn đã lớn lên, bôn ba như gió. Hiện
tại hắn đang vẽ, và tẩy xóa, hắn vẫn đang thiết kế những giấc mơ
của mình. Giấc mơ ấy chỉ là gió trên cánh đồng. Cánh đồng có một
màu vàng óng của hoàng hôn. Những hạt vàng óng ấy đã đọng trong đôi
mắt của hắn mãi mãi. Ừ thì, dù sao nơi ấy vẫn còn lại gió đó thôi,
phải không?
Nguyễn Hoàng
Anh Thư
|