Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

NTV 14 - Bạc Liêu

 
Đời là giấc mộng phù du,
Cõi đời như buổi chiều thu lá vàng....
Vừa sum họp đã ly tan,
Trong ta bao nỗi bàng hoàng xót xa !!
       
NM

Bạc liêu ơi, lặng lẽ !.... 
Bạc liêu ơi ....
Tôi muốn trở về đây....lặng lẽ ,  
Như một thời lặng lẽ sống nơi đây !  
Bạc liêu ơi, 
Tôi ước ao thời gian quay trở lại.... 
Sống lặng buồn nhưng đầy ắp tình thương ! 
Làm sao quên nắng bụi với mưa buồn...? 
Nơi xứ Bạc ...
Những sáng, những chiều ,
Tôi đến trường trong...lặng lẽ..!!
 


Bạc liêu ơi,
Trái tim tôi luôn nhắc khẻ,
Thương câu vọng cổ buồn ,
Nhớ bài giảng ca dao...
 

Những khuôn mặt thân thương,
Của học trò cũ năm nào.....
Theo tôi mãi, trãi dài bao năm tháng !!
 


Bạc liêu ơi,
Tôi ước có một ngày như thuở ấy,
Được âm thầm sống với ngoại như xưa....
Trong ánh hoàng hôn,
Tôi tựa cửa ngóng chờ....
Lặng lẽ đến, người mang theo tình ấm áp !!
 


Bạc liêu ơi,
Vẫn biết thôi không còn gặp lại ,
Sao thương nhớ hoài....
Những bóng dáng của ngày xưa !!
Bạc liêu ơi ,
Đong biết mấy cho vừa ?
Trong lặng lẽ nước mắt tôi rơi....lặng lẽ... !!!

      NM          
     

Về Bạc Liêu - Thanh Ngân

Công Tử Bạc Liêu Chung Tử Long

 sông Gành Hào | Tin tức hình ảnh mới nhất

Sông Gành Hào
   Hồi đó ông kiểm lâm “Rốp” được dân chúng thương mến lắm.
    Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi “rỏn” có bốn lần. Mổi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi... đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắng khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.
    Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này:
    - Ông “Rốp” hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao “Cọt” cù lao “Kiệt” gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khố, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới toà. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.
    Người khác nói thêm:
    - Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện “An Nam” rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đ1o thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá.
    Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:
    - Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết. Nghe anh “bồi” nói lại trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho... Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.
    Rốt cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.
    Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm.
    Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.
    Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:
    - Ghé lại! “Chéc” ghe hay là con “xấu”?
    Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải. Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:
    - Con “xáu” hay là “chéc” ghe. Ông lớn bắn đà!
    Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng:
    - Chiếc ghe, quan lớn ơi... Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.
    Ông Rốp càng trầm tĩnh:
    - “Chéc” ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử...
    Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận “phú de” sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn đã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.
    Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây với là lần phạm tội đầu tiên thôi. Chú Từ bèn làm núng:
    - Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.
    - Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?
    - Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.
    Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:
    - Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.
    Chú Tư Ðức cố nén cơn giận:
    - Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!
    Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đâu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên “ky ninh” của ông Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đồi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu... báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.
    Ðứa con trai khóc sụt sùi:
    - Mình phải về, ba à!
    Chú Tư chép miệng:
    - Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.
    Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.
    Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.
    Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:
    - Biết hình gì đây không? Quí lắm đó.
    Chú Tư Ðức đáp:
    - Dạ, chưa biết vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.
    - Chú theo tín ngưỡng nào?
    Chú Tư suy nghĩ hồi lâu:
    - Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.
    - Nhiều thứ quá vậy. Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?
    - Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người “an Nam” mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.
    Ông Rốp cười đắc chí:
    - Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm. Theo đạo Phật mà sao không biết hình này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này...
    Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:
    - Chữ Phạn gọi nó là “Mi lanh đa băng ha”. Chữ nho dịch lại... là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.
    Mấy tiếng “Băng ha, xơ na” khiến chú Tư Ðức rối trí quá. Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tứ là nước Thiên Trúc.
    - Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?
    - Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.
    - Tại sao vậy, quan lớn?
    - Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hàng dạy lại tôi.
    Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm “quốc sự”!
    Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.
    Ðưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng có là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu. Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:
    - Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ “ga xơ na, ma lanh đa” gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.
    Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết. Chú Tư Ðức nghĩ:
    - Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?
    Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ. Hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn “bin”. Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chu Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.
    Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bão rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.
    Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên quá bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: “Chéc” ghe hay là con “xáu”! Chú vào đồn kiểm lậm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.
    Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.
    Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm:
    - Ngay cô hồn các đẳng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt... Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần.
- o O o -
    Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:
    - Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?
    Chú Tư nói:
    - Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.
    Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:
    - Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.
    Ông Rốp hoảng hốt:
    - Dữ quá vậy! Con “xáu” là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con “xáu” ăn thịt nên tôn thờ nó.
    Thầy hương quản nóng ruột quá:
    - Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.
    Ông Rốp cảm thấy áy náy:
    - Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.
    Thầy hương quản nói:
    - Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng. Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kì.
    - Sấu chạy lên bờ à?
    - Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.
    - Làm sao bây giờ, thầy hương quản?
    - Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.
    Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:
    - Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.
    Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lũng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa làm sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe. Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp:
    - Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây “cà líp xây”, nó yếu lắm.
    - Chiều nay, tôi sẽ tính.
    Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi “rỏn” bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.
    Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọg rằng “muôi quân ba tháng, dụng quân một ngày”.
    Chú Tư Ðức nói với ông:
    - Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Có hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!
    - Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.
    Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.
    Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp:
    - Bây giờ mình làm thế nào?
    Tư Ðức hỏi ngược lại:
    - Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!
    - Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không?
    Chú Tư Ðức mỉm cười:
    - Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình. Chứng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì...
    Chú Tư cố tình không nói dứt. Ông Rốp nhướng mắt:
    - Thì sao?
    - Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưởi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà!
    Ông Rốp hoảng hồn, chú Tư Ðức nói tiếp:
    - Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre là bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân “An Nam” xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấy nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.
    - Cách nào?
    - Tôi móc con vịt cô lưỡi câu rồi tôi đúng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.
    Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.
    Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.
    Hai hôm sau, chú nói:
    - Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. tới giờ rồi.
    Ông Rốp hỏi:
    - Lễ gì?
    - Dạ, lễ cúng cô hồn.
    Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đen tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.
    - Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.
    Ông Rốp nói:
    - Thôi... tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.
    Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, “bủa xua” hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai:
    - Thúng cơm khô con có đem theo không?
    Nó đáp:
    - Dạ có.
    - Nhiều hay ít vậy con?
    - Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.
    Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.
    Ngày qua, ngày lại.
    Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.
    Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.
    Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.
    Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.
    Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.
    Thầy hương quản đã đến:
    - Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?
    Rồi thầy quát to:
    - Hương ấp đâu? Hương tuần đầu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên... Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!
    Nắng lên cao.
    Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.
    Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.
    Chiếc bè từ từ nổi lên.
    Dân chúng hai bên bờ la lớn:
    - Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau.
    - Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.
    - Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá. Thiệt cha nào con nấy!
    Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:
    - để tôi bắn con sấu!
    Thầy hương quản vô cùng e ngại:
    - Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao?
    Một người phía sau nói với tới:
    - Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.
    Thầy hương quản day lại:
    - Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.
    Hằng chục người, một tiếng thét to:
    - Giết chết nó đi!
    Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.
    Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.
    Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay. Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:
    - Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.
    Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất!
    Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rối không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.
    Sấu ta lại chìm.
    Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên:
    - Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!
    Thầy hương quản la lớn:
    - Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng co hoài, quên hết phận sự. Tệ quá!
    Một mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.
    Hai cây lao phóng xuống.
    Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.
    Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.
    Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏio, nằm lé đé.
    Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Nắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.
    Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.
    Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:
    - Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!
    Hằng chục chiếc xuồng va 2ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.
    Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tiu tít:
    - Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà cón mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn.
    Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:
    - Ðể tôi ở lại coi nó.
    Ông Rốp nói:
    - Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe. Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.
    Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.
    - Rượu “cổ nhác” bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao “Cọt” gởi riêng qua cho tôi.
    Chú Tư hớp một miếng:
    - Ðược rồi, quan lớn.
    Ông kiểm lâm nói:
    - Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.
    Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:
    - Hết sức giỏi! Người “An Nam” hết sức giỏi. Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học nghề với ai vậy?
    Chú Tư nói:
    - Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.
    Ông Rốp gật đầu:
    - Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.
    Chú Tư suy nghĩ:
    - Không được đâu!
    - Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.
    - Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.
    - Tội gì vậy, chú Tư?
    - Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.
    Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:
    - Dân “An Nam” giỏi quá, hiền từ quá. Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức “bếp”, ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.
    Chú Tư Ðức cười:
    - Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: “Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...
    - Chi vậy?
    - Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.
    - Nghề gì?
    - Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.
    Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.
    Ông chắp tay lại mà nói:
    - Tôi khen chú nhiều lắm.
    Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:
    - Ông xá tôi, tôi ngại quá. Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm “bông đồ”. Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích “xơ lanh đa” gì đó...
    Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.
    Ông Rốp buột miệng:
    - Chú Tư Ðức là thầy tư Na Ga Sơ Na.
    Chú Tư nói:
    - Trời ơi! Không dám, tồi chết! tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ “phú de” hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.
    Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm “bếp” kiểm lâm.
    Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.
    Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:
    - Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm. Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỏng mặt đất lận kia! 
Sơn Nam


Hoài niệm
 Trời tháng Mười se lạnh, cái lạnh đặc thù của miền Tây, cái lạnh khởi nguồn từ đồng ruộng. Nhìn những con mương, con rạch khô cạn nước, lồi lõm bùn sình với những con còng đỏ huơ huơ đôi càng nhỏ xíu tôi chợt nhớ da diết về một thời. Không biết rồi sau này mười hay hai mươi năm nữa ký ức tuổi thơ có còn in đậm trong tôi như bây giờ không? Cuộc sống quá xô bồ, quá bon chen, thực sự có những lúc với ly cà phê với buổi sinh nhật, picnic hào nhoáng tôi đã vô tình lãng quên. Nhưng, tôi thiết nghĩ có lẽ - vâng có lẽ - tôi khó mà quên...
    Ngày xưa, nói thì nghe diệu vợi quá nhưng cũng đã khá lâu: 8 năm hay 10 năm? 10 năm! Ngày đó tôi rất mê bắt những con còng màu đỏ này dù nó kẹp rất đau và nó rất hôi. Mặc dù cho mẹ la rầy, thậm chí đánh đòn tôi vẫn tìm cách trốn khỏi nhà theo con Mèo hàng xóm. Quê tôi không có nhiều ruộng lúa. Nhiều nhất là những hàng dừa cao vút mát rượi và những bờ mía thẳng tắp xanh rì thêm vào đó không biết cơ man nào là sông, sông to, sông nhỏ, kênh, rạch chằng chịt. Nếu có một ngày đi về miền Tây bạn sẽ thấy ở những con mương nhỏ có rất nhiều những lỗ tròn to bằng ngón chân cái - đấy là tổ ấm của loài còng.
    Lũ nhóc chúng tôi có khi xắn quần lội xuống tìm bắt chúng một cách say mê và trước sau gì cũng có đứa mồm mếu máo: “Ðau quá! Còng kẹp tao rồi!”. Thế đấy, nếu người ta là người lớn, nếu người ta là người thành thị nhìn những đứa trẻ đầu trần chân đất dấy bùn trong cái nắng chang chang của những trưa hè, trong cái mưa tầm tã dai dẳng của miền quê người ta sẽ thốt lên: “Dơ quá!”. Vâng, “dơ quá!” nhưng ở những nơi mà trẻ con chỉ biết tụm năm tụm bảy hốt đất cất nhà chòi, bắn bi, ở những nơi mà cha mẹ suốt một đời không xa mảnh đất vườn cây mía, cây dừa thì liệu chúng biết làm gì hơn? Ở cái tuổi muốn tiếp xúc với thế giới, khám phá ra cuộc sống đời như thế nào, tuổi vô tư như một trang vở không tì vết, muốn hoạt động, muốn cười vui chúng phải làm gì nếu không rủ nhau hò hét trên con mương thửa ruộng? Nếu trẻ con thành phố được mẹ cha dắt đi Thảo cầm viên, nhà hát vào thứ bảy, chủ nhật thì chúng tôi ngày xưa chỉ biết gom lại đi dầm ngoài mưa, ngoài nắng. Lũ con gái lấy gáo dừa, hoa dừa giả bộ nấu cơm. Lũ con trai nhặt những trái dừa khô bị hư, những trái bưởi non rụng mà thỏa chí làm cầu thủ. Nếu trẻ con thành phố được ăn những món ngon trong nhà hàng, khách sạn thì chúng tôi có đứa phải tìm con tép, con cá cho bữa ăn gia đình từ lúc lên 7 hay lên 8.
    Trong đau khổ người ta xích lại gần nhau hơn! Hình như hơn một lần tôi đã nghe ở đâu đó điều này. Quả là con người! Thật vậy bây giờ đôi lúc tôi thấy có những đứa bé cứ ôm lấy đồ chơi của mình không thèm chia sớt cho ai, hỏi chúng chúng bảo “Hư hết”. Nghe những lời ấy thốt ra từ những đôi môi mọng đỏ còn thơm tho mùi sữa tôi giật nẩy mình. Tôi nhớ lại ngày xưa tôi, con Mèo, con Vân, thằng Tí Chuột, con Muỗi chơi với nhau rất “hết mình”. Không có khái niệm cái này của tao hay cái kia của mày. Một củ khoai lang luộc cũng cố để dành trưa mỗi đứa một miếng, một trái ổi chua chia nhau trên bãi cỏ phía sau nhà. Thằng Tí Chuột và tôi là chúa đánh nhau, có lúc đến u đầu chảy máu, mẹ nó kêu vào đánh đòn làm cả đám con gái cũng sụt sùi khóc theo... Hoàn cảnh sống đổi thay thì tình cảm con người liệu có thay đổi?
    Mười năm rồi... Mười năm trước tôi chỉ là một thằng nhóc quần cộc, cởi trần chạy rong khắp xóm. Mười năm sau tôi đã là một thanh niên, một người trưởng thành. Không biết tôi có đổi thay gì không nữa...
    “Anh thành phố ơi coi chừng té xuống sình”. Tôi điếng người. Tiếng gọi giật của thằng bé câu cá làm tôi tỉnh hẳn. “Té xuống sình?” Ờ, phải thận trọng!
    Mùi hăng hắc của bùn bốc lên xông vào tận mũi, ước gì bầy giờ tôi được gặp tụi nó nhỉ? Thằng Tí Chuột, con Vân, con Mèo, con Muỗi... Mười năm thời gian chưa đủ để quên nhau đâu tụi bay hả?

Dân miền Tây ai cũng biết con ba khía. Sở dĩ có tên như vậy vì nó giông giống cua đồng nhưng trên mai có ba cái gạch (khía).
Trong những đặc sản nổi tiếng ở vùng rừng ngập mặn nhất là vùng Cà Mau, phải kể đến con ba khía. Ba khía trông gần giống cua đồng với hai càng đỏ nâu, phần dưới của tám cái ngoe lấm tấm lông tơ mịn, mai màu nâu sẫm có ba vạch. Có lẽ vì vậy nên thành tên "ba khía" chăng?. Ba khía thường quần tụ nơi gốc cây mắm, đước để ăn trái mắm rụng. Người miền Tây có kinh nghiệm cho rằng ba khía gạch son, thịt chắc là do ăn trái mắm đen, còn ăn trái mắm trắng thì gạch màu tro không ngon bằng. Ba khía là loài sống trong bãi bồi nước lợ, mặn, dưới những tán đước, mắm rậm rạp; có mặt nhiều ở các vùng Cần Giờ, Gò Công, nhưng nhiều người thích ba khía Rạch Gốc và Tân An (Cà Mau) vì cho rằng thịt ngon thơm hơn các nơi khác. Muốn ăn ba khía không gì khó, chỉ việc tách mai, lặt bỏ phổi, rửa nước nóng rồi tách từng ngoe ra trộn với tỏi, ớt, giấm (hoặc chanh), đường
Nhớ lúc thuở nhỏ chúng tôi thường về miền quê ngoại ở Nhu Gia và có dịp cùng các anh em họ và các cậu đi bắt ba khía ở đồng ruộng non vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch. Trang bị quần áo dày, khăn che mặt, bao tay, giỏ tre, đuốc... coi như đủ lệ bộ. Thường đi vài người để đỡ đần nhau, người này xua muỗi, soi đuốc cho người kia bắt. Phải nhanh tay lẹ chân, bằng không chúng sẽ tọt mất xuống hang.
Nói chung việc bắt ba khía rất vất vả, vì người ta phải lội ruộng hay vào rừng ngập nước ban đêm, thường là người nghèo làm vì sinh kế. Họ chuẩn bị gạo, nước, khạp... xuống xuồng chèo chống, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống. Vùng rừng ngập mặn Rạch Gốc - Cà Mau có lẽ là quê hương của ba khía. Tập tính của chúng là đào hang ở những vạt rừng khô ráo rồi kéo đàn kiếm ăn. Hàng năm đến mùa, thường vào tháng mùa mưa, trời không trăng, người người từ các tỉnh lận cận đổ về tham gia bắt ba khía rất đông.
Theo mẹ tôi kể lại, thì ngày trước ở vành đai rừng mặn Rạch Gốc là nơi trú ngụ, sinh sôi của ba khía. Ban đêm ở rừng "muỗi kêu như sáo thổi" mà gặp lúc trời mưa rỉ rả thì càng cực gấp bội. Gặp đêm ba khía rộ thì cắm cán đuốc xuống bùn để bắt cho nhiều. Một hiện tượng lạ là vào trung tuần tháng 10 âm lịch hàng năm, không biết từ đâu ba khía tập trung với số lượng vô số kể rất đông, giống trường hợp dòng họ nhà còng lột vỏ đồng loạt vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch. Chúng lúc nhúc từng chùm đen kịt đeo bám trên các rễ cây đước, cành mắm hai bên bờ rạch không chừa khoảng trống nào!. Người ta không có thời giờ bắt từng con mà quơ hốt từng bụm tay. Hiện tượng này xuất hiện khoảng 3 ngày rồi đạo quân ba khía tự tan đàn, tản mác và chờ "hội" năm sau đến hẹn lại lên. Người dân địa phương dí dỏm gọi hiện tượng này là ”ba khía hội”. Bắt ba khía tuy cực nhiều nhưng rất vui và đầy hứng thú...Vào những ngày ba khía hội người dân Cà Mau tổ chức đi bắt rất đông. Họ cùng nhau vào rừng bằng các phương tiện cơ động nhất như xuồng chèo, xuồng máy đuôi tôm và đã đi từ rât sớm. Để khi trời vừa sập tối, ba khía dưới hang bò lên quần hội là có thể tập trung bắt cho thật nhiều. Ai cũng có thể bắt được ba khía, đàn ông, đàn bà và cả trẻ con. Thường khi ba khía nhiều thì người ta phân công, người cầm giỏ, người cầm đèn và người bắt. Người lãnh trách nhiệm bắt ba khía phải đeo bao tay để khỏi bị ba khía kẹp. Khi ba khía tập trung nhiều thì dùng hai tay mà hốt bởi bắt từng con thì làm sao cho xuể. Nhiều người mê bắt ba khía đến nỗi bị chúng kẹp sưng cả tay.
Bây giờ những con ba khía sẽ được ướp muối khi mới bắt về được gọi một cách rạch ròi là “mắm ba khía”, nhằm phân biệt với con ba khía tươi từ nhiều năm nay đã được chế biến thành những món ăn độc đáo. Ba khía rửa sạch trước khi ngâm muối theo tỉ lệ nhất định, không được nhạt và không quá mặn. Muối độ một tuần, ba khía ăn được mà vẫn giữ màu sắc như lúc còn sống là đạt chất lượng. Những con ba khía vỏ mỏng, càng đỏ, nặng chắc, yếm đầy trứng mới thật ngon. Ăn ba khía kiểu "dã chiến" thì tách mai, xé từng ngoe trộn với nước cốt chanh, tỏi, ớt, đường và không dùng lẫn với các món khác , vì sẽ làm giảm hương vị độc đáo của đặc sản này. Gỡ gạch son, gạch tro trong mai ra, ăn nhẩn nha để thưởng thức vị ngọt thơm. Ở quê, đang bụng đói mà có độ mươi con ba khía ăn với cơm nguội, dưa leo, ớt hiểm thì ngon mê tơi, đúng với câu "ăn cơm mắm thấm về lâu" !.
Đặc biệt ở quận Ninh Kiều (Cần Thơ) có hẳn một chiếc cầu và con đường được người dân nơi đây gọi là cầu Ba Khía và đường Ba Khía. Gọi như vậy vì con đường này từ nhiều năm nay “la liệt” những quán nhậu bán đặc trưng các món ba khía tươi, với thực đơn khá phong phú: ba khía rang muối hột, rang me, hấp bia, chiên giòn, xào rau răm, xào sa tế, chiên nước mắm... Mắm ba khía ăn sướng cái thần... mồm bao nhiêu thì ba khía tươi khi pha chế rồi càng khiến cái sự ăn uống của con người ta càng thêm khoái hoạt bấy nhiêu.
Muốn ăn "gỏi" thì chọn ba khía loại to, rửa sơ bằng nước ấm, tách bỏ mai, yếm, móng đầu ngoe, xé miếng nhỏ, đập dập càng... cho vào tô trộn đều với gia vị gồm chút rượu trắng, đường, tỏi, ớt, sả bằm nhuyễn, nêm nếm vừa miệng. Đậy kỹ, để gia vị ngấm đều (hôm trước trộn, hôm sau ăn là ngon). Đu đủ chín hườm xắt lát mỏng hoặc bào sợi rồi trộn đều với ba khía, rau răm, thêm chút nước chanh. Ăn với cơm nóng hay bún tùy sở thích. Sau đó nên uống trà chanh tráng miệng, vừa khử mùi vừa dễ tiêu hóa. Những người đã một lần ăn ba khía thì khó mà quên được hương vị khó tả này.
Muốn ngon hơn thì cầu kỳ một chút, xắt ớt, khế từng lát ướp tỏi đường, bột ngọt, xào với ba khía đã xé ra trên bếp lửa là có một món ăn... hao cơm. Vị chua của khế, vị cay của ớt, vị ngọt của đường cùng vị mặn của con ba khía đã được “thăng hoa” trên sức nóng ngọn lửa, thành một mùi thơm. Độc đáo của món ăn này là nhờ sự hiện diện hết sức quan trọng của trái khế chín hườm. Cái chất chua của khế bị vị chát nhẹ của vỏ khế “dằn” lại, hòa hợp thành một vị chua ngọt lạ kỳ, không làm “ê ẩm chân răng” như vị chua của chanh hoặc giấm.
Ba khía chiên nước mắm là món đơn giản, gấp gáp phục vụ các ông lai rai. Gặp mùa mưa thì khỏi nói, con ba khía mập ú sau khi chiên nước mắm nhĩ rồi chỉ cần cầm đĩa lướt qua mũi đã nghe cái mùi thơm rạo rực. Xé con ba khía, loại bỏ phổi, tách từng ngoe chấm muối tiêu chanh ớt cắn nhai mới thấy tuyệt vời làm sao...
Nếu bảo rằng mỗi món ăn đều có hương vị riêng và mang theo cái hồn của nó, thì ba khía muối quả là một món ẩm thực trứ danh, thịt ba khía đã ngon, cái nước từ trong tinh cốt con ba khía muối đượm ra hòa lẫn vào gia vị lại càng đặc biệt, đem chấm rau sống kèm thịt luộc, cá luộc thì khó có nước chấm nào qua nổi. Nhưng từ trong dân gian, không biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến con ba khía muối, thì cũng không thể thiếu một món ăn, cũng thuộc hàng đặc sản ở Cà Mau, đó là dưa bồn bồn. Dưa bồn bồn nhận bằng nước gạo vo mà ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn hoài cũng chẳng biết no.
Ngày nay số lượng ba khía miền Cà Mau không còn nhiều và chất lượng ba khía cũng không còn ngon như ngày trước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó con người là yếu tố căn bản nhất. Sự tàn phá thiên nhiên , phá rừng bãi bồi dẫn đến môi trường sống của sinh vật nhỏ bé này càng thu hẹp.  Cùng với đó là số lượng cây mắm đã giảm. Mất nguồn thức ăn chính là trái mắm đen nên thịt ba khía ít gạch son. Con người lại sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng trưởng trong các vuông tôm làm ảnh hưởng không nhỏ đến con ba khía miền nam nhứt là ba khía Cà Mau. Con ba khía bây giờ ngày càng hiếm cộng thêm người dân dè dặt tránh ăn quá mặn không tốt cho sức khỏe. E rằng đến lúc nào đó không còn nữa thì thật buồn tiếc cho những ai đã từng nếm qua món đặc sản này, tuy bình dân mà thấm đậm hương quê...
Nghĩ đến sự mai một của một loại đặc sản quê nhà mà cảm thấy xót xa.  Nhiều người sẽ hụt hẫn khi một ngày nào đó về Cà Mau mà không được thưởng thức món ngon đặc trưng đã từng vang danh trong làng ẩm thực gần xa. Chợt nghĩ mà thấy thương con ba khía quê mình quá đỗi!
 Phuc Nguyen (sưu tầm & nghiên cứu)

Bạc liêu - Đất và người

Dân Bạc Liêu đi khắp đó đây, có thể người ta không biết nhiều về miệt quê này, nhưng sẽ luôn có một câu mà ai cũng biết thì ra anh chàng này là người ở đất Công Tử Bạc Liêu.                                                                                       
Bạc Liêu là nơi có nhiều dân tộc cộng cư, vì vậy cũng là nơi hội tụ nhiều dòng văn hóa của người Kinh — Hoa và Kh’mer. Những dân tộc này đã “chung vai sát cánh” từ thưở cùng nhau mở đất cho đến thời kỳ chống giặc ngoại xâm, cũng như giai đoạn đổi mới hôm nay. Đó cũng là quá trình hình thành nên một dòng văn hóa đậm đà bản sắc Bạc Liêu, trong đó đặc biệt là một “tính cách Bạc Liêu” rất độc đáo.
Qua những giai thoại, tư liệu ngày xưa để lại và trên những thước phim, vở tuồng…, Bạc Liêu được bạn bè gần xa biết đến nhờ có một anh chàng Hắc công tử “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” và những kiểu chơi độc đáo, xa hoa không ai sánh bằng. Thật ra tính cách Bạc Liêu cũng có những nét “hao hao” của vị Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy nổi đình nổi đám này 
Nếu gạt đi những yếu tố tiêu cực của kẻ lắm của nhiều tiền, ăn chơi phung phí mà gạn đục khơi trong thì phải khẳng định cá tính phóng khoáng hầu hết đều có ở người dân Bạc Liêu từ giàu đến nghèo. Trong việc chi phí sinh hoạt, giao tiếp họ không tính toán chi li. Những người tuy có khi bị cho là “ít chữ nghĩa”, nhưng lại chủ động và ân cần về mặt chi phí.
Chính vì tính cách phóng khoáng, “chịu chơi” này mà nhiều người Bạc Liêu mê cái “ngón” đờn ca tài tử, đặc sản văn hóa phi vật thể của người xứ Nam Bộ nói chung và của đất Bạc Liêu nói riêng
Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.
Người Bạc Liêu có tính bộ trực, thẳng thắn nhiệt tình, hiếu khách. Trong nói năng, không đôi co dài dòng, không “văn hoa mỹ tự”, mà chủ yếu là tinh thông nghĩa lý, muốn nói gì thì nói thẳng.

Không gian đất rộng, người thưa nên cũng hình thành phong cách “ăn to nói lớn”, nói năng thật rõ, thật to để cho người nghe hiểu thông ý mình. Những thành ngữ, ca dao, điệu hò Bạc Liêu: “ Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi, qua khúc sông này bờ bụi tối tăm”…là những chứng minh xác thực nhất về tính cách trừu tượng phu hảo hán.



Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.



Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.
Người Bạc Liêu có tính bộc trực, thẳng thắn nhiệt tình, hiếu khách. Trong nói năng, không đôi co dài dòng, không “văn hoa mỹ tự”, mà chủ yếu là tinh thông nghĩa lý, muốn nói gì thì nói thẳng.

Không gian đất rộng, người thưa nên cũng hình thành phong cách “ăn to nói lớn”, nói năng thật rõ, thật to để cho người nghe hiểu thông ý mình. Những thành ngữ, ca dao, điệu hò Bạc Liêu: “ Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi, qua khúc sông này bờ bụi tối tăm”…là những chứng minh xác thực nhất về tính cách trừu tượng phu hảo hán.

*****
Cá tính, nhiệt tình, thật thà, chất phác còn được thể hiện khá rõ nét trong suy nghĩ cũng như trong sinh hoạt hàng ngày đối với người Kh’mer ở Bạc Liêu. Họ nói năng ý tứ, ngắn gọn, đơn giản. Trong lao động rất nhiệt tình, có ưu thế trong lao động trực tiếp, thường làm việc quần quật để lo kinh tế cho gia đình và luôn có ý thức trách nhiệm cao để đóng góp cho cộng đồng.
Vì vậy nhà cửa của họ có thể là nhà tranh lợp lá lụp xụp, nhưng ngôi chùa phải được cộng đồng góp công, góp của xây dựng lộng lẫy, uy nghi. Điển hình là chùa Xiêm Cán (Vĩnh Trạch Đông, TX.Bạc Liêu), chùa Cái Gía( xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi), Còn tính đoàn kết của người Hoa ở Bạc Liêu thể hiện rõ qua các Bang, Hội đồng hương hoặc các Kiến họ.

                          
Miền đất Bạc Liêu còn hấp dẫn người ta bởi những ưu thế về du lịch. Đến Bạc Liêu du khách sẽ được đi thăm quan khu du lịch sinh thái vườn nhãn Bạc Liêu và nếm hương nhãn ngọt ngào, thơm ngát. Du khách được thưởng thức bánh xèo A mật tại vườn nhãn, vừa ăn bánh vừa nghe các ca sĩ đổ câu vọng cổ nổi tiếng “từ là từ phu tướng…” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu thì còn gì bằng!
Ngoài ra, du khách có thể đi tham quan vườn chim Bạc Liêu hay đi một tour du lịch sinh thái biển như Biển Nhà Mát — khu du lịch Phật bà Nam Hải nổi tiếng linh thiêng; hay chạy dọc biển Đông đi thẳng đến khu du lịch Gành Hào đến Kinh Tư ruộng muối, đi ra biển câu mực hoặc tham gia đánh bắt gần bờ quả là một thú vui.

                        
Đến Đông Hải du khách không thể không đi tham quan vườn chim Lập Điền, đây là vườn chim mới được hình thành của các hộ tư nhân với nhiều loại chim quí nằm trong sách Đỏ…
Du khách có thể về nông thôn du lịch các làng nghề truyền thống tại huyện Phước Long và Hồn Dân như làng nghề đan lát, dệt chiếu, nghề trầm nón…và không quên thưởng thức món bánh tầm bì hay bún bì ở Ngan Dừa Hồng Dân.
Người và cảnh vật ở Bạc Liêu thật đã để lại những đặc điểm khó lẫn với những vùng miền khác. Những tính cách ấy không phải có trong ngày một ngày hai mà được hun đúc gìn giữ từ đời này qua đời khác qua nhiều thế hệ.

                  
Ngày nay, tính cách Bạc Liêu vẫn được giữ gìn và phát huy. Cùng với những danh lam thắng cảnh thu hút du khách, chính những con người Bạc Liêu hiếu khách, hào hiệp nghĩa khí và phóng khoáng này đã giữ được chân bạn bè mình ở lại lâu hơn.
Không ít chàng trai từ tận miền Trung, miền Bắc về ở rể xứ Bạc, cũng không ít người trai Bạc Liêu đã “mê hoặc” được những cô gái thành thị…Bạc Liêu trong mắt du khách đẹp hơn có lẽ nhờ tính cách Bạc Liêu.
Sưu tầm
  Lặng lẽ Bạc Liêu (tt)
“Bên nước ngọt, biển cho muối nhiều, bên nước ngọt, phù sa vun bồi; dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu…” những mô tả về xứ Bạc Liêu trong bài Bạc Liêu hoài cổ của Thanh Sơn là ấn tượng của nhiều lắm – những con người chưa về vùng đất biển phù sa này.
Bây giờ quê hương công tử Bạc Liêu sao mà lặng lẽ. Thắng cảnh ít ỏi, hoang sơ, ngành du lịch không để lại chút dấu ấn “pro” nào vậy mà vẫn lưu luyến đến quặn lòng…
Về Bạc Liêu danh tiếng
Bạc Liêu đón tôi bằng cơn mưa dầm dề ngày cuối tuần. Ánh nắng không đủ sức rẽ tầng mây xám xịt cho ngày chút sắc vàng. Chuyến balô một mình của tôi hướng về chùa Xiêm Cán – ngôi chùa được coi là đẹp nhất của Bạc Liêu và đã tồn tại hơn một thế kỉ.


Nằm đối diện với con đường chạy ra biển, dẫn các trang trại nuôi tôm mênh mông của dân Bạc Liêu là chùa Xiêm Cán – ngôi chùa, cũng là ngôi trường của người Khmer - dân tộc sống khá đông ở Xã Vĩnh Trạch Đông. Vừa qua lễ Ok Om Bok được tổ chức vào ngày trăng rằm tháng 10 âm lịch hàng năm – Lễ hội được coi là quan trọng nhất trong ba lễ: Chol Thnăm Thmây, Đôn Ta, Ok Om Bok của người Khmer nhưng ngôi chùa chẳng còn chút dư âm của ngày tết.
Lễ hội Ok Om Bok diễn ra vào thời điểm chuyển dần từ mùa mưa sang mùa khô, mùa màng nông nghiệp bắt đầu cho thu hoạch, trong đó có nếp mới. Theo truyền thuyết, để ghi nhớ công ơn của Thần Mặt trăng - vị thần điều động mùa màng trong năm, người Khmer lấy nếp mới thu hoạch giã thành cốm dẹp để cúng trăng và tiến hành các nghi thức tạ ơn Thần mặt trăng và tiễn đưa thần nước.
Bước 17 bậc thang của chùa Xiêm Cán để vào trong chánh điện, còn gọi là Sala theo tiếng Khmer, một mình tôi ngẩn ngơ giữa chốn tôn nghiêm. Không có nhang khói nghi ngút như những ngôi chùa nổi tiếng khác, xung quanh tôi, bốn bức tường và nóc chánh điện đầy tranh vẽ về quá trình tu hành khắc khổ của Đức Phật Thích Ca qua vô lượng kiếp mới đạt thành. Ánh sáng của một ngày mưa âm u lọt vào chánh điện. Nơi đây, các sư cả đã tu tập cả đời, nghe những bi ai của cõi trần, thấu chữ từ bi, dạy chúng sinh năm điều quan trọng của đời người và cuộc sống là: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, trí tuệ.
Bác Sáu, một người sinh ra và lớn lên ở Bạc Liêu giải thích: Đối với người Khmer, ngôi chùa vừa là chốn linh thiêng vừa là trường học, là mái nhà chung che chở và đùm bọc về tinh thần và trí tuệ cho người dân, là nơi hội tụ cả văn hóa và tâm linh của người Khmer. Gần gũi và quan trọng như vậy nên chùa còn là sân chơi cho trẻ em. Trẻ em Khmer vẫn thường tung tăng vui đùa ở khu vực các lăng mộ trong khuôn viên chùa Xiêm Cán mà chẳng bao giờ bị cá sư cả la rầy. Đây cũng là sân chơi duy nhất cho trẻ em của xã


Ai đến Bạc Liêu cũng phải đi hết một ngày khu vườn nhãn, ra ngắm biển bồi. Ngắm chứ không tắm bởi biển phù sa – không trong mà luôn đục và sình. Kế đó là đến Khách sạn Công tử Bạc Liêu nằm ngay bờ sông trong thị xã uống nước, tham quan hoặc thuê phòng nghỉ lại.


Dấu ấn một thời vàng son của Bạc Liêu – xứ công tử nằm ngay bên bờ sông lớn. Dinh thự của gia đình Đại Điền chủ lớn nhất Bạc Liêu Trần Trinh Trạch – cha Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, hoàn thành năm 1919 nay dẫu rêu phong vẫn uy nghi. Hai tòa nhà này ngày nay là dĩ vãng một thời vàng son trong so sánh với những tòa nhà bề thế sinh sau đẻ muộn khác ở xung quanh. Nền đường đã được tôn cao nên tòa nhà như thấp xuống.
Nhà ở của Đại điền chủ Trần Trinh Trạch nay là khách sạn, nhà hàng phục vụ du khách. Nhiều nhà chòi mới được cất thêm trong khuôn viên “tư gia Công tử Bạc Liêu” làm chỗ ăn, uống cà phê. Ở Bạc Liêu có hai Đại điền chủ người Việt, một ông chăm chỉ làm ăn, một ông ăn chơi mát trời nhưng người ta chỉ nhớ đến cậu Ba Huy với những huyền thoại nức tiếng: đi vũ trường bằng sáu chiếc xe lôi: chiếc chở gây, chiếc chở nón… là người mua báy lái đi thăm đồng đầu tiên ở Đông Dương, là công tử ăn chơi “số dzách”… sẵn sàng “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu”
Thương quá Bạc Liêu
Dù đi xa trăm hướng nhưng nỗi hoài hương vẫn vang vọng bên lòng những người con đất Bạc Liêu. Tôi nghĩ, đó là tại con ba khía, tại con cá chốt, tại dưa bồn bồn... Ba khía của xứ này cứ tự nhiên mà sinh sôi. Món ăn nhà nghèo mà đi vào nỗi nhớ, trở thành nỗi thèm của biết bao con người. Thương hải tang điền, có ai ngờ bồn bồn năm xưa bỏ ngổn ngang trên bờ ruộng mà nay thành quà biếu trang trọng. Món ăn quê của người Bạc Liêu thành đặc sản hớp hồn biết bao du khách. Ba khía, cá chốt kho chấm dưa bồn bồn có mặt ở quán cơm bình dân cho đến nhà hàng sang trọng. Giá từ vài ngàn đến mấy chục ngàn chỉ do một cái chỗ ngồi.
Còn những người không phải sinh sống ở Bạc Liêu như đám du khách bụi chúng tôi không hiểu sao chưa về, chưa xa mà đã nghe trong lòng ngẩn ngơ, thương nhớ Bạc Liêu nhiều đến kì lạ. Đâu chỉ bởi dưa bồn bồn, nồi kho hay tô ba khía trộn. Lưu luyến nhất là bởi tình người. Ngẫm lại, ông Trần Phước Thuận, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu khẳng định: “Bây giờ, đừng hiểu cụm từ “công tử Bạc Liêu” là ăn chơi vô độ. Khái niệm này theo thời gian tượng trưng cho tính cách phóng khoáng, mến khách Nam bộ” chẳng sai chút nào. 
 
Nhà Công tử Bạc Liêu
Người khách phương xa nào mà không thấy ấm lòng khi được ông Sáu bỏ một ngày chủ nhật chở đi dưới thời tiết lúc mưa, lúc nắng khám phá Bạc Liêu. Đi uống nước cam ở dinh thự xưa Công tử. Tấm lòng của người Bạc Liêu rộng rãi ở chỗ: khi trước mùa khai giảng, ông Sáu bí mật đi mua đồng phục, mua sách vở, động viên từng trẻ em người Khmer chịu đi học và kiên trì bám lớp, bám trường.
“Giống như là mướn đi học vậy, nhưng có mướn cũng phải làm”, ông quả quyết. Tâm nguyện của ông là ở xã Vĩnh Trạch Đông, con em nhà ai muốn học và có thể đi học, ông sẽ tài trợ mọi chi phí, cao mấy cũng được. Vậy mà tìm không ra một người leo đến cấp ba, vào đại học. Buồn làm sao.
Và tôi đã thấy những gia đình Khmer con cái nhỏ nhít sắp một hàng cao dần đều. Dù là con trai hay con gái, tất cả đều có điểm giống nhau: đen đúa, quần áo lấm bùn, nhiều em chỉ mặc quần chứ không mặc áo, từng đám tóc bết vào nhau bởi nước phèn, nước mặn…
Tại xã Vĩnh Trạch Đông – xã nghèo nhất thị xã Bạc Liêu, nơi chủ yếu là người Khmer sinh sống, trẻ em biết đi coi như là đã biết vào đời. Chuyện sinh tồn ở tuổi lên năm lên ba đơn giản lắm: ngày ngày ra biển với một cái lon sữa bò rỉ sét, một hũ chao, bắt cua biển con bỏ vào hũ rồi đem bán cho các trại giống. Bóng dáng những đứa trẻ lấm lem cúi đầu đi ngoài biển bồi làm thắt trái tim tôi. Một con cua chỉ có 1.000đ, mỗi ngày kiến chừng 5.000đ, 10.000đ là việc bắt cua đủ say mê với trẻ em và cha mẹ chúng hơn là trường học.
Theo con đường chạy men theo biển bồi, tại khu Nhà Mát, không xa xã Vĩnh Trạch Đông tuy bây giờ còn hoang sơ nhưng đã có một dự án du lịch tầm cỡ “treo” sẵn mấy năm qua. Người ta dự tính sẽ khai thác vùng biển phù sa này. Sẽ có hồ tắm nước mặn, hồ tắm nước ngọt, có nhà hàng nổi… Mong sao khu du lịch này sẽ đem lại cơm áo cho người dân nơi đây để đừng có cảnh quá cách biệt: bao vây bên ngoài khu du lịch sang trọng – nơi người ta đến để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống là những mảnh đời lầm than, vất vả kiếm cái ăn.
Theo dulich.tuoitre.co
m 

Vườn nhãn cổ thụ Bạc Liêu
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là xứ sở của vườn cây ăn trái, trong đó nhãn là loại cây được trồng nhiều nhất. Riêng tại Bạc Liêu, nếu có dịp đi qua vùng đất này mà không ghé qua khu vườn nhãn cổ thụ hơn trăm tuổi thì có thể coi như chưa đến Bạc Liêu. Bởi đây là vườn nhãn đặc biệt nhất ở ĐBSCL, là niềm tự hào của người dân địa phương và còn là điểm thu hút khách phương xa đến tham quan.
Vườn nhãn cổ thụ Bạc Liêu rộng khoảng 230 ha, chạy dài trên 11km đi qua hai xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông, thuộc thị xã Bạc Liêu. Theo lời kể của những người dân nơi đây, vườn nhãn đã được trồng hơn 100 năm nay.
Hiện nay, tại ấp Chòm Xoài, xã Hiệp Thành có vườn nhãn của gia đình ông Trương Kiết rộng đến 3ha, lớn nhất ở Hiệp Thành, tuổi thọ đã trên trăm năm. Tại đây có một cây nhãn do cụ Trương Hưng trồng đầu tiên, giờ trở thành cây nhãn cổ thụ gốc to 2 người ôm không xuể. Hằng năm cứ đến tháng năm là nhãn trổ bông và sau 4 tháng bắt đầu thu hoạch; mỗi năm chỉ có duy nhất một vụ mùa
 Sưu tầm
*****

  Bạc liêu trù phú vườn chim, nhãn....

Bạc Liêu là một trong 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, được biết đến không chỉ vì có những cánh đồng lúa trù phú mà còn có những vườn nhãn xum xuê và một vườn chim đậm nét thiên nhiên hoang dã.


Tất cả những thứ đó đã cùng hòa quyện, vẽ nên bức tranh thiên nhiên sinh động với một Bạc Liêu khỏe khoắn, giàu tiềm năng, in sâu trong kí ức của mỗi du khách khi đi qua vùng đất này.
 Cách thị xã Bạc Liêu 6km về hướng biển, phía phải là vườn chim Bạc Liêu, thuộc địa phận xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu. Theo tư liệu của Khu bảo tồn thiên nhiên vườn chim Bạc Liêu, địa danh này xuất hiện cách nay khoảng 100 năm. Vườn chim là một phần thảm rừng còn sót lại ven biển Đông do sự bồi tụ tự nhiên nên ngày càng xa biển hơn. Năm 1962, vườn chim được một hộ dân quản lý chăm sóc, bảo vệ và khai thác chim non. Sau đó, chính quyền địa phương sớm nhận thức vườn chim là tài sản thiên nhiên quý hiếm nên đã có sự đầu tư từng bước.
Vườn chim Bạc Liêu là nơi cư trú của khoảng 46 loài chim. Một số loài đã được ghi vào sách đỏ như giang sen, cốc đế nhỏ...; 109 loài thực vật; 150 loài động vật sống chung trong một quần thể đa dạng, thể hiện cao tính đa dạng sinh học.
Trải qua gần một thế kỷ tồn tại, nơi đây đã có không biết bao nhiêu thế hệ các loài chim sinh sôi, nảy nở. Qua tính toán sơ bộ, số lượng chim ở vườn chim còn khoảng 40.000 con và 5.000 tổ chim các loại. Vườn đang từng bước được tỉnh Bạc Liêu đầu tư theo hướng vừa giữ được sắc thái thiên nhiên hoang dã, phù hợp với tính đa dạng sinh học, phục vụ nghiên cứu khoa học, vừa khai thác một phần thích hợp, tạo điều kiện cho khách tham quan du lịch và giải trí. 
ST