Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Giỏ xe có hoa

Áo Dài Ơi 

Tà Áo Tím

 
Màu hoa trắng,
Màu hoa trắng, màu áo dài em đó,
Giữa sân trường hai sắc trắng tinh khôi....
Hoa và em là bảo vật trên đời,
Anh trân trọng chẳng bao giờ quên lãng !
Mây trên cao bay lững lờ lãng đãng...
Em bây giờ theo gió cuốn mây trôi,
Hoa trắng còn đây, người sớm đi rồi...
Người ở lại nhớ nhung tà áo trắng !
NM 
Giỏ xe có hoa
Miên thấy hơi tức ngực, nó đứng thở một chút rồi ghé vô hành lang ngồi nghỉ. Từ hồi chuyển trường tới giờ, Miên cứ thấy trong lòng nao nao. Không biết có phải vì nó nhớ mấy đứa bạn cũ, nhớ ngôi nhà vẩn vương quá khứ có ba nó. Hay vì…
Miên lắc lắc đầu, ngước lên trời nhắm mắt. Trời đổ bóng ánh vàng màu nhạt, gió phây phẩy mấy tán lá lùa về mùi hương của loài hoa nào đấy rất quen, thoang thoảng thơm. Chỗ khu hành lang này sát gần khu gửi xe đạp. Giờ tan trường chắc cũng đã hơn nửa tiếng, quanh đây chỉ còn vài chiếc chưa ai lấy. Chắc của mấy bạn ở lại học thêm, hay trực lớp, hay hẹn hò.
Nắng chiều tắt rất nhanh. Miên cầm điện thoại lên, đã năm giờ ba mươi lăm phút, mẹ lại tới trễ. Tự nhiên có cánh hoa trắng muốt bay là là đến chân Miên. Nó cười nhẹ nhặt cánh hoa lên, ngó xung quanh. Ở phía cuối khu để xe, cái chỗ mà xa quá không ai buồn đi tuốt xuống đấy để gửi, có một chiếc xe đạp trông cũ. Giỏ xe bị móp một bên và toàn thân xe có màu nâu ghỉ. Nhưng ở giỏ xe móp méo ấy, ai đó đã đặt vào một bó hoa trắng tinh. Miên ngó nghiêng xung quanh, hành lang tanh vắng, nó nhìn điện thoại lần nữa rồi bước lại gần chiếc xe ấy.
“Hoa đẹp quá…”
Miên cười cười lấy ngón tay khe khẽ chạm vào. “Ai được tặng chắc là vui lắm”, nó nghĩ.
“A…”
Miên thấy có ai bước ra từ sau khu hành lang, chỗ nó ngồi hồi nãy. Một bạn học sinh cột tóc cao, vầng trán sáng và vận chiếc áo dài tinh tươm. Người bạn này ôm cặp, có vẻ cũng ngạc nhiên khi thấy ai đó đang đứng trước chiếc xe đạp (mà đã cố tình để rất sâu trong khu gửi xe) của mình.
“Xin… xin lỗi nha. Tại mình thấy, giỏ xe có hoa…”
Cô bạn kia nghiêng người nhìn xe mình. Hình như cũng không ngạc nhiên, tiến lại gần rồi cầm bó hoa lên nâng niu như thể một món quà dễ vỡ. Cô phì cười nói rất nhỏ:
“Lại nữa rồi…”
Miên thấy nụ cười ấy quen quá, như là gặp ở đâu rồi.
“À bạn ơi…”
Miên giật mình, chậc, ai đời đến xe người ta nhìn hoa của người ta, rồi giờ lại nhìn chằm chằm người ta như vậy. Nó gãi gãi đầu:
“Xin lỗi nha, mình.. mình xin lỗi. Mình…”
“Hihi, bạn ngộ quá. Bạn là học sinh mới đúng không?”
Miên tránh ánh mắt của cô bạn, chắc là học sinh mới chuyển tới có vẻ rất nổi tiếng ở trường này. Nó cười gật đầu, toan bước đi.
“Tui tên Lam, tui học kế lớp bạn đó…”
Miên có hơi tức ngực một chút, nó hồi hộp vì lần đầu có ai đó trong trường mà khác lớp đang bắt chuyện với nó.
“Tui… tui tên Miên”
Rồi giờ thì hai đứa đang ngồi cạnh nhau ở khu hành lang nhìn hoa thế này dù trời cũng dần sập tối. Đã năm giờ bốn mươi chín phút, Lam nói cũng đang đợi người nhà đến rước. Lam kể cô ngại đám đông lắm, nên lúc nào cũng để xe ở xa mấy xe khác. Chỉ có một lần duy nhất gặp một người để xe cạnh cô. Nói đến đây Lam cười. Miên biết ngay người đó không ai khác chính là chủ nhân của bó hoa trên xe.
Lam nhìn Miên, cười nói:
“Rồi bạn sẽ làm quen nhiều bạn ở đây thôi. Đừng lo quá…”
Miên lắc đầu.
“Tại mình không biết cách thân thiết với người khác, ngay cả… ngay cả người thân”. Miên nói, thấy mình cũng giống Lam quá. “Với lại cũng tại…”
Lam cầm bó hoa lên nâng niu.
“Bạn còn thời gian, bạn hãy trân trọng những người ở cạnh cậu. Hãy nói cho họ biết là bạn cũng rất yêu thương họ… Bạn đâu biết khi nào bạn sẽ không thể nói được những lời đó nữa”
Miên nhìn xa xăm, tay nắm chặt điện thoại. Nó bỗng nhớ đến những cuốc xe bao nhiêu năm ba chở đi chở về, cho đến khi ba không còn đứng chờ đón nó nữa. Tay Miên đè lên ngực, thấy lòng thắt lại. Hơi thở có hơi khó khăn.
Lam để ý quay sang:
“Bạn ổn không?”
“Mình không sao…”
Lam cười nhìn Miên, cô cầm bó hoa đứng dậy.
“Người nhà của mình tới rước rồi. Mình đi nhé”. Lam giơ ra cánh tay.
Miên mỉm cười bắt lại.
“Cám ơn”
Rồi Miên nhìn Lam bước đi. Tà áo dài trắng bay theo gió. Miên giờ mới để ý, hôm nay thứ sáu rồi, sao Lam còn mặc áo dài làm chi?
Lam bỗng sực nhớ điều gì, quay sang nói lớn:
“Miên ơi, bạn hãy bảo vệ nó dùm mình nhé”
“Bảo vệ?...”
“Miên ơi… Miên hãy sống thật hạnh phúc, nhé Miên”
“Miên!!!”
Miên choàng tỉnh, điện thoại rơi khỏi tay. Mẹ đứng đó từ lúc nào, khuôn mặt trông vô cùng hốc hác. Như những ngày mẹ chăm nó từ hồi còn trong bệnh viên cả hơn một năm trước.
Lúc nó mổ tim.
“Con có sao không, có khó thở không con?” – Mẹ nó ôm vô lòng vuốt lưng – “Mẹ xin lỗi, mẹ tới trễ”
Miên thấy hơi tức ngực. Ngoài trời chỉ còn mảng tối đen. Mấy bác bảo vệ chắc cũng phụ kiếm nó nãy giờ.
Miên cám ơn mấy bác bảo vệ rồi đi chung với mẹ ra xe. Đi được đoạn có một anh nào cao cao, cầm bó hoa trắng bước vào khu để xe. Miên ngoái đầu nhìn theo. Thấy thế, bác bảo vệ đi kế mới nói:
“Thằng đấy hồi xưa học trường này. Mà chậc…” – Bác tặc lưỡi – “Có con bé bạn gái bị tai nạn chết, cái xe đạp móp đó thấy không. Ba mẹ nhỏ đó bỏ rồi, mà thằng đấy lén đem lên trường. Xin bác để đấy. Năm nào ngày giỗ của con bé cũng đem hoa tới để ở rổ xe đó”
Nói rồi bác lắc đầu:
“Con bé nó hay tâm sự với chú, có lần nó nói nó mà lỡ chết thì nó sẽ hiến tặng hết nội tạng nó cho bệnh việc. Dè đâu được có năm, là nó đi thiệt… Thương quá thương”
Miên ôm ngực nó nhớ lại lời Lam:
“Miên ơi, hãy bảo vệ nó nhé”
Miên hỏi bác bảo vệ:
“Chị ấy tên gì vậy chú?…”
Chiều đó gió nhàn nhạt bay, trên tay cậu thanh niên rơi vài cánh hoa trắng muốt. Cậu nhẹ nhàng đặt chúng vào giỏ xe. Giỏ xe có hoa.
Lam Lam
Niềm riêng
Giờ quay trở lại thăm trường cũ,
Vương vấn trong lòng nỗi nhớ nhung...

Xa xôi cách trở ngàn trùng,
Ước mong oan trái xa vùng thân yêu...
Lòng luôn nhung nhớ thương nhiều,
Những tà áo trắng dập dìu tung bay.
Nào hay oan trái vẫn đây,
Niềm riêng tôi mãi ôm hoài xót thương !!
Nơi đây vẫn chốn "chiến trường",
Còn đâu hình ảnh thiên đường tinh khôi !?
Nơi xa áo trắng lên ngôi,
Niềm riêng giờ lại sáng ngời trong tim !!
NM

Thấp thoáng áo về
Trước cổng trường đông đúc, nhộn nhịp. Bà đón cháu.
Thật ra bà chỉ việc lên một chiếc xích lô nhờ đạp tới trường, và bà đứng chờ trước cổng, bên vệ đường, như bao nhiêu phụ huynh khác. Bà không lái xe như ở “bên kia”.
Từng đợt, từng đợt học sinh đi ra. Các bạn dắt xe đạp, hoặc xe gắn máy. Ra đến cổng rồi các bạn mới leo lên xe. Bà có một chút hài lòng. Chỉ có một điều rất khác so với ngày xưa. Ngày xưa chỉ có nữ sinh. Bây giờ có cả nam và nữ.
Ngày xưa… Ồ! Bà như thấy trước mắt, cảnh các nữ sinh mỗi sáng lũ lượt nối đuôi nhau vào trường. Cái cổng trường và ngôi trường cổ kính, đã có từ một thế kỷ trước, hàng ngày chứng kiến một quang cảnh không đổi. Có vẻ như không đổi mà thôi! Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Cô giáo dạy môn Anh văn của các lớp đệ nhị cấp, cũng đảm nhận làm giáo sư hướng dẫn cho lớp Mười A9, buổi sáng. Lớp Mười A9, một lớp không có gì đáng nói, vì cũng là một lớp khá ngoan. Học trò học rất đều. Không có em nào dưới trung bình. Các thầy cô rất yên tâm về lớp này. Trường công, cần có những lớp đều như vậy. Được rèn luyện rất cẩn thận, cộng thêm sự học hành tự giác, tinh thần ganh đua và chí phấn đấu, thế là học sinh cứ tiến đều, và sẽ có kết quả tốt trong những kỳ thi lấy bằng Tú Tài.
Cô giáo năm ấy ngoài bốn mươi. Cô vui tính, hay kể chuyện hài hước, nhưng lại có một đặc điểm chưa hề thấy ở một vị giáo sư nào. Đó là cô rất khắt khe với các nữ sinh để tóc dài. Giờ học của cô, các nữ sinh đều phải cột tóc gọn gàng, không ai được xõa tóc. Ngay cả những bạn tóc mới chấm tới vai cũng phải cột lên thành một cái đuôi gà cụt ngủn. Làm trái ý cô ư? Ra khỏi lớp! Giờ Anh văn của cô, ai ai cũng chuẩn bị một cái kẹp tóc hoặc một sợi dây. Cô vào lớp, việc đầu tiên là cô đặt lên bàn một mớ dây thun. Bạn nào quên đem kẹp, cứ tự động bước tới bàn của cô, lấy một sợi dây thun mà cột tóc lại. Chỉ có các bạn cắt tóc “demi-garçon”, nghĩa là tóc tém như con trai, hoặc tóc “bum-bê” thật ngắn mới khỏi phải cột tóc. Trời nóng cũng thế, trời lạnh cũng như thế. Không ai dám cãi lại. Không ai dám thắc mắc.
Thế rồi, đến một hôm, cô trố mắt khi nhìn thấy một cô học trò cột tóc theo kiểu rất lạ. Cô bé chỉ cột dây thun một nửa mái tóc, và vẫn để lớp tóc bên trong chảy lòa xòa trên vai. Cô từ trên bục bước xuống, đứng trước mặt cô học trò. Đây là trò Hương, người nữ sinh giỏi Anh văn nhất lớp. Cô không nói. Hương ngước nhìn lên, thấy ánh mắt của cô, Hương cũng im lặng. Hai thầy trò nhìn nhau. Cả lớp nín thở.
Mấy giây sau, cô ra lệnh:
- Em đứng dậy!
Hương đứng lên, thẳng người, trông rất ngoan như bao lần. Cô giáo nghe hai má mình hơi nóng lên với cảm giác bị học trò cãi lời. Cô hỏi:
- Hôm nay em biết em đã phạm lỗi gì không?
Hương lắc đầu, giọng chắc nịch:
- Thưa cô, không ạ!
Cô nghe mặt ran rát một cảm giác bị xúc phạm
Cô xẵng giọng:
- Em thật không biết?
- Thưa cô, không ạ!
Cô cố dằn, lần đầu tiên cô thấy mình có hơi nhượng bộ đối với học sinh. Cô gắng nói một cách bình tĩnh:
- Từ đầu năm đến giờ, tất cả học sinh khi vào giờ học Anh văn, đều nghe lời tôi, cột tóc gọn gàng. Chưa một ai làm trái lại. Hôm nay em đã làm trái đi. Tại sao?
Hương thong thả đáp:
- Thưa cô, em không thấy mình làm trái điều gì
Em có nghe lời cô. Em có cột tóc ạ!
- Em không làm đúng.
- Thưa cô, cô có nói chúng em cột tóc cho gọn, thì em đã cột tóc cho gọn ạ!
- Không phải!
- Thưa cô, xin cô chỉ cho em… làm sao cho phải ạ!
Cô nói lớn, mặt đỏ bừng:
- Tôi bảo các em cột tóc hoàn toàn, không có một sợi nào được bay lòa xòa. Em nhìn em kìa, cột mà như không cột.
- Vậy thưa cô, em xin làm lại ạ!
Hương thong thả tháo sợi thun buộc tóc ra. Cô giáo và cả lớp chờ đợi. Hương đặt sợi dây thun lên bàn, và lắc đầu nhẹ một cái. Mái tóc đen mượt của cô bé đổ tràn đầy hai vai, như một dòng suối. Cô bé đứng thẳng như người lính đứng đợi lệnh cấp trên. Cô giáo trố mắt. Cả lớp như nghẹt thở.
Lại một khoảng im lặng khó chịu tỏa ra. Mấy giây sau, vẫn là cô giáo lên tiếng trước:
- Em làm vậy là có ý gì? Em không muốn nghe lời tôi hả?
- Thưa cô, em không có ý chống đối cô. Nhưng… thưa cô, em cảm thấy… cô rất vô lý khi bắt buộc chúng em cột tóc. Nếu là trong phòng thí nghiệm thì không nói gì, nhưng giờ này là giờ Anh văn. Trong khi ở các giờ học khác, chúng em không bị các giáo sư gò bó, mà giờ của cô thì chúng em lại phải… làm cho ra vẻ lam lũ. Chúng em thật sự không hiểu ạ! Hôm nay, nếu cô phạt em, em cũng đành chịu. Nhưng em phải nói giùm các bạn em, giùm cả lớp này và giùm cả các lớp khác, vì… họ không dám nói ạ!
Các nữ sinh len lén nhìn nhau, ánh mắt thay cho lời nói chuyện. Họ vừa hả dạ, vừa lo lắng cho Hương. Cô giáo nói giọng run run:
- Giỏi lắm! Em giỏi lắm! Tôi sẽ giao em cho phòng giám thị giải quyết.
Rồi cô mở sách ra, lặng lẽ bước lên bục gỗ.
Sau hôm đó, cô học trò bị một điểm xấu về hạnh kiểm.
Nhưng cô giáo thì cũng từ hôm đó, khi vào lớp không còn đặt một nắm dây thun lên bàn nữa.
o O o
Ngày xưa… Vâng, cô giáo còn nhớ lắm!
Cô bé học trò lớp Mười A9 tên Hương, khi xõa mái tóc chảy đầy vai, làm cho cô giáo có một thoáng sững sờ!
Sao cô lại không sững sờ cho được, vì hình ảnh đó giống hệt như cô mà! Tấm áo dài trắng tinh, mái tóc đen nhánh dài đến gần thắt lưng, công phu của nhiều tháng nuôi dưỡng, nâng niu. Cô chỉ xõa tóc ra khi mặc áo dài đi học, còn khi ở nhà, giữ em, làm việc trong bếp, ngoài vườn, cô cột hoặc bới cao lên cho gọn. Nhiều cậu nhóc hàng xóm cứ nhìn theo cô, ngẩn ngơ. Và rồi trong đám “nhóc” ấy, một cậu đã rơi vào đôi mắt của cô, đã trao cho cô những tờ giấy màu xanh trên đó có những dòng thơ dịu dàng. Cậu nhóc đã hẹn được cô đi chơi. Cô gan lắm! Cô đã đi chơi với cậu nhóc. Cũng là quanh quẩn nơi những hàng quà vặt trước trường, rồi lại về nhà, giữ em, làm việc nhà, học bài. Rồi một buổi kia, cô trốn học để đi xem xi-nê với cậu.
Dì của cô – vâng, cô học trò ấy không còn cha mẹ, ở với người dì họ, làm việc nhà cho dì ấy và nhận cơm ăn áo mặc – biết được chuyện, đã túm lấy mái tóc của cô mà cắt lấy cắt để, cho đến khi tả tơi ra hết rồi dì mới hả giận. Và thế là cô học trò xinh đẹp phải trùm khăn đi học, chờ cho đến khi đầu tóc mọc thêm cho dễ nhìn mới dám để lộ ra. Cái mặc cảm bị hành tội ám ảnh cô học trò cho đến rất nhiều năm sau, khi cô đã xong bậc trung học, lên học Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ra trường và trở thành cô giáo dạy Anh văn.
Cô giáo trở thành một hình mẫu tiêu biểu đáng kính trong nhà trường. Nhiều năm qua, cô hồ như quên mất kỷ niệm chua cay mà mình đã gánh chịu. Cô có gia đình, có con cái. Cô lập ra một cái nếp áp dụng với nữ sinh học môn Anh văn của cô: cột tóc lên cho gọn gàng, dù lớp học Anh văn thì không bao giờ giống như phòng thí nghiệm. Cái nếp ấy, năm này qua năm khác, áp dụng mãi rồi thành quen thuộc không ai dám phản đối. Và cũng không hại gì cho nên nhà trường không can thiệp vào.
Nhưng cô bé Hương đã dám phá vỡ cái bức tường đó, dù biết sẽ nhận lãnh một điều không hay cho mình. Như một tiếng chuông vang lên phá vỡ sự im lặng đáng ghét, Hương đã làm cho cô giáo mất mấy đêm không ngủ. Lúc nào cô cũng thấy cô bé học trò thật đẹp, thật thánh thiện trong nếp áo dài, mái tóc xõa trên bờ vai. Cô bật khóc trong đêm
Trời ơi! Là tôi đấy mà!
o O o
Biến cố 30 tháng Tư 1975 xảy ra. Có nhiều thay đổi trong hệ thống quản trị nhà trường. Cô giáo vẫn được lưu dụng để dạy môn Anh văn. Nhưng cô bé học trò tên Hương không còn tiếp tục đến trường nữa. Cô bé đã đi đâu mất.
o O o
- Bà ơi! Cháu đây! Bà đi với ai?
- Bà đi một mình, đi xích lô, cháu ạ! Bà cháu mình sẽ đón tắc-xi về nhé!
- Vâng. Bà đợi cháu một chút, cháu dặn bạn cháu cái này.
Cháu của bà chạy tung tăng chân sáo, gọi bạn ơi ới. Bạn là một cậu con trai cùng trang lứa, lái chiếc xe gắn máy, đang chống chân chờ đợi. Chá
của bà dặn dò một lát, rồi đi về phía bà. Trong khi đó, một cô học trò khác, đến bên cậu học trò kia, leo lên yên sau của chiếc xe gắn máy. Cô bé dang hai chân ngồi thật vững vàng và thoải mái, vạt áo dài được túm lại cột thành một búi trước bụng. Cô bé ngoái lại vẫy tay chào. Cháu của bà vẫy tay theo.
Bà hơi khựng lại một chút. Ngày xưa… Ồ, lại ngày xưa! Bà khi còn là cô học trò trung học, lần đầu tiên mặc áo dài, lúng ta lúng túng, không biết vén thế nào cho gọn. Khi đi xe đạp, cô học trò lót vạt áo dài lên yên, vuốt thật thẳng rồi ngồi đè lên. Hoặc cẩn thận hơn nữa, thì ràng chiếc cặp nơi yên sau bằng một sợi dây thun thật lớn, có hai móc hai đầu, rồi sau đó nhét kỹ hai góc của vạt sau áo dài vào dưới dây thun. Gió có mạnh mấy cũng không thể làm vạt áo bung ra được. Lại còn những khi ngồi ở yên sau cho bạn chở, thì mấy cô nữ sinh bao giờ cũng ngồi khép nép, hai chân để về một bên, vạt áo vén thật gọn gàng thẳng thớm vì sợ nhăn. Vậy mà cũng có một kỷ niệm đau khổ xảy ra cho cô: một hôm cô ngồi sau xe cho cô bạn chở, hai đứa lo nói chuyện cười vui không để ý, cô đã làm vạt áo sau rơi xuống, quấn vào bánh xe, bị rách toạc đứt lìa. Cô run rẩy bước về nhà và nhận lãnh một trận đòn vì tội lơ đễnh.
Tà áo dài nữ sinh, đề tài muôn thuở cho các văn thi nhân, nhạc sĩ, họa sĩ, có đâu ngờ cũng mang lại nhiều đau khổ cho các nữ sinh. Thời của cô, áo dài lúc nào cũng phải thẳng thớm, kín đáo. Đã vậy mà trò nào vô tình hay cố ý “quên” mặc áo thun lá bên trong thì sẽ bị đuổi về, không cho học ngày hôm đó. Con nhà nghèo đến đâu cũng phải ủi áo dài đi học, không để bị nhăn nheo hay gấp nếp. Trời nắng hay mưa, bão hay lụt, cũng không được mặc thứ gì khác. Học trò xứ cao nguyên thì đỡ khổ hơn, phần trên đã luôn có áo len che, các bạn chỉ lo ủi cho thẳng hai vạt áo. Học trò miền thôn quê càng đáng nể hơn nhiều, khi mỗi ngày xắn quần áo lội bì bõm qua bao nhiêu đoạn nước non sình lầy, hoặc lên ghe xuống đò, khi lên tới đường cái rửa chân và thả lai áo quần xuống, áo quần vẫn trắng nguyên, và như vậy là có thể đi đến trường.
Sau năm 1975, trường của cô không bắt buộc nữ sinh mặc áo dài. Trường có thêm nam sinh. Nam nữ đề huề. Học sinh đi học mặc quần tây xanh, áo sơ-mi trắng. Nét e dè khép nép ở nữ sinh dần dần mất đi. Cô cũng không còn nhớ đã có một thời cô bắt các học trò của mình cột tóc cho gọn. Như cô đã quên quá khứ buồn của mình vậy!
Cháu của bà mang đến cho bà một bịch chè. Ồ, con bé nhanh chân thật, vừa mới chạy đi dặn dò bạn, đã tạt ngang gánh hàng rong mua chè bịch rồi! Bà bật cười, nói:
- Bà không ăn đâu!
- Bà ăn đi, ngon lắm! Không ai nhìn đâu! Ngày nào cháu cũng ăn như vậy.
Bà liếc qua “xóm hàng rong” thấy nào là chè, nào là bánh, rồi thì trái cây - cóc ổi xoài, rồi nước mía, chuối xào dừa, xắp-xắp khô bò … Bà lắc đầu. Đứa cháu gái ăn chè bịch một cách ngon lành, không cần chén muỗng, chỉ việc cắn một góc nhỏ ở cuối bịch và kê miệng hút, thế là xong. Bà cảm thấy vui lây với nó. Cháu cũng mặc áo dài như bà ngày xưa - vâng, theo bà biết thì đến một lúc, các trường cũng trở lại cho nữ sinh mặc áo dài trắng – nhưng cách thức của các cháu có nhiều khác biệt. Các cháu nhanh nhẹn hơn, mạnh bạo hơn, không khép nép rụt rè. Các cháu sẵn sàng xắn tay áo lên cao, hoặc cột nùi vạt áo dài trước bụng khi ngồi ở yên sau xe gắn máy. Bà cười dễ dãi, tự nhủ “mỗi thời mỗi khác”.
Một cô bé chạy đến, đưa cho cháu bà một quyển vở.
- Trả lại vở cho bạn nè! Mình đã chép bài xong. Cám ơn nhé!
- Không có chi. Nè, giới thiệu với bạn, đây là bà của mình. Bà ơi, đây là bạn Hoa học cùng lớp với cháu.
- Cháu chào bà ạ!
- Nhưng không phải bà nội hay bà ngoại đâu! Bà là “bà trẻ” ấy!
Cô bạn tròn mắt chưa hiểu. Bà giải thích
- Chào cháu, “bà trẻ” có nghĩa là bà cô hoặc bà dì. Bà là “bà dì họ” của bạn đây.
- Dạ cháu hiểu rồi ạ!
Cháu của bà giải thích thêm:
- Bà và gia đình của bà ở bên Mỹ hết cả. Bà năm nay mới về chơi, thăm gia đình của mình. Bà với bà ngoại mình là “chị em bạn dì họ”, nghe rắc rối không? Nhưng họ thân lắm, vì bà chỉ có người thân là phía bà ngoại mình thôi. Bà về chơi, rồi bà lại đi qua bên ấy.
Cô bạn nhỏ gật gù:
- Vậy cháu chúc bà có những ngày ở chơi vui vẻ
Cháu chào bà ạ!
Bà chào lại. Cô nhỏ chớp nhanh đôi mắt tròn, và quay lưng đi. Cô lắc nhẹ mái tóc. Một dòng suối đổ tràn vai. Cô đi thật nhanh và lẫn vào dòng người áo trắng. Bà chợt nghe trái tim mình thắt lại một cái đau nhói. Hình ảnh quen thuộc quá!
Cô cháu nói khẽ:
- Con nhỏ Hoa này… coi vậy mà tội nghiệp lắm bà ạ!
- Cháu nói sao?
- Dạ, để hôm nào cháu kể bà nghe…
o O o
Trước cổng trường vẫn đông đúc, nhộn nhịp. Có vẻ như không đổi. Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Thầy trò họ gặp lại nhau. Cô giáo dạy môn Anh văn và cô học trò xinh đẹp tên Hương của lớp Mười A9. Hình như những nét tươi đẹp và tinh anh của mình đều truyền hết cho đứa con gái, Hương hiện ra trước mắt cô giáo, là một phụ nữ trung niên với nét khắc khổ trên gương mặt.
Họ cùng nhau đến kéo ghế ngồi bên một chiếc xe nước mía. Khuôn viên nhà trường trong kia không còn thuộc về họ.
- Hương à, sau ngày ấy, em đã đi đâu
- Thưa cô, em đi kinh tế mới, cùng với ba má và các anh chị em của em. Một nhà sáu miệng ăn, vất vả lắm thưa cô. Nhưng không thể ở lại thành phố vì áp lực nặng nề quá! Tụi em ra sức tập tành trồng trọt, chăn nuôi. Sức vóc học trò yếu ớt, không cày cấy nổi trên sỏi đá. Cho đến một ngày…. Ba của em cuốc trúng mìn và chết trên rẫy. Cả nhà đành trở về thành phố, bươn chải làm đủ mọi nghề để sống tạm. Chỉ có hai năm mà nhà em đã trắng tay, gia sản tiêu tan hết. Em cũng bỏ học luôn.
- Cùng thời gian đó, cô và chồng con của cô cũng trốn đi.
- Cô đã qua Mỹ?
- Phải. Cô và chồng cô làm mọi nghề để nuôi con. Bây giờ cuộc sống đã tạm yên. Em hãy nói tiếp cho cô nghe, sau khi về lại thành phố, em sống ra sao?
- Em cùng mẹ và các anh chị em lây lất qua ngày, rồi cũng xong. Em lập gia đình trễ nhất trong các anh chị em. Con của em là bé Hoa đó thưa cô.
- Cô đã biết, cháu giống mẹ như đúc. Cô đã giật mình khi nhìn thấy cháu. Đúng là hình ảnh của em ngày xưa, không khác một ly.
- Thưa cô, em xin lỗi cô!
- Xin lỗi chuyện gì?
- Chuyện ngày xưa… Em đã cãi lời cô, không chịu cột tóc.
- Cô quên rồi! Nếu cô không quên, cô sẽ còn đau khổ với cái kỷ niệm đau đớn của cô. Em đừng hỏi cô đó là kỷ niệm gì. Để cho nó chìm luôn đi em nhé! Cái hình ảnh em xõa tóc dài, mặc áo dài trắng, thương lắm, chính là hình ảnh của cô, và bây giờ đã là hình ảnh của các cháu.
- Vâng! Nhìn bên ngoài là như vậy, nhưng cô ơi!....
- Sao? Em muốn nói gì?
- Cô ơi! Nếu cuộc đời bình lặng như chúng ta muốn thì chắc sẽ không là cuộc đời. Em tưởng những gì mà thế hệ trước gánh vác thì sẽ không xảy ra cho đời sau. Em tưởng thế hệ con của mình sẽ được may mắn hơn. Nhưng sự thật thì còn tệ hơn nữa…
- Em muốn nói gì?
- Chỉ mới gần đây thôi, một ngày kia em không thấy con của em về nhà. Cháu theo bạn bè trốn đi chơi, nghe lời dụ dỗ và sa vào một cái bẫy buôn người. Chúa ơi! Khi em đến khách sạn thì vừa kịp thấy bọn đó tổ chức cho các gã ngoại quốc chọn lựa các cháu như chọn nô lệ. Em như nổi điên, em phá phách tan nát cái động đó, cùng những bà mẹ khác cứu các con về. Cô ơi, cháu cũng còn chút may mắn hơn những bạn trẻ khác trôi giạt qua xứ người không biết đâu mà tìm. Cô thấy đó, cháu có vẻ ngoan ngoãn thuần hậu, nhưng không thể ngờ, đàng sau lớp áo trắng kia là một kỷ niệm đau đớn. Từ đó em mang tâm bệnh trầm cảm. Em rất buồn, thưa cô!..
o O o
Cô giáo ngày xưa trở lại Mỹ. “Bà trẻ” chỉ chơi với cháu được mấy tuần. Ngoài một vài giúp đỡ vật chất nhỏ nhoi, bà cũng không làm được gì hơn. Đối với gia đình Hương cũng vậy. Bà cảm thấy nặng lòng quá! Khi máy bay rời phi đạo và cất cánh bay lên không, bà bật khóc. Bà bỏ lại những con đường đầy cỏ xanh, những khu xóm nhà cửa chen nhau chi chít, những tòa nhà cao nghễu nghện đứng bên cạnh khu ổ chuột, trông như những anh “đại bàng” hách dịch trước đám dân đen. Rồi thì dòng sông, đồng lúa, rặng núi, khu rừng… tất cả chìm vào màn mây và màn nước trong mắt bà trắng xóa.
Bà ngủ vùi mấy ngày. Trông có vẻ như người bị mệt mỏi vì sái múi giờ. Thật sự bà muốn quên. Bà cũng có cảm giác bị trầm uất như lúc xưa bị người dì họ ra tay xởn tóc. Có một cảm giác mất mát đeo nặng trong trí bà. Nhiều đêm ngủ chập chờn, bà thấy vô số những tà áo dài trắng vờn bay trước mặt, vỡ ra thành những giọng cười hồn nhiên, rồi lại quấn quít quanh người bà, khóc lóc tỉ tê như trong một đám tang làm cho bà ngạt thở.
Khi đã yên tĩnh lại một chút, bà quyết định làm một cái gì. Bà nghĩ từ nay bà sẽ viết sách, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, về những cuộc đời trầm luân của những người phụ nữ bất hạnh. Bà bắt tay vào việc ngay. Con cháu thấy bà hồi phục, ai cũng nhẹ nhõm.
Riêng có đứa cháu ngoại trai của bà, một hôm đã làm cho bà ngạc nhiên khi trao cho bà một bản vẽ và nói:
- Con tặng cho ngoại đó!
- Cái gì đây, thằng cháu cưng?
- Ngoại coi sẽ rõ. Ngoại có ưng ý không? Ngoại dùng nó để làm bìa cho cuốn sách đầu tay của ngoại nhé!
- Được! Nếu “thiết kế sư” vẽ đúng ý ngoại thì ngoại sẽ dùng…
Bà mở tròn đôi mắt. Trên bản vẽ là một tà áo dài mềm mại. Người con gái trong hình tươi tắn, cười hồn nhiên, mái tóc buông dài trên vai. Bà nghẹn ngào không nói được. Cháu của bà, cậu thanh niên sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, nói hớn hở:
- Ngoại à, con đã nghiên cứu rất lâu về chiếc áo dài Việt Nam. Con thấy có nhiều biến cải rất lạ mắt và đầy thú vị. Nhưng cuối cùng, con chỉ chọn kiểu áo này, chiếc áo dài nguyên thủy không kiểu cọ gì cả. Đó là kiểu áo dài của các nữ sinh. Theo con, đó là kiểu áo dài hoàn hảo nhất.
Bà ôm siết đứa cháu trai vào lòng:
- Cám ơn con. Ngoại ưng ý lắm!
- Ngoại có thấy cô gái này giống ngoại ngày xưa không?
- Có! Có! Giống ngoại lắm! Mà… cũng giống rất nhiều người, con ạ! 

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tháng 3/2011

Mimosa cuối mùa
Hoa vàng phai vẻ kiêu sa,
Đưa người sao thấy xót xa trong lòng ?
Người đi vào cõi mênh mông,
Mimosa vàng sẫm bên song cúi đầu !
NM

 Sân trường có hoa vàng Mimosa
Tôi và Chi học cùng suốt bốn năm cấp hai, đến cấp ba, tôi học chuyên Văn còn Chi học chuyên Lý, thời gian gặp nhau chỉ là những giờ trước trống vào lớp rồi sau trống tan trường – ngắn ngủi và nhiều luyến tiếc.
Giờ ra chơi, Chi ít khi ra ngoài. Có lẽ, Chi sợ phải nghe những từ ngữ không hay đám bạn dành cho mình. Tôi cũng từng có lần trách Chi tự ti quá! Tôi nghĩ, mập hay ốm cũng là bản thân mình, cứ mặc kệ người khác nói gì, nhưng hình như Chi không thể vượt qua như tôi bảo. Lúc ấy, Chi nặng khoảng sáu mươi cân.
Có những lần, khi chúng tôi đi cạnh nhau giữa sân trường trước khi tẻ ra mỗi đứa vào một lớp, tôi nghe những tiếng hinh hích cười, những câu đùa cũng chẳng quá ác ý, nhưng chắc làm tổn thương Chi, rằng, chúng tôi đi cùng hệt như một số mười di động. Sau vài lần phải nghe câu nói ấy, Chi tránh hẳn mặt tôi khiến tôi cảm thấy tình bạn của mình bị tổn thương quá nặng. Và, tôi cũng bắt đầu tập thói quen không ngóng tìm cái bóng tròn, cao và đầy nhút nhát của Chi mỗi khi bước chân vào hẳn trong cổng trường nữa. Đó có phải giận không, tôi không chắc, nhưng tôi chắc chắn, có một phần trong tôi – cho dù rất bé – tôi nghĩ, tôi sẽ tôn trọng quyết định của Chi.
Cuối thu – đầu đông, tôi thi thoảng nhìn thấy cái bóng quen quen của cô bạn vẫn cố lảng tránh tôi, Chi có vẻ buồn và nhiều tâm sự. Tôi vài lần nán đợi Chi sau tiếng trống tan trường, Chi cố tránh nhưng rồi cũng phải đối diện trước sự kiên trì và lì lợm của tôi. Tôi hỏi. Chi bảo, Chi thích mặc áo dài hơn, vì hình như mặc lớp áo trắng tinh khôi ấy, trông Chi ít béo hơn. Tôi lại hỏi. Chi cười buồn, bảo, chỉ vài hôm nữa thôi, chúng tôi sẽ được miễn áo dài, sẽ được mặc quần tây, áo ấm để tránh cái rét tê tái mà mùa đông nào rồi cũng như mùa đông nào. Tôi thở dài, thấy chán ngán với cái suy nghĩ thích mặc áo dài chỉ bởi để ít mập đi – theo tư tưởng của Chi thôi, chứ đã mập thì mặc cái gì chẳng mập cơ chứ! Và hôm ấy, tự tôi quyết định rẽ ngang khi chưa đến lúc chào tạm biệt nhau.
Khi những cụm mimosa chưa kịp vàng, nhà trường thông báo, nữ sinh được miễn áo dài. Tiếng rú hét thích thú của đám con gái trường tôi lớn đến độ, át hẳn đi cả cái suy nghĩ bộc phát ngay tức thời của tôi về Chi, về những câu ngắn ngủi Chi từng nói tôi nghe ở cái lần sau cùng – tính đến lúc này – tôi và Chi bước cạnh nhau. Rồi, tôi quên hẳn, không sót lại chút gì trong đầu mình, tôi cỡn lên mà nhảy, mà hét, mà gào thét như những đứa con gái còn ham chạy nhảy tự do như tôi vậy. Chúng tôi được miễn áo dài suốt mùa đông!
Bài tập làm văn tháng ấy, cô chủ nhiệm bảo, cả khối sẽ cùng làm một đề – tả về cây mimosa lâu năm giữa sân trường. Tôi ngạo nghễ tự nhủ với mình, rồi bài văn của tôi sẽ được đọc vào tiết chào cờ tuần kế tiếp. Tôi dành hai buổi ra chơi của mình để ngắm nghía cái thân cây sù sù sì sì, cong cong quẹo quẹo một cách dị biệt ngay trước lớp tôi, nghĩ mà cảm thông cho những đứa chuyên Toán, chuyên Hóa, chuyên Lý, chuyên Sinh… đã ít vốn liếng từ vựng, lại cách quá xa thứ chúng phải tả, lẽ ra, nên để lớp tôi cách xa cái cây này nhất mới phải.
Tôi nhìn, rất rõ, những chúm hoa đang cố trải vàng giữa lớp vỏ bao ngoài xanh xanh, trắng trắng. Tôi nhìn, rất rõ, từng sợi tơ vàng mỏng tang, ngắn cũn của hoa đang cố chòi ra ngoài khoe sắc. Tôi muốn viết. Tôi muốn tả. Tôi muốn kiêu hãnh nói về loài hoa mà gần như chỉ quê tôi mới có – dĩ nhiên là vài nơi khác nữa, có cái lạnh này, có cái sương này cũng có mimosa, nhưng không bao giờ rộ được vào giữa mùa – để nếu bài văn của tôi vươn ra xa khỏi lớp tôi, khỏi khối tôi, khỏi trường tôi, khỏi thành phố tôi, có ai đấy sẽ khát đến Đà Lạt chỉ để nhìn ngắm loài hoa này. Tôi biết, đây là lúc trong tôi bắt đầu thành hình một tham vọng.
Cái tham vọng ấy được thể hiện khá rõ ràng, khá rành mạch trong bài văn dài gần bốn tờ giấy học trò. Cô chủ nhiệm đọc bài văn của tôi trước lớp vào tiết chủ nhiệm cuối tuần. Cô bảo, điểm chín cho tôi là hơi keo kiệt, nhưng để cho điểm mười một bài văn thì cô quả thật chưa dám làm. Tôi có chút ức chế về cái chuyện Văn không bao giờ đến thang điểm mười, nhưng cũng ngạo nghễ cười với cái chuyện bài văn của tôi, cô giáo bảo, đọc rồi, chỉ biết nghĩ đến chuyện đặt bút đỏ và cho một điểm số cao ngất, đến nhận xét, cô cũng thấy chùn tay…
Và, cái tham vọng ấy – cái suy nghĩ đưa bài tập làm văn của mình bay thật cao, thật xa – cái suy nghĩ viễn vông quá trẻ con của tôi bị đập bẹp gí vào sáng chào cờ đầu tuần. Bài văn được đọc trước trường không phải là bài văn điểm chín của tôi. Một bài văn chỉ đến điểm tám khuyến khích của Chi mới là bài được chọn để đọc. Cái phừng phừng nóng giận và tị nạnh khiến tôi không nghe rõ hết những gì Chi viết ra và đang được cô Hiệu phó đọc. Tôi chỉ nghĩ, à, một con bé chuyên Lý làm được bài văn suýt tám nên sẽ được ưu tiên…
Cuối đông, ở những ngày cuối cùng nữ sinh không phải mặc áo dài trắng, cũng là những ngày cái buốt rét thấm cắt thịt da bọn tôi qua từng lớp áo quần dầy cụi, Chi một mình, trong tà áo dài trắng, ngồi tựa mình vào thân cây mimosa trước lớp tôi. Hình như, Chi đang đợi!
Tôi quanh quanh nhìn. Tôi quanh quanh nghe. Tôi có phần thắc mắc khi không một đứa bạn nào gần tôi cười hay nói ra một câu đùa giỡn có thể làm tổn thương Chi. Không! Không đứa nào nói gì cả! Chúng nó cũng như tôi, nhìn về phía Chi như nhìn một thiên thần không cánh đang rong chơi ở xứ sở thần tiên – nơi mà sương và nắng quyện vào nhau bằng cái quyện lạ lùng và đầy huyền ảo.
Tôi hít sâu sau một chút tần ngần, chậm rãi bước lại chỗ Chi vẫn đang tựa lưng vào gốc cây già sù sì màu xám pha trắng. Chi ngước đôi mắt ấng nước nhìn tôi rồi cụp xuống rất nhanh. Tôi chắc chắn, Chi đang che giấu gì đấy. Và, tôi muốn mình phải tìm ra. Bởi, cái thứ Chi giấu quá vội trước tôi, chắc chắn, đang bào mòn Chi một cách khủng khiếp. Bởi, Chi vẫn trong bộ dạng mập ú, đôi má phính hồng nhưng quầng mắt sâu và đen đến tội nghiệp. Tôi nhất định phải tìm ra, dẫu, tự tôi có hỏi mình, tìm ra rồi, tôi biết sẽ phải làm gì đây?
Chi tuyệt không nói gì, cho dù một câu cũng không. Chi trở lại với một Chi rất khác, hay nói, hay cười, thi thoảng lắng lại rất nhanh rồi cũng vỡ ra quá nhanh. Đôi quầng mắt thâm vẫn hằn rõ trên gương mặt Chi bắt đầu xanh xao nhưng không giấu được vẻ tinh anh và yêu đời một cách rất lạ. Chi hỏi tôi, có thể cùng Chi mặc áo dài trắng đến cuối đông hay không? Bởi, Chi không muốn trở thành quá dị biệt. Tôi gật rồi tôi lắc. Hai đứa dị biệt, cũng chẳng có gì hay ho. Tôi tần ngần thêm vài ngày nữa trong khi Chi vẫn thản nhiên vận áo dài trắng, áo len xanh cổ tim giữa cái lạnh cố nuốt chửng con người ta. Vẫn chẳng một lời xì xào nào từ bạn bè cả. Và, tôi cùng Chi mặc áo dài, trong khi tất cả nữ sinh trường tôi vẫn quần tây xanh, áo sơ-mi trắng, áo len xanh.
Vài lần trong số những ngày cuối cùng của mùa đông quá lạnh năm này, vài đứa bạn nhìn tôi và mỉm cười nụ cười rất ý nhị, vẻ như chúng nó cảm phục tôi. Tôi nghĩ, chúng điên cả rồi. Thà cứ cười nhạo. Thà cứ hỏi trắng ra. Thà cứ xì xò tôi điên tôi khùng… Làm cái trò gì mà phải nể phục tôi vì tôi muốn thành một trong hai kẻ quái đản cơ chứ?
Độ mimosa vàng rộ là độ nghỉ xuân. Chi ghé nhà tôi, ngồi cùng tôi chuẩn bị phơi dưa kiệu, hỏi, sáng mai Chi có thể đón tôi, mặc áo dài trắng đến trường ngắm mimosa không? Tôi bật cười, cười khanh khách, hỏi, có khi nào năm sau Chi xin sang lớp tôi học không? Bởi, cái lãng mạn đến không tưởng trong câu Chi vừa nói, vượt xa khỏi những cái đầu hay mơ mộng của những đứa chuyên Văn như tôi. Chi không trả lời, chỉ nhìn tôi và hỏi lại, có thể hay không.
Hình như Chi đã khóc – tôi không chắc lắm, vì, tôi không dám nhìn thêm nữa. Từ sau Chi, tôi nhận ra đôi vai trở gầy bất thường run run, tôi nhìn thấy hai bàn tay vốn từng múp míp nay hằn gân xanh đưa lên miết nhẹ thân cây đến lá cây đến từng cụm hoa nay đã vàng rực rỡ. Tôi thôi không nhìn nữa, vì, lòng tôi dấy lên một nỗi sợ không tên.
Tết, Chi ghé, trao cho tôi một phong bì khá dầy, bảo, đấy là thứ Chi đã đợi để “lì xì” cho tôi. Đấy là bài văn của Chi lần nọ. Tôi đọc nó lần đầu trong thảng thốt – thật sự thảng thốt. Tôi đọc nó lần hai trong nhòe nhoẹt nước mắt – tôi nghe trái tim mình đau. Đoạn Chi tả hoa rất ngắn, đến độ người ta có thể quên ngay. Thứ người ta phải nhớ là những gì Chi tả về một mầm xanh cố vươn lên cho dù biết chỉ đi nửa đoạn đường sẽ gục ngã…
Thầy Hiệu trưởng không từ chối, thậm chí, thầy đồng tình ngay. Tôi vội vã tiến ra sân trường, ngắt nhánh mimosa ươm cái vàng cuối cùng của mùa hoa năm này, lao đến nhà Chi trong giàn giụa nước mắt. Chi nhìn tôi, bằng cái nhìn đẹp và dịu dàng. Chi cố chống hai cánh tay giờ đã gầy như hai que củi, đỡ thân hình tiều tụy đến thảm thương của mình ra, với lấy nhành mimosa tôi vội vàng đem đến. Lúc này, Chi chỉ còn ba mươi tám ký…
Chi đi ngay cuối mùa mimosa sau khi gửi lại cho tất cả chúng tôi cái tham sống của một mầm xanh biết rõ đoạn đường ngắn ngủi của mình. Mimosa sẫm màu nâu nhạt, cúi đầu chào Chi lần cuối trong những tiếng nấc nghẹn ngào.

Nhóm 4.0