Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa sen. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa sen. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Hoa sen Bồ Tát

Mãi tìm...
Với chút lòng thành chút xót xa,
Anh đi tìm lại thuở đôi ta .....
Đoá sen thanh thoát xưa kề cận,
Lòng trĩu u hoài chẳng nhận ra !?..

Chờ đến khi nao gặp lại nhau,
Cảm thông sao hết nỗi thương đau...?
Người xưa đau khổ khô dòng lệ,
Tìm suốt đời anh, em mãi đâu ?!

NM

Hoa sen Bồ Tát

Họ hay gặp nhau ở hồ Kim Đài, trong hồ có nhiều bèo tây và sen. Có thể vì thế mà mỗi lần nhớ cô, anh hay nghĩ về hoa sen, đặc biệt những bông hồng sắp nở. Cũng có thể vì đôi má cô có màu hồng như thế. Cả cặp vú non, nhòn nhọn dưới lớp vải lụa mỏng cũng gợi anh nghĩ đến một cái gì đấy đẹp, tinh khiết và thơm. Cái ấy chỉ có thể là hoa sen.
Chuyện xảy ra đã lâu. Cô là gái quê lên thủ đô học đại học. Anh là con nhà danh giá, giàu có mười đời sinh sống ở đất này. Rồi họ yêu nhau, như phần nhiều những cặp trai gái khác yêu nhau - không quá hời hợt mà cũng chẳng mấy say đắm, nhưng chân thành.
Một tối nọ, ngồi trên chiếc ghế đá ven hồ thưởng thức làn gió mát từ phía sông Hồng thổi tới và hương sen dìu dịu từ hồ bay lên, cô bảo anh cô đã có thai.
Vốn được quá nuông chiều cả từ phía gia đình lẫn bè bạn, anh có cảm giác như mình bị xúc phạm khi phải rơi vào một tình huống thụ động và đột ngột như vậy. Giữa lúc lúng túng không biết nói gì, làm gì, anh đã buột miệng thốt ra một câu ngu ngốc mà vì nó ân hận cả đời:
“Thế à? Em có chắc là con anh không?”.
Cô nhìn anh, đôi mắt mở to đầy kinh ngạc và đau đớn, rồi ù bỏ chạy. Còn anh, như bị trói vào ghế, vẫn ngồi yên, ngồi đến tận sáng hôm sau. Khi anh đến ký túc xá tìm người yêu với ý định xin lỗi và nhanh chóng tổ chức lễ cưới, người ta nói cô đã xin thôi học, bỏ đi đâu không rõ. Từ bấy đến nay hai mươi lăm năm đã trôi qua, và anh chưa gặp lại cô lần nào.
Hồ Kim Đài ngày nay không còn như xưa. Nhỏ hơn nhiều, có đường đi lát đá bao quanh. Chính giữa hồ không hiểu sao người ta dựng chiếc lầu nhỏ tám mái bằng ngói sành màu xanh thẫm. Trong lầu, cao trên bệ đá hoa cương là tượng Quan Âm Bồ Tát tọa trên đài sen màu trắng. Dưới hồ sen vẫn nở, nhưng toàn màu hồng.
Anh, bây giờ đã là một người đàn ông tóc hoa râm, vẫn thỉnh thoảng ra ngồi bên hồ. Ngồi đúng chỗ ngày xưa, nơi anh và cô gái của anh đã ngồi vào cái đêm cuối cùng định mệnh ấy, dẫu bây giờ chiếc ghế đá không còn. Ông sống một mình không vợ con, gia tài bố mẹ để lại tiêu tán hết vào những chuyến đi dài ngày tìm kiếm người yêu. Ông đã thật sự hối hận và đau khổ vì câu nói ngớ ngẩn, không suy nghĩ đó. Lo lắng cho số phận cô gái, và cả đứa con của mình, ông tìm kiếm họ khắp nơi nhưng không thấy.

Mười giờ đêm. Đèn chiếu sáng quanh hồ phụt tắt do đang trong tháng tiết kiệm điện. Dây đèn trang trí màu đỏ trong lầu vẫn sáng, không hiểu từ nguồn nào. Cả bức tượng và đài sen có màu hồng nhạt như những bông sen dưới hồ ban ngày. Ông vẫn ngồi yên, nghĩ về màu hồng đôi má và cả đôi vú nhỏ, nhọn của người yêu năm nào. Hình như đã khuya. Chỉ còn lại một đôi bạn trẻ ngồi bên chiếc ghế cách đấy không xa. Bất giác ông thở dài, thầm mong họ không lặp lại bi kịch của ông.
“Anh xin lỗi. Xin mẹ con em hãy tha thứ cho anh”.
Ông nói với bức tượng Quan Âm Bồ Tát trên đài sen màu hồng giữa hồ. Nếu có thể, ông đã lội nước đến quỳ trước đó mà nói. Rồi ông thành kính chắp tay trước ngực:
“Xin Bồ Tát lòng lành giúp con!... Hãy ban ơn giúp con!...”.
Bất chợt, bức tượng Bồ Tát động đậy. Ngài từ từ bước lại, đặt ông lên bàn tay của mình rồi bay đi.
***  
Sáng hôm sau, ông tỉnh dậy gần một ngôi chùa lạ.Trước mắt ông là một ni cô trẻ, mặc bộ quần áo nhà chùa màu nâu còn mới. Không hỏi, không mời, cô gái lặng lẽ đưa ông vào chùa.
Chùa ở lưng chừng núi, lọt thỏm giữa những tán cây xanh. Phía dưới lác đác mấy ngôi nhà tồi tàn được dựng theo kiểu rất lạ ông chưa thấy bao giờ. Điều này khiến ông nghĩ ông đang ở một nơi nào đấy rất xa. Trước chùa có chiếc bể lớn bằng xi măng giả làm ao, lơ thơ mấy bông sen đang nở như ở hồ Kim Đài. Bất giác nhìn xuống nước, ông thấy mình với khuôn mặt phờ phạt ốm yếu, mái tóc xù, cái lưng gù gù dẫu chưa già và bộ quần áo nhàu nát.
Trụ trì là một sư thầy trạc tuổi ông nhưng trông trẻ hơn nhiều. Bà có khuôn mặt đẹp, đôn hậu đến mức thánh thiện nhưng vô cảm. Bà hồi lâu nhìn ông cũng với vẻ lạnh lùng, vô cảm ấy. Ông không lấy thế làm buồn vì biết người tu hành thường có vẻ ngoài như vậy, dù họ tốt bụng. 
Thay cho câu cảm ơn bình thường, ông nhắc lại hai tiếng “mô phật” của sư thầy khi bà mang tới đĩa khoai luộc và bát nước. Bà lặng lẽ nhìn ông ăn. Nhìn ông còn có một người nữa, đó là Bồ Tát. Ngài đang ngự trên một đài sen bằng đá cẩm thạch màu trắng như ở hồ Kim Đài, ngay gần ông nhưng chắc mải ăn nên ông không nhìn thấy. Ông cũng không nhận thấy khuôn mặt thánh thiện của sư thầy trụ trì có màu hồng hồng trông giống một bông chưa nở. Bông sen Bồ Tát.
Ăn xong, ông tựa lưng vào chiếc tràng kỷ gỗ rồi thiếp lúc nào không biết.
Lát sau, cô gái bước vào:
“Ông ấy đâu rồi mẹ?”.
“Bồ Tát đưa ông ấy về rồi”, sư trụ trì đáp.
“Trông ông ấy tội nghiệp quá”.
“Ừ, tội nghiệp. Bố con đấy”.
Hồi lâu, cô gái mới lên tiếng, giọng bình thản:
“Sao mẹ không giữ ông ấy lại?”.
“Chưa phải lúc. Vì bố con không thấy mẹ đã khóc. Bố con chưa đau khổ đến mức có thể thấy người khác khóc mà không cần nước mắt hay thay đổi nét mặt”

Nguồn: Wapchoi.Mobi

Ngắm sen hồng thắm phương trời lạ,
Lòng chẳng an nhiên, cứ thản nhiên ...!
Lạ thay cũng đoá hồng liên,
Mà sao cảm nhận tâm Thiền khác nhau !! 
NM

Hoa Sen Nơi Cõi Lạ

Hoa sen nơi cõi lạ. Vẫn sống đời thong dong. Vì cội nguồn nhân quả. Ẩn một hồn phương đông.  Lá  tròn  như  cánh lộng. Búp  nở  nụ  cười  hoa. Hạt sương mai rất mỏng. Rơi rụng đọng trên tòa. Bóng như lai thị hiện. Qua tâm cảnh  nên  thơ. Nở  nụ  cười  thánh thiện. Đẹp  như  lòng  bé  thơ. Mặt  hồ  im  ngái  ngủ. Làn  gió  lay  màn  xanh. Làm  lung  linh bóng rủ. Chút nắng vàng long lanh.  Hoa   sen   nơi   cõi   lạ. Vẫn sống đời như nhiên. Búp  hồng  bên  cánh lá. Đứng mĩm nụ cười hiền. Giọt nước trong như ngọc. Gió rung lòng ngất ngây. Khi  mặt  trời  mới  mọc. Hoa lồng bóng hiện bày. Lá xanh bông trắng hồng. Búp xinh như nhật nguyệt. Gối nghiêng đầu hư không. Mĩm nụ cười diễm tuyệt…
Nhớ lại những mùa hè năm xưa mỗi lần về làng, tôi hay ra ngồi bên hồ sen. Ngắm những búp sen vừa nhú lên khỏi mặt nước, cạnh những chiếc lá tròn trĩn như lòng chảo đang ngửa lên đón nắng gió của buổi sớm mai. Trên lòng những chiếc lá đang chứa những giọt sương đêm còn đọng lại. Màu xanh của lá, màu trắng của những hạt sương và mỗi khi làn gió thổi qua làm chao lượn những giọt sương lăn qua lăn lại trong lòng lá sen màu xanh non ấy, lấp lánh dưới ánh bình minh như những hạt kim cương trông thật đẹp.
Xen lẫn giữa những tàn lá sum suê, là những búp hoa sen mới vươn lên khỏi mặt nước, với màu sắc hồng nhạt, đang đong đưa trước gió như những chiếc lồng đèn con. Mủm mĩm như nụ cười e ấp của những thiếu nữ xuân thì. Khung cảnh ấy thật yên bình, khiến lòng tôi cảm thấy bâng khuâng, như quên đi cảnh sống bon chen của hiện tại. Những giây phút ấy đến bây giờ mỗi khi nhớ lại thấy thương nhớ làm sao.
Trong phút giây, cảm thấy lòng mình như đang gặp cõi an lạc nào.  Dưới ao sen, những lá sen, những búp hoa như đang nở nụ cười, như đang chan hòa một niềm vui vì không còn cảm thấy lạc loài nguồn cội, không bị cô đơn nơi cõi lạ. Vì bây giờ đã có người nhìn ngắm, đã có những người bạn đồng hành trên bước đường lưu lạc. Đang san sẻ cho nhau nỗi nhớ niềm thương, để cùng cảm thông trên bước muôn trùng.
Ở làng Mai xóm nào cũng có hồ sen, xóm thượng, xóm hạ, xóm mới và gần đây có thêm xóm Sơn Hạ với cảnh trí thật nên thơ. Có hồ nước lớn, có bóng liễu rủ và có những con đường nho nhỏ đi quanh rất xinh xắn. Không gian ở đây thật rộng khoáng mát và yên tĩnh đang trải dài theo những vườn nho bạt ngàn, những đồng hoa hướng dương khoe sắc đang vươn vai ra ngoài vô tận. Trải dài thêm những nương bắp đậu xanh tươi, nhà cửa thưa thớt, người dân hiền hòa, thật là một cảnh thanh bình. Thật là một khung trời mơ ước cho những ai đã trải qua bao cảnh thăng trầm, long đong của một quê hương chìm ngập trong tang thương, ly tán… Khung cảnh đã vậy thêm nếp sống con người cũng hồn nhiên như cây cỏ. Những Tăng Ni sinh đang tu tập tại đây cũng mang một sắc màu thanh tịnh. Phần đông tuổi còn rất trẻ, đang sống một cuộc sống lý tưởng là đem tình yêu thương để ban phát muôn phương.
Hoa Sen người Tàu gọi là Liên Hoa, còn nhiều tên nữa như Hà Hoa (Hà trì là đầm sen hay ao sen). Tây gọi là Lotus. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là bậc nhất trong các Kinh Pháp khác mà Phật đã thuyết, cũng ví như hoa sen.
Vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
1) Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.
2)  Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
3)  Cọng hoa từ gốc tách riêng không chung cành với lá.
4)  Ong và bướm không bu đậu.
5)  Không bị người dùng làm trang điểm
(xưa đàn bà Ấn Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo). (thích nghĩa của dịch giả Thích Trí Tịnh).
Hoa sen có xuất xứ từ bên Thiên Trúc, bây giờ là Ấn Độ gồm có 4 loại: Loại mang tên Ưu-bát-la có hoa màu xanh. Loại Câu-vật-đầu hoa màu vàng. Loại Ba-đầu-ma hoa màu đỏ. Loại Phân-đà-lỵ hoa màu trắng.
Trong Tứ Thập Nhị Chương kinh, Đức Phật Thích Ca có dạy rằng: Bực Sa-Môn sấn mình vào cõi ô trược nầy, phải gìn giữ thân ý như hoa sen mọc dưới bùn mà chẳng dính nhơ. Đối với hàng phụ nữ, phải có tư tưởng đứng đắn nầy: Già thì coi như mẹ, lớn tuổi hơn thì coi như chị ruột, nhỏ tuổi hơn thì coi như con gái mình. Bởi hoa sen là hoa chẳng nhiễm trược, cho nên Đức Phật lấy đó mà làm biểu hiệu. (Sa-Môn theo âm Phạn là Sa-môn-na (Sramana) có nhiều nghĩa: Căn giả là người luôn làm điều thiện. Tức giả là người dứt bỏ các nghiệp ác. Bần giả là người chịu thiếu, chịu nghèo, chẳng có của cải, chẳng có gì gọi là của mình. Sa-Môn là tiếng gọi những người xuất gia theo đạo Phật.)
Tịnh độ tông cũng lấy hoa sen biểu hiệu cho nơi chốn thanh tịnh trang nghiêm. Trong ao Thất Bảo ở cõi Cực lạc cũng có đủ 4 loại hoa sen ấy, mỗi loại đều tỏa ra hào quang với màu sắc tuyệt đẹp. Mùi hương thơm dịu và tinh khiết.
Trên bàn thờ Phật, dùng hình tròn bằng phẳng của hoa sen, trên ấy có tượng Phật, tượng Bồ Tát gọi là Liên Đài (Đài Sen, Tòa Sen) (theo Tự điển Phật Học của Đoàn Trung Còn).
Trong thập chủng đại nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, nguyện hồi hướng cho chúng sinh cũng có đoạn:
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ …
Vào thời cuối nhà Đường, nhà sư Lục Quy Mông diễn tả nét đẹp của hoa sen qua bài thơ Bạch Liên, có những câu như :
Cố vỉ da mông biệt diễm khi
Thử hoa đoan hợp tại Dao Trì…
(Đừng nên xem thường hoa trắng, che lấp nét đẹp đặc biệt. Hoa nầy kết hợp đầu tiên tại cõi Dao Trì (chú thích HTL)
Dùng hoa sen để diễn tả cảnh vô thường trước vạn vật, chỉ thời gian thấm thoắt thoi đưa, Nguyễn Du cũng đề cập trong Truyện Kiều:
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày vắn, đông đà sang xuân
Trong Gia đình Phật tử Việt Nam, dùng hoa sen để làm huy hiệu, với tám cánh, năm cánh trên tượng trưng cho các hạnh: Tinh tấn, Hỷ xã, Thanh tịnh, Trí huệ và Từ bi và ba cánh dưới chỉ Phật, Pháp, Tăng (tức là Tam Bảo). Với bài ca của Gia đình: Kìa xem đóa sen trắng thơm. Nghìn hào quang chiếu sáng trên bùn. Hình dung Bổn sư chúng ta, lòng từ bi, trí giác vô cùng. Đồng thệ nguyện một dạ theo Phật. Nguyện sửa mình ngày thêm tinh khiết. Đến bao giờ được tày sen ngát, tỏa hương thơm Từ Bi tận cùng.
Trong các đoàn đội của Gia đình, cũng lấy hoa sen đặt tên hiệu. Như Đoàn Sen Trắng, Đội Sen Vàng
*****
Hay bài hát Em Đến Chùa :
Một hôm mồng một đến chùa.
Em đi với mẹ mua vài hoa sen.
Đến chùa dâng cả hồn em.
Lên trên Đức Phật lòng em kính thành…
Ôi đẹp làm sao, một tâm hồn son trẻ trinh trắng, như đóa hoa sen kia em dâng lên lời nguyện. Em nguyện cho tâm hồn trinh nguyên nầy, được mãi mãi trong trắng tinh khôi, như hoa sen kia để được sống một cuộc đời vô nhiễm. Vẫn vươn mình lên khỏi chốn bùn nhơ nước đọng, để còn thấy rằng cuộc đời còn mãi đẹp, cuộc đời là quà tặng. Trân quý và săn sóc thân ý luôn tươi mát và thánh thiện, cũng là một phương cách tự mình tìm về nẻo Đạo rồi vậy.
Theo văn học dân gian, hoa sen cũng là một biểu tượng cao quý và đẹp đẽ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Tinh thần vô nhiễm của hoa sen theo quan niệm nhân gian, cũng không khác gì trong nhà Phật bao nhiêu, nên người đời cũng lấy hạnh của hoa sen để khuyên bảo người sau…
Theo truyền thuyết trong tình tự dân gian, chuyện một chàng trai trẻ xa xưa nào đó, một hôm tát nước đầu đình, làm bộ bỏ quên chiếc áo để may ra có người nhặt được, đem về nhà làm của tin:
Hôm qua tát nước đầu đình.
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin.
Hay là em để làm tin trong nhà

Áo anh sứt chỉ đường tà. 
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.  
Áo anh sứt chỉ đã lâu.  
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công.
Mai mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.
  Giúp cho một thúng xôi vò.  
Một con heo béo, một vò rượu tăm.
Giúp cô đôi chiếu cô nằm.  
Đôi chăn cô đắp, đôi tằm cô đeo.
Giúp cô quan tám tiền cheo.  
Một con heo béo lại đèo buồng cau …
Thì ra cái anh chàng nầy làm bộ bỏ quên chiếc áo nơi đây để mong người nhặt được, để có cơ hội tỏ tình. Chứ thật sự thì chuyện đâu có dễ dàng như vậy? Nội việc bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen, thấy cũng đã không ổn rồi, vì cành hoa sen thì mỏng mãnh yếu đuối, nằm sát trên mặt nước, chỉ đụng nhẹ là cành sen đã chắm nước rồi, làm sao mà chịu đựng với chiếc áo vải thô của anh? Nhưng ý tưởng thì nghe ra rất chi là thâm thúy! Lối tỏ tình kín đáo nầy, cũng rất thơ mộng biết bao. Vì áo rách nhờ khâu rồi trả công bằng quà cưới, thấy tuyệt vời vô cùng. Cho dù có đối tượng hay không, chuyện đó không thành vấn đề, khi mơ thì cứ để cho lòng nó mơ cái đã. Kết quả ra sao thì chỉ biết lạy trời cho giấc mơ của con chóng thành sự thật! Nên khi nghe qua chắc lòng ai đó không nở chối từ. Vì lời tỏ tình tuy hơi kín đáo, nhưng trong lòng thì tha thiết biết bao! Nên mỗi khi nhắc nhở đến, chắc ai cũng muốn trở về tát nước đầu đình, để bỏ quên chiếc áo…!
Hoa sen cũng dùng làm thực phẩm và dược phẩm, như ngó sen dùng làm gỏi hay các món xào nấu cũng “dzách lầu” lắm. Hạt sen dùng để nấu chè:
Thương chồng nấu cháo hạt kê
Nấu canh bông lý, nấu chè hạt sen
Mấy nhà trưởng giả thì lấy tim sen ướp trà, uống trà sen cũng giúp cho việc điều hòa tim mạch và cơ quan tiêu hóa.
Mấy lần ghé vào tiệm thực phẩm Việt Nam mua một gói trà sen, hay mua một ít hạt sen về nấu chè, lòng tôi thấy nhớ quê hương vô cùng. Cái nhớ như quay quắt, như xót đau vì những gì tôi đã sống qua, đã cảm nhận chỉ còn lại một chút kỷ niệm nhạt nhòa ở trong lòng, mà ngỡ tưởng không bao giờ có thể thấy lại. Tất cả đều như mất hút, ngàn trùng.
Cách đây mấy năm, nhân dịp đi nghỉ hè vùng biển La Grande Motte, tôi có ghé xem khu rừng được trồng hàng trăm loại tre trúc, cùng với một số cây cối miền nhiệt đới. Cảnh nơi đây trông giống như một làng quê ở vùng cao nguyên Việt Nam, có mấy nóc nhà sàn ẩn sau mấy bụi chuối, lùm tre, đặc biệt cũng có hồ sen, ao cá. Nhưng sao thấy sen nơi nầy nó không làm tôi xao xuyến, bâng khuâng mỗi khi nhìn ngắm. Có lẽ sen nó qua Pháp không mấy đặc biệt, hay trái lại tôi nghĩ ngày trước họ qua đô hộ nước ta, rồi đem giống về trồng như một tước đoạt của cải người khác, hay là chủ nhân không tha thiết gì với sen. Chẳng qua, họ trồng để làm cảnh lạ cho khách du lịch, vậy thôi. Cho nên thấy sen mà cứ dửng dưng với lòng, thấy cảnh của quê hương mà không có chút nhớ nhung! Âu cũng là cái duyên gặp gỡ mỗi lúc mỗi khác, mỗi hoàn cảnh với sự cảm nhận không giống nhau ấy, mới gọi là “duyên lành”.
Một lần khác sang Ý cũng được nhìn khung cảnh hồ sen ao cá, có nương lúa rẫy bắp, có những căn nhà thưa thớt, mà cảm nhận như đây là quê nhà! Một quê nhà trong tâm cảnh, nhưng cũng an ủi được niềm xa. Nhất là gặp lại những đồng hương và bây giờ thêm tình đồng đạo. Có lẽ hoa sen đến nơi đây, tuy tình cờ nhưng đặc biệt, giản dị nhưng thiện ý của chủ nhân lại có tấm lòng yêu mến. Và đồng hương nơi đây cũng đã ẩn tàng một tấm lòng thiện lành, nên khi xa họ vẫn nuôi dưỡng và chăm bón những tinh hoa, duy trì những nguồn suối mát muôn đời tắm gội, cho hạt giống Từ Bi vẫn còn kết trái đơm hoa. Hay tiếp nối truyền thống muôn đời của tiền nhân, đang dìu nhau hướng về chân thiện mỹ.
Thời gian chỉ vỏn vẹn có mấy ngày, nhưng tôi đã gặp, đã nhận nhiều bài học quý báu, nhất là được học hạnh của hoa sen: Vẫn sống đời như nhiên. Không sạch nhơ đọng lắng. Không phân biệt sang hèn… !  Xin cám ơn những bàn tay, đã xây dựng một chốn Đạo tràng để đón tiếp những người đồng đạo. Cũng như chủ nhân ao sen kia, đã ra công chăm bón cho những đóa sen hồng nầy còn mãi dâng hương sắc cho cuộc đời.
Nhìn ao sen, từng cánh sen đang đong đưa trong gió sớm, nhìn cảnh thanh bình của xứ sở nầy, gặp những đồng hương mà lòng tôi thấy một nguồn an lạc. Nên khi về tôi mang theo về nhiều lắm, những kỷ niệm khó quên.
Trần Đan Hà
coi tien

Tuyển Tập Nhạc Thiền Phật Giáo Hay NHất

Nhạc "Niệm Phật" (Tiếng Việt)

Giã từ thế tục theo chân Phật.
Lòng ngỡ an nhiên trước thế nhân...
Nào hay vẫn cứ bâng khuâng,
Xót xa trước cảnh phàm trần khổ đau !
 NM

Bóng Thiền 
Trong khuôn viên một ngôi chùa nhỏ rêu phong và rợp bóng cổ thụ ở rất xa Kinh thành, Nhật Tôn ăn vận lối hành giả bước đi với dáng vẻ không giống ngài mọi ngày...
    Chuông, mõ và tiếng tụng kinh chiều bắt đầu lan tỏa không gian tĩnh lặng thoảng hương ngâu, hương nhài. Nhật Tôn bất giác chùng bước lại, hít một hơi thở sâu, rồi cũng chắp tay niệm theo. Cảnh vật này đã in đậm trong tâm khảm ngài từ hồi tóc để chỏm, sau những lần theo Thái thượng hoàng tới thăm thú các vùng Long Hưng, Tức Mặc, Vũ Lâm(1). Và cũng tại một chùa quê, ông nội ngài thốt lên những lời tưởng kỳ quặc: "Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách, bỏ lúc nào cũng được", giờ đây ngài chợt như được nghe tiếng nói đó dội về từ một chốn sâu thẳm và ngộ được hết ẩn ý sâu xa của chúng.
    Sau khi truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên, ngài bắt đầu thực tập xuất gia như hằng nguyện. Ngài vừa trải qua một thời gian khá dài sống ở Vũ Lâm giảng cứu Đại tạng kinh, tu tập mười hai hạnh Đầu đà(2). Giờ đây, ngài thỉnh thoảng tới các chùa quê vãn cảnh, tham thiền và khảo cứu tinh thần Phật pháp trong dân gian- như một nhu cầu nội tâm không cưỡng nổi mà ngài chưa tự lý giải được. Cũng có thể do ngài vốn không hề có cảm tình, thậm chí ác cảm với những ngôi chùa to rộng do các vương hầu, chúa đất đổ tiền của xây cất. Hồi còn là một hoàng tử thiếu niên, ngài đã nghe câu chuyện về một đại vương dựng phủ đệ lộng lẫy quá mức, thượng hoàng nghe tin sai người đến xem, ông ta hoảng sợ phải bày tượng Phật để thờ, sau phủ đệ ấy buộc biến thành chùa! Mấy năm qua, kể từ khi giặc Nguyên bại trận lần thứ ba tại Đại Việt, thiên hạ thái bình, thói hưởng thụ đầy thách thức "một người đội ơn vua, cả nhà ăn lộc trời" bắt đầu tác oai tác quái cùng với chùa to phủ lớn, lâu đài cung thất nguy nga đua nhau mọc lên... Hồi chiến sự căng thẳng là thế, nhưng giữa hành cung Vũ Lâm - tổng hành dinh cự giặc của triều đình, ngài vẫn có thể cảm nhận được "mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng lại" (Thấp vân như mộng viễn chung thanh)... Thế mà bây giờ, sao ngài lại cảm thấy một cái gì ngột ngạt, nặng nề?
    Đây là lần thứ hai ngài tới ngôi chùa quê này. Và có lẽ ngài còn phải lui tới đôi ba lần nữa. Không chỉ vì cảnh vật thanh u hợp với tâm tính ngài. Cũng không chỉ vì hứng thú với cuộc chuyện trò cùng sư trụ trì khá thâm hậu trong các công án Thiền và còn giữ nhiều nét dân dã. Càng không phải vì một ni cô xinh đẹp mới xuống tóc. Nhưng thực ra, cái nguyên cớ thật sự chính lại là ni cô kia...
    Lần đầu tiên, lúc ni cô dâng khách hành hương bát nước nụ vối, Nhật Tôn thoáng gặp cái sầu thảm mênh mông vụt hiện trên vẻ thơ ngây thánh thiện của cô. Ngài choáng váng. Ở cô có gì hao hao với công chúa nhỏ Huyền Trân, đứa con gái yêu vẫn chơi đùa cùng thị nữ trong ngự uyển, thường theo ngài tới các chùa vùng Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông dự lễ chay đàn, nghe giảng kinh Phật. Cô gái kia, tuổi trăng tròn, lóng lánh ngọc nữ, mộng mị sương thu lại khoác bộ nâu sòng, chít khăn thị giả và ẩn giấu nỗi buồn héo quặn cả cánh sen gỗ.
    Ta vốn công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng, sống đạm bạc dứt trừ vọng niệm, ngồi trong nhân thế, chẳng quản sự đổi thay đã đành.
    Nhưng còn con, giống như con gái ta, người mà mỗi bước đi bên hoa cũng khiến ta ứa lệ hân hoan.
Mỗi ánh chau mày của con khiến đức Phật trên đài cao cũng mỉm cười độ lượng
    Vì sao con sớm lìa bỏ niềm vui thú nhân gian?

    Nhật Tôn ngỏ lời với sư trụ trì xin được gặp ni cô. Ông thầy chùa nhìn vị hành giả thoáng dò hỏi, rồi gật đầu. Nhưng ni cô đang trong giờ tụng niệm. Ngài đành đứng ngoài chính điện chờ, lầm rầm niệm theo.
    Con ơi, Tuệ Trung Thượng sĩ thầy ta từng dạy: "Khi mê không biết ta là Phật - Khi ngộ thì ra Phật là ta".
    Con hãy làm Phật trong cánh tay vỗ về của người thân.
    Bữa ăn dù chỉ dưa cháo năm thất bát, song thân tâm vui vẻ, giới-lòng còn quý hơn giới-tướng.
    Con đâu cần rũ hết trần duyên để tìm giải thoát nơi khổ hạnh, bởi đó đâu phải là sứ mạng của con!
    Muốn giới - tuệ(3) đâu cần bước vào cỗ xe lớn nhỏ của Phật - Pháp -Tăng?

    Trong lúc chờ đợi, Nhật Tôn ngồi đàm đạo cùng sư trụ trì hồi lâu. Về giáo lý Thiền tông, Tịnh độ tông. Về phong thủy của chùa. Về chư tăng ni, Phật tử quanh vùng. Rồi đến nguyên cớ cô gái quy y Tam Bảo... Nhật Tôn hình dung ra cuộc trò chuyện sắp tới với ni cô.
    - Thầy trụ trì đã kể về con ít nhiều. Nhưng ta muốn nghe trực tiếp từ miệng con.
    - Thưa đại Đầu đà, gia cảnh con buồn lắm, ngài cần biết làm gì?
    - Ai mà chẳng có nỗi sầu bi hở con? Biết đâu chúng ta sẽ san sẻ được cho nhau để vợi bớt...
    - Vâng, nếu vậy con xin kể... Cha con là lính cũ đánh giặc Thát Đát cả hai lần sau. Ông nội con thì ở đoàn dũng binh năm Nguyên Phong thứ ảy...
    - À, đó là năm Thái thượng hoàng của ta rất vui trước niềm tự tin của Thái sư Trần Thủ Độ: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ chớ lo gì".
    - Cả ông nội và cha con đều là gia nô của vương hầu Quý Thịnh...
    - À phải, họ có trang ấp cực lớn phía tây nam Kinh thành!
    - Cha con sau bao trận mạc cùng chủ trở về, thấy chủ được triều đình cấp đất thưởng công hậu hĩ, còn mình lại hoàn nguyên thân phận cũ thì bất bình lắm.
    - Nếu là ta, thì ta cũng bất bình chứ sao!- Nhật Tôn buột miệng.
    Ni cô hơi ngỡ ngàng, thoáng nhìn vị khách lạ. Cô chỉ thấy một bức tượng đá.
    - Nhưng rồi ông cũng an phận, hy vọng được ban chút lộc rơi để dựng lại nếp nhà nhỏ chỉ đợi sập và chăm lũ con ốm o đói rách...
    Cô gái chợt im bặt.
    - Sao nữa, con cứ nói chớ e ngại.
    Cô gái mím môi giây lát rồi bật ra:
    - Vâng, chờ đợi đến tuyệt vọng...
    - Kỳ lạ thế? Ta được nghe kể: vợ chồng vương hầu đó là những người hào hoa, sùng Phật, sẵn sàng cúng hàng trăm mẫu ruộng cho chùa chiền, chi hàng trăm lạng bạc để mời một gánh hát về diễn vở "Bàn đào Vương Mẫu" và các điệu vũ Nghê thường hết đêm này qua đêm khác, rồi cùng bạn quý tộc bốn phương tới thưởng lãm thơ ca, trà đạo, quốc họa Trung Hoa cơ mà?
    - Vâng ạ, họ còn lập hội chơi chim, hội chọi gà, hội tao đàn chuyên ngợi ca chiến tích và họa thơ của các hoàng đế, các bậc khai quốc công thần...
    - Nhục nhã thay!
    Nhật Tôn bất giác thốt lên. Ni cô ngỡ vị hành giả mắng mình thì sợ hãi. Nhưng thấy mình nhầm, cô bèn mạnh dạn tiếp:
    - Nhưng thưa ngài, không ít người dưới quyền họ phải trốn sang các trang trại của địa chủ mới để khỏi bị chết đói và thoát phận nô tỳ...
    - Họ có thoát được không?- Nhật Tôn vẻ nóng ruột lo lắng
    - Dạ, phần lớn bị bắt trở lại, bị hành hạ...
    - Còn cha con và các nô tỳ khác?
    - Cha con tụ tập mọi người tới gặp chủ nô, cắt phăng tay áo để lộ chữ "Sát Thát" nhất loạt giơ lên, kêu to: "Hãy chẩn cấp để cứu sống gia đình chúng tôi!" Trước đó, cha con có nhờ một nho sĩ không đỗ đạt thảo đơn kêu cứu gửi quan phủ, nhưng tờ đơn được chuyển ngay về trang ấp...
    - Kết cục ra sao?
    - Dạ, gia binh của vương hầu và lính quan phủ thả cửa đàn áp. Nông nô bị lột trần treo lên các xà nhà của trang ấp, bị đánh bằng côn, gậy trúc, roi ngựa, roi cá đuối...
    Ngài nhắm nghiền mắt lại, khẽ lắc đầu.
    - Con đã quỳ lết dưới chân chủ nô van lạy...
    Ngài mở bừng mắt ra:
    - Con cứu được cha con chứ?
    Cô gái lắc đầu, ứa nước mắt:
    - Ông bị quy kết là chủ mưu phản nghịch, một tội tày đình mà "nếu không phải bị trừng trị ở trang trại thì đưa lên công đường sẽ không được chết toàn thây". Một quản gia an ủi thế... Mẹ con uất ức lâm bệnh chết. Lo xong mộ phần cha mẹ, con đưa mấy đứa em tới bà con xa gửi gắm, rồi tìm đến cửa Phật. Sư thầy đặt cho con pháp danh Diệu Hạnh...
    Từ lâu nay, Nhật Tôn thường tâm niệm: "Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính", vậy mà giờ đây ngài cảm thấy khó kìm giữ được nỗi căm giận thiêu cháy mọi sự tĩnh tâm thiền định hằng có. Vị thượng tọa nơi đồng nội hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Người khách lạ dáng vẻ uy nghi, trầm tĩnh, thần thái vương giả, trí huệ sáng láng, thông tuệ kinh điển Tam Tạng không kém một vị cao tăng, nhưng sao lại có khoảnh khắc chấn động tâm can dữ dội? Ánh mắt như sắp phóng lửa, đôi vai khắc khổ run lên trong tấm áo gội nắng dầm sương của vị Đầu đà. Rồi cơn tâm chấn cũng mau chóng lặn vào trong. Lúc đó Nhật Tôn vội vã chào ra về, không muốn vô tình làm động chốn thiền môn.
    Chỉ ngay chiều hôm sau, ngôi chùa nhỏ lại đón bước ngài. Câu chuyện về ni cô dường làm ngài già thêm cả chục tuổi! Lại còn chuyện: mấy hôm trước, Quan gia Anh Tông cấp báo cho ngài năm nay lại mất mùa lớn hơn mọi năm, đói rét hoành hành các làng mạc, đây đó người chết đói dọc đường. Trong dân, nhất là hàng ngũ gia nô các thái ấp điền trang nảy nhiều kẻ trộm cướp. Giữa khi có những vương hầu đánh bạc mỗi tiếng bạc đặt tới hàng chục, thậm chí hàng trăm quan, thì dân có người đã phải bán con làm nô tỳ để lấy một quan tiền chỉ mua được ba thăng gạo! Dù ngài đã hồi âm ngay cho Quan gia xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh, song đó chỉ là muối bỏ bể! Lòng người ly tán, nỗi oán hận âm ỉ có cơ loang rộng tận thôn cùng ngõ vắng. Trong lúc đó, phía Bắc, lũ giặc cướp nhà nghề dù có tìm mọi cách thôn tính lẫn nhau nhưng đều ôm mộng làm bá chủ thiên hạ, vẫn đang ráo riết chuẩn bị và tiến hành những thủ đoạn thâm độc nhất để khi có dịp sẽ lập tức ăn tươi nuốt sống giang sơn của ngài.
    Phất mạnh cánh tay áo như để dứt bỏ phiền não, sân hận, Nhật Tôn rảo bước quanh chùa, rồi vào chính điện, hy vọng tìm được ngay ni cô Diệu Hạnh. Ngài sẽ hỏi cô cho ra nhẽ. Chuyện cần được sáng tỏ và đi đến chung cục như mọi đại sự quốc gia ngài đã thực thi. Vương triều đang ở đỉnh cao quyền lực và tinh thần Phật pháp, lẽ nào cứ để ngang ngược chuyện vô đạo! Và cần trả lại công bằng cho cô gái. Cô đã buộc phải xuất gia chứ không hề tự nguyện. Cô cần được trả về sống giữa trần thế, với những gì thiên phú thiên bẩm, và như thế cô mới thực sự là Phật theo cái nghĩa tinh túy mà Đại tạng kinh ẩn chứa...
    Nhật Tôn bắt gặp ni sư trẻ đang lúi húi sắp xếp hương hoa trong Phật điện gần gũi ấm cúng, giữa ánh nến lay động. Ngài chợt sững lại. Mọi ý định, mọi điều muốn nói bỗng tan loãng theo làn hương trầm... Đôi bàn tay tựa búp măng trắng ngà vuốt nhẹ từng cánh hoa. Nét mặt non tơ hồng hào của trẻ thơ. Cái miệng dù rất nghiêm trang mà sao cứ muốn cười, muốn hát. Một cánh hoa mai mang làn gió xuân lạc vào giấc mộng. Phật đâu xa. Cô gái đương hiển hiện là một Quán Âm Bồ Tát. Một sự hoàn hảo thuần khiết làm lồ lộ nhức nhối thêm những ô trọc nhân gian. Thực đáng dâng hiến máu xương trí lực để bảo vệ một vẻ đẹp diệu ảo đến vậy của trần thế. Đâu phải thanh sắc thông thường. Đó là hiện hữu giúp soi tỏ thêm lẽ huyền vi Phật pháp, cái mà bao thế lực hắc ám cùng âm binh trong và ngoài biên giới đương hoảng sợ tìm cách hủy diệt...
    Chính lúc đó, một tin đồn đang rần rật khắp chốn lại hiện về thành lưỡi gươm sắc bổ thẳng vào ngài. Trâu Tôn, một kẻ tự xưng là danh y kiêm đạo sĩ thần thông người Tàu có khả năng chữa bệnh liệt dương bằng phương thuốc: giết đứa bé trai moi lấy mật hòa uống với thuốc dương khởi thạch và thông dâm với phụ nữ là chị em ruột. Vậy mà hắn được không ít bậc thế gia, quý tộc tranh nhau mời đến phủ đệ coi như thượng khách. Hắn vốn là kẻ đi theo quân Nguyên vào nước ta rồi bị bắt cùng đám tù binh. Hắn ở lại Đại Việt lấy vợ sinh con, truyền nghề cho con trai nhỏ là Trâu Canh, chữa bệnh cho các vương hầu, được cấp ruộng và nô tỳ rồi trở nên giàu nứt đố đổ vách. Có ngôi chùa lớn, dưới sự bảo trợ của vương hầu còn mời hắn về dạy các pháp thuật phù thủy, bày cách luyện đan trường sinh bất lão. Triều đình đã có chỉ dụ truy bắt Trâu Tôn, dọa khép tội nặng những ai truyền bá về cách chữa bệnh khủng khiếp cùng những trò bịp bợm đó, song hắn đã là kẻ "bất khả xâm phạm" nhờ không ít nhân vật có "máu mặt" trong - ngoài triều. Và tin đồn về thứ "thần dược" ghê sợ cùng những trò quái đản kia ngày càng len lỏi ăn rễ sâu vào
những tâm hồn bạc nhược mà cơ thể lại sung mãn bởi yến tiệc đàn hát và lòng kiêu ngạo chiến thắng. Nhật Tôn hơi nhăn mặt lại đau đớn. Một cảm giác ghê tởm hóa thành những cô hồn, ngạ quỷ dẫm đạp trái tim Phật của ngài... Ngài đâu thể lường nổi: ngót nửa thế kỷ sau, hậu duệ của ngài là Dụ Tông hoàng đế sẽ mời con trai tên thầy thuốc vô đạo làm hầu cận thân tín, sẽ áp dụng chính phương thuốc kia và dung túng bao che cho Trâu Canh làm đủ chuyện ô nhục - điều đó sẽ được ghi lại trong chính sử như một vết nhơ không thể gột rửa được của triều Trần!...
    Giờ đây, nếu đối diện ni cô, ngài sẽ phải nói gì? Làm sao khỏi chạm vết thương lòng đau nhất của người phải chứng kiến máu túa ướt đẫm nơi hiệu lệnh đồng tâm diệt giặc của cả dân tộc hằn sâu trên cánh tay cha mình? Ngài phải giải thích thế nào về cách ứng xử đốn mạt của kẻ đã từng là "phụ tử chi binh" với cha cô? Ngài phải nhận trách nhiệm như thế nào về mình? Nếu nghiệp của cô gái là phải trở thành Phật trong chùa quê, thì một hành động ép uổng nào đó biết đâu chẳng ném cô vào chốn tu hành khác chỉ diễn các trò phù phép nhằm trục lợi giờ bắt đầu len lỏi khắp Đại Việt?... Trên đầu cô gái như hiện ra ba quầng sáng mà gần đây ngài thường thấy trong mộng, biểu tượng cho ba vòng tròn đồng tâm Việt tính - Nhân tính - Phật tính. Phải làm sao đây cho bách tính hiểu rõ: gốc Việt chỉ được vun đắp và tươi tốt khi lòng nhân sâu bền, và lòng nhân sâu bền chỉ có thể được duy trì chừng nào Phật pháp được chăm lo thực sự, đi con đường đúng đắn. Nhưng thế nào là đúng đắn? Nhật Tôn bỗng hoang mang. Phải chăng triều đại của ngài bắt đầu bước vào thời mạt chính, cũng có nghĩa là kéo theo thời mạt pháp? Chuông chùa thu không đã vang lên Bính... Boong... Bình... Boong... Âm điệu đó tựa lời than thở Hỏng... rồi... Nguy... rồi... Nhưng với ngài trong khoảnh khắc ấy chẳng khác hồi trống ngũ liên báo động thời chiến trận.
    Ni cô vẫn chăm chú công việc. Hết trong Phật điện lại vào tăng đường, rồi ra sân sau chùa, không hề biết có người quan sát mình. Kìa, dáng cô quét dọn nơi thanh vắng còn có lúc như nhảy lò cò - một trò chơi mà xưa kia, có lần ngài thấy trẻ mục đồng ở Tức Mặc đã chơi. Nhật Tôn lúc nép mình vào lưng tượng Kim cương Hộ pháp, lúc vờ xem tượng Ananđà hoặc gốc si sần sùi, trộm ngắm nhìn cô mê mải...
    Ni cô bất chợt đi tới gần, ngài vội giơ tay chắp: "A di đà Phật". Ni cô cúi đầu, chưa hết vẻ e thẹn trinh nữ trước đàn ông, dù đó là một hành giả. Cô chắp tay: "Mô Phật" tựa một hơi thở nhẹ rồi lẹ rảo bước. Ngài đã để tuột mất một cơ hội gặp gỡ trực tiếp. Và biết đâu, đó là cơ hội duy nhất. Trong thoáng chốc, ngài nảy ước muốn chạy theo, nhảy lên phía trước chặn đường để buộc cô trò chuyện, như một người còn ở tuổi tráng niên có thể làm; ni cô muốn nghĩ gì thì mặc, hơn nữa, ngài đâu có nét gì của kẻ ưa sắc dục hoặc lục lâm thảo khấu!
    Nhưng ngài chỉ đứng nhìn theo dường hóa tượng.
    Là một hoàng đế - thi sĩ, ngài đã chứng kiến và ca ngợi bao vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt là nơi thôn trang vùng Thiên Trường. Ngài cũng quá quen thuộc với những cung nữ son phấn, trang điểm từ gót tới đầu, học đi đứng khuê các... Song tận mắt ngài chưa bao giờ được thấy một vẻ đẹp thôn nữ đượm phù sa chân chất, không trâm cài, không vòng ngọc, không điệu đàng mà lại khiến thi hứng dào dạt như bây giờ. Chỉ có điều, đó không phải là thi hứng của một thái tử đang thời kỳ yêu đương và nghiền ngẫm đạo lý, binh thư, hay của một ông vua trẻ khoác chiến bào xậm bụi khói.

    Này con, người xưa đã không muốn dẫm lên vết chân đức Như Lai thì con hãy tránh dẫm lên vết chân của những kẻ giả tu hành, giả Phật, thậm chí họ còn không biết là giả nữa bởi món ăn của kẻ ngoại lai giàu tham vọng thường làm mê muội nhiều thế kỷ.
    Họ mờ mịt như kẻ quay mặt vào tường, con đừng quan tâm đến họ.
    Con hãy làm Phật trên mảnh đất cấy cày phủ sương đêm, trong ruộng dâu tằm ngút ngát, nơi bến sông trăng đập vải, và cùng lắm hẵng làm Phật dưới Tam Quan
    Dù con có là ai thì non sông cẩm tú này cũng thuộc về con, con hãy giữ lấy bằng mọi giá, kể cả cái chết.
Đó không chỉ là sự răn bảo của đấng cao xanh, đó còn là đòi hỏi của bản thể chân thực và thiêng liêng của con trong kiếp này- điều ấy sẽ tạo ra chính mệnh(4).
    Như thế cũng có nghĩa là con sẽ thoát khỏi ma-giới mà bước vào Phật-giới.
    Và có điều ta cần nói, coi như thay lời trăng trối xót xa của cha con:
    Hãy làm mọi điều để hai chữ "Sát Thát" thích sâu trên cánh tay cha khỏi trở thành hư không và biến thành trò đùa cợt của những kẻ chỉ quý miếng ăn và địa vị của bản thân mình...

    Khi cơn sóng thi hứng chưa lắng lại, cặp mắt của vị hoàng đế - thiền sư đã chợt nhòa lệ. Rất có thể đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ngài khóc ra nước mắt.
    Người ghi lại câu chuyện này không rõ Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông có trừng trị vương hầu vô đạo kia và tìm cách đưa cô gái trở về với đời thường hay không, nhưng đoan chắc một điều: cuộc gặp gỡ gần như "vô ngôn" với ni cô Diệu Hạnh trong một ngôi chùa quê đã là giọt nước làm tràn cốc nước, khiến ngài có một quyết định chấn động triều đình và thiên hạ. Ở tuổi ngoại tứ thập, sau khi đã "thận trọng trước sự răn bảo của trời, làm hết phận sự của người" như sử gia Ngô Sĩ Liên đời sau bình luận, ngài rời bỏ tất cả, thượng sơn tới một vùng cao ngất, hoang sơ và nguy hiểm phía Đông Bắc là núi Yên Tử để tiếp tục tu hành. Ngài thực hiện cái di nguyện của ông nội Thiền sư Trần Thái Tông. Cũng là ước nguyện của ngài tự thuở hoa niên... Ngài đã mở ra một dòng mới của đạo Phật, thâm sâu, thuần Việt - dòng Thiền nhập thế Trúc Lâm Yên Tử, và trở thành vị Vua-Bụt duy nhất của nước ta. Lý do sâu xa của hành trạng đó, dù đã có nhiều bậc trí giả xưa nay dày công nghiên cứu giải thích, nhưng cho đến bây giờ vẫn còn là một bí ẩn lớn.

 Nguyễn Anh Tuan
 
Bạch liên
Tặng em đôi mắt ngọc ngà,
Dường như trao cả gấ đời mình !
Em tăng thêm vẻ đẹp xinh,
Khiến cho sen trắng thẹn thùng không hoa ?!
Hay là giếng Ngọc xót xa ?
Thương thân trôi nổi vì hoa đoạ đày !
Tiếng lòng theo tiếng sáo bay,
Mong em hãy giữ mắt thay tim hồng....
Ơn Trời thương kiếp long đong,
Ông tơ se kết má hồng nên duyên !
Lạ thay như có phép tiên,
Bạch liên lại nở triền miên bốn mùa !!
NM 
 

  SEN NỞ BỐN MÙA 
Vùng Thanh Khê có một đầm sen rộng non mẫu Trung Bộ hoa nở suốt bốn mùa. Sen trắng. Chỉ có loại sen trắng mềm mại như lụa bạch mà thôi. Ai đi ngang đầm, dù vội vàng đến mấy cũng phải dừng lại, ít là đôi ba phút, vừa vừa là nửa ngày, nhiều thì từ sáng đến tối để ngắm hoa, thưởng thức hoa, chơi với hoa, đàm đạo với hoa. Kẻ ít chữ thì nhìn những bông hoa vươn cao trên mặt nước đung đưa trong gió rồi lẩm nhẩm đọc mấy câu ca dao thuộc lòng hồi còn con nít. Ấy là,
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Người có học, tức vốn liếng chữ nghĩa kha khá thì vừa thưởng thức sắc hương của loài hoa đồng nội nhưng rất nổi tiếng này vừa hứng thú cất lên bài Chiêm bao thấy hái sen của cụ Nguyễn Du viết thời Người còn trai trẻ ở Thăng Long thành. Thơ rằng,
 Tây hồ hái hoa sen.
 Hoa gương bỏ lên thuyền.
Hoa tặng người mình sợ.
Gương tặng người mình quen…
Sáng nay đi hái sen.
Hẹn cô kia đi với.
Chẳng biết có đến không.
Cách hoa nghe cười nói…
Lá sen màu xanh xanh.
Hoa sen dáng xinh xinh.
Hái sen chớ đụng ngó.
Năm sau hoa chẳng sinh. 

 Bên đầm sen, vào những hôm đẹp trời người ta còn bày rượu, trai gái vừa uống vừa chơi sen, tùy kẻ tục người thanh mà có những câu nói, lời ca, động tác quá trớn hay chừng mực. 
Người làm gì mặc kệ người, sen trong đầm vẫn trắng, vẫn thơm như muôn thuở đã từng thơm, từng trắng như thế. 
Lạ thật. Lạ lắm. Xưa nay, theo lẽ thông thường sen chỉ nở vào mùa hạ, mùa dương khí tràn trề. Thu sang, khi cơn gió đã man mác hơi may, sen lụi dần, tàn tạ dần trong tiết trời se lạnh và đông về thì đầm sen chỉ còn là đầm nước tối, sâm sẩm màu trời buốt giá. Người ta lại mong hè về để còn được ngắm sen. Thế mà, ở đây sen lại nở suốt bốn mùa. 
Chưa ai giải thích được điều lạ lùng ấy. Khá nhiều nhà khoa học về Thanh Khê tìm hiểu nghiên cứu nhưng đều chưa tìm ra nguyên nhân. Bởi, sen trắng Thanh Khê cũng chỉ là sen thôi, giống hệt sen nơi khác, đó không phải là loài hoa lạ. Thấy mấy nhà khoa học đeo kính trắng đi qua, dân bĩu môi bảo nhau, gớm, nghiên với chả cứu, đầm sen này thông với giếng Ngọc trên núi Am nên sen nở bốn mùa. Nước giếng Ngọc là nước Tiên, nước Thần. Thế thôi! 
Những chiều rảnh rỗi, Hạ thường hay ra đầm sen thổi sáo. Sáo trúc, tự làm, mà véo von, bay bổng, trầm lắng vô biên. Chàng trai trẻ có khuôn mặt chữ điền, da trắng hồng và đôi mắt rất giống mắt con gái đẹp, đen lay láy luôn mở to, mở to. Hạ vừa thổi sáo vừa nhìn ra đầm sen. Cái nhìn hiền hậu thân thiện như của chim bồ câu. 
Tiếng sáo bay lên. Một làn điệu dân ca quen thuộc mượt mà. Giai điệu trữ tình tựa vào những vần lục bát nằm lòng làng quê. Bồng bềnh, lênh đênh, tiếng sáo trúc.
Đêm qua tát nước bên đình.
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin.
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh rách chỉ đường tà.
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh rách chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng..
.

Mặt đầm lao xao tiếng gì không rõ. Tiếng nước. Tiếng gió. Những chiếc lá xanh đu đưa như võng. Võng sen. Những bông sen đu đưa như múa. Vũ điệu sen. Mùi hương lan tỏa xa xa. Mùi hoa hay mùi mỹ nhân, thơm bát ngát, thơm dịu dàng. Tuổi thơ ùa về lúc nào chẳng hay. Những nàng Tiên sà xuống giếng Ngọc, bay vào đầm sen cổ tích tuổi chín mười. Của Hạ.
 
Có tiếng chân bước nhè nhẹ. Trên cỏ, tiếng chân bao giờ cũng nhè nhẹ. Nhưng nhè nhẹ kiểu này đích thị là bước chân con gái. Sen tứ quý thì thầm, đúng rồi, con gái đấy! Hạ dừng thổi. Đang rất gần anh có một cô gái trẻ, đẹp như hoa hậu, dò dẫm bước đến. Lạ, là trong tay cô gái có một chiếc gậy điện tử dò đường. Chắc bị khiếm thị rồi, Hạ nghĩ. 
Hạ đứng lên, bước nhanh đến chỗ cô gái, em cũng đi…ngắm sen à? Không, em đi “nghe” sen anh ạ, cô gái cười nói. Nụ cười thấp thoáng nỗi buồn. Hạ biết mình lỡ lời, nói khẽ, em ngồi xuống đây nhé! Vâng, em muốn nghe sen thơm và cũng muốn nghe anh thổi sáo. Anh thổi cho em nghe lại bài gì anh vừa thổi đấy, giọng cô gái thoảng nhẹ như ngọn gió chiêm. Hạ nhìn cô gái, khuôn mặt trái xoan thanh tú, làn da mịn hồng, mái tóc dài đen mượt. Quá đẹp, quá hoàn hảo. Thế mà, đằng sau chiếc kính thời trang là đôi mắt bị hỏng. 
Một nỗi thương cảm dâng lên ngàn ngạt trong lòng Hạ. Không hỏi gì thêm, chàng trai nâng sáo trúc lên môi, thổn thức thổi lại làn điệu dân ca vừa rồi…
Áo anh rách chỉ đường tà.
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh rách chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công.
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho…
 
Hạ nghe rõ tiếng nấc khẽ bên cạnh. Giọt giọt nước mắt chảy xuống trên má cô gái. Kìa, tại sao em khóc? Hạ ngừng thổi. Không có gì đâu anh, anh tiếp tục thổi đi, anh thổi sáo hay quá, hay chẳng kém chi nghệ sĩ Đinh Thìn anh ạ. Giọng cô gái quyện vào mùi thơm của hoa sen. 
Phía chân trời rền lên một tiếng sấm. Gió thổi mạnh hơn. Rào rào, rào rào. Tiếng lá sen bị gió quạt mạnh nghe lấp phấp, ràn rạt. Mây đen kéo đến rất nhanh. Nhanh hơn mọi cơn mưa mùa hạ thông thường. Sấm nổ vang tai. Sét chém ngang dọc trên bầu trời vần vũ. Cô gái sợ quá, nhoài qua ôm chặt lấy Hạ. Mưa bắt đầu rơi. Hạ kéo cô gái đứng dậy, theo anh, vào lều trông sen trú tạm. Cô gái luýnh quýnh không bước nổi. Mưa đã nặng hạt, tới tấp quất vào hai người. Hạ bế cô gái vào chiếc lều gần đó. Mưa đổ như trút nước bốn bề. 
Xuân, đến bây giờ thì Hạ đã biết tên cô gái, ngồi sát vào anh. Nỗi sợ hãi đang bao trùm người đẹp. Hai bàn tay với những ngón búp măng mịn màng của cô gái ôm lấy đôi tai. Khi có tiếng sét nổ cô gái lại giật mình thon thót. Hạ an ủi, đừng sợ quá thế em, chỉ là mưa giông bình thường thôi mà. Giọng cô gái ấm bên tai Hạ, may mà có anh không thì em chết khiếp mất với cơn mưa đột ngột này. 
Mưa vẫn phủ trắng cánh đồng. Hạ nhìn ra ngoài, không thấy đầm sen đâu nữa. Gió, chẳng hiểu do nguyên cớ gì ngày càng dữ tợn lồng lộn hơn. Một luồng xoáy bất ngờ ập đến, Hạ có cảm giác như sắp bị gió bứng ra khỏi chỗ ngồi, Xuân run cầm cập ôm chặt lấy chàng trai. Lốc rồi, nằm xuống em, Hạ thét lên. Chàng trai ôm lấy cô gái nằm xuống. 
Trên mặt bùn ướt nhoẹt chỉ còn hai người ôm nhau. Túp lều bị gió cuốn bay đi mất. May sao, trời cũng bắt đầu tạnh, gió giảm dần rồi ngưng hẳn. Hạ kéo Xuân dậy, cười tươi, tai qua nạn khỏi rồi em ạ, em ở đâu để anh đưa em về… 
Nhà của Xuân không xa đầm sen mấy. Ngôi biệt thự hai tầng nằm ở rìa làng, Hạ đã từng thấy nhưng chưa bao giờ đi qua đó. Cơ ngơi hoành tráng của những người giàu có vẫn là chốn xa lạ của chàng trai nghèo này. Hạ thi đậu đại học y khoa nhưng đành phải gác lại ước vọng của mình vì mẹ ốm đau liên miên. Hạ nghĩ, gia đình bố mất sớm, có hai chị em, chị thì đã lấy chồng rồi, chỉ còn mỗi mình ở nhà, cố làm một thời gian giúp mẹ và gom góp ít vốn liếng rồi vào học cũng chưa muộn. Hạ làm gia sư cho con trai một ông chủ buôn bán bất động sản trên phố. Dạy thêm toán lý hóa cho cậu ấm, mỗi tuần ba tối, mỗi buổi được trả hai trăm nghìn đồng. Tháng kiếm được hai triệu tư, cộng thêm tiền thưởng của ông chủ do kết quả học tập của cậu ấm khá lên trông thấy, ngót nghét cũng ba triệu. Kẽo cà kẽo kẹt như thế cũng đã ba năm rồi thế mà Hạ vẫn chưa gom góp đủ tiền để bước tới giảng đường bởi mẹ ngày càng ốm yếu hơn vì bệnh tật… 
Xuân mời Hạ vào nhà nhưng chàng trai từ chối. Rụt rè và ái ngại là bản tính của Hạ. Người phụ nữ giúp việc nhà Xuân chạy ra rối rít cảm ơn và đon đả mời Hạ “ở lại ăn cơm với em” nhưng chàng trai một mực không chịu. Chàng hẹn lúc khác…Cuộc gặp gỡ tình cờ chiều nay cả Hạ và Xuân chưa nói gì về mình nhiều. Xuân còn là một sự bí mật đối với Hạ. Ngồi bên Hạ, Xuân mang nét hiền hòa rất con gái nhưng thỉnh thoảng chàng trai thấy cô gái cau mày tỏ vẻ khó chịu khi nghe tiếng chim hót, tiếng ếch kêu và lộ rõ sự bực bội khi chị giúp việc chạy ra cảm ơn Hạ. 
Nỗi băn khoăn ấy bị chìm lấp vào nỗi lo bệnh tình của mẹ ngày một tăng lên trong Hạ. Chàng trai không còn thời gian và sự thanh thản để ra đầm sen ngồi thổi sáo nữa. Chàng nhớ đầm sen và hình như có chút bâng khuâng khi nghĩ về Xuân. Nhưng, với cậu, lúc này không có gì quan trọng hơn mẹ. Có nhiều đêm không ngủ, Hạ lặng lẽ ra sân cầu Trời khấn Đất phù hộ cho mẹ mau khỏi bệnh. 
Một buổi chiều, chị giúp việc nhà Xuân chạy đến tìm Hạ, giọng hốt hoảng, gay rồi cậu ơi, cái Xuân…Hạ giật mình, Xuân sao hả chị? Xuân bị ốm, mấy hôm nay bỏ cơm, em nó bảo nhớ không chịu nổi nữa rồi tiếng sáo của cậu. Chị giúp việc thì thào, nó bảo tôi đi gọi cậu cho nó, rõ khổ, Xuân ốm tương tư rồi cậu ơi! Cậu tranh thủ đến với em nó đi…
Hạ nhờ cô hàng xóm trông mẹ giúp, chàng trai lấy xe đạp chở luôn chị giúp việc đến nhà Xuân. Trong căn phòng đầy đủ tiện nghi, trông Xuân như một tiểu thư đài các, có gì đó khác với hôm ở bên đầm sen. Cô gầy và xanh. Nghe tiếng chào của Hạ, Xuân bật ngay dậy rồi nức nở khóc, anh, tại sao anh lại bỏ em mà đi đâu biền biệt thế? Hạ lúng túng, đâu có, anh bận một số việc. Không có bận gì đâu nghe, từ bây giờ anh là của em rồi, em chỉ yêu anh thôi, mỗi mình anh thôi, em ghét tất cả, ghét tất cả, giọng Xuân chợt căng lên khác thường. Hạ tưởng mình nghe nhầm, em ghét tất cả, tại sao lại thế Xuân, lẽ nào cô ấy đang mê sảng. Chàng trai nghĩ thầm trong bụng. Có tiếng gà trống gáy ngoài sân. Xuân cau mày hét lên, tôi ghét tiếng gà, chị Tâm đâu, ra đuổi nó đi ngay. Hạ nghĩ, chắc Xuân bị một thứ bệnh gì đó thuộc về thần kinh. Nhưng không phải thế. Xuân đầy nữ tính, thật dịu dàng, hồn hậu khi ngồi bên Hạ. Cô ấy chẳng khác gì một con chim bồ câu khi nghe tiếng sáo bổng trầm của Hạ. 
Gặp dịp, Hạ đem thắc mắc của mình hỏi chị giúp việc. Chị Tâm không dấu giếm gì kể hết cho Hạ nghe về Xuân: Cô ấy là con gái út của một ông đại sứ của ta đang ở nước ngoài. Hai vợ chồng họ mua đất và xây biệt thự này cho Xuân ở và thuê tôi trông coi chăm sóc cô gái vốn bị mù từ nhỏ. Đôi mắt Xuân nhìn bên ngoài vẫn bình thường, đẹp nữa là khác, song cô chẳng thấy gì. Sống trong bóng tối, hình như Xuân thù ghét tất cả người và vật có đôi mắt sáng. Khi tiếng sáo của cậu vọng tới đây, Xuân bất chấp lời căn ngăn của tôi để đi tìm người thổi. Cô ấy gặp cậu ở đầm sen và chỉ yêu mỗi mình cậu mà thôi. 
Nghe chị Tâm kể thế, Hạ thực sự bàng hoàng. Câu chuyện này hình như mình đã nghe đâu đó. Cứ như là chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa ... 
Xuân yêu Hạ. 
Bốn mùa đi qua bình lặng. 
Sen vẫn nở trắng bốn mùa. 
Mùa đông năm ấy, mẹ Hạ không vượt qua được bệnh tật ra đi ở tuổi năm mươi lăm. Hạ khóc chảy cả máu mắt. Chị gái Hạ ngất xỉu đi bên quan tài mẹ. Lần đầu tiên Xuân đến nhà người mình yêu. Chị Tâm đi theo cùng. Cả hai đều rơi nước mắt. 
Đau đớn đến bao nhiêu thì con người ta cũng phải cố sống. Hạ cũng thế, chàng trai nén nỗi đau đang bào xót tâm can mình để làm việc. Những chiều trống vắng hoang hoải, Hạ lại ra mộ mẹ. Một nén hương, mấy bông sen trắng. Hạ rủ rỉ chuyện trò với mẹ. Chàng trai lại lấy sáo trúc ra thổi. Điệu khúc khác, thê lương, buồn nẫu.
Vậy thôi, nấm cát là là.
Bia khắc tên mẹ chữ nhòa mắt con.
Ở đâu mẹ giữa mất còn.
Tìm đâu mẹ giữa chon von đất trời?
Cái buồn ở với mồ côi.
Ai che lối gió, ai bồi nẻo mưa…
 
Thôi con, mỗi người một mệnh, sống thác thế nào đều do Trời định, làm sao cưỡng nổi. Mẹ đã được về với bố. Chỉ thương chị em con côi cút trần gian. Chị con có gia đình riêng, dẫu sao cũng được chia sẻ đùm bọc chở che. Bố mẹ thương con ăn ở một mình, học hành dang dở. Thương con nhiều lắm mà không biết làm gì con ơi! Bên tai Hạ văng vẳng lời mẹ. Giọng của mẹ làm sao Hạ quên được. Nhè nhẹ buồn buồn. Như cuộc đời mẹ vậy. 
Xuân càng nặng lòng với Hạ hơn. Trong thăm thẳm bóng tối, cô hình dung Hạ là một chàng trai tuyệt đẹp. Đẹp như hoàng tử trong câu chuyện cổ tích mà thời bé mẹ hay kể cho cô nghe. Cô ao ước mắt mình được sáng ra, dù chỉ mấy giây thôi để được ngắm chàng hoàng tử đẹp trai và thổi sáo rất hay của mình. Hoàng tử ơi, lúc ấy, chàng biết không, em sẽ dùng ánh mắt mình đắm đuối vẽ lại chân dung chàng. Bắt đầu từ đâu nhỉ? Ánh mắt mình sẽ lượn theo dáng hình cao ráo, cân đối của chàng. Sẽ mơn trớn lâu hơn trên vòm ngực rộng rãi thoáng đãng dâng lên như sóng của chàng. Không còn gì hào hứng hơn khi đôi mắt mình chạm vào đôi mắt chàng, đôi mắt hoàng tử mang màu gì nhỉ? Đen hay nâu? Nâu hay đen? Thôi nhé, em sẽ chọn cho hoàng tử của em màu đen. Thuần Việt. Không pha tạp Âu Mỹ gì cả nhé. Đôi mắt màu đen dìu dịu chàng ạ và nó chỉ được say đắm ngắm em thôi đấy. Mũi phải cao cao, thanh thanh. Miệng chàng phải hơi rộng một chút, bởi em nghe người ta bảo đàn ông miệng rộng mới sang. Thế thôi, em chỉ cần hoàng tử của em được như thế thôi. Và, em tin rằng Hạ của em đang sở hữu những đường nét như thế. Nghe giọng nói, tiếng sáo thần diệu của chàng em tin chàng không thể xấu được, nhất là đôi mắt. 
Khi xa Hạ, Xuân thường đặt tay lên ngực mình và có những thổn thức lãng mạn như thế. Lúc ấy, dường như tim cô đập mạnh hơn, Xuân nghe rõ tiếng máu chảy thao thao trong động mạch, ngực người đẹp chợt căng đầy và những cơn sóng lạ bắt đầu dâng dâng nơi phần mềm mại nhất của nàng. Xuân thiêm thiếp dần trong nỗi lâng lâng ngào ngạt, cuộc sống hiện ra trước đôi mắt trong trẻo lành lặn của cô. 
Giấc mơ ấy trở thành hiện thực sau đó một năm. 
Một người giấu tên đã hiến tặng đôi mắt của mình cho Xuân. 
Ca thay mắt hoàn hảo nhất trong lịch sử y học thế giới đã mang lại vẻ đẹp cũng rất hoàn hảo cho Xuân. Đôi mắt bồ câu đen láy không những hài hòa mà còn tôn lên vẻ đẹp tươi sáng của khuôn mặt trái xoan, chiếc mũi dọc dừa, vành môi trái tim luôn mọng đỏ của cô gái. Vóc dáng của Xuân thì đến các hoa hậu đất Việt từ trước tới nay có lẽ cũng phải chào thua. 
Người mà Xuân mong gặp nhất sau khi nhìn được trở lại, không phải ai hết chính là Hạ. Em chờ mong giây phút này từ lâu rồi hoàng tử ơi. Hoàng tử đừng trễ hẹn nhé và nhớ mang theo chiếc sáo thần của mình nữa đấy. Em muốn vừa được ngắm vừa được nghe chàng thổi sáo. Không được thổi bài buồn đâu nhé. Thổi bài đầu tiên em gặp anh bên đầm sen tứ quý ấy.   
Đêm qua tát nước bên đình.  
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.  
Em được thì cho anh xin.
Hay là em để làm tin trong nhà.  
Áo anh rách chỉ đường tà.
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.
Áo anh rách chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công.
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho… 
Một chàng trai tuấn tú như trong mường tượng của Xuân bước vào nhưng tay lại cầm chiếc gậy dò đường. Bó hoa hồng đủ hai mươi bốn bông, bằng tuổi Xuân được chàng đưa cho cô. Tặng em. Chúc mừng em. Giọng quen. Rất quen. Nhưng, đôi mắt của chàng chỉ còn lại hai cái hốc sâu hoắm. Khuôn mắt cô gái tối sầm lại, anh là ai ? Bạn của Hạ, chàng trai run run trả lời. Thế Hạ đâu? Xuân sững sốt hỏi. Anh ấy đi xa rồi, Hạ nhờ tôi mang hoa này đến tặng cô và bảo tôi nói với cô rằng: Đôi mắt là tài sản quý giá của con người, hãy giữ gìn nó. Nói xong câu ấy, chàng trai quay lui bỏ đi rất nhanh, chiếc gậy dò đường gõ lốc cốc, lốc cốc xuống sàn hành lang, vang dội. 
Mấy tháng sau, Xuân kết hôn với con trai một thứ trưởng. 
Đầm sen Thanh Khê không còn ra hoa nữa, dù là mùa hạ, mùa dương khí tràn trề. Những bậc cao niên trong làng mang lễ vật ra đầm cúng bái mấy lần nhưng chẳng ăn thua. Dân làng xì xào, chắc có ai đó làm điều chi rất sai trái nên Thần Tiên oán giận. Người ta còn rỉ tai nhau rằng, đêm nào trên giếng Ngọc cũng có tiếng lao xao rất lạ. 
Hạ trở thành người thổi sáo rong. Cùng chiếc gậy, chiếc sáo trúc, chàng trai lang thang hết nơi này qua nơi khác. Tiếng sáo trúc của Hạ làm nao lòng thiên hạ, ai đã một lần nghe thì khó mà quên được. Họ mong được trở lại để nghe lần hai, lần ba, nghe mãi. Tiếng sáo như lòng người, cố nén, cố quên đi những nỗi đau sâu thẳm để giữ được sự hồn hậu trong trẻo của tình yêu con người.  
Em được thì cho anh xin.
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh rách chỉ đường ta.
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.  
Khi không thổi sáo thì anh cất lên tiếng hát, bài hát do anh làm ra, 
 Em đã thấy ban mai, em đã thấy màu bình minh trong những nụ hồng sớm, em đã thấy mặt trời sáng trên cao và những ngọn đèn sáng trong ngôi nhà kín gió, thấy rõ ngôi sao và những con đom đóm. Có thấy rõ trái tim anh đang rơi nước mắt. Nước mắt. Nước mắt. Nước mắt. Nhưng không sao, không sao, không sao đâu người đẹp, em hãy giữ đôi mắt của mình, hãy giữ ánh sáng của mình. Ánh sáng… 
Nước mắt của một cô gái mua bán đồng nát trên phố rơi xuống cây sáo trúc của Hạ. Cô đặt gánh xuống, nói với Hạ, anh thổi sáo hay, hát hay nhưng buồn quá. Hạ giật mình, đâu có, tôi bằng lòng với cuộc sống của mình mà. Anh, đừng giấu em nữa, em biết hết cả rồi. Xa xôi gì mà không biết chứ. Em cũng là người Thanh Khê, dân đầm sen tứ quý đây mà anh. Liên, con bà Nhân đây mà. Ờ Liên, Liên lúm đồng tiền xóm ngoài phải không? Đúng rồi đó anh, mẹ em bảo, con gái mà có lúm đồng tiền thì rất duyên nhưng lận đận lắm. 
Như sự sắp đặt của ông Trời, Hạ và Liên trở nên thân thiết với nhau rồi thành chồng vợ. Ngày ngày, Liên không đi mua bán đồng nát nữa mà cô theo Hạ hát rong. Dắt díu nhau đi từ chỗ này đến chỗ khác, như vậy cũng đã được vài năm, có vốn liếng kha khá, giờ đây Liên bàn với Hạ nên trở về quê làm ăn, rồi còn sinh con đẻ cái nữa chứ. Chả nhẽ, cứ lang thang như dân Di gan thế này à, Liên cười cười bảo Hạ. 
Hai người trở về làng Thanh Khê sống. Liên trồng hoa, dệt khăn. Hạ làm sáo trúc và dạy thổi sáo cho bọn trẻ trong xóm. Trời cho đôi vợ chồng hiền này một thằng cu kháu khỉnh như Tiên đồng, hội tụ đầy đủ những nét đẹp, nét duyên của bố và mẹ. Cặp mắt thằng bé đen láy trong veo và có cả đôi lúm đồng tiền trên má. Hai người đặt tên cho nó là Phúc An. Ngôi nhà xinh xinh của họ luôn đầy ắp tiếng cười, tiếng hát, tiếng sáo và tiếng trẻ con ríu ra ríu rít. 
Một điều kỳ lạ nữa là sen trong đầm làng lại nở hoa suốt bốn mùa. Cánh sen trắng muốt như lụa. Thỉnh thoảng, Hạ và Xuân bế con ra ngoài đầm ngồi chơi thổi sáo, theo sau là bầy con nít lốc nhốc vừa đi vừa cười đùa vui vẻ. Tiếng sáo của Hạ vút cao trong trẻo. Liên bế con ngồi bên chồng, khuôn mặt bừng tươi ánh sáng hạnh phúc. Xúm quanh là lũ trẻ thôn quê hồn nhiên chạy nhảy tung tăng. 
Một hôm, Liên nói với chồng, anh ạ, hôm nào chúng mình lên núi Am thăm giếng Ngọc nhé! Vì sao thế em? Hạ hỏi. Giọng Liên thoáng nhã như làn hương bay từ đầm sen lên, mẹ em đi hái củi và sinh ra em ở đó. Giếng Ngọc là nơi khai sinh của em đấy, chồng ạ! 
(Theo Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý)