Ảo mộng,
Cả tuổi thơ con nằm trong ảo mộng,
Mộng ươm mầm cho những giấc mơ xa...
Mộng phủ mơ bằng giọt nắng hiền hoà,
Con mơ mãi vì con cần có mẹ !
Mẹ đã đến và đi trên cầu mộng,
Lắp loá vàng những sợi nắng như tơ...
Mẹ của tôi cuộc sống thật như mơ,
Áo tầm xuân lẫn trong vườn hoa dại,
Mẹ đã đi và mẹ đi xa mãi...
Xa cõi đời nghiệt ngã lắm gian truân,
Con mãi mơ và thấy mẹ rất gần,
Như mẹ đến rồi đi trên cầu Mộng !!
NM
Mộng ảo
1. "Rơi từ chiếc cầu mộng 
Của đêm xuân
Tôi thức giấc"
Đó là những câu thơ mà mẹ tôi ưa thích. Thực ra đó là một bài thơ dài, nguyên văn là:
"Rơi từ chiếc cầu mộng
Của đêm xuân
Tôi thức giấc
Trên trời một áng mây
Đã rời xa đỉnh núi
     Nhưng hễ mẹ tôi cho tôi chép bài thơ này - trong một cuốn vở học 
sinh có kẻ ô rất nhỏ màu xanh nhạt - thì bà chỉ đọc cho tôi chép ba câu 
đầu tiên. Đó là để giản lược đi một gánh nặng cho đứa bé mới học đọc học
 viết như tôi. Nhưng cũng có thể vì bà chẳng muốn cho tôi phải có một 
cảm thức u buồn của sự biệt ly mà bài thơ ấy nói rõ trong hai câu cuối 
ngay từ khi tôi còn quá bé bỏng. Bà chỉ muốn tôi hiểu được bài thơ và 
yêu nó ở cảm thức dịu dàng của những mơ hồ và bí ẩn của một kẻ mơ mộng 
vừa tỉnh thức. 
Nhưng bài thơ này có lẽ chỉ mãi về sau tôi mới hiểu một cách rõ ràng như
 vậy. Đó là khi tôi đã trở thành người lớn. Có thể là tôi đã hiểu một 
cách khô khan quá đỗi về ý nghĩa của bài thơ. Khi đã hiểu vào một tầng 
nào đó trong những lớp ngữ nghĩa thì có lẽ tôi có thể nhớ một bài thơ 
rất lâu. Rồi thì tôi sẽ gán ghép nó với một triết lý nào đó của cuộc 
sống. Có thể rằng khi đó tôi mặc nhiên nghĩ rằng ồ, bây giờ mình mới 
hiểu. Nhưng thực ra đó là cách hiểu của một người đã già nua. Tôi vẫn 
thích cảm giác của tôi khi ban đầu được chép bài thơ mà mẹ tôi đọc ở bên
 song cửa bằng cái giọng thanh thanh của bà. Khi đó tâm trí trẻ thơ của 
tôi chỉ tràn ngập những giấc mộng. 
Mẹ tôi đặc biệt quan tâm đến các giấc mộng bé thơ của tôi. Ngay từ khi 
tôi còn là một đứa bé tí xíu, nghĩa là khoảng 5 tuổi gì đó, bà ôm tôi 
vào lòng và ngồi lặng trước cái bàn gỗ ở trước khung cửa nhìn ra vườn 
rợp bóng những cây nhãn vào mùa hạ đang nở hoa thơm lừng. Bà chép ra một
 cuốn vở nhỏ, đó là cuốn vở của riêng bà về những giấc mộng của tôi. Tất
 nhiên khi đó tôi còn quá nhỏ và chưa biết chữ. Nhưng tôi vẫn nhớ những 
câu chuyện này là vì khi bà chép thì bà đọc lại cho tôi nghe. Những giấc
 mộng thời bé tí xíu của tôi thì có gì là ghê gớm đâu. Đại loại tôi kể 
cho mẹ nghe rằng tôi đã mộng thấy "một rừng ti mẹ". Hay là tôi đã mộng 
thấy "chỉ toàn là nhà và mẹ". Còn bà thì cần mẫn ghi lại những giấc mộng
 bé tí và đơn giản như thế. Bà rất thích thú khi nghe lại câu chuyện về 
những giấc mộng của tôi. Mỗi sáng, khi chải tóc cho tôi bằng một cái 
lược bằng ngà, bà thường âu yếm hỏi: Hôm nay con mơ thấy gì hả con trai 
của mẹ? Và tôi cố gắng nhớ lại một giấc mộng êm đềm nào đó của tuổi thơ 
và kể lại cho bà. Tất cả những giấc mộng này được ghi chép đầy đủ, ngay 
sau đó vào cuốn vở Mộng. 
Đó là giai đoạn đẹp đẽ nhất của cuộc đời tôi. Khi mà tôi còn quá bé và 
thế giới của tôi chỉ có mẹ là quan trọng nhất. Khi tôi có thể lũn cũn 
chạy quanh nhà, đi ra vườn, thăm thú mấy chú gà thơ thẩn bới đất kiếm ăn
 hay lơ láo nhìn một con chó con mắt đen láy và ướt rượt. 
Tôi cũng muốn kể lại ở đây ngôi nhà của tôi. Đó là một ngôi nhà gỗ điển 
hình của vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng thay vì chỉ có ba gian thì nó rất 
rộng, với năm gian và hai chái. Mái lợp ngói mũi hài. Trần để trống và 
tôi có thể nhìn thấy những miếng ngói hình chữ nhật xếp ken với lớp gỗ 
làm xương của mái nhà. Những cây cột đều làm bằng gỗ lim đen bóng, tròn 
và to. Mỗi cây cột đều có câu đối. Cánh cửa nhà cũng làm bằng gỗ lim, 
chắc chắn và nặng nề. Chỉ trừ mùa đông lạnh giá, còn thì suốt những 
tháng còn lại, nhà của tôi mở cửa rộng. Tất cả các hành lang đều lộng 
gió từ bến sông thổi ùa vào. Và cây lá trong khu vườn xung quanh nhà tỏa
 ra hơi thở mát dịu của mùa hạ. 
Tôi muốn nói thêm rằng ở trong một khung cảnh như thế tôi thường ngủ rất
 ngon và ít khi nằm mộng. Một giấc ngủ bằng thẳng và trôi lướt như một 
cánh buồm no gió. Nhất là khi những cơn gió mát lạnh của đêm bay lượn 
quanh tôi và mẹ thì ôm tôi thật chặt đến nỗi cằm của bà ấp vào đầu tôi 
còn toàn bộ cơ thể của bà áp chặt vào người tôi. Đến nỗi tôi chỉ cảm 
thấy sự ấm áp và mềm mại của cặp vú cùng đùi của bà. Bà thường kể cho 
tôi nghe câu chuyện duy nhất, đó là giấc mộng khi bà hoài thai tôi. Và 
sau đó, cơn ngủ nhanh chóng nhấn chìm tôi trong một giấc mộng êm ái. 
Nhưng rồi tôi cũng biết thế nào là tan vỡ mộng tưởng. Đó là lần đầu 
tiên, vào năm tôi 6 tuổi, trong một đêm ngủ ngon giấc trong lòng mẹ, tôi
 bị lôi dậy và quăng vào một xó. Trong khi tôi ngơ ngác chưa kịp hiểu 
chuyện gì đã xảy ra thì ba tôi nắm áo mẹ kéo lên, trong cơn điên hay cơn
 say, ông hét lớn, đập phá và tát mạnh vào gương mặt tái xanh của bà. 
Ông còn tiếp tục đấm đá túi bụi vào đầu mẹ tôi. Đó không phải là lần đầu
 tiên và là lần cuối cùng bi kịch này xảy ra. Nhưng với tôi là lần đầu 
tiên. 
Trong lần tan vỡ mộng tưởng này, tôi hầu như không còn nhớ được cảm giác
 gì. Tôi không thể nhớ là mình đã khóc, đã gào thét hay đã chết lặng đi.
 Nhưng có một cảm giác mà tôi nhớ rất rõ, đó là mẹ tôi cố gắng thoát ra 
khỏi sự bạo hành của cha để chạy đến bên tôi và bịt mắt tôi lại. 
Hốt nhiên, tôi nhớ lại hai câu thơ cuối của bài thơ về chiếc cầu mộng mà mẹ hay ru tôi hàng đêm:
"Trên trời một áng mây
Đã rời xa đỉnh núi"
Từ đó tôi bắt đầu có ác mộng. Trong cuốn vở Mộng mẹ có ghi lại những ác mộng của tôi. Tuy nhiên, bà không hỏi tôi về những ác mộng ấy. Bà chỉ lặng lẽ ghi lại. Một dòng chữ còn nhòe mực mà tôi ngờ là bà đã khóc khi chép lại một ác mộng của tôi cho thấy vào một đêm nào đó, tôi đã hốt hoảng khóc trong mơ và đến khi tỉnh lại thì mày mặt xám xanh, chân tay co quắp. Trong một giấc mộng không lành khác, tôi đầm đìa mồ hôi và miệng liên hồi gọi mẹ. Tôi thì nhớ rất lâu những ác mộng của mình. Bởi vì tôi mộng thấy ma quỷ, những bóng áo trùm màu trắng hay màu đen đi lướt quanh mình và xung quanh bao la mênh mông là hoang vắng. Một giấc mộng hồi bé tí mà tôi rất sợ, đó là mộng thấy đang đi thì bước hụt xuống hố. Và thế là từ từ lăn xuống dốc. Một sự hụt hẫng đáng sợ. Kèm theo đó là cảm giác ngực bị đá đè. Có một điều đáng nói là sau sự kiện kinh khủng nói trên, tôi chẳng bao giờ mơ thấy những giấc mộng vui vẻ nữa. Cho đến khi bắt đầu mơ thấy những ác mộng và tỉnh lại trong đêm thì tôi mới biết rằng mẹ tôi thường thức trắng đêm. Bà chẳng có một giấc ngủ hay mộng nào cho ra hồn. Và trong đêm mẹ tôi thường nằm lặng lẽ khóc. Nước mắt của bà chảy tràn ra gối ướt đẫm. Hồi đó tôi còn bé quá nên cứ tưởng rằng khi khóc, người ta phải than van thành tiếng. Giống như tôi vậy. Nào ngờ con người ta chỉ khóc được thành tiếng khi họ còn bé và khi họ mất cha mẹ thôi. Còn thì đa phần người đời khóc không có âm thanh. Thậm chí chẳng còn nước mắt. Nhưng tôi biết mẹ tôi khóc là vì khi tỉnh ngủ, quờ tay tìm mẹ có khi tôi chạm phải cái gối đẫm nước mắt. Cũng có khi thì tôi rờ được vào dòng nước mắt đang chảy xuống từ đôi mắt đẫm lệ trong đêm của mẹ tôi. Khi đó, còn rất bé nhưng tôi đã cảm thấy được nỗi đau đớn của bà tuy chúng là nỗi đau không lời. Chao ôi, giờ đây tôi lại có cảm giác là những giọt nước mắt của bà nóng rát. Vào một năm tháng nào đó tôi chẳng còn nhớ rõ - có lẽ là khi tôi đã đi học - tôi quyết định biến những ngày tháng của tôi thành những ngày tháng của ảo mộng tươi đẹp. Tất nhiên không phải vì tôi toàn mộng thấy sự tươi đẹp để mà sống như mộng ảo. Nhưng tôi muốn biến những giờ khắc ngắn ngủi bên cạnh mẹ tôi thành hạnh phúc, khi vào buổi chiều, ánh sáng còn đủ lọt qua khe cửa và hai mẹ con lại ngồi trước cái bàn nhỏ, khi bà muốn ghi lại những giấc mộng của tôi thì tôi liền sáng tác ra những mộng ảo mới. Con đã nằm mộng và con mơ thấy mình hóa thành bướm. Bướm cứ bay nhởn nhơ và bay nhởn nhơ. Con mơ thấy con bay giữa cả một cánh rừng hoa - Tôi nói và mẹ tôi chăm chú ghi chép lại. Con đã mộng và con thấy những cánh rừng mở rộng trước mắt con, ngoài kia là bến sông. Trên sông có sẵn một chiếc thuyền có buồm. Buồm nâu và không có một miếng vá nào. Nó không giống mấy cái buồm vá ngoài kia đâu mẹ ơi. Con trèo lên và thuyền bay đi rất nhanh rất nhanh. Đến nỗi con chỉ cảm thấy có gió lướt bên tai con, gió thổi u u... thế này thế này - Tôi làm bộ chun mũi vào thổi cho mẹ nghe thấy tiếng gió. Con đã mộng và con mơ thấy...
Con đã mộng và con mơ thấy...
Con đã mộng và con mơ thấy... Tôi đã phải suy nghĩ để sáng tác ra những ảo mộng tươi tắn cho mẹ tôi. May thay những giấc mộng mà tôi nghĩ ra cũng đủ phong phú và sống động đến nỗi mẹ tôi hoàn toàn tin đó chính là những gì mà tôi đã nằm mơ thấy. Bà ngày càng cảm thấy hứng khởi khi chép lại những giấc mộng của con trai. Tuy rằng công việc của bà trong nhà cũng khá bận rộn, và không phải chiều nào hai mẹ con tôi cũng có thể thư thái ngồi trong góc nhà để ghi chép lại các giấc mộng. Tôi cũng dần thích thú với trò chơi này của mình và thậm chí tôi còn tin là chính tôi đã mơ mộng như thế thật. Trong các câu chuyện về các giấc mộng, tôi đã mô tả lại cho mẹ tôi tất cả những gì mà tôi thấy. Những cây lá ngoài vườn, những con ong cần cù hút mật, những chú kiến đi lại lăng xăng kiếm mồi, con thạch sùng tặc lưỡi trên mái nhà, cây nhãn ngoài vườn đang nở hoa, vài bông hồng đang sắp tàn sau một ngày rạng rỡ, những cơn giông bất chợt mà tôi thấy trên bến sông. Tôi cũng kể cho mẹ tôi thấy hành trình của tôi trong những cuộc phiêu du trong mộng ảo tưởng tượng của tôi. Và mẹ tôi bắt đầu dạy tôi học ngày càng nhiều hơn. Có một điều là tất cả những thứ mà bà dạy tôi, đặc biệt là thơ, chỉ toàn là thơ về các giấc mộng. Bài tập viết của tôi sau bài Chiếc cầu mộng là bài Quán bên đường. Tôi rất thích các bài tập viết này vì nó hầu như luôn là ba câu thơ ngắn. Chẳng hạn như: "Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương" Mẹ tôi duy trì các bài tập viết của tôi, ngay cả khi tôi đã mười mấy tuổi, bà vẫn muốn luyện chữ cho con trai của mình. Mẹ nói tôi phải luyện chữ cho đẹp và phải viết ngay hàng thẳng lối nhưng vẫn mềm mại. Bà bảo "Nhìn nét chữ là biết ngay nết người" - Tuy nhiên, càng ngày tôi càng thích các bài tập của bà vì bà đã cho tôi chép những bài thơ khó hơn và thực sự thì chúng ngày càng quyến rũ hơn. Bà cho tôi chép cả một chùm thơ Mộng mà tôi còn nhớ lõm bõm mấy bài sau đây: -
"Trên trời một áng mây
Đã rời xa đỉnh núi"
Từ đó tôi bắt đầu có ác mộng. Trong cuốn vở Mộng mẹ có ghi lại những ác mộng của tôi. Tuy nhiên, bà không hỏi tôi về những ác mộng ấy. Bà chỉ lặng lẽ ghi lại. Một dòng chữ còn nhòe mực mà tôi ngờ là bà đã khóc khi chép lại một ác mộng của tôi cho thấy vào một đêm nào đó, tôi đã hốt hoảng khóc trong mơ và đến khi tỉnh lại thì mày mặt xám xanh, chân tay co quắp. Trong một giấc mộng không lành khác, tôi đầm đìa mồ hôi và miệng liên hồi gọi mẹ. Tôi thì nhớ rất lâu những ác mộng của mình. Bởi vì tôi mộng thấy ma quỷ, những bóng áo trùm màu trắng hay màu đen đi lướt quanh mình và xung quanh bao la mênh mông là hoang vắng. Một giấc mộng hồi bé tí mà tôi rất sợ, đó là mộng thấy đang đi thì bước hụt xuống hố. Và thế là từ từ lăn xuống dốc. Một sự hụt hẫng đáng sợ. Kèm theo đó là cảm giác ngực bị đá đè. Có một điều đáng nói là sau sự kiện kinh khủng nói trên, tôi chẳng bao giờ mơ thấy những giấc mộng vui vẻ nữa. Cho đến khi bắt đầu mơ thấy những ác mộng và tỉnh lại trong đêm thì tôi mới biết rằng mẹ tôi thường thức trắng đêm. Bà chẳng có một giấc ngủ hay mộng nào cho ra hồn. Và trong đêm mẹ tôi thường nằm lặng lẽ khóc. Nước mắt của bà chảy tràn ra gối ướt đẫm. Hồi đó tôi còn bé quá nên cứ tưởng rằng khi khóc, người ta phải than van thành tiếng. Giống như tôi vậy. Nào ngờ con người ta chỉ khóc được thành tiếng khi họ còn bé và khi họ mất cha mẹ thôi. Còn thì đa phần người đời khóc không có âm thanh. Thậm chí chẳng còn nước mắt. Nhưng tôi biết mẹ tôi khóc là vì khi tỉnh ngủ, quờ tay tìm mẹ có khi tôi chạm phải cái gối đẫm nước mắt. Cũng có khi thì tôi rờ được vào dòng nước mắt đang chảy xuống từ đôi mắt đẫm lệ trong đêm của mẹ tôi. Khi đó, còn rất bé nhưng tôi đã cảm thấy được nỗi đau đớn của bà tuy chúng là nỗi đau không lời. Chao ôi, giờ đây tôi lại có cảm giác là những giọt nước mắt của bà nóng rát. Vào một năm tháng nào đó tôi chẳng còn nhớ rõ - có lẽ là khi tôi đã đi học - tôi quyết định biến những ngày tháng của tôi thành những ngày tháng của ảo mộng tươi đẹp. Tất nhiên không phải vì tôi toàn mộng thấy sự tươi đẹp để mà sống như mộng ảo. Nhưng tôi muốn biến những giờ khắc ngắn ngủi bên cạnh mẹ tôi thành hạnh phúc, khi vào buổi chiều, ánh sáng còn đủ lọt qua khe cửa và hai mẹ con lại ngồi trước cái bàn nhỏ, khi bà muốn ghi lại những giấc mộng của tôi thì tôi liền sáng tác ra những mộng ảo mới. Con đã nằm mộng và con mơ thấy mình hóa thành bướm. Bướm cứ bay nhởn nhơ và bay nhởn nhơ. Con mơ thấy con bay giữa cả một cánh rừng hoa - Tôi nói và mẹ tôi chăm chú ghi chép lại. Con đã mộng và con thấy những cánh rừng mở rộng trước mắt con, ngoài kia là bến sông. Trên sông có sẵn một chiếc thuyền có buồm. Buồm nâu và không có một miếng vá nào. Nó không giống mấy cái buồm vá ngoài kia đâu mẹ ơi. Con trèo lên và thuyền bay đi rất nhanh rất nhanh. Đến nỗi con chỉ cảm thấy có gió lướt bên tai con, gió thổi u u... thế này thế này - Tôi làm bộ chun mũi vào thổi cho mẹ nghe thấy tiếng gió. Con đã mộng và con mơ thấy...
Con đã mộng và con mơ thấy...
Con đã mộng và con mơ thấy... Tôi đã phải suy nghĩ để sáng tác ra những ảo mộng tươi tắn cho mẹ tôi. May thay những giấc mộng mà tôi nghĩ ra cũng đủ phong phú và sống động đến nỗi mẹ tôi hoàn toàn tin đó chính là những gì mà tôi đã nằm mơ thấy. Bà ngày càng cảm thấy hứng khởi khi chép lại những giấc mộng của con trai. Tuy rằng công việc của bà trong nhà cũng khá bận rộn, và không phải chiều nào hai mẹ con tôi cũng có thể thư thái ngồi trong góc nhà để ghi chép lại các giấc mộng. Tôi cũng dần thích thú với trò chơi này của mình và thậm chí tôi còn tin là chính tôi đã mơ mộng như thế thật. Trong các câu chuyện về các giấc mộng, tôi đã mô tả lại cho mẹ tôi tất cả những gì mà tôi thấy. Những cây lá ngoài vườn, những con ong cần cù hút mật, những chú kiến đi lại lăng xăng kiếm mồi, con thạch sùng tặc lưỡi trên mái nhà, cây nhãn ngoài vườn đang nở hoa, vài bông hồng đang sắp tàn sau một ngày rạng rỡ, những cơn giông bất chợt mà tôi thấy trên bến sông. Tôi cũng kể cho mẹ tôi thấy hành trình của tôi trong những cuộc phiêu du trong mộng ảo tưởng tượng của tôi. Và mẹ tôi bắt đầu dạy tôi học ngày càng nhiều hơn. Có một điều là tất cả những thứ mà bà dạy tôi, đặc biệt là thơ, chỉ toàn là thơ về các giấc mộng. Bài tập viết của tôi sau bài Chiếc cầu mộng là bài Quán bên đường. Tôi rất thích các bài tập viết này vì nó hầu như luôn là ba câu thơ ngắn. Chẳng hạn như: "Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương" Mẹ tôi duy trì các bài tập viết của tôi, ngay cả khi tôi đã mười mấy tuổi, bà vẫn muốn luyện chữ cho con trai của mình. Mẹ nói tôi phải luyện chữ cho đẹp và phải viết ngay hàng thẳng lối nhưng vẫn mềm mại. Bà bảo "Nhìn nét chữ là biết ngay nết người" - Tuy nhiên, càng ngày tôi càng thích các bài tập của bà vì bà đã cho tôi chép những bài thơ khó hơn và thực sự thì chúng ngày càng quyến rũ hơn. Bà cho tôi chép cả một chùm thơ Mộng mà tôi còn nhớ lõm bõm mấy bài sau đây: -
"Nhớ nhung người
Nên trong giấc ngủ
Đã tìm thấy nhau
Nếu biết là trong mộng
Không thức nữa đâu".
Nên trong giấc ngủ
Đã tìm thấy nhau
Nếu biết là trong mộng
Không thức nữa đâu".
"Nhớ thương vô bờ
Đêm đen như huyền ngọc
Em nằm bơ vơ
Khoác lên người áo trái
Mơ về ai trong mơ".
Đêm đen như huyền ngọc
Em nằm bơ vơ
Khoác lên người áo trái
Mơ về ai trong mơ".
 
Đôi khi tôi dừng lại hỏi mẹ: Thế nào là "Đêm đen như huyền ngọc". Mẹ tôi
 cười. Bà tên là Ngọc. Khi ấy, tôi mừng biết bao khi thấy mẹ tôi có một 
niềm vui. Thực ra mẹ tôi rất đẹp, răng bà đều và trắng bóng. Và nụ cười 
làm gương mặt của bà sáng lên. Bà rất ít khi cười. Bà chẳng giải thích 
cho tôi đêm đen như huyền ngọc là thế nào, nhưng từ đó, đêm đen như 
huyền ngọc gắn với nụ cười của mẹ tôi. 
Tôi bắt đầu học Truyện Kiều. Mẹ tôi là người có thể đọc Truyện Kiều
 bằng hai cách, đọc xuôi từ câu đầu tiên cho đến câu cuối cùng. Và đọc 
ngược lại. Tôi không hiểu vì sao mà mẹ tôi có thể thuộc làu câu chuyện 
thơ dày và có nhiều từ khó hiểu này. Nhưng mẹ bắt đầu dạy tôi hàng đêm 
bằng cách vừa kể chuyện theo kiểu diễn nghĩa nôm cho tôi hiểu và vừa đọc
 thơ minh họa. Bà luôn bắt đầu bằng câu mở đầu: 
 
"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Rồi bà lặng đi một lúc. Sau đó mới kể tiếp. Về sau này tôi biết là cứ 
mỗi khi lặng đi như thế là bà rơi lệ. Làm sao có thể cứ khóc như thế vào
 mỗi đêm khi đọc Truyện Kiều? 
Nhưng rồi thì kết cục của tất cả mọi câu chuyện của bà xung quanh nàng 
Kiều cũng lại quy về các giấc mộng. Bà kể cho tôi nghe về các giấc mộng 
của nàng Kiều. Giấc mộng mấy lần nàng gặp Đạm Tiên. Hay là Đạm Tiên báo 
mộng cho nàng. Tôi nghe và trong trí óc non nớt ngây thơ của tôi khi ấy 
hình dung ra cảnh một người đẹp xương mai vóc hạc là Đạm Tiên hiện lên 
trong giấc mộng Thúy Kiều. Hai người đẹp và những giấc mộng buồn bã báo 
hiệu cả một kiếp đời thiếu may mắn. 
Sau này, khi tôi đã thuộc phần nào Truyện Kiều thì tôi và mẹ 
cùng ôn lại những giấc mộng trong đó. Thỉnh thoảng mẹ tôi lại bói Kiều. 
Đó là lúc không có một ai trong nhà ngoài hai mẹ con. Mẹ tôi đốt một lò 
hương và một khay trầm đặt trên bàn. Hương khói nghi ngút bay lên rồi 
trôi bảng lảng khắp nơi. Mẹ tôi đọc một câu thơ dài trong đó tôi nhớ lõm
 bõm mấy câu "Lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều" và nhắm mắt lại, 
mở khẽ khàng một trang của cuốn Truyện Kiều đã cũ mèm tuy vẫn còn đủ gáy. Rồi thì bà từ từ mở mắt ra, đọc câu thơ mà ngón tay của bà đã trỏ vào đó. 
Thường thì những lần bói Kiều làm mẹ tôi rất buồn. Vì bà hay bói phải những câu thơ đại loại như: "Đường xa ngẫm lại nỗi mình mà kinh" hay "Thương thay thân gái dặm trường"...
 Mẹ tôi thành kính tin vào những cuộc bói thơ như vậy đến nỗi tôi cũng 
phải lây lan sự thành kính của mẹ tôi với cuốn sách nhỏ kia. Bà tin rằng
 cuốn sách kia, trang thơ kia đã vận vào đời bà từ kiếp nào xa lăng lắc 
và giờ đây nó chỉ nói ra những sự thực cay đắng. Tôi cũng đành tin là 
như thế, tuy rằng khi ấy tôi còn bé quá và chẳng hiểu gì về kiếp người 
hay thân phận. 
Mẹ tôi đặc biệt trân trọng Tố Như tiên sinh. Bà gọi tác giả Truyện Kiều
 như thế tuy rằng rất ít người vào thời đó còn dùng chữ "tiên sinh". Bà 
bảo sinh thời, ông hay nằm võng. Nằm đu đưa đu đưa. Được vài lượt thì 
đọc một hồi truyện Kiều lên, sau đó chép lại. Cứ thế mà viết dần viết 
dần cho đến câu thơ cuối cùng. Hết ngày này sang ngày khác. Tôi tin rằng
 mẹ tôi mơ hồ hiểu Nguyễn Du. Bà cho tôi chép một bài thơ của Nguyễn Du 
làm trên sông La Phù. Một dòng sông nhỏ bé, nằm ở miền Trung và nước của
 nó có màu xanh đặc trưng của các dòng sông ở đây do chảy qua những rặng
 núi đá và đổ về biển cả. Một đêm ngồi trong thủy các trên sông La Phù, 
Nguyễn Du viết: "Mở đôi mắt mộng trăm năm hỡi - Nén nỗi lòng đau cố lý ơi". 
Từ đó tôi chợt hiểu khi dạy truyện Kiều cho tôi, mẹ tôi hay nói chuyện 
về mộng ảo là như thế. Thực ra thì bài thơ viết trên thủy các ở sông La 
Phù ấy nguyên văn chữ Hán và mẹ tôi có chép cho tôi chữ "khai nhãn mộng"
 trong cả câu "Trần thế bách niên khai nhãn mộng" ấy ra một tờ 
giấy hoa tiên bằng mực nho. Chữ của bà không sắc sảo nhưng rất mềm mại 
và quyến rũ. Tôi vẫn còn giữ thủ bút của mẹ tôi. Tôi chẳng biết thủ bút 
đầu tiên của Nguyễn Du khi ông viết bài thơ này như thế nào nhưng "khai 
nhãn mộng" quả là một câu thơ đầy ẩn mật.  
2. "Ôi con mực phủ
Nằm ngủ quên trong bẫy
Mơ màng thấy ánh trăng"
Nằm ngủ quên trong bẫy
Mơ màng thấy ánh trăng"
 
Đó là một bài thơ mà tôi thích. Tất nhiên nó cũng nằm trong danh mục các
 bài thơ mà mẹ tôi vẫn thường dạy cho tôi qua các bài tập viết năm nào. 
Tôi chẳng biết Basho đã viết bài thơ về con mực phủ kia trên đoạn nào 
của cuộc hành trình dài dằng dặc của ông, trên con đường về thăm lại cố 
hương Ueno và đi Nagoya hay trong cuộc du hành lên phương Bắc nổi tiếng 
dài 2.500 km để kết thúc ở Edo sau khi đã rời cố đô Kyoto vào năm ông 45
 tuổi. 
Mẹ tôi chỉ cho tôi chép mà chẳng dạy gì cho tôi về ý nghĩa uyên ảo của 
bài thơ này. Cho tới khi tôi gặp được thầy tôi. Thầy bảo: Ai cũng như 
con mực, tất cả đều sa vào bẫy và đều mơ màng thấy ánh trăng của đời 
mình. 
Tất cả những điều này được tôi hiểu ra khi tôi đã trưởng thành. Khi đó, 
tôi tình cờ tìm lại được trong di cảo của mẹ tôi sau khi bà đã từ giã 
cõi đời rất lâu một cuốn vở mà trong đó bài thơ về con mực phủ được chép
 một cách trân trọng ở hàng đầu. Đó là một cuốn vở Mộng. Nhưng là của mẹ
 tôi. Bà đã viết nó vào những đêm không ngủ. Tôi phải cố gắng đọc ra tất
 cả các ghi chép trong cuốn vở này. Tuy rằng điều đó rất khó khăn vì 
thời gian đã quá lâu, giấy đã ố vàng và từng trang muốn rơi rụng, có chỗ
 mực bị mờ đi. Tuy nhiên nét chữ của mẹ tôi thì vẫn mềm mại như bà mới 
dừng tay ở đâu đây. 
Cuốn vở ghi chép lại tất cả các giấc mộng của cuộc đời thiếu nữ của mẹ. 
Thời gian kể từ khi bà còn là một cô bé con trường tỉnh, kế đó là cuộc 
sống ở trường trung học. Khi bà thầm yêu. 
Có những giấc mộng thú vị. Ví như bà viết rằng mơ thấy bà biến thành 
nắng. Nắng lấp lóa vàng và trải dài ra như những sợi tơ. Rồi đột nhiên 
bà hiện nguyên hình thành một cô bé con mặc áo có đốm hoa tầm xuân và 
đứng trong một vườn hoa đầy dây leo dại. Giấc mộng này làm cho tôi khi 
nào đứng trong nắng cũng có cảm giác đang ở trong vòng tay êm ái của mẹ 
tôi. 
Có nhiều giấc mộng bà gặp trong đó người bạn cũ đã chết cách đây nhiều 
năm của bà. Chỉ có điều mẹ tôi viết rằng bà không thể nào chạm vào tay 
của người bạn ấy trong mộng dù bà rất mong muốn. 
Một giấc mộng mà tôi thuộc làu, đó là giấc mộng êm đềm khi bà hoài thai 
ra tôi. Nhưng có lẽ tôi cũng chẳng nên viết ra đây làm gì nữa. Nó là kỷ 
vật riêng của tình mẫu tử. 
Chỉ có một ác mộng được ghi lại trong cuốn vở Mộng. Đó là giấc mộng đêm 
hôn lễ. Bà viết: Hôn lễ kết thúc, cô dâu và chú rể vào phòng hoa chúc. 
Nhưng khi động phòng thì cô dâu bất tỉnh. Nàng như đã chết. 
"Thắt giải khăn màu vàng
Linh hồn nàng tự sát
"Thắt giải khăn màu vàng
Linh hồn nàng tự sát
Âm thầm một đám tang" 
Rồi tỉnh lại - bà viết, hóa ra là ác mộng.
"Em sợ hãi, em sợ hãi, sợ hãi quá chừng"
Những dòng sợ hãi sợ hãi này được viết nho nhỏ và run rẩy, tựa hồ như nó cũng đang run sợ vì cơn ác mộng vừa qua...
Và đó là giấc mộng cuối cùng được chép ra trong cuốn vở Mộng của mẹ tôi. Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn vở Mộng của mẹ tôi nhiều lần để cố gắng hiểu thêm về bà. Tất nhiên những hiểu biết này cũng đều là mông lung vì khi mẹ tôi mất đi, tôi còn ít tuổi quá. Bà hầu như chẳng nói gì với tôi về cuộc đời lặng lẽ của mình. Tuy nhiên tôi cũng hiểu lờ mờ rằng dường như mẹ tôi thật khó sống trên cõi đời nghiệt ngã này vì rằng bà thuộc thế giới của những giấc mộng. Dù sao thì tôi cũng cho khắc những lời này lên tấm bia đá thô sơ ở mồ mẹ tôi. "Đến và đi trên cầu mộng".
Ngày 25/1/2003 V.B.H
    
Rồi tỉnh lại - bà viết, hóa ra là ác mộng.
"Em sợ hãi, em sợ hãi, sợ hãi quá chừng"
Những dòng sợ hãi sợ hãi này được viết nho nhỏ và run rẩy, tựa hồ như nó cũng đang run sợ vì cơn ác mộng vừa qua...
Và đó là giấc mộng cuối cùng được chép ra trong cuốn vở Mộng của mẹ tôi. Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn vở Mộng của mẹ tôi nhiều lần để cố gắng hiểu thêm về bà. Tất nhiên những hiểu biết này cũng đều là mông lung vì khi mẹ tôi mất đi, tôi còn ít tuổi quá. Bà hầu như chẳng nói gì với tôi về cuộc đời lặng lẽ của mình. Tuy nhiên tôi cũng hiểu lờ mờ rằng dường như mẹ tôi thật khó sống trên cõi đời nghiệt ngã này vì rằng bà thuộc thế giới của những giấc mộng. Dù sao thì tôi cũng cho khắc những lời này lên tấm bia đá thô sơ ở mồ mẹ tôi. "Đến và đi trên cầu mộng".
Ngày 25/1/2003 V.B.H
Cánh hoa đào mộng mị,
Hoa đào rơi rụng cuối sân,
Người xưa cứ tưởng như gần lại xa...
Xuân thì em có mặn mà,
Sắc vàng hoa cải có nhoà đâu em ?
Xuân về lấp ló bên thềm,
Mắt xưa nhoà lệ trông về nơi xa.
Anh về gom lại mùa hoa,
Đào tuôn theo gió xui ta lỡ thì !!
NM
Cánh hoa đào mộng mị
Qua chiếc cầu bắc qua sông làng chừng nửa
 cây số mới đến chợ xép. Dạo trước ngày lũ nước sông còn dâng cao, chợ 
họp đến tối mịt vẫn còn nghe lao xao lãi lời.
Tôi và anh trai của con bạn gái hàng xóm nhô lên khỏi sông, nước 
nhỏ ròng ròng vẫn bước nhanh đến chợ mua miếng đường cục đen thui ăn như
 một phần thưởng cuối ngày. Con bạn gái đón anh trai mình và tôi ở chợ, 
bán những thứ mà hai chúng tôi kiếm được. Có tối tôi ăn cơm xong qua nhà
 thằng bạn, thấy em nó từ chợ vẫn chưa về, tự dưng cuống lên đi tìm, 
không hiểu sao. Khuôn mặt người con gái thôn quê không gợn lên suốt 
quãng thời gian lầm lũi kiếm ăn xứ người, thật lạ lại khiến tôi nhớ khi 
bàn chân vừa tụt khỏi xe ôm lấm bụi quê nhà. Vẫn cứ dặn lòng: đừng bao 
giờ để tôi thấy một cây đào nở rộ dịp xuân sang. Em và màu hồng của làn 
môi, của hoa đào rơi rụng, của xác pháo tan tành, tôi đã xóa sạch và ký 
ức cũng đã lụi tàn.
Trời hửng sáng. Mẹ ngạc nhiên đến nghẹn lòng đón đứa con xa về.
 Cây đào vẫn còn đó hồng thắm một góc vườn và phía dưới lả tả những cánh
 mỏng bâng khuâng giữa ngày cuối năm. Nó làm tôi nhớ đến xác pháo dưới 
chân người con gái ấy về nhà chồng cho tròn phận mỏng...
Tôi và anh trai của em vẫn thường bên nhau mỗi sáng sớm ngày nghỉ 
ra sông rải lưới và chiều tối ngụp lặn kiếm thêm tiền học phí. Tôi cũng 
không để ý nhiều lắm đến em, chắc hồi ấy hồn nhiên quá. Rồi có người dạm
 hỏi em, tôi mới ngỡ ngàng... Khuôn mặt em bỗng chốc rực một nỗi buồn, 
ám ảnh tôi trong suốt những tháng ngày quân ngũ. Làng chưa ai có điện 
thoại di động, liên lạc với nhau qua những lá thư nhuốm màu nắng gió 
thao trường. Mà không ai thông tin cho tôi biết rằng, theo ý nguyện 
quyết liệt của em, gia đình phải trả lễ trầu cau. Em vào Nam. Một mảng 
mờ nhòa. Nỗi hoài niệm giữa vô vàn cánh đào oằn oại dưới chân mình với 
xác pháo ngày vu quy âu chỉ là một dạng vọng tưởng xa xăm lạ lùng. Tôi 
khác xưa, khác lắm. Dường như sự nếm trải mùi đời cay đắng đã vùi lấp 
bao ký ức đẹp nơi nguồn tâm vẩn đục. 
Chiếc túi xách nặng trĩu đặt xuống nền nhà. Cuốc bộ từ dưới chợ về,
 tôi cảm giác lâng lâng, tưởng đến một tiếng nổ và những đóa vô thường 
bung nở vào phút giao thừa thiêng liêng. Từ ngày ra quân, tôi không còn 
nhận được lá thư nào của người thân. Đôi khi nhớ đơn vị da diết. Nhớ cái
 hòm thư luôn hy vọng có tin em trong đó. Rồi cuộc đời xua đẩy, tôi 
thành một con người thật tức cười tức khóc với chính mình; lại ước có 
được ít ngày trở lại với môi trường quân ngũ. 
Tôi co nắm đấm. Gượng. Chừng như có khuôn mặt vừa ló khiến thân tâm
 chùng lại. Hồi ấy tôi bày ra việc quấn pháo. Cả gia đình không hề tưởng
 đến một tiếng nổ lại mang về tai họa. Sau này hễ nghe tiếng pháo là tôi
 nhói đau... Nhớ những gì muốn quên. Những cuốn sách, cuốn vở cũ nằm bất
 cứ xó xỉnh nào trong nhà được lôi hết ra rọc thành miếng; tôi còn kiếm 
vỏ bì xi măng quấn những quả pháo lớn. Điều đáng quên nhất vẫn là bàn 
tay chưa một lần chạm vào người con gái bên kia bờ rào. Thường mỗi tết 
tôi cuốn những bánh pháo cỡ bằng ngón trỏ, pháo đại chêm vào từng đoạn. 
Trong xóm ai mua, đến giao thừa tôi nghe và nhận ra rất dễ. 
Mẹ bưng lên ly nước chè đậm, tôi đứng ở cửa vừa uống vừa nhìn ra 
cây đào vẫn như đang từng khoảnh khắc bung nụ. Ra năm đào sẽ cho quả, vị
 ngọt chua. Thời điểm tôi rời nhà, làng chưa có cây đào nào lớn bằng, 
nên bây giờ nó trở thành của hiếm. Bờ tường cách gốc đào một mét, bên 
kia là nhà thằng bạn có đứa em gái tôi vừa sực nhớ, giờ em ra sao, còn ở
 nhà không?
|  
Minh họa: Văn Nguyễn
             | 
Mẹ ngồi đun củi, tay trái cầm chuỗi tràng hạt vừa lần vừa niệm 
Phật. Tôi rất ngạc nhiên. Loáng thoáng lần nào đó trong điện thoại mẹ 
nói làng vừa có một ngôi chùa lớn, mẹ cũng hay lên tụng kinh. Khoảng ba 
năm qua, mẹ một mình lui cui trong bếp, ngôi nhà cũng trở nên rộng 
thênh. Tôi hiểu nếu không tụng kinh niệm Phật hẳn mẹ đã héo hắt, rồi cây
 đào ngoài kia đâu xanh mướt và hoa nở rộ đúng dịp xuân về.
Tự nhiên niềm hứng khởi về một những quả pháo vút lên bầu trời đêm 
tĩnh lặng nổ đoàng trỗi lên như một cơn nghiện u tối. Tôi giờ là một 
người khác, không nhút nhát e dè như xưa. Tôi tới mở chiếc túi, lôi áo 
quần quà cáp ra hết, đến lúc tay chạm vào quả pháo hoa loại không dễ 
kiếm. Phải giấu diếm mệt nhọc và cả lo âu tôi mới mang được nó về đây.
Châm thuốc, tôi ngả lưng trên giường mà hút. Rồi cánh tay xoài ra, 
thuốc tự cháy rơi tàn xuống nền nhà. Tiếng chó sủa, tiếng người lam 
nham. Mẹ tiếp khách, hình như là thằng bạn hàng xóm của tôi. Vẫn khuôn 
mặt gầy và dài. Thời điểm này tôi không phân biệt được mình mớ ngủ hay 
thức. Lúc thì thấy ngồi cùng bàn trò chuyện, lúc thấy vẫn nằm nguyên 
trên giường, rồi tự hỏi sao bạn lâu ngày gặp mặt lại mặc hắn ngồi trơ. 
Hắn uống ngụm nước chè xanh còn
 ấm nóng mẹ tôi om, cũng rít thuốc rất sâu, phả khói vào ánh nắng xuyên 
vào. Hắn than van công việc khổ, từ dạo ấy đến nay chẳng một lần được 
đón giao thừa, cứ phải chạy như điên như cuồng. 
Tôi nhìn ra. Cây đào vẫn đó. Chẳng lẽ tôi nghĩ nó sẽ bị ai bứng đi.
 Đầu óc thật lạ, nhiều khi một ý nghĩ cực xấu từ đâu phóng lên để lại 
nỗi ân hận vô biên. Mẹ tôi đang nhẹ nhàng rửa những trái cam sợ rụng 
cuống để đặt lên bàn thờ. Tôi lại tự hỏi mình hái cam lúc nào? Mẹ không 
thể hái được những trái cam còn nguyên cuống từ trên cao thế kia được. 
Và ô kìa, gốc đào hoa rụng dày. Tôi bước ra nhìn lên. Rõ, cây đào vừa bị
 cưa một nhánh lớn. Ai? Sao tôi không hay gì trong lúc chưa bước khỏi 
nhà. Nhìn lại giếng, mẹ vào bếp rồi thì phải, như chưa từng có một bóng 
dáng vừa khoát nước rửa ráy ở đó. Nhánh đào bị cưa, sức lay động mạnh 
khiến hoa rụng ngút ngàn tan tác. Tôi lún chân giữa xác pháo ngày em về 
nhà chồng không thể nhấc nổi bước chân.
Hồi xưa lắm ấy tôi từng ước đến ngày cưới sẽ tự quấn bánh pháo thật
 kêu nổ đón dâu về. Niềm mong thành hư huyễn, không phải từ lâu lệnh cấm
 pháo ban hành mà ngay đến ý nghĩ tổ chức một lễ cưới cũng chừng như 
không còn tồn tại. Tôi chỉ cần tờ giấy kết hôn là đủ. Nhưng tiếng nổ 
đinh tai của tràng pháo ảo vọng còn vang. Và bây giờ tôi sẽ thức dậy 
niềm xúc cảm mơ hồ bằng những tiếng nổ trên không trong đêm giao thừa 
tĩnh mịch, sẽ châm ngòi mấy quả pháo hoa mua lậu ở vùng biên giới. Có 
một giao thừa năm nào tôi dạo quanh xóm, ngu ngơ sao lại bước vào nhà 
thằng bạn. Có lẽ khuôn mặt em giữa sân luyến tiếc giao thời đã hút tôi. 
Không lời chúc năm mới, tôi cứ ngồi như bức tượng ảo trước sự ngạc nhiên của em. Tôi cũng không nhớ cả năm đó gia đình em có gặp may mắn gì không.
Trường đoạn phim quay cảnh mẹ tôi và thằng bạn hàng xóm lại lướt 
qua đầu. Tôi nghe, em đã lấy chồng, tự cảm nghiệm thấy mình không dậy 
lên phản ứng. Lần nữa chứng tỏ hình bóng em vẻ như mờ nhạt. Tại sao 
trong lúc ăn cơm với mẹ, nhắc đến em bị bỏ rơi lại khiến tôi rung động. 
Em không dám bỏ về quê mà theo sắp xếp của anh trai, ở trọ tại một thành
 phố khác. Tưởng ngay chồng của em hiện ra trước mặt, tôi phốc dậy đấm 
một cú. 
Về nhà sau bao thời gian xa quê đằng đẵng, tôi chưa dạo quanh xóm, 
muốn ở nhà luôn đến giao thừa. Sẽ không ai biết tôi ở nhà, kể cả em. Mẹ 
tôi cũng không biết những quả pháo của tôi mang thông điệp gì. Tôi sẽ né
 tránh không nghĩ tới hình ảnh người công an xã vốn quen biết từ nhỏ. 
Song tế nhị, tôi sẽ không bắn pháo theo chiều thẳng đứng. Phía sau nhà 
tôi là đường cái; phía trước nhà bên kia hàng rào là nhà phó công an xã.
 Phía bên phải là nhà một nữ tu tại gia, bạn của mẹ tôi (tôn trọng, tôi 
cũng sẽ không bắn pháo về phía đó); bên tay trái là gã trung niên ngầu 
đời. Gã từng vào Nam làm ăn thời gian dài, chưa biết sợ ai... 
Tôi cảm nhận được: mọi ký ức không bao giờ mất đi, chỉ là khuất lấp
 đâu đó trong tiềm thức, và biết đâu sẽ tồn lưu đến những kiếp sau để 
rồi thôi thúc sinh mạng mới rẽ vào lối mòn dẫn từ quá khứ. Tôi cũng 
không hiểu một vài kỷ niệm cũ mèm với em, nó không hề được gợi lại lần 
nào, tưởng đã bốc hơi vào mịt mù không gian nay lại trỗi lên như một cơn
 choàng tỉnh giữa khoắt khuya. Đầu xuân năm nao tôi cùng em trốn tìm 
giữa bạt ngàn hoa cải. Cái gam màu vàng rộm nhức nhối khô chết trong sâu
 thẳm tâm thức bỗng bừng sáng, bỗng khiến tôi nhớ những cánh đồng cải 
ngồng thăm thẳm ngút ngàn... 
Bàn thờ Phật của mẹ giản dị. Tượng phật, một ngọn đèn, hai lọ hoa 
tươi nhỏ nhắn, hai ly thủy tinh trong suốt mẹ thay nước mỗi sáng. Đêm 
cuối năm tôi ngồi xem thời sự,
 mẹ lặng lẽ thắp hương, lễ Phật rồi ngồi xếp bằng niệm Phật giữa ti vi 
phát ồn ào; đến lúc tiếng niệm chậm, rõ ràng từng chữ “A Di Đà Phật” lọt
 vào tai, tôi mới khẽ giật mình để bấm vô lum nhỏ lại; tiếng mẹ cũng lẫn
 vào u huyền của đêm. Rất lâu, đồng hồ gần điểm giao thừa. Quanh xóm râm ran tiếng người. Mẹ vẫn không mở mắt, khuôn mặt lặng phắc. Tôi bước ra sân.
Tôi ước sẽ bắn những quả pháo hoa phía sau bếp và mẹ không chứng 
kiến. Hồi hộp, lại nhìn đồng hồ. Đinh ninh nếu có quả pháo đâu đó tung 
lên, là lúc tôi cũng sẽ châm ngòi. Sửa lại thế đứng. Tim đập nhanh. Chập
 chờn bóng thằng bạn hàng xóm... và em. “Đùng!” Tôi như bị đánh bay 
ra... 
Tiếng nổ khiến tôi choàng dậy. Vội ra hiên. Màn đêm điểm vài vì sao
 xa lắc, yên tĩnh. Và, kìa. Em đang bước vào, người lấm lem bóng tối 
song tôi nhận ra liền. Em một mạch vào bên gian thờ, thắp cây hương trầm
 ngước nhìn rất lâu tượng phật, rồi cúi gục trước một bức ảnh... Mẹ tôi 
và em cùng cầu nguyện.
Tết năm đó... xác quả pháo tươm muôn ngàn mảnh hồng đỏ như hoa đào 
xối xả giữa nền trời trắng nhức. Bao nhiêu năm rồi không nhớ. Nhưng hình
 ảnh về em thì vẫn trong veo. Trong veo cho đến cái ngày cuối năm ấy, 
tôi quấn một cái pháo bằng bắp chân. Tiết xuân mưa phùn. Thằng bạn hàng 
xóm - người anh trai của em đến rủ tôi đi chợ tết, nhưng tôi phải sấy 
pháo cho giòn. Tôi đặt pháo cối trên mẹt sấy trên bếp lò. Khoảnh khắc 
phân tâm, bếp bén lửa bốc lên khiến quả pháo phát nổ... 
Tôi có lỗi. Tôi mang tội với em. Không thể gặp em nữa, tôi chỉ biết
 có vậy. Tôi muốn đi ngay khỏi thôn xóm và biệt xứ. Nhưng cũng là dịp 
tòng quân, tôi liền viết đơn tình nguyện, giấu mặt ở nhà người thân miền
 biển mà đợi... 
Trên chuyến tốc hành rời quân ngũ buồn vui lẫn lộn, xe dừng lại bên
 đường và tôi thấy đôi tình nhân lội xuống vồng cải chụp hình; sao lúc 
đó không khiến tôi nhớ đến kỷ niệm với em thuở nào? Sao phải đến bây giờ
 hình ảnh quá vãng lật ngược để tôi đau đáu tiếc nghẹn khuôn mặt ửng 
vàng lấp ló dưới màu nắng tinh khôi chừng có thể hứng được như mật ong 
sóng sánh. Dáng em thấp thoáng ngoài cửa, đứng lại dưới gốc đào, tay 
bồng con nhìn xa xôi. Lại một đoạn phim khác lội qua trí não, tôi thấy 
em đẫm lệ hạnh phúc, và hoa đào tuôn theo gió lỡ xuân thì...
Đoán mộng,
Cả một đời tôi đi tìm đoán mộng,
Mộng ở gần và mộng cả nơi xa...
Và trong tôi vũ trụ thật bao la,
Tôi xin gửi mộng về theo lối cũ
NM
Người đoán mộng giỏi nhất thế gian
Ngày mười lăm tháng hai năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, tòa án nhân
 dân thành phố H. mở phiên tòa xử một trường hợp đặc biệt.
Bị cáo là một phụ nữ bốn mươi tuổi, độc thân, phạm tội hành nghề mê tín 
dị đoan có hệ thống, có tổ chức, quy mô lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng 
đến đời sống xã hội, nổi tiếng dưới tên gọi "người đoán mộng giỏi nhất 
thế gian". Phiên tòa không luật sư bào chữa, bị cáo khước từ mọi quyền 
lợi trước pháp luật. Bảy công tố viên thay phiên nhau như chạy tiếp sức,
 phóng viên và cảnh sát dày đặc hành lang, đám đông tụ tập ngoài sân tòa
 và tràn ra mặt đường mang theo bánh mì, bi đông nước, nhiều người mang 
cả chiếu. Phiên tòa kéo dài sáu tháng không kết quả và chắc sẽ chẳng bao
 giờ kết thúc, nếu bị cáo không đột ngột biến mất khỏi nơi giam giữ 
nghiêm ngặt. Những người đại diện cho công lý đã thầm cám ơn giải pháp 
may mắn ấy và không quá nhiệt tình truy tìm kẻ mất tích. Suốt sáu tháng 
trước vành móng ngựa, bị cáo không hề lớn tiếng, trừ những lúc bắt buộc,
 nhưng trước khi mất tích để lại một bản khai, sau này được báo chí công
 bố như thành tựu chính của phiên tòa gây nhiều dư luận nói trên. Phải 
nói thêm rằng bị cáo có sắc đẹp kỳ lạ, chưa gặp trong văn chương cổ kim,
 nhưng hoàn toàn không mê hoặc, đơn giản vì sắc đẹp ấy quá xa lạ với 
những gì người cùng thời có thể biết hoặc phán đoán về cái đẹp.
Mẹ tôi sinh tôi giữa đường chạy nạn, quây vội cót thành cái lều, trên 
trời dưới cỏ, xung quanh ầm ào tiếng súng, người vật gọi nhau táo tác. 
Tín hiệu chào đời của tôi lạc mất địa chỉ, chẳng ai làm chứng, tất cả 
phụ thuộc vào bộ nhớ rất hữu hạn và quá nhậy cảm với thời gian tàn phá 
của mẹ. Có một chú dế nhỏ mục kích từ đầu chí cuối cuộc sinh thành, 
nhưng nếu có gặp lại, mẹ tôi cũng không dám chắc sẽ nhận diện được. Thế 
là tôi nằm trong chiếc lều cót, ngửa mặt nhìn trời, với một chú dế trong
 vành tai, tư thế lý tưởng để phát sinh mọi mộng mơ và tôi đã mơ ngay từ
 phút chào đời vô vàn giấc mơ mà lắm kẻ bạc đầu chưa từng nếm trải. Đó 
là hướng nghiệp đầu tiên dành cho tôi.
Ba năm đầu tôi lớn lên trong một chiếc thúng, bồng bềnh nhún nhảy theo 
nhịp quẩy của mẹ. Mẹ vừa chạy nạn vừa bán hàng rong, nửa gánh đằng kia 
là cả một thế giới nhỏ biến hóa vô cùng, nước mắm hóa thành muối, muối 
thành gạo, gạo thành gà, gà thành cá, cá thành nước mắm, nước mắm lại 
biến hóa vòng hai, cứ như thế luân hồi. Thoạt tiên, thế giới ấy nặng hơn
 tôi, mẹ phải an ủi bằng cách tặng tôi bằng hòn đá nhặt dọc đường làm 
đối trọng; sau này, thế giới đầu đòn gánh đằng ấy càng ngày càng nhẹ 
bỗng, tôi phải an ủi bằng cách nhượng lại dần cho nó số đá kia. Ngồi 
trong chiếc thúng đong đưa, tôi gục mặt nhìn đất, thỉnh thoảng ngắm gấu 
quần thiên hạ để giải trí, và mơ tiếp vô vàn giấc mơ. Đó là hướng nghiệp
 thứ hai.
Sau đó là ba năm những giấc mơ chững lại. Các nhà tâm lý học trẻ em đã 
lầm to khi sốt sắng bày ra đủ phương tiện nhằm kích thích trí tưởng 
tượng và khả năng mơ mộng của trẻ nhỏ lúc tuổi ấy. Sự thật là đứa trẻ đã
 mang sẵn một thế giới mộng mơ khổng lồ, bắt nguồn từ lòng mẹ, vụt nhận 
hình hài khi chào đời, tự do phát triển theo những quy luật không thể 
nắm bắt, và đột nhiên bị thế giới ngôn từ thâm nhập như một trong những 
ngoại tố phức tạp nhất, vừa phá hủy, vừa định hướng và thường là một 
định hướng sai lầm.
Tôi chững lại để tập, để thu nhận và khám phá một thế giới khác, thế 
giới có thực, thuần túy khám phá và thỏa hiệp, bằng cách gọi tên, bắc 
cây cầu ngôn ngữ, hoàn toàn không tưởng tượng hay mộng mơ gì hết, ví dụ 
đơn giản nhất là mẹ. Trước khi biết nói, tôi thường mơ về mẹ, như một 
con cá chép, bụng đầy trứng, trắng óng ánh và thích nằm một chỗ. Sau 
này, biết đó là người đẻ ra mình, biết ngoan cho mẹ vui lòng, không bao 
giờ giấc mơ ấy trở lại với tôi nữa. Suốt ba năm đó, hầu như chỉ có mẹ, 
và tôi. Mẹ ít nói, chỉ hay hát ru. Những lời ru lạ lùng, chẳng chuyên 
chở một ý nghĩa nào cả:
"đêm vông vang
rơi chiếc vòng vàng..."
Tự chúng cũng là một thế giới riêng, không áp đảo, mà có lẽ còn nâng đỡ 
những giấc mơ của tôi. Tôi không dứt đoán mộng mơ vì lẽ ấy.
Mười năm đi học, tôi lại được thời mơ tiếp vô vàn giấc mơ, vì đó là cách
 duy nhất vừa để giết, vừa để xứng đáng với thời gian khi người ta còn 
ngồi trên một chiếc ghế băng nào đó trong một ngôi trường nào đó. Tôi 
thường đứng trước lớp, thay vì biểu diễn các công thức mà đàng nào rồi 
người ta cũng sẽ quên, lại kể về những giấc mơ, trong đó có một đàn chim
 mổ vào mắt nhau, những con mắt lăn lóc khắp nơi, tôi không biết trốn 
đâu cho thoát những con mắt, hay chuyện tôi bé bằng ngón tay, sau lớn 
dần, lớn dần, thành hẳn một quả núi, và lại nhỏ dần, nhỏ dần trở về ngón
 tay... Tôi trở thành trường hợp tuyệt vọng cho toàn trường. Giáo viên 
lúc đầu tò mò, sau bực bội, và cuối cùng để mặc tôi ở một xó bàn cạnh 
cửa sổ; sau này những người hâm mộ và cuồng tín kéo nhau về ngôi trường 
ấy, mua đấu giá chiếc bàn chi chít bút tích tôi.
Lời đoán mộng ứng nghiệm đầu tiên của tôi phát vào năm mười sáu tuổi, 
cho cô bạn cùng lớp xinh đẹp nhất. Cô bé không có chữ nào trong đầu, nên
 trông càng mê hồn. Đến kỳ thi tốt nghiệp, cô cài bông huệ gắn lên tóc, 
khoe đêm qua nằm mơ thấy toàn hoa huệ. Tôi rùng mình: "Đừng, sông sâu 
nước cả". Chín tháng sau, cô bé sinh hạ, hai mẹ con ôm nhau ra sông tự 
vẫn, bố đứa trẻ là một trong số giáo viên về coi thi, và cô bé Hoa Huệ 
đỗ thủ khoa năm ấy. Tiếng đồn bắt đầu dậy lên. Chính quyền tìm đến tận 
nhà. Hai mẹ con tôi được yên ổn chỉ nhờ phép mầu của tấm bằng gia đình 
liệt sĩ phủ đầy bồ hóng và mạng nhện.
Nhiều năm trôi qua. Tôi làm đủ mọi nghề nuôi mẹ, có lúc cũng quẩy hai 
cái thúng với những món hàng biến hóa vô cùng, dấu kín chiếc chìa khóa 
mà hình như chỉ riêng tôi có mở vào thế giới của những giấc mơ. Có giấc 
mơ nào tôi chưa quen? Tất cả như một mớ chỉ, khẽ rút sợi này là kéo theo
 hàng loạt sợi khác. Giải mộng chẳng qua là rút đúng sợi chỉ cần rút, 
đối với tôi đấy là chuyện vặt. Và khi lời đoán đầu tiên năm người ta 
mười sáu tuổi ứng ngay vào cái chết, thì tất cả các sợi chỉ rút sau quả 
là chuyện vặt.
Một hôm, có ông lão nốt ruồi mọc giữa nhân trung đến mua kim, ngồi bệt 
ngay bên gánh hàng của tôi, vừa run run díu lại mảng áo rách vừa than 
phiền về một giấc mơ quái gở, toàn là mèo, con nọ cắn đuôi con kia thành
 vòng tròn vây chặt ông, không sao ra thoát, chúng còn đồng ca một bài 
nghe cũng xuôi tai. Tôi lại buột miệng: "Nhà sắp thêm người, cụ không 
phải vá áo lấy nữa". Ông lão lầu bầu: "Tôi bảy mươi, mười một năm tám 
tháng hai chục ngày chỉ một mình với túp lều. Con trai thì núp váy vợ, 
con gái lấy chồng xa, bà lão trời bắt sớm, có ai mà thêm. Thêm ma à?" 
Rồi chống gậy bỏ đi. Chưa đầy tuần lễ, có người đàn bà chỉ ngoài bốn 
mươi, trông rất duyên dáng, lẳng lặng ôm tay nải đến túp lều lợp giấy 
dầu của ông lão, hỏi thế nào cũng không nói. Họ sống với nhau hai chục 
năm, rồi ông lão qua đời, được một con trai học hành rất tử tế. Người mẹ
 vẫn câm lặng như một bóng ma, hiền và lạc đàn, tới lúc chết không hé 
răng nói một lời. Anh con trai bán túp lều chôn cất mẹ rồi bỏ làng đi. 
Sau này anh ta sớm thành tài, nổi tiếng thần đồng trong giới khoa học và
 là người bảo trợ đáng yêu nhất của tôi. Đáng yêu ở cái nỗ lực phi lý 
mong tăng cường chiều thần diệu cho mặt phẳng logic nhạt nhẽo của khoa 
học, bằng cách gán cho thế giới mộng mơ của tôi một vài yếu tố trí tuệ, 
và gán cho khoa học một vài sắc thái tâm linh. Các vị hãy giở lại hồ sơ 
tòa án. anh ta là nhân chứng số một, một chàng trai dễ thương, có tham 
vọng thông thiên và ngoại cảm, lại còn làm thơ và thạo nhiều ngoại ngữ. 
Nhưng đáng tiếc, anh ta luôn xuất phát từ một điều gì đó và nhằm một 
điều gì đó. Còn tôi, tôi không xuất phát, không định hướng, tôi chỉ là 
một môi trường cho các giấc mơ đi qua, tôi chỉ rút các sợi chỉ.
Tiếng đồn lại dậy lên, người khắp thiên hạ truyền nhau tìm đến. Tôi 
không còn phải quẩy gánh bán hàng rong nữa. Đây mới thật là một nghề gia
 truyền. Người đàn bà nào trong dòng họ tôi cũng biết cân đong, nhìn 
xuống đất và nhặt nhạnh hào lẻ. Cái nghề thấm vào máu. Khi đã trở thành 
người đoán mộng giỏi nhất thế gian tôi vẫn nhìn tất cả như vòng luân hồi
 biến hóa vô cùng trong chiếc thúng nhỏ ở một đầu đòn gánh: giấc mộng đế
 vương, giấc mộng hoàng lương, giấc mộng vô thường, tất cả không ra 
ngoài miệng thúng.
Người ta lắm mộng mị, mộng ban đêm, mộng ban ngày, thậm chí ngủ gật dăm 
phút trong hội nghị, giữa buổi cầu kinh, lúc chờ người yêu, khi nghe bố 
mẹ giảng bài học hiếu đễ, giữa hai nước cờ của đối thủ lề mề, hay trên 
cầu tiêu... cũng mộng. Mấy chục năm hành nghề cho phép tôi phân loại và 
thuộc lòng mộng thiên hạ như nhà đông y làm việc với các ô thuốc.
Đứng đầu là mộng tiền bạc, từ mấy đồng xu rơi vãi ngoài đường, dăm chục 
đồng bạc lên lương, vài ba nghìn manh múng cò con, đến hàng vạn quan 
tiền lộc ngoại quốc và triệu triệu tiền siêu hình, tiền âm phủ khoét từ 
các vết thương chính quy của cái cơ thể duy nhất độc quyền sản sinh tiền
 bạc là nhà nước. Vì lẽ sống đó, còn ai trong cái thành phố bất lực mà 
hồn nhiên này không tìm đến tôi? Nào là đám ăn mày chuyên nghiệp, tràn 
từ thành phố này sang thành phố khác như nạn giặc châu chấu, đánh đeo 
với thể diện xã hội và chứng minh sự bất hợp lý vĩnh cửu của ban phát và
 hưởng thụ. Nào là anh chị em viên chức mòn mỏi ngóng về một quá khứ 
trong đó con người còn dám cho mình cái quyền lãng mạn và nhàn tản. Rồi 
em bé hát rong, ông chủ hợp tác xã khéo tay vui tính, nhà viết kịch thời
 thượng, những chàng thanh niên hăm hở chiếm lĩnh đời sống bằng hai bàn 
tay trắng, các cô gái không của hồi môn, vị thủ trưởng trước bước về hưu
 ngơ ngác trước nhân tình thế thái... tất cả đều nghĩ sâu sắc rằng thiếu
 tiền họ sẽ chẳng là gì, sẽ không còn là một người con, một người cha 
hay một người dân nào đó, cùng lắm bàng vai loài vật đi hoang ngoài 
đường, và vì thế ham tiền chỉ là ham muốn là người thuần túy nhất. Mộng 
tiền bạc thường hiện lên cụ thể, máu, phân, răng rụng, lửa cháy, nước 
tràn, súc vật hỗn chiến.
Sau đó đến mộng tình ái. Tình ái cần đối tượng. Chồng bạn, vợ người, thứ
 nữa mới đến gái đồng trinh, quả phụ và kỷ nữ. Các giấc mộng tình ái đều
 hao hao giống nhau, hoặc gắn liền với ma, mèo, mưa, hoặc đầy rẫy các 
con số, các mã hiệu: nói chung là nhốn nháo.
Tôi rất ngạc nhiên thấy những giấc mộng sinh, lão, bệnh, tử chỉ đứng vào
 hàng thứ ba. Hay đấy là dấu hiệu của sự tiến bộ của con người trong 
cuộc cạnh tranh muôn thuở với tự nhiên, luật của đấng tối cao đã lùi lại
 phía sau luật của con người áp đặt lên chính con người? Trong khi đó, 
đối với người giải mộng, những giấc mộng vô thường mang lại nhiều cảm 
xúc và ý thức nghề nghiệp nhất. Dường như ở đó, tôi rút những sợi chỉ 
như rút các dây thần kinh tỏa về não tủy.
Cuối cùng là đủ loại mộng mị vặt vãnh, bi, hài và vô thưởng vô phạt: 
chửi nhau với hàng xóm, mất trộm, chức trưởng phòng, ăn cỗ đũa lệch, ra 
chợ mua hớ, của người phúc ta, không nên đi xa, ra đường tránh chó...
Năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, tôi đã đoán cho hàng vạn người giấc
 mộng đoàn tụ. Năm một ngàn chín trăm bảy mươi chín, lại đoán cho hàng 
vạn người giấc mộng biệt ly. Đám số đề, cờ bạc bàn nhau mua phắt một 
biệt thự kín cổng cao tường có vệ sĩ canh gác cho tôi ở, độc quyền khai 
thác lời giải những mộng mị oái ăm, đại loại như bước chân trái ra khỏi 
nhà là số 57, nấc nghẹn giữa miếng ăn là đầu chẵn, tự nhiên có người 
giúp đỡ là con số xui 13... Học trò đến kỳ thi đại học bao vây chặt cửa 
nhà tôi đoán đề bài. Các thiếu nữ đến mùa cưới cũng vây chặt cửa nhà tôi
 đoán tương lai cuộc hôn nhân sắp tới. Người đẻ đến đoán con gái con 
trai. Người ra đi đến đoán lòng người ở lại. Người già đến đoán kiếp 
sau. Người trẻ đến xem phải trả oán gì cho kiếp trước. Có cả những nhà 
tiểu thuyết nhờ đoán số phận các nhân vật của mình và những linh mục dẫn
 con chiên tới xem ngày phán xử cuối cùng bao giờ sẽ đến.
Cứ như thế, tôi phục vụ. Không vì danh tiếng, còn danh vị nào hơn "người đoán mộng giỏi nhất thế gian"?
Cũng không vì tiền bạc. Món tiền lớn nhất tôi cần đã dùng vào đám tang 
cho mẹ tôi, đơn giản chỉ để khoản đãi nửa triệu người đưa mẹ đến nơi an 
nghỉ cuối cùng. Chỉ có bà chúa ong mới được một đàn con đông đúc như 
thế. Ngày tang lễ thứ ba, tôi bị bắt. Hồ sơ về những hoạt động mê tín dị
 đoan của tôi chất đầy một căn phòng rộng hơn chính nơi tôi ở, đỉnh cao 
là đám tang phạm thượng náo loạn này. Tôi bị kết tội mê hoặc đám đông 
bằng phép bùa phù thủy. Người ta ngờ đằng sau là những mưu đồ tôn giáo 
và chính trị sâu xa. Một mạng lưới cảnh sát dầy đặc chăng ra truy tìm 
con át chủ bài dấu mặt. Báo chí bắt đầu cảnh giác. Giới khoa học được 
triệu tập cấp tốc. Chuyên gia nước ngoài cũng có mặt. Và ngày ngày, hàng
 trăm hàng ngàn rồi hàng vạn người chờ đợi trước cổng nhà giam, người 
nào cũng ôm ít nhất một giấc mộng chưa lời giải, ngóng qua đầu ruồi mũi 
súng anh lính gác về phía tôi. Bản thân anh ta cũng sẵn sàng đồng lõa.
Một tuần sau, tôi được tự do. Ân nhân của tôi là một quý bà sang trọng, 
đeo kim cương ở khắp những chỗ quần áo không che hết da thịt. Quý bà 
sang trọng thuật lại cơn ác mộng của bà đêm qua. Tôi khuyên bà nên đi 
tu, nếu không muốn để gia đình rơi vào thảm họa. Bà ta lẳng lặng về. Mấy
 hôm sau, cửa nhà giam mở ra. Tôi lặng người trước đám đông. Một biển 
hoa. Dàn đồng ca và giao hưởng thành phố cử khúc "An die Freude"
 nổi tiếng trong bản giao hưởng số chín của Beethoven. Nhưng trong tôi, 
nỗi hoài nghi đã thay thế niềm vui, và lần đầu tiên, ý nghĩ đoạn tuyệt 
với nghề xuất hiện.
Tôi tiếp tục hành nghề, bảy năm, như người tù khổ sai biệt xứ, bởi loài 
người đã phái tôi đến xứ mộng mơ để cày cấy gieo trồng và cung nộp toàn 
bộ thành quả lao dộng. Tôi là kẻ được chọn lựa, và giờ đây tôi không 
thiết tha gì tư cách của kẻ được chọn lựa nữa.
Các vị hãy giở lại hồ sơ tòa án, nhân chứng số hai của tôi là một giáo 
sư bác sĩ nổi tiếng. Ngành y học quan tâm tới tôi thuần túy vì mục đích 
nhân đạo. Tôi nghiên cứu các giấc mộng, còn ông ta nghiên cứu tôi, con 
bệnh đầu đàn trong mọi con bệnh, giải pháp lâm sàng hứa hẹn ít nhất một 
Nobel. Theo sau ông ta là các nhân chứng khác. Một nhà thần học, thấy 
trong tôi sự giao lưu giữa con người và thần thánh. Một nhà phân tâm 
học, tự xưng là tín đồ duy nhất của Freud, Adler và Jung ở Đông Dương, 
khẳng định tôi là hiện thân của toàn bộ lý thuyết tâm lý học tầng sâu về
 mộng mị. Một triết gia lấy tôi là ví dụ cho tính năng động của ý thức 
trong tương quan với tồn tại. Một nhà nghiên cứu nghệ thuật hy vọng dùng
 tôi giải mã tranh cua Bosch, truyện của Kafka và nhạc Stravinsky. Một 
nhà xã hội học quyết định suy từ phương pháp thống kê mộng mị ra thực tế
 vốn khó tiếp cận hơn nhiều. Và một nhà sử học tìm kiếm chứng tích của 
các nền văn minh chìm trong những hoạt động vô thức. Họ đến với tôi, và 
giờ đây, ra trước tòa, đặt tay lên ngực thề khai sự thật và không gì 
khác hơn ngoài sự thật. Nhưng toàn bộ sự thành khẩn của họ và của đám 
đông khổng lồ mà tôi đã không tiếc công phục vụ chỉ càng chứng minh rằng
 tôi, người đoán mộng giỏi nhất thế gian, đã có mặt vô lý với tư cách kẻ
 được chọn lựa. Loài người bao giờ cũng chọn một kẻ nào đó để đặt tất cả
 lòng tin, và để đem ra trước vành móng ngựa.
Một hôm, những người trước đây đã kết tội tôi dùng phép bùa phù thủy 
đích thân đến mời tôi cộng tác. Khoa học hình sự đã phát triển tới mức 
đủ sức liên kết với mọi lãnh vực tri thức khác. Tôi từ chối. Tôi chỉ là 
một môi trường cho những giấc mơ đi qua, tôi chỉ rút các sợi chỉ. Và 
ngay cả việc ấy tôi cũng không thiết tha nữa. Người ta mời tôi tới các 
hội nghị. Người ta đưa tôi ra nước ngoài. Người ta vời tôi vào nơi cung 
cấm. Người ta trao vào tay tôi vận mệnh quốc gia. Người ta đặt tôi dưới 
một chế độ ăn uống và bảo quản nghiêm ngặt. Và trong tôi, ý nghĩ đoạn 
tuyệt với nghề chín dần. Phải, giấc mơ nào cũng ứng vào một điều gì, từ 
chuyện cho mèo mẹ sẽ đẻ mấy con nhị thể, mấy con tam thể, đến chuyện 
chiến tranh và nạn hồng thủy. Còn giấc mơ ứng vào chính nó, mộng mơ như 
một dạng tồn tại, không biểu tượng, không ám chỉ, như hai vạn năm trước 
từng là lối sống duy nhất của một chủng tộc nào đó, thì đồng loại tôi 
chưa bao giờ gặp. Trong trường hợp này, không thể dùng những khái niệm 
đã biết để hình dung điều chưa biết, nên người làm một động tác xóa sổ 
đơn giản, bảo đó là trò chơi dễ dãi của ngôn từ.
Tôi quyết định chọn ngày sinh lần thứ bốn mươi của mình làm ngày hành 
nghề cuối cùng. Hôm đó, thành phố bãi bỏ toàn bộ hoạt động, người nào 
cũng tranh thủ có một giấc mộng trọng đại cuối cùng. Rõ ràng tôi không 
đủ sức thỏa mãn từng cá nhân trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ ấy, 
chỉ còn cách phân loại và giải đáp từng nhóm mộng to, mộng nhỏ. Có nhóm 
được nghe lời phán định về sự suy sụp của cả một chế độ. Có nhóm biết 
mình sẽ đứng ra thâu tóm đời sống xã hội trong mười năm sắp tới. Có nhóm
 được quyền nhàn tản thung dung bất chấp mọi đổi thay của thời cuộc. Và 
biết bao nhóm khác sẽ quẩn quanh trong những biến cố nho nhỏ của trái 
tim.
Rồi việc phải đến đã đến. Đám đông gào lên, kẻ tung hô tôi, kẻ đòi tôi 
không được từ chức, kẻ đe dọa tự thiêu ngay tại chỗ để phản kháng lời 
giải mộng về một số kiếp chẳng ra gì, kẻ phát cuồng về một tương lai 
vượt quá mọi mong đợi. Cuộc náo loạn lần này đẩy tôi ra đây, trước vành 
móng ngựa. Các vị đã tự giằng co sáu tháng trời, không quyết định nổi 
nên tiếp tục đặt tất cả lòng tin vào tôi, hay đành sống không điểm tựa. 
Đây là phiên tòa dành cho các vị. Hãy kết tội niềm tin đi, nếu nó không 
còn cần thiết nữa, và thay vào chỗ nó những quy chế nghiêm ngặt của cộng
 đồng. Để tiện cho các vị, tôi, người đoán mộng giỏi nhất thế gian, xin 
vĩnh biệt. Tôi không có môn đệ. Các vị hãy yên tâm.  Phạm thị Hoài
(SH38/07&08-89)





 



