Hiển thị các bài đăng có nhãn Động vật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Động vật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Con gà đại tướng

Tiếng gà gáy,
Cất cao tiếng gáy vang oanh liệt,
Hà cớ sao người nỡ xuống tay ?
Bỗng dưng tiếng gáy lạc loài,
Xót thương thân phận đến ngày ra đi !
NM

Con gà Đại tướng

Rõ là một Đại tướng! Chú gà ấy bộ dạng uy nghiêm, hùng dũng quả rất xứng danh Đại tướng bởi mang hai dòng máu bố chọi và mẹ kiến
Nó thừa hưởng của bố cái vóc dáng cao to, lực lưỡng. Còn mẹ? Đó là bộ cánh sặc sỡ điểm vàng, điểm tía, điểm xanh. Lũ gà mái tơ ngây người, tít mắt đến quên bươi mỗi khi Đại tướng dạo gần…
Khuya mờ đất, Đại tướng đã lục cục trong chuồng. Nó đập cánh bình bịch, dõng dạc cất một tràng dài ò o giật nảy cả xóm làng. Chuỗi ò o như hiệu lệnh báo thức đám “bộ hạ dưới quyền” còn mải ngủ say. Cả chuồng gà lập tức nhộn nhạo, xôn xao. Mẹ con mái Hoa chiêm chiếp, tùng tục. Lũ gà choai chen ra cửa, cãi kình nhau oang oác. Thằng trống non phởn chí cũng ngửa cổ lên trời, tít mắt, cố rặn một tràng cụt lủn: Kéc… ke…
Đại tướng xuống chuồng đầu tiên. Tất nhiên! Nó đường bệ phi lên đống rơm, khom người xem xét “bộ hạ” đang lũ lượt… duyệt binh. Xong, Đại tướng mới quay lưng, ngửa mặt lên trời, lại bình bịch cánh, lại một tràng dài ò o. Giọng nó trầm hùng, sang sảng, âm vang như tiếng chuông đồng!
Đại tướng là nhà vô địch. Từ lúc bắt đầu làm chú trống trưởng thành, Đại tướng đã là nhà vô địch. Thể lực tuyệt vời của gà chọi, cộng với máu hăng, nhanh nhẹn và những miếng đá hiểm của gà kiến khiến Đại tướng không còn đối thủ. Thời Đại tướng sung sức, từng có không biết bao nhiêu tên chọi nòi chính cống, dòng dõi mười mươi phải cắp… cựa chạy dài. Dân chơi gà chuyên nghiệp cứ nài nỉ hỏi mua. Bố lắc đầu bảo để làm giống. Thật tình, còn thêm một lý do khác. Ấy là bé Mi. Bé Mi yêu con Đại tướng từ lúc nó còn là một chú gà con lích rích, ngày ngày chạy theo bé vòi dế cơm, châu chấu, thằn lằn…
Ấy là nói chuyện ngày trước, chứ bây giờ thì Đại tướng đã già. Tuy già nhưng cái oai danh lẫy lừng một thuở vẫn còn. Bằng chứng là lũ trống tơ không con nào dám xâm phạm “lãnh địa”. Cứ nhác trông đôi mắt diều hâu, nhác nghe tiếng gáy quen thuộc “ò o” là lảng xa, nem nép. Mà không riêng lũ gà trống, cả ngan, cả ngỗng, cả chó mèo cũng thế. Chúng “kiềng mặt” Đại tướng đến mức lỡ có “xung đột quyền lợi” vì mẩu xương cá hay vài hạt cơm thì bọn to xác ấy cũng chỉ “khống chế hành vi” ở mức gầm gừ, quàng quạc cãi vã chơi chứ không dám “ẩu” với chiếc mỏ khoằm cong ánh thép và cặp cựa nhọn, dài! Tranh để mà tranh, thực tình, Đại tướng cũng chẳng thiết ăn.
Những của tầm phào ấy, Đại tướng đem làm quà biếu các chị mái tơ. Mổ lên thả xuống, cục cục một tràng, vậy là các nàng mái tơ te tái đổ xô đến, vây quanh. Đại tướng đứng gật gù, âu yếm nhìn đám “phu nhân” hớn hở tranh cơm, tranh thóc, tranh xương. Nói vui, chỉ còn thiếu một bàn tay đưa lên thong thả vuốt “râu”, hẳn Đại tướng sẽ càng giống y một lão đại tướng thứ thiệt với bao chiến tích xông pha trận mạc, và bây giờ đang vui vẻ cùng vợ con sau khi ca khúc khải hoàn vang lên.
truyen-ngan-con-ga-dai-tuong-quan-hinh-anh-1
Ấy vậy mà, Tết này, gà Đại tướng sẽ… vô xoong!
Nó già quá, bố bảo: “Giống không còn tốt. Làm thịt thôi!”. Bé Mi rụng rời. Thịt con Đại tướng ư? Quả tình, bé rất mê thịt gà nhưng tưởng tượng đến cảnh con Đại tướng vô xoong bé lại thấy chẳng ngon lành gì! Bé liếc mẹ, cầu cứu. Mẹ trù trừ: “Nó già, thịt dai nhách, ăn uống gì? Cứ để nuôi làm cảnh. Lỡ rồi…”. Mắt bé Mi sáng lên, đầy hy vọng. “Không sao! Mẹ nó cứ mua măng. Ta sẽ hầm măng, hầm nhừ. Trời ạ, ấy mới thật hết đường!”.
Viễn cảnh Đại tướng vô xoong thành chắc chắn, không sai! Bé Mi hầu như muốn khóc. “Gà nuôi là để ăn thịt, không ai lại nuôi gà làm cảnh”, bố bảo thế với Mi.
Biết vậy, nhưng Mi vẫn cứ buồn thiu. Mi nhớ đến ngày Đại tướng còn là một chú chíp con lông vàng lẽo đẽo theo Mi. Mi nhớ đến Đại–tướng–trống–choai, lộc ngộc cao to mà vẫn khờ đặc, không biết “theo mái, chỉ nhăm nhăm chờ cô chủ bồng, vuốt ve để lim dim mắt, cổ họng bật ra những tiếng rên khoái trá cồ ồ… cồ ồ…
Còn nữa, còn cái lần Mi ôm Đại tướng trốn đi vì sợ khách hỏi mua. Rõ ràng, với Mi, Đại tướng không còn là con gà bình thường, mà là một thành viên gia đình, một đứa em. Thịt Đại tướng ư? Không ổn. Phải ngăn ba mẹ. Phải có cách gì đó ngăn ba mẹ. Cái “cách gì đó” bé Mi nghĩ mãi, nghĩ mãi, hết ngày rồi đến đêm mà vẫn chưa ra. Mai là ba mươi Tết. Bố mẹ sẽ thịt gà vào ba mươi Tết. Cái “cách gì đó” cần phải nghĩ ra, phải thực hiện gấp hôm nay!
– Này, tối qua em quên đóng chuồng gà phải không?
– Đâu? Em chốt kỹ rồi mà!
– Chốt đâu mà chốt? Con Đại tướng sổng rồi.
Quả thật, Đại tướng đã rời chuồng tự lúc nào, đang ngẩng cao đầu, hùng dũng ò o trên chót đống rơm!
“Làm sao đây?”, bố nhăn mặt. Mẹ ca cẩm. Chỉ có bé Mi cười thầm. Rụt đầu trong chăn, bé giả vờ ngủ nhưng thực ra bé không ngủ. Con Đại tướng đã sổng chuồng. Và vì sao con Đại tướng sổng chuồng, thú ghê, chỉ mình bé biết.
Nhưng bé không cười được lâu. Bé lò dò ra sân đã thấy bố vốc thóc, ngồi xổm, miệng cục cục. Con Đại tướng từ đống rơm vù xuống, dáo dác nhìn quanh, e dè tiến lại gần. Ban đầu, nó nghi ngại, dừng bước. Nhưng sau, chắc nghĩ mình là Đại tướng mà rụt rè e xấu hổ với “ba quân” nên nó lại ngẩng cao, đường hoàng dắt cả lũ gà mái, gà choai xúm xít ùa vào. “Oác” một tiếng, bé Mi chỉ kịp thấy bố nằm xoài, con Đại tướng đã bị túm chân, giãy đành đạch. Cả đàn gà bay tán loạn.
Bé Mi điếng người!
Trưa, mẹ đun nước. Bé Mi thấy bố mài dao. Con dao sáng loáng, lạnh lùng. Rồi bố vào chuồng, túm Đại tướng mang ra. Bố lại ngồi xổm, kẹp cánh, kẹp chân. Con Đại tướng lúc lắc đầu, ngơ ngác. Hình như nó vẫn chưa hiểu vì sao ông chủ lại tàn nhẫn với nó. Nó nhìn bé Mi cầu cứu, đôi mắt diều hâu chơm chớp, cổ họng đưa ra những tiếng rên ảo não cồ ồ, cồ ồ…
Mặt bé Mi tái nhợt. Nước mắt lưng tròng.
Bố không để ý. Bố vừa giơ dao, toan cắt tiết, đã nghe tiếng bé òa khóc. Bố hốt hoảng buông dao, nhìn bé. Vừa khóc, bé vừa bệu bạo: “Đừng, đừng giết Đại tướng, bố ơi”. “Không giết nó, thịt đâu mà ăn Tết? Con không thích thịt gà sao?”. “Không! Con không thích thịt gà. Con không thích thịt Đại tướng. Bố… híc, bố… đừng… giết…”.
Mẹ bỏ bếp chạy ra. Mẹ nhìn bố. Bố nhìn mẹ. Mẹ lại nhìn bố rồi mẹ lắc đầu. Cái lắc đầu khiến bố hiểu ý, ngừng tay. Con Đại tướng được mở trói đứng rùng mình, dậm dậm chân, rồi đủng đỉnh đi về phía góc sân. Bình bịch cánh, nó lại gân cổ ò o. Hình như nó cho cái sự cố vừa qua là chuyện vặt, chẳng xứng cho sự quan tâm của một Đại tướng từng xông pha trận mạc, tăm tiếng lẫy lừng.
Tết năm nay, nhà bé Mi không có thịt gà!
Ấy vậy mà chưa năm nào bé cảm thấy cỗ Tết ngon hơn. Không khí Tết cũng vui hơn. Tinh mơ đầu năm, cái giọng kèn đồng của con Đại tướng đã rúc oang oang. Bố cười:
– Cha! Đầu năm to tiếng gớm chưa? Cứ theo lời ngài Đại tướng, năm nay nhà ta tha hồ mà phấn chấn, phát tài.
Y Nguyên

 MỘT CON CHÓ HAY CHIM CHUỘT
Hôm ấy, cụ Bá ông quả quyết mở ví tiền để trả cho anh lái chó cái giấy bạc một đồng. Cụ sung sướng cực điểm vì rằng con Vện mà cụ mới mua đấy, theo ý cụ, là một con chó có... dị tướng: béo tốt, chân thấp, mồm và tai vừa nhọn vừa ngắn, mặt trùn trùn gẫy gập như mặt giơi, lông đã hung hung lại có vằn đen như lốt hùm.
Cụ đã khoe với cả xóm rằng ai nuôi được thứ chó ấy ắt sẽ có nhiều dịp phát tài - giống chó cũng có tướng như giống người, mà con Vện của cụ thì lại quý hơn các thứ chó huyền đề hoặc là tứ túc mai hoa vì nó có tướng ngũ đoản.
° ° °
Chẳng hiểu cụ Bá xem tướng con Vện có đúng hay không! Sau khi có nó ba bốn ngày, chưa cho cụ được dịp phát tài đâu, nó đã vồ lấy ống chân cụ Bá bà mà ngoạm luôn cho một ngoạm. Tuy rằng mấy cái răng ngập vào thịt cũng không sâu cho lắm, nhưng cụ bà bị toạc mất hai tấc váy lĩnh: cái triệu chứng hao tài!
Có lẽ tướng ngũ đoản cũng chẳng đáng quý bằng cái váy lĩnh nên chi cụ ông, mặc dầu đã hết sức can ngăn và hạch lại cụ bà rằng "Mới thả cũi nó một ngày nó chưa quen hết người trong nhà, ai bảo bà đã đi về khuya lại không đánh tiếng", cụ cũng chẳng giựt nổi của cụ bà cái đòn ống to tướng lúc ấy cứ giáng xuống lưng con Vện như mưa...
- Này cắn trộm! Này phản chủ với bà!
- Ẳng ẳng ẳng ẳng!
Con Vện trong lúc chịu đòn, chỉ biết kêu có thế, nước mắt chảy ra ràn rụa, trông cũng đáng thương hại lắm.
Thất bại trong cuộc làm thầy kiện cho con chó có dị tướng ấy, cụ Bá ông hậm hực mất đến vài ngày, và khách hàng của cụ, từ đó cũng phải một phen kệch. Bốn chiếc răng nanh chẳng dám dùng đến nữa, từ đấy, hễ thấy người lạ mặt, con Vện chỉ đành gừ gừ một cách cho phải phép, hay là, quá lắm, cũng chỉ đến gâu gâu rất suông. Cái bực tức ấy thật chẳng khác gì cái bực tức của những ông quan viên nào đi che tàn, xuống xóm những tưởng sẽ được hưởng thế nọ... thế này, mà kỳ chung chỉ được có một chầu chay thôi vậy!
° ° °
Vẫn biết cắn là một tính thiên bẩm của loài chó thật song le, bất cứ lần nào, hễ Vện ta vừa rụt chân, rụt cổ, ngứa mồm nhe nanh, hừ một cái, là tức khắc bị những người suỵt suỵt ầm lên, cho nên nó nghĩ ngay đến cái đòn ống, lại cho rằng sự mình bị quát mắng là một điều áp chế, nó chui ngay vào gậm phản mà nằm rồi nhìn thế sự bằng cặp mắt bàng quan. Nếu nó biết nói, ắt nó đã làm một câu: "Chặc! Thì ông mặc kệ".
Dần dần, nó chỉ biết đến bữa thì ăn, ăn xong tìm chỗ nào cao ráo, ít ruồi, ít muỗi, đánh một giấc, cái đầu đặt giữa hai chân trước như người nào đến cái tuổi mũ ni che tai... Nhưng mà các cụ nhà ta đã bảo rằng nhàn cư vi bất thiện.
Cứ ngày nào cũng đủ hai bữa, sáng ngủ đến 9 giờ mới dậy, buổi trưa nào cũng la siết 1 một giấc, cuộc đời như vậy cũng tẻ ngắt. Vện ta phải nghĩ đến cách tán gái cho qua thời giờ. Đã không phải vất vả đến thân lúc nào lại được ăn chơi mặc thích, Vện càng ngày càng béo tốt, lông cứ mượt mà như nhung. Trông cũng có vẻ công tử bột lắm. Bộ mã đã bảnh bao cố nhiên trên đường tình dễ đắc thắng: cái tiếng chơi bời của Vện chỉ trong ít lâu đã lừng lẫy cả xóm: Vện đã nặn thêm ít nhiều xuất đinh cho cái "xã hội có mõm" và hễ cứ nhà nào có chó cái là phải thấy tiếng "quấy khóc" của đàn chó con lau nhau. Thì ra Vện cũng có số đào hoa như Người vậy.
° ° °
Nếu có ai được mục kích công tử Vện tán gái thì mới rõ tâm lý phụ nữ, với những cái thế lực của những bộ mã giẻ cùi.
Không có mùi soa nhưng lại thích cái mốt quay quay mùi soa đằng sau gái nó là cái mốt của bọn đệ tử đảng "Càn Long" ở Hà thành, trước mặt gái, Vện ta cũng vẫy cho đuôi luôn luôn phe phẩy, loanh quanh vài vòng thè lưỡi, ghé mũi, hết sức bầy tỏ tấm lòng khuyển mã, ấy chỉ có thế mà các "tiểu thư" Vàng, Bông, Cún, Mực, cô nào dữ và "lắm điều" vào bậc nhất, và có răng nanh nhọn nhất, cũng không nỡ cự tuyệt con... người có duyên một cách lạ ấy, cũng cảm ngay. Thật vậy, Vện chẳng bị tẽn hoặc bị cự tuyệt bao giờ.
Trò đời vẫn thế: thấy ai hơn mình là phải ghen ghét. Những chó vô duyên khác thường họp đàn họp lũ nhau rồi đến tận nhà cụ Bá gây sự với Vện luôn thôi! Không hề gì, cũng là hạng "có một vài miếng" nên Vện cũng chẳng sợ. Lắm khi một mình cự địch với ba bốn cũng vẫn thắng trận như thường. Cho nên từ các cô êu đài các đến các cô êu nghèo hèn, không một "mẻng" nào mà lại thoát cái phong tình của Vện. Không phải con chó ấy tham lắm, nhưng những khi chim chuột những hạng không có nhan sắc, dễ thường nó muốn thực hành cái lý thuyết: Mùi nhang đã trải, mùi dầu thử chơi! Nói cho đúng ra, Vện lại còn muốn được đời khen mình là yêu bình dân, vì sự thực thì Vện cũng có óc "hoạt đầu" dữ lắm.
° ° °
Nhưng mà có một lần, cái đàn những anh tình địch của Vện đông quá; dễ đến mười mõm ấy; thảy đều vây quanh lấy Vện mà vồ, mà nhá, khiến cho, không chống cự nổi nữa, Vện phải hộc tốc chạy về nhà, chui tọt vào gậm giường đứng giữ thế thủ cẩn thận rồi nhe nhanh gừ gừ ra ý thách:
- Chúng mày có giỏi, vào đây với ông!
Đàn kia.. không có con nào dám vào, chỉ đứng ngoài mà gầu gầu rầm lên ra ý chửi bới và văng tục.
Thật cũng chẳng may cho Vện quá, vì ngày hôm ấy cụ Bá có giỗ tổ, giữa lúc ấy lại nhằm lúc cụ bà đương xới cơm cúng, và cụ ông đương kính cẩn khấn khứa trước bàn thờ.
Bỗng dưng thấy tiếng chó sủa kinh thiên động địa, nhìn ra lại thấy toàn một lũ "đầu trâu mặt ngựa" đương đứng xúm nhau giữa cửa để chõ mõm vào mà tự do chửi rủa tàn tệ, mà dưới gầm thì là Vện, biết ngay lại chuyện ghen tuông chi đó, bực mình và sợ bất kính trong lúc cúng tế, cụ Bá ông quên cả chân mình đương có bít tất bông trắng nõn, nhẩy ngay xuống đất vớ cái lau màn, ra dẹp tan lũ "ưng khuyển" rồi mới quay vào giọt cho Vện một trận không tiếc tay.
Thói thường chó đen giữ mực, Vện cũng chẳng chừa.
° ° °
Đêm ấy, một đêm giăng thanh gió mát, nhân khi cao hứng, Vện phá rào chui ra ngoài đi với tình nhân. Giữa lúc hai bên chỉ non thề biển nặng lời trên con đường nhỏ giáp với lũy tre quanh làng nó cũng là một thứ "con đường Cổ Ngư" 2 chẳng hạn, thì một chú Cược thừa cơ chui qua cái chỗ hở ở giậu, vào sân tự do lấy mất cái chậu thau đồng.
- Thấy sột soạt tiếng động lúc trộm đã chui ra, cụ Bá gọi Vện mãi chẳng thấy đâu, phải lật đật ra sân soi thì... hỡi ơi nông nỗi!
Cách đấy vài phút, Vện lại chui qua lỗ hổng mà vào, hai mắt lấm lét nhìn trộm chủ, ra vẻ lo sợ chẳng hiểu đương đêm soi đèn và gọi mình làm gì thế kia... Thấy Vện có vẻ khả nghi, cụ Bá nhìn đến hàng rào rồi thất kinh chạy đến chỗ hổng. Rành rành một mảng lông mắc gai theo cái triều lưng của Vện lúc chui ra vẫn còn sờ sờ ở đó, cụ biết ngay ra là thủ đoạn của Vện, là nhờ Vện thì chú Cược mới được thừa cơ!
Giữa lúc cụ đương tiếc đứt ruột, cô Khoang, một con chó trông có quý tướng lắm, tứ túc mai hoa, "gót sen đẹp nõn", thật đáng gọi là... hoa khôi của làng êu, cũng chui qua giậu mà vào. Cô vào gừ gừ một câu nũng nịu những tiếng oanh thỏ thẻ muốn đại khái nói; "Giữa lúc này, gió mát trăng thanh mà chàng nỡ bỏ em, vậy thì chàng không coi cái ái tình cao thượng của đôi ta ra sao nữa ư?" Còn Vện giữa lúc ấy đã là một kẻ phạm nhân, mà cũng cứ tự do mơn trớn tình nhân, không coi mặt cụ Bá vào đâu sất cả!
Chẳng thèm nghĩ đến "cặp uyên ương" cụ Bá bèn lấy gậy vụt cho cả đôi một cách phàm phũ. Giận đến cực điểm, lại đau đớn về nỗi mắc lừa cái tướng ngũ đoản, cụ quả quyết chỏ tay lên vầng giăng mà thề độc: hễ có khách là trị tội, bắt Vện phải chịu... giềng hình!
° ° °
Khách lại là chúng tôi.
Muốn an ủi cụ Bá, chúng tôi phải nói chế đi rằng:
- Chó ngũ đoản chẳng hiểu có lợi gì cho người nuôi không, nhưng mà chén thì kể cũng đường được.
Trong lúc giốc bầu say tỉnh, chúng tôi chợt nhớ đến lúc con chó Khoang sang xem cuộc hành hình người yêu của nó. Ôi, thật là một sự chung tình đáng làm gương cho giai nhân tài tử ở đời soi chung!
Thấy con Vện bị trói chặt bốn chân, tiết ở cổ ứa ra như suối, con Khoang vẫn cứ chạy quanh cái chỗ gớm ghiếc ấy để liếm vào mình mẩy con Vện ra ý thương xót. Còn Vện thì nước mắt ràn rụa, khóc như một người thật. Nếu biết nói như người, hẳn nó đã nói: "Em ơi, anh chết vì em đấy! Thôi cũng là dịp cho anh tỏ dạ hy sinh tính mệnh để phụng sự ái tình!".
Nhưng những tư tưởng tốt đẹp ấy chỉ được phô diễn bằng mấy tiếng:
- Ẳng ẳng ẳng ẳng!
Vũ Trọng Phụng 
1934

 
Nương tựa
Hữu duyên nương tựa chốn thiền môn,
Phúc phận cho người khắp mọi thôn...
Đâu biết nơi đây âm thầm khóc,
Bao điều ước nguyện ắt vùi chôn !

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Cứu người, cứu vật thậm cao sâu...
Tâm lành như ý ngày sau đến,
Thuyền Từ dẫu khẳm có chìm đâu ?
NM

Nuôi heo trong chùa

“Chùa mà cũng nuôi heo”. Người ta nói thế không biết khen hay chê. Nhưng chắc chắn chuyện này lạ, và gây tò mò. Nhiều người đến chùa chẳng phải với mục đích viếng Phật mà chính là vì hiếu kỳ, muốn chứng thực coi cái điều đồn đại ấy có đúng không. Vớ vẩn thế!
Con heo này thầy nuôi lâu lắm rồi, từ bữa mới về trụ trì đây cơ. Một buổi chiều tình cờ trong vườn chùa lạc vào một con heo, hình như nhà ai đó cúng tạ lăng mới phóng sanh. Đã phóng sanh thì chẳng lẽ bắt lại? Nhưng sao nó lại lạc vào đây. Chắc tại vườn chùa nhiều cây cối, mà ở đời cái sự trốn tránh luôn tìm nơi rậm rạp. Vậy người tu hành có phải trốn tránh không mà vườn chùa cũng rậm rạp?
Lúc đầu sư thầy chẳng có ý định bắt giữ. Thầy nghĩ heo nó khôn lắm, thế nào rồi cũng tìm về cái nơi được sinh ra. Nhưng suốt hai ba hôm sau con heo vẫn đi long nhong quanh vườn, phóng uế lung tung, thi thoảng lúc thầy đang tụng kinh trong chánh điện lại nghe tiếng khịt khịt trái tai. Chẳng đặng đừng thầy phải đóng bốn cọc tre, nẹp mấy tấm ván bìa xung quanh làm thành cái chuồng. Ném vào trong ít ngọn rau khoai lang, thế là con heo chui ngay vào nhai ngon lành. Thầy khóa cửa chuồng lại, tạm thời cứ cho nó sống ở đây, mai mốt có ai đến xin thì thầy cho. Nhiều khi đấy cũng là một cái duyên, nó có mến chùa thì mới đến. Mà cũng có thể là nghiệp của con heo, trải qua mấy ngàn lần tích lũy công đức tiền kiếp mới được thế này. Và nhà Phật gọi cái đức ấy là căn tu.

Nhiều người đến viếng chùa thấy lạ, rỉ tai nhau. Từ bữa đó chùa đông người đến thăm viếng hơn. Thầy nghĩ nơi này hẻo lánh, đạo Phật chưa ai biết. Nhờ con heo mà người ta đến chùa thì cũng là một điều hay. Chùa được giáo hội phong hiệu tự đàng hoàng, song, người ta quen gọi ngôi chùa heo, hơi thô thiển nhưng không thể trách. Gọi thế cũng như dân gian hay gọi tên quai nôi, mà tên quai nôi thì có đâu sang với đẹp.
Cũng may heo là loài ăn chay được, chỉ cần rau ráng ngũ cốc thôi. Xong bữa cơm còn đồ thừa thầy đem đổ vào máng cho nó. Rồi thầy phát quang mảnh đất cỏ rậm sau nương chùa, trồng khoai lang. Người mới khó nuôi chứ heo thì dễ, cho gì nó ăn nấy. Ăn như heo. Thành ra có nuôi heo cũng hay, tận dụng được những thứ thừa thãi. Bậc tu hành vốn sống nhờ công đức của chúng sanh, mỗi miếng ăn phải biết quý trọng công sức lao động của người đời.
Con heo lớn nhanh, thầy phải nới cái chuồng ra rộng thêm cho nó có chỗ đi lui đi tới. Nhờ chay tịnh mà con heo láng mịn, da lông mọc thưa. Chỉ có điều nó là con heo cái, dân mình hay gọi heo nái, nhưng nó có đẻ đâu mà gọi là nái.
Người đến chùa vô tình buột miệng, con heo này phối đực được rồi đấy. Phỉ phui cái miệng, nhà chùa không ủng hộ chuyện đó. Trong mầm sinh có chủng tử khổ đau, có manh nha tử biệt. Sinh trụ hoại diệt là quy luật muôn đời của loài hữu tình, cũng là nghiệp chướng mà nhà Phật phải vượt qua để đạt giải thoát.
Vào kỳ động dục, con heo cái cứ dũi mõm sủi đất nền, húc phá bốn bức thành, thức ăn đổ vào nó vớt vát qua quýt vài miếng rồi đẩy lật cái máng đi. Tham dục vốn là căn nguyên của mọi tội lỗi. Phá một hồi chán nó lại nằm ì ra giữa nền. Sư thầy đưa tay vuốt dọc từ đầu nó xuống tận đuôi, như an ủi động viên, như cầu mong thứ lỗi. Thầy không thể làm khác được. Có người nói như thế là ác. Trời sinh ra có đực có cái thì phải cho nó đến với nhau chớ.
Nhờ sống cảnh thanh tịnh, ăn chay tịnh riết con heo cũng bớt dần cái tham đắm bản năng ấy. Cứ mùa dậy cái sau lại bớt quậy phá đi. Nhưng cội rễ si mê thì khó bỏ lắm. Nó nằm ì ra, chán ăn. Ngó đâm tội mà chẳng thể cho nó toại nguyện. Vào chùa là chấp nhận những nguyên tắc ràng buộc để về sau được giải thoát. Thôi coi như kiếp này nó chấp nhận tu hành hòng kiếp sau được đầu thai làm người. Mà kiếp người cũng khổ chớ sướng sung chi đâu. Ừ, nhưng đấy là sự đầu thai gần nhất để thăng lên cõi Phật.
*
Khi Sanh vào chùa cạo đầu làm chú tiểu thì con heo đã được mười tuổi rồi, ở chùa nên tuổi heo cũng gọi là tuổi đạo. Nó cũng tu mà, có khi còn tu nhiều hơn con người nữa là khác. Mỗi lần hai thầy trò tụng kinh thì con heo nằm oẹp xuống, hướng mũi vào trong chùa, tai vểnh lên như nghe kinh, mắt nhắm lại chẳng khác nào nhập pháp.
Con heo được nuôi nấng và chăm sóc chu đáo. Quanh năm, ngày nào hai thầy trò cũng múc nước tắm cho nó. Mùa nóng thì tắm bằng nước giếng, mùa lạnh pha thêm nước sôi cho ấm. Điệu Sanh xắn tay áo lên, cầm một cục sỏi to cọ quanh mình con heo.
Từ khi có chị bán vải, cái chị không sinh được con đã ly dị chồng ấy, đến chùa thì chị đỡ đần giúp. Dù sao có bàn tay phụ nữ mọi việc thu vén chăm bẵm cũng tốt hơn nhiều. Con heo coi chừng thích được chị chăm sóc, nó nhắm nghiền mắt lại vẻ thích thú mỗi lần được chị cọ xát lên da. Chị xoa tay vào chỗ bụng con heo, sờ mấy cái núm xám đen rồi chép miệng: “Thế này mà không đẻ đái được gì cũng buồn”. Điệu Sanh đứng bên ngoài buột miệng: “Tại thầy không cho nó đẻ đấy”.
Trái ngoắc vậy đó, người muốn có con thì chẳng sinh được, kẻ sinh được lại không ai cho. Chị thèm khát mong mỏi có được cái diễm phúc làm mẹ mà chẳng được. Nhiều khi chị nghĩ nếu mình đổi phận với con heo thì có lẽ hay. Cho nó ra ngoài mặc sức sinh con, để chị vào chùa ở chay ở nể. Nhưng nghĩ là nghĩ vu vơ vậy, chớ có căn tu cả đấy. Lâu nay chị vốn là một đệ tử sùng đạo Bổn sư, một phật tử thân tín nhà chùa, năng lui tới thăm viếng và đóng góp công quả. Chỉ chừng ấy thôi thì tốt, còn cạo trọc đầu làm ni sư thì khó lắm.
Con heo cái lớn hết cỡ, bụng phình xệ xuống chạm sát nền chuồng, đi lại khó khăn. Suốt ngày nó nằm một chỗ, mắt nhắm nghiền, thở nhẹ, thi thoảng co duỗi chân cựa quậy một chút cho đỡ tẻ. Những ngày chùa có lễ, bà con Phật tử đến đông, cứ vây quanh cái chuồng ngó con heo cái. Người tỏ vẻ thích thú khi ngắm lớp da dẻ trắng hồng của nó, heo nái ở ngoài nhăn nheo chớ làm sao được khuôn dung như thế. Người lại cảm thương cái phận nằm chờ vô thưởng vô phạt, lại tiếc khi ngó mấy cái núm ú tròn ở bụng heo, giống này mỗi lứa phải sinh được trên chục con bụ bẫm chứ chẳng phải chơi. Đa phần người ta mủi lòng thương, bảo thầy nhốt chi con heo, kìm giữ cái khát khao sinh nở của nó. Lạ một điều là người ta không bao giờ biết rằng cuộc sống trần tục vướng nhiều sự khổ não hơn. Chẳng thương lấy cái thân mình trong cõi cuồng mê, lại bận tâm trắc ẩn cho kẻ khác.
Những ngày sóc vọng như thế chị bán vải ở miết trong chánh điện, phụ lo dầu đèn, lau quét tàn nhang, ai đưa hương hoa đến viếng thì chị nhận rồi sắp đặt. Nhất quyết chị không ra chỗ chuồng heo, cứ như thể sợ người ta nhắc đến chuyện sinh đẻ thêm buồn.
Tiếng tăm ngôi chùa heo lan xa. Tiếng tốt tiếng xấu đều có. Thiên hạ đồn đại thêu dệt trăm chuyện như mộng. Người bảo con heo là hóa thân của vị Bồ Tát từ cung trời đâu suất giáng hạ nhập thế. Ai muốn cầu xin điều gì cứ đến vườn chùa, khấn thầm rồi sờ tay vào con heo là được. Kiểu như các sĩ tử đến mùa thi đổ xô vào Văn Miếu xoa đầu các cụ rùa đá để mong đỗ đạt.
Thế là con heo cái lạc loài bỗng dưng được hóa thiêng. Người ta kiêng cữ, không gọi nó bằng cái tên heo phàm tục nữa mà xưng chung chung là Chú, như gọi một chú tiểu. Ai đến chùa đều nói ra vườn thăm Chú. Người ta càng sùng bái Chú chừng nào thì thầy thêm lo chừng nấy. Đạo Phật là chân tín, không chấp nhận những trò mê muội đó. Sư thầy bước ra chuồng, nhìn con heo cái nằm an nhiên, yên trí rằng nó đang thiền định. Tâm nó từng ngày lãnh nhận dần những quả đắc lợi. Chẳng có thần thánh thiêng liêng gì đâu, sư thầy chỉ nghĩ đơn giản là con heo có căn tu.
Chị bán vải đến chùa thường xuyên. Cái tâm chị tốt, muốn nương tựa vào tam bảo như một bến bờ vững chắc, và chị làm thiện nguyện chỉ mong phần đời còn lại được sống an lạc, chẳng đòi hỏi gì hơn. Thế nhưng đàn bà thường nhẹ dạ cả tin. Nghe người ta bảo bữa nhờ sờ vào tai Chú mà làm ăn khấm khá lên, một cô mãn kinh nói xoa đầu Chú thì hết bệnh nhức óc… Lúc đầu chị không tin lắm. Rồi nghe thêm mấy người khác nữa kể, chị đâm hoang mang, và tin. Ở đời đôi khi điều giả nhưng nhờ người ta nói hoài mà thành sự thật.
Lần thấy chị tắm cho heo, điệu Sanh hỏi: “Cô có xin Chú điều gì không? Cô tắm cho Chú hoài thể nào xin cũng được”. Vừa lúc ấy chị lần tay xoa vào phần bụng con heo. Chị nghĩ, giờ có xin cũng đã muộn. Rồi chị ngẩn ra cười méo mó, chắc mình có xin Chú cũng không thể cho, vì Chú cũng đâu có sinh được nhiệm mầu công lực ấy.
Buổi chiều chị xách làn từ chùa trở về nhà. Nước mắt tự dưng chảy. Không rõ đang thương heo hay thương mình.
ST



Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Nhac- Thơ - Văn Giấc mơ không có con dế nhỏ


Con Dế Mèn

Tiếng dế cô đơn

Con sông xưa,
Tên sông hiền dịu vô cùng,
Mà sao cực nhọc nơi vùng tuổi thơ,
Bao năm chưa thể xoá mờ,
Thiết tha mong đợi giấc mơ xa vời
Xa quê thương nhớ một đời,
Nhớ con sông cũ, nhớ lời nội xưa,
Đêm về ngắm ánh sao thưa, 
Niềm riêng ấp ủ song chưa quay về !
NM
 

Giấc mơ không có con dế nhỏ

Nơi ấy tôi đã từng sống. Nơi ấy có một dòng sông. Nó chảy qua vùng đất nghèo quê nội tôi như một ký ức tuổi thơ xam xám. Tôi đã từng cởi trần cùng lũ trẻ nhảy ào xuống dòng nước đen ấy để vùng vẫy cho thỏa thích.
***
Tôi, mẹ, ba, và mọi người sống ở đó nhiều năm. Ở đó tôi cũng có một gia đình, có mẹ, có ba, có bà nội nhưng không có một mái ấm hạnh phúc. Mẹ tôi thường nói vậy.
Khi tôi lên năm tuổi, ba bắt đầu nghiện rượu. Tôi thường cười khanh khách lúc thấy ông bước liêu xiêu. Nhưng tôi không biết những lúc ấy mẹ khóc, khóc rất nhiều vì những cái bạt tai, cái đấm, cái đá của ba dưới áp lực của men rượu. Chịu đựng để giữ hạnh phúc gia đình nên mẹ không than vãn một lời. Lúc đó mẹ mới hai mấy tuổi nhưng trông già xọp đi. Lúc đó tôi không hiểu gì.
Bà nội chơi số đề. Tỉnh mắt dậy là nội chạy sang hàng xóm để bàn tán về số. Nhưng số đề không mỉm cười với nội, bà thua liên miên. Đồ đạc trong nhà cứ đem bán dần. Bán hết nữ trang của mình, nội lại quay sang vòi tiền mẹ. Phận dâu con mẹ phải cắn răng chịu. Sợi dây chuyền mẹ đeo trên cổ mỗi tối tôi hay nghịch cũng biến mất theo những con số đỏ đen.
Cha tôi uống rượu nhiều hơn. Bà nội ngày càng cau có hơn. Mẹ càng khổ hơn. Tôi chẳng biết gì. Thua số đề nhiều quá, nội mất ngủ. Bà không thể nào tìm ra những giấc mơ như thưở trước để sáng ra qua hàng xóm bàn tán. Thế là nội quay sang tôi. Mỗi sáng nội kéo tôi lại gần: "Đêm qua cháu mơ thấy cái gì?"
Cả ngày lăn lóc ngoài bờ sông, đu trên lưng trâu mỏi nhừ nên lên giường là tôi ngủ say như chết, làm gì có giấc mơ nào. Thấy tôi đứng ngẩn tò te, nội giục. Tôi ấp úng. Mẹ đứng gần đó đỡ lời: "Cháu còn nhỏ, không biết gì đâu!".
Nội trừng mắt. Tối, mẹ bị một trận bạt tai, đánh, đấm từ bố. Nội trông thấy cười, bởi chính bà là người tạo ra với nguyên nhân hết sức đơn giản: "Nó là dâu mà dám hỗn với tao".
Phần sợ nội, phần thương mẹ, tôi bắt đầu nói láo. Chỉ cần ngoắc lại là tôi gào lên: "Đêm qua cháu mơ thấy... ". Khi thì con quạ, con ngỗng. Lúc thì con ốc, con nai. Thậm chí hỏi mấy đứa hàng xóm biết số đề có ông địa, ông thần tài, tôi cũng gào lên ông địa, ông thần tài.
Không hiểu thế nào mà mấy bữa đầu trúng, nội vui ra mặt. Bà coi tôi như thần thánh. Mua cho tôi đủ thứ từ cái chợ chòm hỏm (chợ ngồi chòm hỏm để bán chứ không có sạp, có quán) của thôn. Mấy ngày sau bắt đầu trật, trật liên miên. Có hôm tôi phải chịu sự gầm ghè, đay nghiến của nội. Mẹ chỉ biết thở dài và khóc thầm. Cuộc sống đối với mẹ bất hạnh, khắc khổ quá.
Như mọi ngày,tôi lao xuống dòng sông đầy rác với con Tẻo, thằng Rớt, thằng Đủn, thằng Đen... Cả nhóm chỉ có Tẻo là con gái. Tội nghiệp, bữa nay nó phải dắt trâu của ông Bá đi tắm giùm để lấy tiền mua kẹo cho em nó. Con trâu được tắm hứng chí tuôn ra mấy "bãi". Phân nổi lềnh bềnh với rác trên mặt nước. Tôi vô ý quạt tay vào làm cả bọn cười lớn. Nóng mặt tôi chửi Tẻo. Nó phân bua:
- Tại anh chứ, trâu "ỉ" kệ nó, ai bảo anh đụng?
Như lửa đổ thêm dầu, tôi lao tới đánh nó một cái thật mạnh cho hả. Con Tẻo khóc lu loa. Tự nhiên tôi thấy thương nó quá, liền xuống nước năn nỉ:
- Thôi mày nín đi, mai tao bắt cho mày con dế!
- Chừng nào có con dế tui mới hết nghỉ chơi với anh.
Con Tẻo ngoay ngoảy đi. Mấy ngày tôi mò khắp các bờ ruộng mà không tìm ra con dế nào. Nắng gió làm tôi mỏi nhừ. Buổi tối, tôi mơ thấy tôi bắt được con dế dễ thương lắm. Trời sáng, nội vào buồng lay tôi dậy:
- Đêm qua mày mơ thấy con gì hả?
Đưa tay dụi dụi mắt cho tỉnh ngủ, tôi đáp như reo mừng:
- Con dế nội ơi! Đêm qua cháu mơ thấy con dế!
- Láo toét, số đề làm gì có con dế. Láo này, láo này... Nội quơ lấy cái chổi quật lia lịa vào tôi. Vừa đau, vừa hoảng tôi khóc ré lên.
Mẹ chạy đến khóc theo tôi:
- Đừng đánh cháu nữa, nó nhỏ đâu biết gì...
- A, còn mày! Sinh con mà không biết dạy, để nó hỗn láo thế... !
Nội quất vào mẹ. Như một nỗi đau nén lâu ngày trào lên, mẹ giật lấy cái chổi trên tay nội. Đôi mắt mẹ long lên những tia lửa, từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ thấy mẹ như thế. Bà nội tỏ vẻ sợ sệt lui ra sân.
Buổi tối đêm đó, ba lại say rượu trở về nhà. Vẫn đánh, vẫn đập, vẫn chửi rủa. Và đêm đó mãi trong giấc ngủ tôi còn nghe tiếng hét của ba, tiếng cãi lại của mẹ, tiếng đổ vỡ to lắm. Đêm đó tôi kéo cả cái chiếu để quấn quanh mình mà vẫn thấy sợ.
Ba mẹ ly dị. Bà nội cười. Hàng xóm xôn xao. Tôi khóc.
Vài bộ quần áo cũ, cái xách tay nhỏ, mẹ dắt tôi đi. Đứng chờ đò để qua sông, tôi gặp con Tẻo. Nó biết tôisắp đi xạ Nó vẫn đi tắm trâu để lấy tiền mua kẹo cho em nó. Tôi nắm lấy bàn tay đen hoẻn của nó:
- Mày đừng giận tao nữa nghen. Tao tìm mấy ngày nhưng không bắt được con dế nào. Tao lên thị xã ở, nếu có dế tao sẽ bắt để dành cho mày.
- Anh ngu quá! Thị xã làm gì có dế.
Con Tẻo mắt đỏ hoẹ Tôi biết nó cũng buồn. Lúc này tôi mới thấy dòng sông đầy rác và lềnh bềnh phân trâu cũng dễ thương như con dế tôi còn mắc nợ.
Qua đến bờ bên kia, mẹ đứng rất lâu để nhìn. Hai giọt nước mắt mẹ rơi xuống đầu tôi nóng hổi. Mẹ thở dài:
- Con sông tên Hiền vậy. Nhưng, cuộc sống có hiền lành và lương thiện đâu!
***
Lên thị xã mẹ làm rất nhiều việc để nuôi tôi. Và cái nơi đang đô thị hóa này đã không phụ mẹ dù nhiều lúc mẹ phải rơi nước mắt. Tôi có nhà ở, có ăn có mặc, được đi học. Mặc dù âm vang "... con người sống ở bờ sông không hiền lành và lương thiện... " luôn bám lấy tôi nhưng tôi luôn nhớ về dòng sông ấy, nhớ từng kỷ niệm, từng con người.
Tôi làm thơ đăng báo. Những bài thơ của tôi thường mang nét buồn và thường nhắc đến dòng sông.
Chiều. Như bao chiều khác, tôi đi dạo các sạp báo. Một ánh mắt nhìn tôi nửa quen, nửa lạ. Tôi nhíu mày. Thằng con trai đó thoáng bối rối rồi ồ lên:
- Lê Thụy Nhân! Còn nhớ tao không. Rớt nè!
Trời, thằng Rớt giờ to con như chú Chín (ba Rớt) hồi nào. Tôi kéo Rớt lại quán nước. Rớt vẫn cười luôn miệng:
- Lâu quá phải không mậy, hơn mười năm chứ ít gì. Tao không ngờ có một thằng bạn làm thơ hay như mày. Nè, cho tao hỏi chút. Dòng sông trong thơ mày có phải là sông Hiền không?
Tôi gật đầu. Dòng sông ấy vẫn trồi lên những nét riêng dù là nét buồn da diết. Bây giờ vùng sông Hiền đổi mới nhiều lắm rồi. Hơn mười năm tôi chưa về lại mảnh đất ấy. Rớt tiếp tục hào hứng:
- Ở quê, "nẫu" thích thơ mày lắm. Tờ báo nào có thơ mày là "nẫu" mua sạch. Còn tao, tao thích nhất hai câu: "ừ tôi con dế xưa đi lạc - Giờ thèm cọng rác phía sông quê". Mày viết bài này đề tặng "T" là tặng ai vậy?
- Ờ... ừ... , tao tặng con Tẻo đó. Con Tẻo hồi nhỏ tao đánh nó và mắc nợ nó con dế.
- Thôi đi cha nội. "Nẫu" lớn rồi mà còn kêu Tẻo. Đó là tên ở nhà, còn tên thật là Quỳnh Trâm.
- Quỳnh Trâm! Tên hay quá há! Tao đâu có biết, tao chỉ nhớ tên Tẻo thôi. Còn mày tên thật là gì?
- Tuấn, Phan Gia Tuấn nghiêm chỉnh nghe mậy!
Hai ly nước vơi dần cùng câu chuyện dài ra:
- Quỳnh Trâm hay nhắc mày lắm. Bữa nay nhỏ dễ thương gớm luôn. Mới được giải nhất học sinh thanh lịch của tỉnh đó.
- À, tao có biết. Nhưng tao đâu ngờ là Tẻo.
- Tẻo nữa! Biết tao lên thị xã, Trâm nhắc nếu gặp mày thì gởi lời thăm giùm. À, còn nữa, nếu mày rảnh thì viết thư cho Trâm. Trâm nhắc mày còn nợ nó con dế lâu rồi chưa trả. Chấm hết!
***
Câu chuyện của Tuấn làm tôi trỗi dậy những cảm xúc khó hiểu. Tuấn bây giờ đã thành anh thanh niên khỏe mạnh. Lũ trẻ trong xóm đã lớn. Quê nội tôi đã có trường cấp 3 khang trang. Bà nội vẫn khỏe. Ba tôi đã hết uống rượu và có vợ khác. Tẻo đã thành cô nữ sinh thanh lịch Quỳnh Trâm mà tôi thấy ở ảnh bìa tờ báo tỉnh. Tất cả đã thay đổi.
Suốt buổi tối tôi ngồi không học được gì. Mẹ vẫn cặm cụi với chiếc máy may xành xạch. Trời đêm nay đầy sao dù chỉ mới dứt mưa. Đi qua đi lại để lấy can đảm, tôi nói với mẹ:
- Mai mốt con thi đậu đại học rồi, mẹ cho con về quê nội một bữa nghen.
Mẹ ngừng máy maỵ Mẹ hiểu những gì tôi muốn nói. Rót cho mình ly nước, mẹ nhìn tôi. Khổ đau đời mẹ tụ lại thành những vết chân chim nơi khóe mắt. Tôi bối rối:
- Con xin lỗi nếu làm mẹ buồn. Con sẽ không đòi về quê nội nữa.
- Khi nào con muốn thì cứ về thăm nội với cha. Nhưng mẹ nói trước là mẹ không đi chung với con.
Mẹ thở dài. Một đêm tôi có thể đọc ngấu nghiến hết một quyển tiểu thuyết xã hội đau lòng. Nhưng mười mấy năm rồi tôi không biết giấu tiếng thở dài của mẹ vào đâu.
Trời đêm nay đầy sao. Những vì sao lấp lánh chắc sẽ hiểu mẹ, hiểu tôi. Dù mẹ và tôi có từ chối đi nữa cũng không che được tiềm thức về nơi ấy. Nơi ấy tôi thèm giấc mơ thấy ông Địa, ông Thần Tài thật sự để nội đánh số đề. Nơi ấy cha đã nợ mẹ một mái ấm hạnh phúc. Nơi ấy tôi đã để lại một tuổi thơ. Nơi ấy tôi đã nợ Quỳnh Trâm một con dế. Nơi ấy có một dòng sông đã chảy qua ký ức tôi: Tên con sông rất hiền mà sao cuộc đời cực nhọc vậy.
Alex Chu
Câu chuyện về một chú dế lửa
Ở xóm Cồn Tàu bọn trẻ rất khoái trò chơi đá dế. Mỗi cu cậu ít ra cũng có một hai lon nuôi vài ba con dế. Thời gian gần đây chú dế Lửa của cu Lâm đã đoạt chức vô địch. Tất cả các con dế khác của đám trẻ trong xóm đều lần lượt bị dế Lửa bẻ càng từ hiệp đầu. Nhất dế vô địch vạn cốt tiêu. Dế Lửa đoạt chức vô địch trên xác chết của không biết bao nhiêu chú dế khác. Bởi vì chú dế nào khi bị loại khỏi vòng chiến đều bị chủ ném cho gà chọi xơi. Vậy là cốt tiêu chứ làm gì được cốt khô. Thế rồi một hôm thằng cu Toại bắt được một con dế Than cực lớn. Giọng dế Than reo lên nghe như chuông đồng chùa Bà Hỏa. Vậy là chắc chắn sẽ xẩy ra một cuộc ác chiến một mất một còn giữa dế Than và dế Lửa. Dế Lửa chưa gặp dế Than nhưng nghe chủ nó nói dế Than tuổi còn trẻ nhưng có sức địch muôn người. Nó lấy làm lo. Dù sức vóc nó to lớn nhưng đã có tuổi. Liệu kinh nghiệm trận mạc có giúp gì nó không? Hơn nữa qua một đời đâm chém nó đã ghê tởm mùi máu. Giờ thì nó muốn tạo chút đức cho con cháu. Nhưng không thể được. Khi chủ nó đã ném vào đấu trường thì chỉ có hai con đường : Chiến thắng hoặc bị ném cho gà chọi xơi. Cả hai con đường đó nó đều không muốn giẫm chân lên.
Đêm nay dế Lửa trằn trọc không ngủ được. Có kế sách gì cho vẹn toàn? Làm sao khỏi mang tội giết thêm một mạng người nữa mà mình cũng khỏi bị mạng vong?
Đang trằn trọc, chợt dế Lửa nghe trong bóng tối có tiếng thì thầm: ”Giả bị kiến cắn”.
-Ai đó? Dế Lửa lên tiếng hỏi.
Nó không biết đó là chú thằn lằn có một lần bị tai nạn, khát nước gần chết, đã được nó mang nước đến cho uống và cứu sống. Kể từ lúc biết dế Lửa bị người chơi dế bắt, thằn lằn luôn theo sát để tìm cách cứu.
Lát sau giọng đó lại thì thầm: ”Giả bị kiến cắn”.
Chợt dế Lửa kêu lên: Ta hiểu rồi.
Tức thì dế Lửa nhảy loạn xạ, miệng không ngớt reo “reng reng reng “. Cu Lâm đang ngủ nửa đêm nghe dế kêu thảng thốt, bật người vùng dậy, miệng lẩm bẩm: Chết rồi! Dế Lửa bị kiến cắn. Cu Lâm vội chạy đến lon dế, mắt nhắm mắt mở kéo lớp vải che, xem dế có bị kiến cắn không. Chỉ chờ có thế, dế Lửa búng một cái vào bóng tối.
Đang chui rúc dưới gốc cỏ tìm chỗ ẩn náu, dế Lửa lại nghe tiếng thì thầm lúc nãy:
-Chúc bình yên. Chẳng còn gì đáng sợ nữa đâu.
Dế Lửa ngạc nhiên hỏi:
-Ngươi là ai mà có lòng giúp ta?
Giọng đó trả lời:
– Ta là ai, bạn đừng bận tâm. Bạn chỉ cần nhớ điều nầy:
Ai có lòng quan tâm đến mọi người, thì người đó sẽ được mọi người quan tâm lại.
Sáng hôm sau cu Lâm ra vườn hoa, chợt nghe tiếng dế gáy râm ran. Lấy làm lạ, cậu chưa bao giờ nghe tiếng dế gáy hay như thế.
  Nguyễn Bá Trình. 

 Quay về
Tiếng dế kêu não nuột,
Như tiếng bạn lẻ loi...
Em đi xa nỗi nhớ
Thương thân em mồ côi !

Yêu em da rám nắng,
Yêu cồn cát trắng tinh...
Tháng ngày bên vị mặn
Tôi tưởng bóng nhớ hình !

Con dế xưa quay về,
Tàu nặng nề chuyển bánh..
Nắng chiều dường vụn vỡ,
Ta cùng nhau về quê !!
NM
 

Con dế nơi miền cát trắng 

Dòng sông ngăn không cho cơn mưa trở về với đồng làng quê tôi đang khát nước. Bờ bên kia mưa trắng trời, nước đổ xuống sông ầm ầm. Cơn mưa dừng lại ở chỗ dòng chảy. Để bờ bên này vẫn nắng chang chang. Em vịn vai tôi, nhìn về làng mình:

– Tới đây rồi em nhớ nhà lắm nhưng thiếu con đò để sang ngang.
– Em về quê nắng sẽ theo về, bọn trẻ sẽ mất vui. Lâu lắm rồi mới có một cơn mưa!
Em nhìn theo tay tôi chỉ, bờ phía bên kia có những bé trai đang tắm mưa. Làn da đen bóng. Nếu trời cho bên này một chút mưa, tôi cũng sẽ tắm mưa như bọn trẻ. Sao mưa không cho bên này chút nước, để mạ tôi không phải gánh nước tưới hàng cây mới trồng. Kĩu kịt đôi thùng trên vai, mạ nhìn đứa con trai, ngoảnh mặt đi. Giọng nói của người lại vang lên trong trí nhớ con:
-Quê mình nghèo, đổi sức lấy miếng ăn. Người phụ nữ tật nguyền không thể đứng chân trên mảnh đất này.
Mạ quay đi giấu dòng nước mắt. Cả đời người lận đận thân cò với đôi thùng gánh nước trên vai. Quê tôi cát trải dài qua tầm mắt. Nắng lửa mưa dầu ruộng lúa vẫn xanh. Cát bỏng bàn chân tre vẫn mọc thẳng. Bọn trẻ như những cây măng vẫn lớn lên, vươn cao. Tuổi thơ tôi cũng tròn đầy như bọn trẻ trong làng, với những chiều chăn trâu, chơi trò đá dế. Con dế vùng cát trắng cũng khỏe hơn con dế sống trong đất phì nhiêu. Vì tổ dế luôn bị cát lấp đầy, cả ngày dế phải bới cát xây tổ như mạ tôi luôn phải gánh nước tưới cây. Tôi cũng như con dế có hai cánh tay chắc khỏe. Tôi có thể mang sức trai che chở được cho em. Mạ không cho người yêu tôi vào nhà cũng vì quá thương con. Làm dâu trên mảnh đất này em không quẩy được đôi thùng như mạ. Khoai trồng trên cát phải tưới đến khi nào lá phủ kín mặt đất. Tôi giờ đã có việc làm không thể thành người vô gia cư, nhưng mạ không chấp nhận em. Cùng là phụ nữ, sao mạ không thể thông cảm với em? Dìu em ra khỏi nhà, trái tim tôi trĩu nặng. Mắt em đỏ như vạt nắng chiều rơi. Buồn, em chỉ khóc với người yêu. Trong cái nắng bỏng rát của ngày hè, em là cây phi lao quen với đất cằn pha cát. Bọ tôi đón con ở đầu làng:
-Mạ các con chưa hiểu, hai đứa lên thị trấn thuê nhà ở tạm. Thư thư ít bữa rồi bọ khuyên giải.
Bọ nhìn em:
-Khuyết tật không phải lỗi của con.
Nói với con được ngần nấy câu, bọ lại vội gánh nước chạy đi. Đôi thùng sóng sánh, lấp lánh ánh trời. Những cơn gió Lào vô tình cứ mang đi những hạt nước pha lẫn mồ hôi. Gió như những bánh sắt nghiến trên con đường không gian khét lẹt.
Căn phòng tối rồi mà vẫn nóng như là lò nung. Bức tường tựa chiếc chảo vừa rang ngô. Nóng đổ mồ hôi em vẫn không bật điều hòa: “Bọ mạ ở nhà nóng hơn chúng mình nhiều cũng chỉ có quạt điện thôi.” Em tập tễnh leo lên giường nằm sát tường:
-Anh mở cửa sổ ra đi. Gió trời cũng đủ cho mình giấc ngủ ngon.
-Anh muốn đêm nay chúng mình là của nhau.
Em giấu vào trong dòng nước mắt hay gió Lào làm nó khô ngay khi chưa ra khỏi bờ mi:
-Mình thương nhau nhiều năm rồi! Đợi thêm mấy ngày nữa thôi anh.
Thị trấn về đêm trời đầy sao. Mấy căn nhà trồi lên nhờ nhờ trong bóng tối. Đom đóm lập lòe trong màn đêm đen. Bọ mạ tôi giờ chắc chưa được nghỉ. Vì cây trong vườn vẫn còn đang khát nước. Ngày anh trai tôi cưới vợ, bọ gọi con ra nhắc nhở: “Làm dâu quê mình vất vả nhiều, con phải yêu thương và tôn trọng vợ”. Bọ vỗ vai tôi: “Cả con nữa! Nhớ nhé khi nào lập gia đình riêng bọ không nhắc lại nữa đâu”. Quê tôi cái nắng gắt đến rát mặt bỏng da nhưng người dân vẫn gieo trồng cấy lúa. Thời nào cũng vậy, những người có chút chữ nghĩa là ra khỏi làng. Họ chỉ trở về khi mái đầu đã bạc. Nhiều người gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người. Mạ tôi hiểu hơn con nỗi khổ của người phụ nữ quê nghèo. Nghĩa vụ của người vợ, người mẹ trên đất cằn sỏi đá cũng nặng nề hơn. Họ phải có sức khỏe mới chống chọi được với thiên nhiên khắc nghiệt. Nhớ những ngày mùa, tôi học ở trong nhà còn cảm thấy như lò bát quái. Nóng giọt mồ hôi chảy mờ trang sách. Thế mà bọ mạ tôi vẫn ra đồng gặt lúa. Học là con đường duy nhất đưa chúng tôi tới những miền đất xa xôi. Ở nơi đó đất phì nhiêu màu mỡ, cây trồng không phải tưới nước nhiều. Màu xanh che khắp xóm làng. Anh tôi đã theo chị dâu vào Nam sống nhờ bên ngoại. Không phải là người sinh ra trên mảnh đất này, mấy ai chịu được cơn gió Lào khô khốc xát vào mặt, bỏng rát trên từng bó lúa trĩu nặng. Những hạt lúa đó đã nuôi lớn bao nhiêu người có tầm hiểu biết vượt qua cả biên giới. Sáng kiến của họ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và cho cả quốc gia. Nhưng mảnh đất chôn nhau cắt rốn vẫn nghèo xơ xác. Thuở nhỏ mỗi khi nhìn về dãy Trường Sơn tôi luôn thầm mơ ước: có những chiếc ống dài nối dòng suối trên núi chảy về làng. Từng ống nhỏ tới từng thửa ruộng. Khi cần nước mở nút rơm là nước chảy tràn. Trong mắt của đứa trẻ con, ngọn núi mây phủ là có rất nhiều nước. Mỗi khi trời mưa không phải là nước từ những đám mây đen đó sao? Mơ ước đó đã dẫn tôi đến với em. Chúng tôi gặp nhau trong buổi lễ phát thưởng cho những sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt. Tôi đi thay thằng bạn làm sinh viên tình nguyện giúp những bạn có hoàn cảnh khó khăn lên hội trường tầng sáu. Em vịn cầu thang đi được một vòng thì ngồi xuống bóp chân:
-Em nghỉ ở đây rồi xuống thôi! Anh lên báo cáo ban tổ chức giúp em!
Miệng nói, hai dòng nước mắt em lăn dài trên gò má. Máu anh hùng trong tôi nổi lên:
-Phần thưởng có thể nhận thay! Còn báo cáo về ý tưởng chống hạn cho miền Trung ai sẽ đọc thay em. Để anh cõng em lên.
Không đợi em đồng ý, tôi xốc em lên lưng chạy nhanh lên hội trường. Ít người nhìn thấy bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Điểm chung của chúng tôi là muốn mang nước về tưới cho cánh đồng cát trắng. Biết nhà em cách nhà mình có một con sông, tôi thường lui tới thăm nom. Chúng tôi cùng cảm nhận được trong hương thơm của lúa, trong vị ngọt của từng bát cơm có cả vị mặn của bao giọt mồ hôi. Em hiểu ý mạ tôi nên không trách nửa lời. Em sinh ra là để chịu thiệt thòi, thua thiệt. Cặp mắt buồn thẳm sâu: Hết nhìn cái nắng đang rực rực cháy lại nhìn người yêu. Ánh mắt em không có màu mây hờn giận. Tôi che nắng cho em. “Dù thế nào anh vẫn là nơi nương tựa vững chắc của em!”. Tôi thầm nhủ với lòng mình. Lớn lên trong trại mồ côi em vẫn hiểu cánh đồng làng nắng cháy. Ngày bà ngoại chưa về với cát! Em vẫn được nhận những củ khoai lang do bà gửi tới. Ngày nào em cũng ngóng ra cổng chờ bác bán hàng rong đi qua. Nhìn thấy người phụ nữ mặc áo nâu vá vai là em thấy được làng mình. Bác bán hàng rong, người cùng xóm, mỗi khi về nhà lại mang cho em những món quà của quê nghèo.

Lần đầu chung giường với em tôi không dám đơn phương làm cái việc mà tuổi trẻ khao khát. Yêu và tôn trọng đã lấn át bản năng. Nhiều lúc tôi tự hỏi: “Em có phải là phụ nữ hay không?”. Người yêu của những thằng bạn cùng phòng kí túc xá với tôi thường khéo léo mời mọc. Chúng nó đi chơi với bạn gái lúc nào cũng phải thủ sẵn “thiết bị” an toàn. Những lúc cõng em trên vai tôi cảm nhận được hơi thở gấp gấp, trong bộ ngực căng tròn, phập phồng của tuổi trẻ. Em luôn khéo léo giữ giới hạn với người yêu. Hôm nay khi chúng tôi sắp thành vợ chồng em vẫn giữ khoảng cách vừa đủ. Nhìn em nằm úp mặt vào tường tôi thấy thương em rất nhiều. Em đang tự kiềm chế bản thân. Tôi chỉ cần duỗi thẳng cánh tay là kéo em đến được với mình. Khoảng cách mong manh chưa đủ an toàn cho em. Nhưng tình yêu và lòng tự trọng không cho phép tôi. Trời chưa hửng sáng, hàng cây trong thị trấn vẫn một màu đen thẫm. Em vẫn chìm trong giấc ngủ ngon. Không gian yên ắng, thi thoảng tiếng gà gáy xa xa vọng lại. Tôi hòa trong đoàn người tập thể dục buổi sớm. Chợ họp từ khi nào mà người đã đông. Tôi như thấy mạ trong những người quẩy gánh. Bọ tôi trong những người phu khuân vác.
Cửa phòng khép hờ. Đôi dép của mạ để sát bên tường. Tôi trèo ra ban công phía sau nghe hai người nói chuyện. Cửa sổ em đã cài chặt. Chiếc điều hòa xả hơi nóng hầm hập. Tôi không nghe thấy tiếng ai nói. Nhìn ánh mắt là họ hiểu nhau. Hồi lâu mới có tiếng người yêu tôi nấc nhẹ và giọng mạ tôi vỗ về: “Cùng là đàn bà bác thương con nhiều lắm!”. Tiếng cài cửa cũng rất nhẹ. Bóng mạ tôi hòa vào dòng người dưới đường. Cái dáng khòm khòm của mạ như lưỡi dao cứa vào lòng con. Cùng tuổi với mạ người Hà Nội họ trẻ hơn rất nhiều. Cặp mắt em ráo hoảnh, không có một chút buồn hiện lên nét mặt:
-Hôm nay em về thị xã, thăm mẹ và dì ở trại trẻ. Anh về nhà giúp đỡ bọ mạ gặt mùa, ngày mai bão về rồi.
-Anh muốn về trại trẻ cùng em. Anh muốn được cảm ơn những người đã nuôi dưỡng em.
Em cảm động ôm tôi. Em đặt lên môi người yêu nụ hôn nóng bỏng. Lần đầu tiên được em chủ động tôi lại trở thành con dế co mình trong cát. Nó chẳng có phản ứng thể hiện tình yêu thương đang dồn nén trong lòng. Em ôm vai người yêu như là một đứa trẻ thể hiện tình cảm với cha. Từ nhỏ em đã chỉ có tình thương của người mẹ, người dì. Gió Lào xác khô không ngăn nổi dòng nước mắt. Nhưng em cất đi ngay để người yêu chưa kịp nhận ra. Giọng nói cứng cỏi lại về trên đôi môi thắm đỏ:
-Em muốn anh chuyển giúp em chút quà về cho dì ruột em ở làng. Nói với dì là lúc nào em cũng nhớ quê. Chiếc vòng bạc của bà ngoại tới nay em vẫn đeo trên cổ.
Nắng lửa tràn vào phòng. Em tự thu dọn những thứ cần thiết của mình. Cách một con sông mà hai làng khác nhau nhiều quá. Vị muối của biển, vị muối của mồ hôi hòa trộn nhau. Làng em làm muối phụ thuộc vào cái nắng chói chang. Làng tôi mong mưa cho cây khoai sai củ. Làng em mong nắng cho hạt muối kết tinh. Người diêm dân dưới cái nắng cháy trên những cánh đồng muối nơi cồn cát. Họ kiếm miếng ăn cực nhọc biết bao? Ở Hà Nội, ngày nào em cũng nhấm nháp một hạt muối để nhớ về quê nhà. Ngoài vị mặn của biển em cảm nhận được dư vị ngọt ngào của bao sự khó nhọc, lan tận vào tim. Bà ngoại em và dì em làm ra hạt muối trắng có cả vị mặn của mồ hôi. Nhưng tự nhiên, tre già măng vẫn mọc. Mộ bà ngoại em phủ kín màu xanh. Mặc cảm về khuyết tật chưa một lần em về trồng cỏ tưới nước cho bà. Đồi cát còng lưng hứng từng đợt gió Lào thổi rát mặt. Nếu không có cỏ và được người thân chăm sóc thì chẳng mấy, gió sẽ xóa sạch những nấm mồ xây bằng cát.
Thấy con trai về một mình mạ rất vui. Ngày mai bão về nay vẫn phải tưới cây. Để phòng những cơn gió đi trước không làm trơ gốc những cây khoai đang bén rễ. Tôi gánh nước cùng mạ, đôi vai sưng lên rát bỏng. Ở Hà Nội tôi cũng chăm tập thể dục rèn luyện sức khỏe mà không thể thắng được cái nóng của quê nhà. Tôi không còn là con dế của miền cát trắng. Mạ cười giúp con lau những hạt mồ hôi ròng ròng trên trán:
-Kiếm việc gì ngoài Bắc mà làm con ạ! Nhiều bác trong làng đi thoát li nay trở về với cuốn sổ hưu và quyển sổ tiết kiệm rất an nhàn. Bọ mạ không có những quyển sổ đó phải làm tới khi nào đôi chân không bước được.
-Anh con ở Nam, con lại ở Bắc bọ mạ sẽ sống với ai?
Bọ tôi cảm động. Ông buộc lại mái tóc cho vợ. Tóc bạc rồi mà hai người vẫn thương nhau:
-Mình thấy đó, con nó rất lo cho vợ chồng mình. Để nó về quê công tác cũng là một việc tốt. Mấy ông cán bộ huyện cũng đều có sổ hưu cả.
Mạ không nói có nghĩa là người đồng ý. Chưa có năm nào mà quê tôi không phải hứng chịu những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Trước kia chỉ có bão, gần đây thêm lũ lụt. Nước lũ trong một giờ có thể xóa sạch thành quả lao động của nhiều đời. Cuộc sống mưu sinh đầy gian lao vất vả mang lại lắm nỗi đắng cay. Nhiều người làng như anh tôi đã bỏ quê đi. Làng giờ chỉ còn mấy chục nóc nhà, chủ yếu là người già và trẻ nhỏ. Làng em cũng thế. Thưa dân là một điều kiện tốt để phục hồi lại những diện tích rừng đã bị chặt phá. Nhiều nơi đã làm khi người dân tự chuyển cư về đô thị. Mơ ước của em về những khu rừng giữ cát ngăn lũ thật đẹp. Nhưng có thành hiện thực hay không còn phải đợi tới ngày mai. Hôm nay tôi phải thuyết phục được mạ chấp nhận em. Vật lộn với mưa bão cả tuần. Khi ông mặt trời ló rạng phía biển tôi mới có thời gian trở về thị xã tìm em. Mạ chưa chấp thuận nhưng tôi không thể thiếu em. Xa nhau mới biết thế nào là nhớ. Ba năm rồi ngày nào tôi cũng được thấy nụ cười lạc quan, rạng rỡ của em. Nửa ngày đường tôi tới được thị xã. Trại trẻ cho biết em không trở về. Người mẹ và người dì em thường hay kể họ đã nghỉ hưu lâu rồi. Gọi điện cho em thuê bao không liên lạc được. Mới tối qua em còn nói chuyện rất đằm thắm với người yêu. Em nhớ tôi, nhớ những ngày đầm ấm bên nhau. Ông trưởng phòng tổ chức thông cảm mở tủ tìm địa chỉ. Những số điện thoại trong hồ sơ lưu đều không còn sử dụng. Ông cũng thở dài:
– Từ nhỏ con bé đã rất tự trọng. Đói đến mấy nó cũng không xin đồ ăn của bạn khác. Nó chỉ dùng những thứ thuộc về mình. Cháu về quê xem nó có về đó không?
Trong tuần mưa bão em đã đi đâu? Mạ tôi đã nói gì với em? Yêu em sao tôi không hiểu người mình yêu. Mấy năm qua chỉ có em yêu tôi. Còn tôi với em chỉ là tình thương. Em hiểu nên luôn giữ khoảng cách chăng. Tuần vừa qua những tin nhắn nồng nàn tình cảm phần lớn là của em. Hai chúng tôi cùng yêu mảnh đất này. Về tới đây rồi em không thể chia xa. Bốn năm đằng đẵng vì lý do sức khỏe chưa một lần em được về thăm quê. Làm con, sao tôi không hiểu mạ mình. Vì con mạ sẵn sàng làm tất cả. Bao năm rồi chiếc đòn gánh vẫn nặng trên vai mạ mỗi phiên chợ sớm. Mạ mang hết những thứ thu từ ruộng vườn, có thể bán được ra chợ lấy tiền gửi cho con. Tấm áo bọ bạc màu vì mưa nắng dãi dầu. Hai đứa con học đại học ở hai đầu đất nước, bọ mạ ở nhà oằn lưng gánh nhọc nhằn. Giận mạ nhưng tôi nuốt vào trong dạ. Mạ đã vất vả về con quá nhiều rồi. Những việc mạ làm cũng vì thương con. Tại sao tôi không động viên em về làng. Nơi đó căn nhà của bà ngoại em vẫn còn. Các con của người dì ruột em cũng đã đều ra thành phố. Em có thể ở với dì ít bữa. Tại sao tôi lại để em đi. Suốt ba năm kể từ khi chúng tôi biết mình không thể sống thiếu nhau, chưa khi nào tôi để em đi xa một mình. Qua cơn bão, làng em trở nên tiêu điều. Dì cũng già đi hàng chục tuổi. Dì tâm sự với tôi như tự trách chính mình:
– Hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, dì phải gửi em vào trại mồ côi. Từ ngày đó đến nay con bé chưa một lần trở lại xóm làng. Nó còn giận dì nhiều lắm. Dì cũng thấy có lỗi với mẹ con bé. Trước khi ra đi, mẹ nó đã gửi lại con nhỏ cho dì. Dì đã không làm tròn trách nhiệm với người quá cố.
Chưa khi nào em nói với tôi về gia đình mình. Em yêu cái nắng chói chang của miền Trung đã nuôi mình khôn lớn. Học xong em sẽ về quê làm việc, mang hiểu biết giúp ích cho xóm làng. Em muốn quê mình bớt nghèo, những người như bà ngoại em bớt khổ. Em yêu vị mặn của những giọt mồ hôi đã đổ xuống trên từng cánh đồng, từng ruộng muối. Tình yêu quê của em đã chảy sang cả tôi, trong những bữa cơm chiều em nấu món ăn quê nhà. Em dẫn con dế đang tìm đến vùng đất phì nhiêu quay trở lại với những cồn cát trắng phau. Món bánh tôm bột lọc em làm cho tôi mời các bạn trong cả khu trọ là niềm tự hào của vùng quê phần nhiều chỉ có sắn khoai. Nay tôi mới hiểu vì nghèo, mẹ em phải dời làng ra đi nhưng cơn bão không cho tới miền đất mới. Chân trời góc biển tôi biết tìm em nơi đâu? Xa nhau tôi mới nhận ra mình yêu em rất nhiều. Tôi yêu làn da rám nắng, mặn mòi, của gió Lào cát trắng. Vắng em tôi không thiết thứ gì. Huyện gọi về làm việc tôi cũng cho qua. Cả ngày đi tìm vết chân em trên cát. Người con gái chân đi cà nhắc, bàn chân nổi bàn chân sâu. Trên cồn cát trắng tinh không còn vết chân nào. Tôi chỉ cảm thấy vui khi được ăn bát canh do em nấu. Ba năm rồi tôi đã quen với sự chăm sóc của em. Mạ tôi động viên:
– Phụ nữ chưa cưới hỏi đã ở cùng phòng với con trai chẳng phải là người ngoan. Con gái khỏe mạnh quê mình có rất nhiều. Con nên kiếm một cô giáo làng sau này có lương hưu lại đảm việc nhà.
Tôi bỏ ra sông. Nắng quay cuồng làm sôi cả mặt nước. Mạ đuổi theo đội cho con chiếc nón lá lên đầu. Thương con nhưng mạ đâu có hiểu lòng con. Tôi không thể giải thích với mạ là em trong sáng. Việc hai năm rõ mười nói mạ cũng chẳng tin. Em đi đâu trên miền đất chỉ có nắng và cát này? Chuyên môn của em tốt nhưng doanh nghiệp nào sẽ nhận em vào làm việc? Ai sẽ chở em đi làm mỗi ngày?
Con dế mất người yêu, nó đi thơ thẩn trên triền sông, nhìn về bờ bên kia, tìm một bóng dáng quen thuộc. Tôi sẽ về Hà Nội sống ở nơi có những kỉ niệm về em. Căn phòng trọ đã có bốn năm mang hơi ấm người tôi yêu.
Những lời thấu lý đẹp tình của bọ và những giọt nước mắt của mạ không ngăn được tôi khoác ba lô dời quê. Bọ chở con ra ga trong nắng hè cháy đỏ. Con tàu thở hồng hộc khi vừa qua một quãng đường dài. Bụi đỏ bám đầy thân tàu. Người con gái chân thấp chân cao vịn vai bạn gái khó nhọc bước xuống sân ga. Nắng, cát và gió Lào đã đưa em trở lại. Con dế đã quay về, bởi chỉ có sống trong cát dế mới có sức khỏe bền lâu.

Tàu nặng nề chuyển bánh để lại một hành khách cùng tấm vé trên tay. Tiếng rít của bánh sắt trên đường ray vỡ vụn nắng chiều
Lê Trung Cường
 

Người hoá dế

Vào đời nhà Lê người ta hay chơi trò chọi dế. Người ta cố tìm những con dế khỏe mạnh khéo chọi và bán giá cao. Mỗi lần có cuộc chọi dế, người đánh cuộc vây vòng trong vòng ngoài, chủ nhân của những con dế thắng trận vừa được những món tiền thưởng lớn lại vừa được đám đông trầm trồ thán phục. Vì thế, từ quan chí dân, ai nấy đua nhau nuôi dế chọi, chính nhà vua lại là người say mê thú chơi này đệ nhất. Có những viên quan chuyên có mỗi một việc nuôi và chăm sóc đàn dế chọi cho nhà vua. Có những viên nội giám chuyên đi lùng dế trong dân. Trong cung thường mở những ngày hội chọi dế, có nhiều quan lớn các trấn về dự các trận đấu. Để luôn luôn có dế tốt, vua ra lệnh cho mỗi tổng ở gần kinh kỳ phải tìm cho được ít nhất là một con dế chọi đem nộp, nếu quả là dế hay thì sẽ miễn trừ sưu thuế, trái lại nếu nộp dế xấu hay không có đế, thì phải tội nặng.
Bấy giờ vùng Kinh-bắc về tổng Đại-mão, có một ông cai tổng nuôi một con dế chọi hay lắm. Tất cả những con dế có tiếng là hay đem đến chọi với dế của ông cũng đều thua chạy. Vì thế ông quý dế mình hơn vàng, hết sức chăm chút để đợi ngày tiến vua. Ông nghĩ bụng: - "Có thể nhờ nó may ra vụ thuế năm nay được tỉnh giảm ít nhiều".
Sắp tới ngày tiến dế, một hôm ông cai tổng đi chợ để sắm sửa hành trang. Ở nhà hôm ấy chỉ có mỗi một mình thằng con ông còn nhỏ giữ nhà. Buồn tình, nó gọi bọn trẻ lối xóm tới chơi. Chơi được một chốc, chúng nó bày trò chọi dế. Tuy biết dế của bố không được phép mó vào, nhưng nay nhân bố mẹ vắng nhà, thằng bé mở lồng bắt con dế quý ra, cho chọi với dế của chúng bạn. Chẳng biết chúng nó bắt lên bắt xuống thế nào mà chỉ được một chốc con dế quý tự nhiên ngắc ngoải, rồi lăn ra chết. Thấy dế chết, thằng bé vô cùng sợ hãi. Nghĩ đến những trận roi sắp tới của người bố nghiêm khắc, nó không còn hồn vía nào nữa. - "Mất con dế tiến, bố ta mà về thì sẽ vặn cổ không tha!". Nghĩ vậy thằng bé vội bỏ nhà cắm cổ ra đi một mạch.
Khi ông cai tổng trở về, như thường lệ, đến ngay chỗ lồng nâng niu con dế tiến. Thấy dế chết, ông gầm lên. Và khi biết thủ phạm là con mình, ông tức tốc sai người đi tìm về toan đánh cho một trận. Nhưng người nhà tìm khắp nơi chẳng thấy thằng bé đâu cả. Ngày một ngay hai không thấy con về, ông đổi giận làm lo. Ông phải viết giấy cho các xã trưởng nhờ tìm tòi, song cũng vô hiệu. Chắc rằng con mình sợ tội, nên đã liều thân hoại thể ở đâu rồi, hai vợ chồng ông hết sức đau xót. Hai vợ chồng bảo nhau: - "Dế đã chết, không biết lấy gì để nạp lên vua, sự thể chắc thế nào cũng sẽ bị tội nặng, mà đứa con độc nhất cũng chẳng còn, thôi thì thiết sống làm gì nữa". Thế rồi, họ định bụng tối đến sẽ ra vườn sau thắt cổ.
Lại nói chuyện đứa bé sau khi bỏ nhà ra đi, cứ nhắm đường rừng bước miết. - "Ta phải đi thật nhanh kẻo bố cho người đuổi theo". Đi mãi đến chiều tối, phần thì mệt và đói, phần thì sợ hãi vì trong rừng sâu không một bóng người, đứa bé nằm vật trên một tảng đá kêu khóc. Bỗng từ sau tảng đá, một đạo sĩ hiện ra hỏi:
- Tại sao con khóc?
Thằng bé mếu máo kể chuyện đầu đuôi cho đạo sĩ nghe, và nói:
- Bây giờ bố cháu không có dế nạp vua, chắc là vua trị tội nặng.
Nghe đoạn, đạo sĩ bảo:
- Con đừng lo, để ta giúp con chuộc tội cho bố mẹ.
Nói rồi, đạo sĩ dắt đứa bé về hang, lấy cơm cho ăn và trải giường cho ngủ. Qua ngày sau, đạo sĩ gọi thằng bé dậy dặn rằng:
- Ta sẽ làm cho con hóa dế, con về giúp bố con có cái để nạp vua. Xong việc, tìm cách trốn về đây ta sẽ hóa phép cho con trở lại nguyên hình. Có muốn thế không?
Thằng bé gật đầu. Đạo sĩ đọc lên một câu thần chú. Tự nhiên thằng bé cứ nhỏ lại dần, nhỏ dần và cuối cùng hóa thành một con dế. Đạo sĩ khoát tay bảo:
- Hãy can đảm đi đi, rồi nhớ đường về đây.
Dế ta cất cánh nhằm đường cũ bay một mạch trở về. Khi về đến nhà thì vừa lúc hai vợ chồng ông cai tổng ra vườn sau toan buộc dây thắt cổ. Dế sán lại gần gáy lên từng hồi. Nghe tiếng dế rất gần, ông cai tổng lấy làm lạ, vội đốt đuốc ra soi thì dế bay đậu ngay vào lòng bàn tay ông. Thấy con dế có vẻ khỏe, lại quen người, ông cai tổng đổi buồn làm vui "Đây là trời xui đất khiến đưa dế cho mình để thay cho con hôm nọ đây!". Ông quên ngay mọi việc xảy ra và bỏ ý định tự tử, bèn đem dế bỏ vào lồng để mai mang tiến vua cho kịp ngày hội.
Khi dế của ông cai tổng Đại-mão đưa vào cung, vua chưa thấy có con nào bé người mà khỏe đến thế. Vua cho nó đấu thử với các con dế khác, thì không một con nào dám đương đầu. Tất cả những con dế nổi tiếng ở kinh đô đều đại bại. Vua rất đẹp lòng về con dế vô địch, vội xuống chỉ ban cho người tiến dế phẩm hàm và hạ lệnh tha thuế cho tổng Đại-mão trong ba năm để thưởng công phu kiếm được dế tốt. Vua sai đưa con dế quý bỏ vào trong một cái lồng bằng vàng và sai mấy viên quan nội giám hết sức chăm chút. Mấy ngày sau, giữa ngày hội lớn, vua ra lệnh đưa con dế mới ra chọi với dế quan tổng đốc ba trấn miền Nam mới về dự hội. Đấu được ba hiệp, con dế mới đã cặp cho con dế quan tổng đốc gãy càng. Nhà vua chưa lần nào được sảng khoái như thế. Nhưng khi viên nội giám sắp bắt dế bỏ vào lồng thì bỗng dưng dế xòe cánh bay vút lên trời, và chỉ một chốc đã biến mất trước những con mắt ngơ ngác của đám vua quan.
Dế cứ lần theo đường cũ bay trở về hang của đạo sĩ. Trông thấy đạo sĩ, dế đậu ngay vào áo. Đạo sĩ bắt dế vào tay, đọc lên một câu thần chú. Tự nhiên dế lại lớn dần, lớn dần lên, và chỉ trong chớp mắt trở lại biến thành đứa con ông cai tổng. Đạo sĩ vỗ vào vai bảo:
- Thôi con trở về kẻo bố mẹ con mong!
Thằng bé lại tìm đường ra khỏi rừng rồi trở về nhà. Trông thấy con, hai vợ chồng ông cai tổng khôn xiết mừng rỡ[1]
Nguyễn Đổng Chi
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam