Hiển thị các bài đăng có nhãn Tình quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tình quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2019

Nhạc- Thơ - Văn Đường về nhà


Đường về nhà


       Người miệt thứ,
Tôi vẫn là tôi, người con miệt thứ,
Dẫu sóng đời xô dạt kéo tôi xa...
Vẫn bao dung, chân chất lẫn vị tha,
Tâm luôn nhớ nơi bình yên quê mẹ !

Sao thương quá cánh đồng xanh lặng lẽ,
Khoác lên mình màu lúa sắc non xanh..
Dòng sông trôi lờ lững kiếp độc hành,
Mang theo sóng vị phù sa dịu ngọt !!
 
Quê tôi đó yêu thương cao chất ngất,
Bỗng vươn lên như những cánh diều bay...
Cũng như tôi xa xứ biết bao ngày,
Luôn đau đáu ước mơ lần trở lại !!
NM
Minh họa: Trà My 
Trở về miệt thứ
Mỗi lần đứng ngẩn ngơ trên bến xe, nghe chị lơ xe đon đả hỏi: “Em ơi, về miệt thứ hả em? Đi xe chị nè, chuyến cuối cùng trong ngày rồi đó!”, tôi bỗng thấy mắt mình rưng rưng...
Thế giới của tôi là mảnh đất ngọt mật vị phù sa châu thổ, thế giới của những dòng sông, những cánh đồng, những con đò và cánh cò trắng chấp chới trong những chiều yên ả. Tôi được sinh ra và gắn bó trọn vẹn mười tám năm đầu đời với những hồn nhiên mơ mộng, ngày nghe tiếng máy chạy xình xịch trên sông, đêm lắng tai nghe giọng hò ai ngân lên ngọt bùi sâu lắng. Rồi cứ thế, tôi lớn lên như cỏ dại trên đồng, vẫy vùng tung bay như cánh chim trời trong không gian bao la.
Hoàng hôn buông trên cánh đồng xa xăm, chiếc xe băng băng trên con đường nhỏ xuôi về miệt thứ. Ngồi trên xe, thi thoảng tôi lại thả mắt nhìn cảnh vật bên đường. Trải rợp trước mắt tôi là sắc xanh của cỏ, của lau lách vật vờ trong ngọn gió đồng. Bóng chiều đổ xuống ngọn dừa, nền trời rực đỏ một màu như tháng năm nào trong cõi nhân gian có người cầm bó đuốc bén lửa châm vào bức tranh hoàng hôn tạo thành những mảng màu kỳ vĩ. Trên cánh đồng, trẻ chăn trâu vẫn còn nấn ná lại vài phút nữa chơi trò đánh trận, phất cờ, tiếng nói tiếng cười rộn vang trong không gian thanh bình.
Chị lơ xe hỏi tôi: “Em là dân thành thị về chơi miệt thứ cho biết hả em? Ở đó buồn lắm, chị đảm bảo em về một lần là không có lần thứ hai, thứ ba... nữa đâu”. Tim tôi nhói lên. Chao ôi! Tôi là người con miệt thứ, sinh ra và lớn lên nơi đồng đất phù sa, được má tắm táp bằng gàu nước sông quê ngọt ngào như dòng sữa, được ba dẫn đi những bước đi chập chững đầu đời cũng trên dải đất phù sa mát lành. Ngày xưa vẫn thế, bây giờ vẫn thế! Tôi mãi mãi vẫn là đứa con đi ra từ ruộng đồng, miệt thứ là mảnh đất của bao dung và yêu thương, mảnh đất của chở che, của ngọn nguồn dưỡng nuôi tâm hồn và thể xác. Sống giữa thị thành chỉ mới mấy năm, giờ đây người quê lại xem tôi là “khách”, là “kẻ tha hương” đến miệt thứ chỉ để thăm thú rồi ôm về một nỗi u hoài “không đến lần thứ hai”. Dường như ai rắp tâm lấy đi một phần tâm hồn của tôi khiến lòng tôi hoang hoải. Mấy năm xa quê, công việc thường nhật tạo điều kiện để tôi đi đó đi đây, đặt chân đến những miền đất mới, tiếp xúc với những con người mới. Tôi như cánh chim thiên di, hễ thấy đất lành là sà xuống mà chẳng cần một lời mời mọc, đón chào. Vậy mà chừng ấy năm tôi lại vô tâm bỏ lại quê hương sau lưng mình, để quên ký ức trong một chiều nào hoàng hôn đỏ rực phía chân trời trên cánh đồng cỏ lau xanh biếc. Nước mắt tôi ứa ra, nỗi buồn sóng sánh cõi lòng.
Tôi nói vu vơ: “Miệt thứ bây giờ đổi khác quá chị ha, đường sá phẳng lì, xe cộ bon bon. Đâu còn cái cảnh đò giang cách trở mười mấy năm về trước?”. Chị cười thay cho câu trả lời. Đất nghèo đổi thay, chỉ có cánh đồng vẫn lặng lẽ khoác lên mình màu lúa non cỏ xanh, màu nâu của đất phù sa, màu vàng của nắng và màu đỏ tươi của hoàng hôn rớt lại cuối chiều. Hơn hết, ngần ấy năm trôi qua con người miệt thứ vẫn giữ trọn sự chân chất, nồng hậu, bao dung và vị tha của mình. Người miệt thứ hiền hòa như dòng sông, dạt dào yêu thương như con sóng âm thầm chắt chiu những hạt phù sa bồi vào đất mẹ...
Tôi về đứng giữa cánh đồng. Trời xanh. Cỏ xanh. Ký ức màu xanh. Thời gian có thể rửa trôi mọi thứ nhưng chẳng thể xóa nhòa ký ức tuổi thơ, cũng như thời gian chẳng bao giờ làm lòng người đổi thay nếu tâm hồn người vẫn đau đáu hướng về miền quê yên bình, thơ mộng. Dòng sông vẫn chảy, cánh diều vẫn bay, và tôi vẫn lặng lẽ trở về với nơi chôn nhau cắt rốn, để được yêu thương và chở che, để được chạm tay vào mặt đất quê mình rồi nhận ra đất vẫn ngọt, phù sa vẫn ngọt...
Hoàng Khánh Duy

Bên kia đồi,
Bên kia đồi không là nơi tôi ở,
Dẫu bên em hạnh phúc đến ngập tràn...
Dĩ vãng ngày xưa, một kiếp lang thang,
Tôi quay lại xin làm con Bản Giốc
NM
Đường về yêu thương
Bên kia đồi là cuộc sống muôn màu A Giàng hằng ước ao, giờ đây là vô nghĩa. A Giàng chọn tìm về nơi mình đáng thuộc về. Và quan trọng là, nơi ấy có người phụ nữ đã cưu mang anh suốt 19 năm qua...
Mặt trời lấp ló sau những thân cây cường tráng; từng tia nắng chiếu lọt qua khe ván gỗ ghép của ngôi nhà sàn chênh vênh. Sáng nào A Giàng cũng dậy thật sớm; vác rựa vào rừng đốn củi. Hôm khác lại đi phát ngọn cỏ lau đem về; địu xuống dưới xuôi bán cho người Kinh làm chổi.
A Giàng mồ côi cha mẹ, nghe đâu được A Dúa nhặt về nuôi; ngay dưới chân ngọn đồi Ông Tẩu. Năm đó A Dúa cũng vừa tròn ba mươi tuổi. A Dúa sống một mình trong căn nhà sàn xiêu vẹo bên cạnh con suối. Thật ra A Dúa không phải người bản Giốc mà từ nơi khác đi lạc đến đây. Già làng A Mâu còn nhớ như in ngày thấy A Dúa; như con nai bị mắc bẫy què chân nằm bên vệ đường.
 Nhọc nhằn lắm già làng mới đưa được A Dúa về nằm lại trong căn chòi; giữa rẫy ngô của vài gia đình trong bản. Mùa đông bắt đầu cũng là lúc những đọt ngô; bật lên một màu vàng nâu giữa màu xanh của lá. Căn chòi hoang thật ra chỉ là nơi để người trong bản ngơi nghỉ; giữa trưa nắng nóng khi lên rẫy gieo hạt.
Trước đây khoảng hơn chục năm; bản Giốc bỗng thưa thớt người hơn mỗi khi đến mùa gieo hạt hoặc lúc thu hoạch. Người lớn và thanh niên trai tráng rủ nhau lên những căn chòi trên rẫy; đốt lửa và quây quần cùng nhau nhâm nhi chén rượu cần. Có khi cùng nhau nghêu ngao dăm điệu khèn vui; nhảy sạp cho qua những đêm sương muối lạnh cóng.
Nhưng rồi người trong bản bắt đầu rỉ tai nhau; những lời đồn thổi về loài thú dữ trở về phá hoại mùa màng. Họ tìm thấy nhiều dấu chân còn rõ rệt chiếc móng vuốt sắc nhọn trên rẫy ngô; rẫy sắn ngã rạp như vừa trải qua một cơn lũ. Những chiếc chòi bỗng chốc bị bỏ hoang.
 Không ít người trong bản bỏ công sức lần tìm theo những dấu chân để đánh bẫy; nhưng rồi không mấy ai trở về. Họ cứ đi là đi mãi, bỏ lại mẹ, vợ; và những đứa con thơ bập bẹ gọi cha khản giọng theo cơn gió mùa đông; rột roạt trên những vạt cỏ lau xao xác bên mé rừng. A Dúa là một minh chứng rõ ràng. Người trong bản mỗi lần kể về A Dúa là kể về những mất mát; tưởng như vết thương chẳng bao giờ lành. Ngay cả già làng A Mâu còn phải thườn thượt thở dài. Già làng bỗng thấy thương cho một kiếp người; như khóm hoa mẫu đơn đỏ mọc đầy ven lối.
***
Chồng A Dúa nằm trong đội quân trai tráng của bản đi săn thú dữ. Họ trang bị những chiếc bẫy có thả đầy con hươu, con hoẵng thịt béo đẫy đà. Nhưng rồi sau bao đêm dông dài, những con thú được đặt làm mồi vẫn nhởn nhơ sống, nhởn nhơ chạy nhảy còn những thanh niên trong bản thì một đi không trở về.
(Truyện ngắn hay) Rồi cũng trong những lần dật dờ như bóng nắng, bóng cây tìm chồng mà A Dúa thấy A Giàng bị bỏ lại bên vệ đường, trong lùm cỏ ràng ràng dưới chân ngọn đồi ông Tẩu. A Dúa đưa thằng nhỏ về, cũng chẳng biết ai xui ai khiến như một duyên cớ sau những thất thểu tuyệt vọng của đời mình.
Nhớ những ngày đầu thằng nhỏ khóc ngặt vì khát sữa mà A Dúa thấy thương. Cũng may đàn bò, đàn dê tan tác sau những nanh vuốt của loài thú dữ còn dăm ba con có sữa để nuôi con nhỏ. A Giàng nhờ ngậm nguồn sữa hôi mà cứ vậy phổng phao khôn lớn.
***
Mùa đông đi qua, mùa xuân bắt đầu bằng những vạt rừng nở trắng hoa mơ, hoa mận. A Dúa thấy mình già đi mỗi khi ngang qua con suối vục tay xuống dòng nước mát trong, soi gương mặt khắc khổ mà tủi hờn. A Giàng cũng chưa bao giờ nghe già làng tiết lộ về chuyện nó là đứa trẻ mồ côi. Quy định của bản Giốc là vậy. Không ai có quyền được nói bất cứ điều gì nếu không được sự đồng ý. Họ coi già làng như vị chủ đất, thay mặt vị thổ địa mà cai quản tất thảy.
Năm A Giàng 19 tuổi, nó dắt tay một thiếu nữ bản khác về bảo A Dúa cưới vợ. Nhưng điều này không thể được vì A Giàng ngay từ đầu đã không thuộc về nơi đây. Bởi ngay từ những ngày đầu tiên nhặt A Giàng về, A Dúa đã có linh cảm gì đó về đứa trẻ đang ngủ gục trước ngực cô. Thằng nhỏ có mái tóc lóng lánh đen cùng làn da trắng. Đôi mắt nó là sự hòa trộn của trời và đất, xanh lấp lánh và đen tuyền. Chiếc mũi cao cùng đôi má phĩnh tròn khiến A Dúa chợt hình dung về một gương mặt nào đó cô đã từng ám ảnh khi theo mẹ xuống thị trấn bán những món đồ thổ cẩm đủ đầy màu sắc.
Nào ngờ đâu, đó là ánh mắt hằn lên sự lọc lừa phản bội của gã đàn ông đê hèn. Để rồi A Dúa mang trong mình giọt máu của một kẻ bội tình trong vô vọng.
Đứa trẻ sinh ra nhưng A Dúa không được nhìn thấy mặt. Nó đã được đem làm mồi cho thú dữ, hoặc cho một lễ tế nào đó khi vừa lọt lòng mẹ. A Dúa bị khai trừ ra khỏi bản làng kể từ đó và định mệnh đã cho cô gặp già làng A Mâu và A Chiêng để kết nên duyên vợ chồng. Tiếc là hạnh phúc thì như đốm lửa đốt bằng những khúc củi của mùa xuân, thấm đẫm những giọt mưa, khó khăn lắm mới nhóm được lên nhưng lại dễ dàng bị dập tắt.
Ngày A Giàng đưa cô thiếu nữ trẻ về nhà, A Dúa đang ngồi thêu nốt chiếc khăn thổ cẩm. Món quà mà A Dúa sẽ để dành đến khi A Giàng biết được sự thật mà cô giấu kín trong lòng suốt gần 20 năm qua.
A Dúa ngước mắt nhìn lên, bỏ tay khỏi khung thêu rồi cầm lấy tay A Giàng đi về phía mặt trời mọc. Trong khi cô thiếu nữ đi cùng cứ ngồi trân nơi bậc thang trước cửa nhà sàn mà không hiểu chuyện gì.
A Giàng thấy A Dúa dắt tay nó đi phăm phăm ra khỏi nhà thì không ngừng thắc mắc. Trong khi ngoài trời đang lất phất mưa. Già làng A Mâu đang nằm ho khúc khắc trong nhà. Nghe tiếng bước chân ai vừa đặt vào lãnh địa của mình, ông liền tỉnh giấc, dò dẫm tìm chiếc gậy và bước ra.
Như biết được sự việc chẳng thể giấu A Giàng được thêm nữa nên già làng A Mâu và A Dúa quyết định nói hết tất cả. Cũng là để trút bỏ những ưu tư giấu kín trong lòng bấy lâu, để tâm được tịnh dù có phải xuôi tay nhắm mắt.
(Truyện ngắn hay) Tiếc là, giờ đến người thân còn lại duy nhất của A Dúa là A Giàng rồi cũng phải như loài chim rừng đủ lông đủ cánh mà bay đi, tới những mảnh đất mà nó cảm thấy có thể đặt vững đôi chân của mình. Đúng như lời già làng A Mâu đã từng nói khi thấy A Dúa ẵm thằng nhỏ đưa về. “Con định giữ nó đến khi nào?” nhưng A Dúa không kịp suy nghĩ gì ngoài những khát khao về một gia đình nhỏ bé.
A Giàng ngồi nghe câu chuyện của già làng A Mâu và mẹ nó mà khóe mắt rực đỏ.
***
Buổi sáng hôm ấy A Dúa thức dậy thật sớm, nấu vội chút cơm nắm cho A Giàng mang đi đường. Khói lửa mọi ngày thảng thốt theo gió bay lên trời, nhưng hôm nay cứ tù mù vây quanh khiến A Dúa thấy sống mũi cay cay.
A Dúa đánh thức A Giàng dậy. Chuẩn bị tươm tất đồ đạc cho chuyến đi vượt núi băng rừng có phần hơi vất vả. Dù trước đó A Giàng đã không ít lần địu cỏ lau xuống dưới xuôi. Nhưng lần này thì khác bởi đây sẽ là chuyến đi mà chắc phải rất lâu hoặc không bao giờ A Dúa có cơ hội gặp lại đứa con của mình.
– Đồ đạc mẹ đã gói gọn đây rồi. Đói bụng thì bỏ cơm nắm ra ăn. Khát thì tìm dòng nước trong mà uống. Mỏi chân quá thì tìm chòi tìm rẫy mà nghỉ. Nhưng phải cố gắng tìm cho được cha mẹ con. Nếu còn nhớ tới mẹ và người bản Giốc thì thi thoảng biết tìm đường mà về thăm.
 Nói rồi A Dúa đeo tay nải vào cho con rồi vội vàng quay mặt đi, vì sợ A Giàng thấy nước mắt mình đang trệu trạo rơi. Nắng chiều đã buông thõng trên những con dốc quanh co, dòng suối róc rách phơ phất những vạt cỏ lau trắng ngần.
A Giàng đứng trên mỏm đá cao nhất nơi mặt trời chạm những giọt nắng đầu tiên, đưa mắt nhìn ra tứ phía. Phía trước mặt A Giàng là những dãy nhà san sát, nơi có cha mẹ đẻ của nó đang sống ở đó. Và biết đâu cũng mòn mỏi mong ngóng tin tức về đứa con trai của mình.
Còn phía sau lưng là bản Giốc êm đềm với những ngôi nhà sàn cô độc như những phận người cam chịu cả đời bằng ràng buộc hẹn thề. Nơi có già làng và người đàn bà chấp nhận cưu mang nó dù biết trước được sự bạc bẽo của lòng người.
A Giàng đứng đó một lúc mà suy nghĩ rất nhiều. Liệu rằng nó sẽ bước tiếp qua ngọn núi này để đi về phía phố thị san sát kia, hay là sẽ trở về làm tròn bổn phận một người con của bản Giốc, để báo hiếu cho mẹ nó, cho núi rừng?
Thế rồi A Giàng quyết định làm theo sự mách bảo của trái tim. Nó đứng một lúc thật lâu nhìn về phía bên kia của những ngọn núi và quyết định quay về. Dù bên kia ngọn đồi là một cuộc sống mà nó đã từng mong muốn. Ở đâu giờ đây với A Giàng không còn quan trọng nữa. Quan trọng là nó thấy mình được sống trọn vẹn với những gì nó đáng thuộc về.
Con đường về bản Giốc hôm nay khá khác lạ quá chừng. Bởi có tiếng chim líu lo hót mừng một điệu nhạc xuân mới, theo tiếng gió va đập vào vạt cỏ lau, lao xao.
 Song Ninh
Tiếng chuông ngân,
Trong đêm thánh con cúi đầu xin tội,
Lòng ngỡ ngàng bởi ân đức Chúa ban...
Tiếng chuông khuya trong đêm tối ngân vang,
Chúa soi sáng với muôn vàng ân sủng !
NM

 Đường về nhà
Bốp!
Sương nảy đom đóm mắt, ngã chúi xuống đất vì cái tát như trời giáng của bố. Khi ngẩng đầu lên, người Sương run bắn khi bắt gặp ánh mắt vằn đỏ vì giận dữ của ông.
– Cút! Mày cút ra ngay khỏi nhà cho tao! Cái thứ con gái hư hỏng, thế này tao còn mặt mũi nào mà nhìn bà con trong giáo xứ nữa. Chánh trương… mà có đứa con gái chửa hoang! Thà rằng mày đừng bao giờ trở về nữa, tao sẽ nói với mọi người là mày mất tích!
Ông ném cái balô to đầy bụi đường sau chuyến đi dài trở về của đứa con gái dại dột vào người nó, rồi quăng cục tiền 100.000đ và quăng xuống đất, gằn từng tiếng một:
– Mày… còn muốn trở về thì giải quyết cái thai cho tao. Lẽ ra… mày đừng sinh ra thì hơn, mẹ mày vì cố gắng sinh ra mày mà… bây giờ…
Ông chỉ nói được đến đó. Ông mất bình tĩnh vì cơn tức giận, mắt vẫn hằn lên những tia giận dữ. Hai hàm răng nghiến chặt. Vai ông gồng lên, các ngón tay co lại thành hai nắm đấm. Ông đứng như thế khá lâu, và với ánh mắt như thế, ông nhìn đứa con gái có cái bụng lùm lùm hơn 20 tuần đang cúi đầu ngồi bệt dưới đất. Ông đóng sập cửa lại, cài chốt và quay vào nhà.
Sương là đứa con gái đầu lòng của ông. Lúc mẹ cô biết mình có bầu, bà đang xạ trị ung thư. Bà đã lựa chọn ngừng xạ trị để tiếp tục mang thai và sinh nở vì không nỡ từ chối món quà mà Thiên Chúa đã trao ban. Bà sinh con hồng hào bụ bẫm, nhưng chỉ được 2 năm sau thì bà qua đời. Đã 20 năm trôi qua mà ông vẫn ở vậy để nuôi dạy đứa con gái duy nhất, bởi ông vẫn không nguôi thương nhớ người vợ hiền quá cố. Ông đã nghiêm khắc với nó lắm, đã gắng sức dạy nó đủ điều hay lẽ phải. Vậy mà giờ đây nó lại vác cái bụng đó về.
Bị đuổi ra khỏi nhà ngay khi vừa về đến cửa, Sương thấy quanh mình trời đất tối sầm dù đang giữa trưa hè, trời đang nắng chang chang. Cô nhặt cục tiền, ném trở lại vào sân rồi lếch thếch bước đi. Miệng đắng ngắt. Một bên má vẫn còn rát bỏng vì cái tát của bố. Cô tiến ra đường lớn, chờ bắt xe. Cô muốn đi đến một nơi thật xa. Càng xa càng tốt.
Boongggg… Boo…oong… Boo… ong…
Tiếng chuông nhà thờ từ xa đang ngân lên từng hồi. Cô ngoái đầu lại và ngước lên tháp chuông cao vút, nhô lên sau những rặng cây.
– Lạy Chúa, con phải làm gì bây giờ? Con phải làm gì để bảo vệ đứa con bé bỏng của con? Xin thương giúp con.
Điện thoại báo có tin nhắn, Cô mở ra đọc. Là bố đứa bé.
“Anh nhắc lại lần nữa, đứa bé đó là oan nghiệt, nó sẽ làm anh tán gia bại sản. Em phá thai, anh sẽ đền bù. Không sinh đứa này thì sinh đứa khác. Nếu cô nhất quyết giữ nó thì giờ tự lo nhé, đường ai nấy đi. Cô biết đấy, tôi thiếu gì gái theo!”
Đọc tin nhắn cô sững sờ đến mức buông rơi chiếc điện thoại xuống nền đường xi măng khô khốc.
Anh học cùng trường với cô và trước cô một khoá. Cô và anh quen nhau trong thư viện trường, rồi kết bạn và tình yêu nảy nở. Lúc đầu cô còn e ngại vì anh không cùng tôn giáo, nhưng vì bị anh cuốn hút, cô đã gật đầu nhận lời yêu anh, và chấp nhận cùng anh đi quá giới hạn vào cái đêm sau buổi tiệc mừng cô được mặc áo cử nhân.
Cô mím môi, nhặt điện thoại lên. Nuốt nước mắt ngược trở lại vào trong và tự nhủ “Không, mình không thể khóc.”
Vậy mà nước mắt cứ rơi chan hòa. Cô lau nước mắt, và tiến ra đường, vẫy xe. Trong túi cô vẫn còn vài đồng tiền ít ỏi, đủ tiền đi xe và sống qua vài ngày. Cô cầu nguyện… mình sẽ bắt chuyến xe khách thứ 3 đi ngang qua, và đi tới bến cuối. Dù có là tuyến xe nào đi nữa. Số 3, chỉ đơn giản vì đó là con số yêu thích của cô.
Xe tới. Cô lên xe và ngủ thiếp đi vì quá mệt.
– Dậy đi, bến cuối rồi. Anh phụ xe đánh thức cô dậy.
– Đây là đâu anh?
– Trời, bến xe Mỹ Đình chứ đâu nữa. Chưa tỉnh ngủ hả em?
Hà Nội! Chúa ơi, sao lại là Hà Nội? Cô đã muốn chạy trốn khỏi nơi này… Vậy mà…
Trời đã xế chiều, mặt trời bắt đầu lặn. Sương xuống xe, tìm một quán trà đá để ngồi nghỉ và suy nghĩ giờ chẳng biết đi đâu về đâu. Phòng trọ thì vừa trả. Còn ít đồ gửi nhà bạn. Cô tháo chuỗi Mân Côi đeo tay ra lần hạt, vừa hết 50 kinh thì nghe thấy đoạn nhạc mà mình yêu thích ngay sát bên tai…
“Ngợi ca lòng thương xót Chúa đã ban tặng con
Hỡi trái tim từ nhân, con tín thác nơi Ngài.
Chiều đồi núi Can-vê năm nào Ngài chết treo thân…”
Sương quay về phía phát ra tiếng nhạc thì thấy một cô gái ngồi cô đang móc điện thoại trong túi xách ra nghe:
– A lô… Dạ, con chào cha. Vâng, con vừa từ quê lên ạ… Ca đó con thuyết phục được rồi ạ, lúc đầu nghe con tiếp cận nghe thấy cái tên “Bảo Vệ Sự Sống” thì họ phản ứng dữ dội lắm, nhất quyết đuổi về và bảo nhưng giờ thì họ lại đồng ý cho em ấy vào Nhà Mở rồi ạ. Chiều mai hai mẹ con họ sẽ lên Hà Nội và tới gặp cha ạ. Quê con giờ phá thai nhiều lắm, lúc nào cha cho nhóm về truyền thông nhé, con có nói với cha xứ chỗ con rồi ạ, ngài đồng ý ngay. \
Còn một ca nữa con đang thuyết phục ạ… Dạ, mai con sẽ đi lấy đồ sơ sinh và đồ bầu rồi mang qua Nhà Mở, luôn… Dạ vâng… Con nhớ rồi ạ. Con chào cha.
Cô gái nói chuyện điện thoại xong, có lẽ muốn ngồi nghỉ một chút sau chuyến đi dài nên ngồi nán lại nhìn những chiếc xe ra vào bến. Thấy chuỗi Mân Côi trên tay Sương, cô gái quay sang bắt chuyện:
– Em là người Công giáo à?
– Vâng. Sao chị biết ạ?
– Chị cũng Công giáo này. Thấy em đang cầm chuỗi Mân Côi trên tay là biết liền. Chắc em mới ở quê lên à?
– Vâng.
Cứ thế họ bắt đầu mấy câu thăm hỏi thông thường giữa những người Công Giáo khi tình cờ gặp nhau. Hai cô gái đã biết những thông tin cơ bản về người đối diện.
– Chị Yến này… – Sương ngập ngừng – Em xin phép hỏi chị trước được không? Lúc nãy em nghe chị nói chuyện điện thoại, phá thai với Bảo Vệ Sự Sống gì đó… Nếu có thể, xin chị nói cho em biết rõ hơn…
– Em chưa nghe về Bảo Vệ Sự Sống bao giờ sao?
– Dạ chưa.
– Thế này nhé. Bảo Vệ Sự Sống là một nhóm bác ái xã hội, với sứ mệnh là đấu tranh cho quyền sống của các thai nhi, gọi một cách nôm na là chống phá thai. Các hoạt động chính là cầu nguyện cho sự sống, truyền thông nâng cao ý thức cộng đồng, an táng các hài nhi xấu số, thuyết phục giữ lại thai nhi, và cưu mang các chị em bầu đơn thân. Chị ở nhóm Bảo Vệ Sự Sống Thái Hà. Em học ở Hà Nội, chắc biết nhà thờ DCCT Thái Hà mà không biết tới Bảo Vệ Sự Sống thì lạ thật.
– Dạ em chưa đi lễ Thái Hà. Em học Học Viện Tài Chính nên toàn đi lễ Cổ Nhuế thôi chị.
– 8h sáng thứ 7 hàng tuần có thánh lễ an táng các thai nhi đấy. Em có rảnh thì…
– Chị!- Sương ngắt lời Yến, mếu máo.
– Ủa, sao vậy em?- Yến tròn mắt ngạc nhiên.
– Chị giúp em với…
Sương nghẹn ngào trong tiếng nấc
Thoáng bối rối, nhưng khi nhìn xuống bụng Sương, Yến đoán được phần nào câu chuyện. Cô siết chặt tay Sương để biểu lộ sự cảm thông. Bao cảm xúc mà Sương kìm kén bấy lâu, giờ cô để mặc cho chúng trào tuôn và trôi đi theo dòng nước mắt. Yến vẫn ngồi cạnh, dịu dàng nắm chặt tay Sương như người chị an ủi đứa em gái bé bỏng. Chờ cho Sương khóc xong, Yến hỏi han ngọn ngành câu chuyện rồi đưa Sương về nhà thờ Thái Hà gặp cha đặc trách, ngài sẽ giúp đỡ, cho cô vào Nhà Mở, nơi cưu mang những cô gái lầm lỡ như cô.
Một tuần sau, mọi sự được thu xếp ổn thoả để Sương vào Nhà Mở. Một nơi khiêm tốn giản dị nhưng ấm áp trong một xứ đạo yên bình xa trung tâm thành phố. Những ngày đầu, cũng như nhiều cô gái khác, Sương khóc rất nhiều. Cô khóc vì giận bố đứa bé, vì tủi thân khi gia đình hắt hủi, vì sợ hãi khi nghĩ đến tương lai. Nhưng khi trò chuyện cùng các chị em cùng hoàn cảnh, Sương dần dần thấy nguôi ngoai và bình tâm, yêu đời trở lại. Cô thấy mình phải mạnh mẽ để làm chỗ dựa cho đứa con mà mình đang cưu mang. Ở trong Nhà Mở, Sương càng siêng năng lần chuỗi hơn. Cô cầu nguyện cho bố mình và cũng hiệp thông với những tâm tình cầu nguyện của Bảo Vệ Sự Sống.
Đủ tháng đủ ngày, Sương sinh hạ một bé gái 3,2kg kháu khỉnh đáng yêu. Yến nhận lời Sương làm mẹ đỡ đầu cho bé.
Khi bé được 2 tháng, Sương rời Nhà Mở, và kiếm được công việc nhẹ nhàng là đan móc đồ bằng len để sống qua ngày. Cô vốn khéo tay và nhanh nhẹn nên cũng tạm đủ sống. Cô cũng đổi số điện thoại, xóa Facebook cũ, chỉ giữ lại một số liên lạc cần thiết.
Hai năm trôi qua.
Hôm đó, Sương đưa bé lên qua dòng Mến Thánh Giá để cầu nguyện với thánh Antôn. Bước vào sân, để cho con mình lẫm chẫm chạy vào trước, cô đứng nhìn con và mỉm cười rồi bước vào sau. Bé gái chạy tới cửa nhà sách thì đồng thời một người đàn ông mặc áo cổ cồn xách một nilon đầy sách bước ra. Cô bé nhìn ông và bật cười khanh khách. Ông mỉm cười, cúi xuống đặt tay làm động tác chúc lành cho bé.
Đoán chắc là một vị linh mục, Sương bước lại gần để chào hỏi và cảm ơn. Khi người đó ngẩng lên, cô sững sờ.
Và người đó cũng kinh ngạc khi nhìn thấy cô.
– Ơ… Cha!
– Sương! Sao con ở đây?
– Cha ơi… Con…
– Con đây rồi, tạ ơn Chúa.- Vị linh mục nghẹn ngào, mắt rưng rưng.
Sương cúi đầu. Yên lặng.
– Cha hiểu cả mà, con không phải giải thích gì cả
Gặp lại con ở đây, cha phải tạ ơn Chúa. Sao con cắt đứt liên lạc với gia đình và bạn bè bấy lâu nay?
– Cha… Bố con đuổi con đi mà! Con phạm tội tày trời thế này, làm sao có thể được tha thứ. – Từ hai khóe mắt của Sương, đôi dòng lệ trào ra.
– Sương à, bố con đi tìm con suốt 2 năm nay. Ông ấy nói với cha rằng chính ông mới cần đứa con gái của mình tha thứ, vì con đã trở về nhưng ông đã không mở rộng vòng tay.
– Thật sao cha?
– Lạy Chúa tôi, con không tin cha sao? Sương à, về nhà đi con.
Sương òa khóc, nức nở. Nhưng là những giọt nước mắt hạnh phúc. Vậy là cô đã có thể trở về nhà, điều mà cô mong ước bấy lâu nay. Cô ngửa mặt lên trời, mắt đẫm lệ, cô mỉm cười, làm dấu và khẽ thì thầm:
– Tạ ơn Chúa! 
Hà An



Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Truyện ngắn về Vĩnh Long

Hát Về Vĩnh Long

Hút hồn vẻ đẹp đảo Nam Du

Giã biệt anh,
Giã biệt chuyến phà, giã biệt anh,
Người em yêu dấu đã không thành....
Em về thương tiếc ân tình cũ,
Giã biệt phà thôi, giã biệt anh !!

Nhìn con nước lớn phẳng lặng trôi,
Những ánh đèn xa cũng xa rồi...
Tưởng như đom đóm tìm mơ ước,
Trao gởi tình em tận cuối trời !

Em sẽ quay về gom nhớ thương,
Không trao người nữa khỏi tơ vương...
Phà không còn nữa, tình không vẹn,
Mạnh mẽ mình em vạn nẻo đường !!
NM

Tranh minh họa: Trần Thắng

Chuyến phà cuối cùng

Dòng nước chảy xiết làm cuốn trôi những đám lục bình thành từng cụm, trên tay Duyên còn nặng cả gánh hàng chưa bán hết. Cô dõi mắt về hướng dòng sông rồi nghĩ ngợi những chuyện vu vơ:
Mình chỉ còn bán được ngày hôm nay thôi, ngày mai sẽ không còn được bán hàng trên chiếc phà này nữa. Thời gian trôi qua nhanh quá, mới đó mà cầu Cao Lãnh ấy cũng đã xong rồi. Nhanh thật!
Đột nhiên bao nhiêu ký ức năm năm về trước lại ùa về trong tâm hồn của người con gái bé nhỏ như Duyên. Khi nghe tin dự án cầu Cao Lãnh chuẩn bị khởi công thì bà con và người dân nơi đây lại phấn khởi vô cùng.
Khi ấy đôi bờ sẽ được kết nối, hành khách sẽ không còn đợi phà hay chen lấn mỗi khi đông người. Mọi người đều náo nức mong đợi sẽ có được cây cầu tuyệt đẹp. Bản thân Duyên cũng vậy.
Mỗi sáng sớm cô thường dọn hàng ra bến phà để bán. Giọng điệu mời khách của Duyên rất ngọt ngào, dễ mến và gần gũi. Bởi thế lúc nào cô cũng được nhiều người yêu quý và ủng hộ.
Duyên là cô bé mồ côi, từ khi mới lọt lòng Duyên được chú thím Hai đem về nuôi cho tới bây giờ. Chú thím Hai cưới nhau đã gần hai mươi năm mà chưa sinh được đứa con nào cả. Từ khi gặp cô, chú thím vui lắm. Ban đầu thím Hai không biết đặt cho cô tên gì, bà liền nhìn vào mặt cô mà tặc lưỡi:
Ôi! Con bé xinh quá ông Hai nhỉ? Thôi thì con gặp vợ chồng ta như là một cái duyên, ta đặt cho con tên Duyên vậy. Từ nay con sẽ về ở cùng với vợ chồng ta, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo.
Từ khi có con, chú thím vui lắm. Hễ ai lại nhà thì thím lại khoe rất sung sướng và xem cô như con ruột của mình. Duyên là cô bé rất xinh đẹp, tóc cô lúc nào cũng tỏa ra mùi hương đến kỳ lạ. Đôi mắt long lanh to tròn là điểm rất nổi bật tạo sức thu hút đặc biệt cho mọi người mỗi khi gặp Duyên.
Lòng hiếu thảo của Duyên khiến cho bà con khu vực bến phà ai ai cũng phải thán phục trước nghị lực để vượt qua số phận. Ngay từ nhỏ, Duyên sớm có ý thức học tập và biết phụ giúp cha mẹ những chuyện từ quét nhà, nhặt rau, nấu cơm, giặt giũ cho đến trông coi hàng hóa nên được chú thím Hai rất mực yêu thương.
Cũng có đôi lần bà có ý định cho cô nghỉ học vì hoàn cảnh gia đình hiện tại quá khó khăn, không đủ chi phí cho cô tiếp tục học tập. Nhưng cũng chính vì lý do Duyên học tập quá xuất sắc nên chú thím cứ thầm nghĩ, lây lất rồi cũng xong cuối cấp thôi.
Ước mong lớn lên, cô sẽ học ngành công tác xã hội bởi vì đơn giản Duyên cũng biết mình là trẻ mồ côi được chú thím đem về nuôi nấng cho đến hôm nay. Thầm nghĩ rằng, nếu không có “cha mẹ nuôi” thì cô đâu còn được sống trên cõi đời này nữa.
Ngoài những giờ phụ cha mẹ bán hàng, Duyên thường đến Trung tâm Công tác xã hội của tỉnh- nơi có những người già neo đơn, những người không may mắn mắc phải bệnh tâm thần và thương cảm hơn cho những đứa trẻ bị bỏ rơi.
Duyên bỗng có niềm xúc động dâng trào đến rơi nước mắt. Duyên thường giúp các cô chú ở đây nấu những bữa cơm, chăm sóc cho những trường hợp hết sức đặc biệt. Tuy rất vất vả nhưng đối với Duyên là một niềm hạnh phúc vì được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình cho công tác xã hội.
Hạnh phúc cũng đã mỉm cười với Duyên vì cô đã thi đỗ đại học đúng chuyên ngành mình mong muốn. Dẫu biết điều kiện hiện tại của gia đình quá khó khăn, nhưng với ý chí nghị lực của cô bé mới tập tễnh bước vào đời khiến cho Duyên không chùn bước.
Duyên suy nghĩ đến cha mẹ lại là niềm động lực to lớn giúp cô đến với giảng đường đại học. Duyên không hề mặc cảm trước số phận, mà càng tự hào hơn vì đã có cha mẹ bên cạnh. Những ngày nghỉ, Duyên thường phụ mẹ bán hàng.
 Có những lúc cô rơi vào trạng thái tuyệt vọng, ngồi ngắm lục bình trôi, có khi nhìn gánh hàng ế ẩm, cứ nghĩ cuộc đời mình cũng như những gánh hàng ngả nghiêng kia rồi cứ mặc cho số phận trôi theo thời gian.
Những buổi tối, cô thường ngắm những ánh đèn nơi công trình của cầu Cao Lãnh đang xây dựng. Những âm thanh phát ra từ công trình như là tiếng than âm ỉ dường như mang nhiều tâm sự như cô. Đột nhiên Duyên nhớ về Hoàng- anh chàng kỹ sư xây dựng gốc miền Trung- hay mua nước giải khát của cô kèm theo lời trêu đùa hóm hỉnh:
Cô bé miền Tây bán nước vừa ngon và dễ thương thế, có bớt cho anh không bé?
Thoạt đầu, cô vẫn cười tươi và hiền hòa với Hoàng. Nhưng mỗi lần Hoàng mua nước hầu như lúc nào anh và Duyên đều có một cái nhìn rất kỳ lạ khó có thể giải thích được. Hoàng được phân công nhiệm vụ giám sát công trình của cầu Cao Lãnh.
Hoàng lớn hơn cô sáu tuổi. Anh sinh ra và lớn lên ở miền Trung. Một vùng đất đầy khó khăn, quanh năm phải hứng chịu bao nhiêu thiên tai và lũ lụt. Nghe anh kể về gia đình, có năm quê anh ngập lụt phải chìm trong biển nước.
Vật nuôi chết gần hết, ruộng lúa, hoa màu phải mất trắng. Duyên chạnh lòng và đồng cảm với Hoàng. Buổi tối, Duyên thường thả những chiếc đèn bằng cây, xung quanh bao phủ bằng giấy xuống dòng sông Cao Lãnh hiền hòa mang nặng phù sa bồi đắp, làm cho Hoàng phải suy nghĩ:
Em thả những chiếc đèn này vào buổi tối để làm gì?
Em thả những ước mơ và niềm tin đó anh ạ!
Buồn cười nhỉ! Thế ước mơ của em là gì?
Không phải đơn thuần chỉ để thả đèn trên sông để lấy niềm vui đâu anh. Nó sẽ chở những ước mơ, niềm tin của em đi thật xa, thật xa anh à. Em chỉ mong sao cho cha mẹ nuôi của em được sống hạnh phúc, mạnh khỏe.
Bà con khu vực bến phà này có cuộc sống tốt hơn. Các cô chú trong Trung tâm Công tác xã hội cũng vậy. Còn các trẻ em mồ côi được nô đùa, vui chơi, được học tập đàng hoàng và sau khi tốt nghiệp ra trường em sẽ làm việc ở đó. Trung tâm đã cho em được tình thương yêu của mọi người. Em chỉ ước bấy nhiêu thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, tình cảm của Duyên và Hoàng cũng lớn dần theo năm tháng. Duyên vẫn nuôi ước mơ, hoài bão vẫn đợi chờ Hoàng cũng như đợi chờ chiếc cầu yêu thương nằm trên vùng đất “Sen Hồng” trù phú.
Duyên cũng thường bơi xuồng đưa Hoàng dạo quanh khu vực những con rạch ven sông để được ngắm nhìn những hoa lục bình tim tím đua nở.
Những sắc hoa mang nét đẹp giản dị, thanh khiết chân chất thật thà giống như Duyên. Cô cũng thường hò tặng cho Hoàng nghe những câu ca dao ấm áp nghĩa tình pha lẫn niềm da diết triền miên về Đồng Tháp thanh bình- nơi quê hương cô được sinh ra và lớn lên:
Hò ơi… Ai về Đồng Tháp xa xôi. Cho tôi nhắn gửi…. Hò ơi… cho tôi nhắn gửi đôi lời nhớ nhung…
Đúng như mong đợi, sau khi tốt nghiệp đại học loại giỏi, Duyên đã được làm việc tại Trung tâm Công tác xã hội. Môi trường nơi đây nó đã trở nên quá quen thuộc đối với cô. Cô bắt nhịp với công việc rất nhanh chóng và hiệu quả.
Thỉnh thoảng, Duyên vẫn phụ chú thím Hai bán hàng trên phà. Cũng ngay lúc này, cầu Cao Lãnh đã hoàn tất chỉ chờ ngày thông xe. Bà con lại vừa vui, vừa buồn.
Vui vì đôi bờ được nối liền, buồn vì sẽ không còn được nghe tiếng rao, tiếng hò khi mời khách nữa. Rồi mọi người sẽ sống ra sao khi không còn được buôn bán trên bến phà đầy kỷ niệm? Bà con khu vực bến phà ai ai cũng dần dần chuyển đi nơi khác buôn bán.
Chú thím Hai cũng không ngoại lệ, cũng có ý định sẽ chuyển lên TP Cao Lãnh để sinh sống. Còn Duyên vẫn quyết tâm chờ đợi Hoàng từng ngày, từng ngày khiến cho chú thím Hai lại rơi nước mắt nghẹn cả lòng:
Trời ơi, thằng Hoàng sẽ không quay lại nữa đâu con à, con đừng chờ đợi nó làm chi thêm vô vọng.
Không! Con tin anh ấy sẽ quay lại. Con sẽ chờ, con vẫn bán hàng trên chiếc phà này đến khi nào Ban quản lý thông báo dù chỉ còn một ngày cuối cùng trên chuyến phà này con vẫn bán.
Nói đến ấy, cô lại khóc nhưng thâm tâm vẫn còn chút hy vọng mỏng manh như ngọn đèn lúc cô cùng Hoàng thả trên sông khi có nước len vào sắp tắt.
Cuối cùng cô nhận được tin từ một anh công nhân gần nhà bảo rằng Hoàng đã có vợ và đứa con gái đã năm tuổi. Quá bất ngờ trước sự thật ấy, Duyên đau đớn không thốt nên lời. Thì ra bấy lâu nay cô đã bị lừa.
 Niềm hy vọng về một tình yêu đã dập tắt với biết bao kỷ niệm cùng với người con trai của vùng đất miền Trung. Hôm nay, chỉ còn một ngày duy nhất cô được bán trên chuyến phà nhiều kỷ niệm này.
Những ký ức buổi ban đầu gặp gỡ giữa cô và Hoàng lại hiện hữu. Chuyến phà cuối cùng chiều nay cũng gấp gáp, vội vã để chở những dòng người qua lại.
Giọng rao mời của Duyên như chất chứa nỗi niềm khó diễn tả. Phà Cao Lãnh chiều nay nó lại vắng thưa dần hành khách đã làm tăng thêm nỗi buồn của Duyên nhiều hơn. Bất chợt trên phà Duyên trông thấy thấp thoáng dáng của một người thanh niên rất giống Hoàng.
Hoàng ơi, anh Hoàng ơi…
Cô gọi ai thế, tôi không phải Hoàng!
Vâng, tôi xin lỗi anh, vì tôi thấy phía sau lưng anh trông rất giống một người bạn của tôi.
Thế là chuyến phà cuối cùng đã kết thúc trong sự đợi chờ vô vọng của Duyên. Đan xen vào đó là những cảm xúc tình cảm yêu thương gắn bó biết bao nhiêu năm mưu sinh từ thuở bé cô cùng chú thím Hai buôn bán nơi đây giờ chỉ là kỷ niệm. Cô nhớ nhiều lắm, nhớ bác Năm chạy xe honda ôm, nhớ chị Thủy bán vé số, nhớ dì Tư bán bánh mì thịt, nhớ bé Châu bán yaourt đá,...
Cảnh vật hôm nay sao lạ quá, con nước lớn dường như nó cũng không dâng cao như mọi hôm, mặt nước phẳng lặng cứ trôi nhè nhẹ. Duyên đã chuẩn bị những chiếc đèn mà cô thường thả trên sông vào buổi tối.
 Cũng trên bến sông ấy, kỷ niệm xưa đã khơi gợi cho cô những cảm xúc đau buồn. Từng ngọn đèn li ti sáng trên một khúc sông như những con đom đóm nhỏ vẫn tiếp tục chở những ước mơ nhen nhóm trong tâm hồn của Duyên.
Giờ đây Duyên chỉ thầm nghĩ, sống để chăm lo cho cha mẹ và cống hiến hết mình cho công tác xã hội. Đêm đã buông dần trong bóng tối, Duyên vẫn dõi mắt hướng về bến phà, phía xa là ánh đèn lung linh sắc màu trên cầu Cao Lãnh. Duyên chợt nhớ, lúc chiều cha mẹ có bảo rằng:
Hôm nay là chuyến phà cuối rồi con gái ạ, con tranh thủ về sớm ăn bữa cơm cùng cha mẹ nhé!
Duyên nhanh chóng bước ra về khi lòng còn trĩu nặng những lo toan cuộc sống và vội vã về nhà cùng gia đình để thưởng thức nồi lẩu cá linh bông điên điển, hoa lục bình bùi ngọt qua bàn tay khéo léo của thím Hai mà cô ưa thích.
Lê Hậu 

Nhớ quê,
Thương nhớ dòng sông như nhớ quê,
Thương ngày trôi nổi rất chân quê...
Thương em chân chất, tình tha thiết,
Trở lại dòng sông, trở lại quê !
 Cứ ngỡ quên rồi bao nhớ nhung,
Làm sao nguôi nhớ tấm tình chung...
Dòng sông năm cũ luôn chờ đợi,
Ta vẫn mình ta sống lạnh lùng !!
NM
 Nhớ sông
Ông Ba Khùng mất tích cùng chiếc xuồng câu nhỏ xíu. Không phải lần đầu, chuyện không lạ, nhưng dân xóm Đình đều thương tình đổ xô đi tìm từ đầu vàm đến cuối rạch rồi luồn vào, sục sạo khắp các con mương nhỏ.
Tội nghiệp thằng Hai Cua Đồng, nó chạy loanh quanh khắp xóm, miệng cứ kêu hoài ba ơi, ba à, ba trở về với con.
****
*****
Trước đây, khi Ba Khùng sống độc thân trên chiến ghe thương hồ nhỏ. Dân thương hồ quen gọi ông bằng cái tên Ba Dưa Leo. Tính tình của Ba Dưa Leo hơi khác thường, lúc nắng, lúc mưa, vui buồn bất chợt, mới thấy xởi lởi mời khách thì vội ngồi thừ ra, buồn như kẻ mất hồn.
Trên chiếc ghe thương hồ nhỏ xíu đó, y không cần buôn bán nhiều, dường như chỉ đủ để kiếm hai bữa cơm và vài xị rượu đế.
Bao giờ trong buổi cơm chiều y cũng uống rượu bằng cái thói quen rất khác dân thương hồ: Uống rượu một mình. Có bữa, khi màn đêm buông xuống, Ba Dưa Leo ngồi trước mũi ca mấy câu vọng cổ nghe buồn như có ai đang rứt khúc ruột mình ra.
Hồi đó, cũng trên chiếc ghe thương hồ nhỏ xíu này có tới bốn con người cùng sinh sống: đôi vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Nhưng đứa con gái đầu lòng vắn số chết lúc lên sáu trong lần bị bệnh sốt xuất huyết.
Chiếc ghe nhỏ còn lại ba người, vẫn chật. Những buổi chiều neo đậu, cạnh mấy chiếc ghe thương hồ lớn, thấy vợ ngồi ôm con mà mắt cứ nhìn hoài qua đó vẻ thèm thuồng, người đàn ông nghe tủi. Ông không ngại khó, không sợ cực, làm thì đầu tắt mặt tối mà không hiểu sao cái nghèo cứ ôm riết lấy.
Nhiều đêm, ông ngồi trước mũi ghe cho tới khuya, nhìn trời nước mênh mông mà suy nghĩ về cha, về mẹ, về bản thân, về vợ con- những con người đã và đang bươn chải trong cuộc sống thương hồ lang bạt. Và những lần như thế, lòng ông chợt dậy lên nỗi thèm muốn. Ông mơ có một chiếc ghe lớn, có phòng ngủ, có nhà bếp, có cái ti vi nhỏ xem thời sự, coi cải lương.
Trên mui ghe, ông sẽ mắc hai cái võng, chiều vợ chồng ngả lưng nghe gió thổi. Rồi ông sẽ nuôi thêm hai con chó, nó sẽ đùa giỡn, nó sẽ sủa râm ran,… Nhưng khi trở về với thực tại với chiếc ghe nhỏ hai bên be sờn như cá rô rỉa, cái sạp xỉn màu, mui ghe thấp tè, chật chội,… thì nỗi buồn bỗng ngùn ngụt kéo về, cứa xót lòng xót dạ.
Chắc không sống nổi với cảnh nghèo nên người đàn bà đã bỏ đi trong một buổi chợ khuya. Người ta đồn bà cuốn gói theo ông chủ vựa trái cây ở Cái Bè, người thì nói bà mê tiền, chịu làm vợ ông chủ ghe thủ giàu xụ ở Lái Thiêu,…
Từ đó, mỗi sáng, người đàn ông một mình đón mua rau cải để bán lại trong cái nhịp nhàng của cuộc mưu sinh trên sông nước.
Chiều, ông ngồi cạnh đứa con trai nhỏ bên mâm cơm nguội lạnh bằng hai hố mắt trũng sâu gần như vô hồn.
Ông không khóc! Không, chắc nước mắt ông đã cạn. Và cũng kể từ đó, một gia đình, dù nhỏ, nhưng không có bóng dáng người đàn bà bỗng trở nên lạnh lẽo và vắng ngắt. Một chiếc ghe nhỏ, hai cái bóng nương tựa vào nhau bên những buổi chợ đông rồi lặng lẽ nhìn hoàng hôn rơi trên sông trong những buổi chiều vắng khách.
Người đàn ông ngã bệnh rồi qua đời bỏ lại thằng con trai mười bốn tuổi đầu, côi cút, vật lộn với chợ đời nhiều cạm bẫy.
Nó, thằng Ba Dưa Leo ít nói, tính khí thất thường, hơi gàn gàn trong cái nhìn của mọi người đã trôi nổi khắp trăm ngàn con sông, con rạch. Có những buổi chiều mưa, thằng Ba ngồi một mình, đơn côi bên dòng sông lạnh, nghe nước mắt rớt dài, lăn nóng hổi trên vai.
Rồi trên bước đường rong ruổi đó, người đàn ông trung niên- Ba Dưa Leo- tình cờ gặp được Hai Chà Uôl- một cô gái lỡ thời, sống trên bờ, dưới chân cầu đúc, làm nghề đi lượm ve chai, sắt vụn.
Tính tình Chà Uôl hiền và thiệt thà đến mức hơi bị khờ. Nhưng có những đêm cô đã đủ tỉnh táo vét cạn túi cho cái bọn lưu manh, say lúy túy đang khát tình để chúng quên đi cái quý giá nhất mà người phụ nữ đang có.
Chiều hôm đó, chắc do duyên số khiến hai người gặp nhau. Ba Dưa Leo đã làm một việc trượng nghĩa, dắt cô gái bụng đói meo đang ngồi khóc thút thít ở dạ cầu về ghe cho một bữa cơm. Và… thêm mười mấy buổi chiều như vậy nữa, họ đã cảm thông và thực sự là của nhau.
Từ khi chiếc ghe thương hồ có người đàn bà, Ba Dưa Leo siêng hớt tóc, cạo râu, ít uống rượu và mái ấm trên sông có được tiếng cười. Sáng, vợ chồng nhắc nhau dậy sớm để kịp đón mua rau cải từ vườn mang ra. Chiều, vợ bắc nồi cơm, nhắc chồng đi tắm. Cái chuyện tưởng chừng như rất thường ấy vậy mà trước đây chàng Ba hay bị… quên, có khi hai, ba ngày không tắm.
Có hôm vui miệng, vợ thủ thỉ với chồng: “Hồi nhỏ em tên Ngọc. Tại èo ọt quá nên má đem “cho” ông Lục, ổng đặt lại tên Chà Uôl cho dễ nuôi. Cũng nhờ vậy mà em mới mạnh giỏi cho tới bây giờ…”. “Vậy mơi mốt tui kêu mình là Ngọc cho đẹp, nghen, bà xã!” Họ nhìn nhau, cười. Tiếng cười của họ nhỏ, nhẹ, chỉ đủ hòa cùng tiếng sóng vỗ lách tách vào mạn thuyền nhưng ngân nga mãi không thôi.
Hạnh phúc của người nghèo rất đơn giản. Đêm đêm, họ ôm quấn lấy nhau mà ngủ. Chỉ cần một con sóng nhẹ cũng đủ làm cho chiếc ghe nhỏ xíu chòng chành khiến họ nằm úp lên nhau mà tận hưởng cái hạnh phúc không chỉ dành riêng cho kẻ giàu.
Hơn năm sau, người đàn bà bỗng nghe thèm chua, trong bữa cơm thường nôn ọe. Ông chồng luýnh quýnh: “Mình… mình bị bệnh sao vậy? Để tui lên bờ, chạy tới ông bác sĩ Minh mua thuốc”.
Chà Uôl thẹn thùng chỉ tay xuống bụng: “Nè, tại cái thằng Dưa Leo nhỏ đang quậy phá nè!” Tin vui đến quá đột ngột khiến chàng Ba ngẩn người rồi giả bộ bò ra trước mũi treo cây bẹo để giấu nụ cười.
Chàng ta ca vống lên mấy câu rồi ngồi bệt xuống sạp tưởng tượng đến cái ngày vợ chồng gọi nhau là ba sấp nhỏ ơi, má sấp nhỏ à. Nghe lạ mà vui thiệt! Ông tủm tỉm cười một mình.
Người đàn bà trở dạ trong một đêm mưa, đúng lúc đang neo đậu ở chợ nổi Trà Ôn, không xa bệnh viện. Nhưng… lên bờ không kịp, cũng may, nhờ thím Sáu chở hàng bông, năm con, nhiều kinh nghiệm sang đỡ, giúp Chà Uôl qua lần vượt cạn.
Lúc này, ông chợt nhớ tới câu hát ru con của một bà thím nào đó, trên một bến sông nào đó không rõ: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình” nên ở trước mũi, người đàn ông cứ thấp thỏm, bụng bồn chồn muốn lộn cả ruột gan. Một lúc sau, có tiếng con nít khóc thét và cái giọng hồ hởi của “bà mụ” bất đắc dĩ: “Chèn ơi, một thằng cu.
Chú Ba ơi, vô đây, thằng nhỏ đã lắm, mình mẩy sạch trơn hà. Mà, hồi nào tới giờ tui mới thấy, đàn bà sanh con ít ai được cái nết như thím đây, nằm im re, hổng rên la, rặn hai hơi là ra liền. Gặp mấy bà xấu nết thì phải biết. Đau quá mấy bả hay chửi bậy, có khi còn ngắt véo ông chồng nổi cục, bầm tím luôn”.
Ba Dưa Leo như mở cờ trong bụng, bò vào trong mui nói lời cảm ơn. Thím Sáu cười: “Ơn nghĩa gì, để tui về bển kêu ổng qua phụ đưa hai má con lên bệnh viện nhờ bác sĩ làm thuốc”.
Ba ngày nữa là thằng bé tròn thôi nôi, vợ chồng bàn với nhau mua con vịt nấu cháo cúng ông bà, cảm ơn “bà cậu” che chở, hộ độ cho thằng nhỏ mạnh giỏi, mọi việc đều tai qua nạn khỏi.
Nhưng… chạng vạng ngày hôm đó, vợ chồng ông giong ghe từ Trà Ôn qua Cái Răng, đến giữa sông Hậu, người vợ đang ngồi trước mũi không biết bị gió máy gì, bỗng nhiên giật người mấy cái rồi ngã nhào xuống nước.
Ba Dưa Leo buông máy, phóng liền xuống theo nhưng… vẫn không kịp. Vợ ông đã mất biệt trong dòng nước sâu. Mấy người bạn thương hồ kéo tới, mướn vỏ lãi chạy kiếm khắp nơi nhưng cuối cùng cũng tìm không thấy xác.
Không mẹ, thằng bé khóc ngằn ngặt. Nhìn chiếc ghe nhỏ, vắng ngắt, dân thương hồ mủi lòng khóc theo. Nhưng người chồng không khóc, gương mặt ông trơ ra như đá. Chỉ có cái lưng trần của ông là cong oằn xuống khi ngồi đốt xấp vàng mã bằng đôi tay gân guốc, run lẩy bẩy.
Trước mũi, từng tờ giấy cháy lóe chút ánh sáng rồi lụi xuống, tắt nghỉm. Ông chới với nhìn tàn tro bị gió thổi thốc lên, chờn vờn rồi đáp xuống, lịm dần trong dòng nước sâu, thăm thẳm như không đáy. Ông không nói chuyện kể từ đó, chỉ thỉnh thoảng thảng thốt kêu lên: “Ngọc ơi! Ngọc ơi!...”.
Vợ không nhớ mà kêu tên ai nghe lạ hoắc, người ta nói ông bị khùng, kêu Ba Khùng, ông mặc kệ. Mấy người bạn thương hồ tốt bụng sợ ông lơ lơ, đễnh đễnh hoài như vầy mà sống trên ghe rất nguy hiểm. Nguy nhất là thằng bé, sống với người cha không tỉnh táo sơ sẩy té xuống sông là mất mạng. Họ bàn nhau kiếm nhà trên bờ giúp ông ổn định lại tinh thần.
Ông Từ thương tình, cho hai cha con ở nhờ nhà khói của đình. Sống ở xóm Đình, ai nói gì, hỏi gì ông cũng im lặng, mặc kệ. Ông mặc kệ luôn cả cái tên của thằng con trai. Chòm xóm thông cảm, không giận nhưng không biết gọi nó là gì, kêu đại thằng Hai cho dễ nhớ.
Từ đó, cái ghe hàng nhỏ xíu trở thành ghe câu. Những lúc “tỉnh” nhất, ông bơi ghe, đi cả đêm, mờ sáng đem cá ra chợ xã, bạn hàng đón mua, trả cho bao nhiêu tiền ông cũng gật đầu.
Mặc kệ! Thằng Hai mới sáu, bảy tuổi là đã biết ra đồng bắt cua đem bán. Nó quen nết của ông, được trả bao nhiêu cũng gật đầu cảm ơn. Thấy thằng Hai mê cua, sáng bắt cua, chiều cũng bắt cua, người ta kêu ghẹo là Cua Đồng, Hai Cua Đồng, chết danh luôn.
Thằng Hai mười tám tuổi, ông Ba Khùng già yếu lại thêm cái bệnh lảng tai. Bệnh khùng thì xem ra ngày một nặng hơn. Có hôm, đang giữa trưa, ổng chụp cây dầm vội vã xuống bến, ngơ ngác bơi xuồng khắp xóm rao bán dưa leo, bắp cải.
Tụi con nít thấy ngộ, chạy dài theo hai bên bờ reo hò, cười bể xóm. Thằng Hai cũng chạy theo, kêu ba ơi, ba à.
Ổng không thèm ngó: “Ngọc ơi, đói bụng chưa? Xuống ghe ăn cơm chung với tui nè, cho vui!” Ổng nói mà con mắt thì trõm lơ, ngơ ngác, trống không. Mấy bà già thấy thương tình, kêu: “Cua Đồng ơi, ráng chạy theo giữ ổng, để hoài kiểu này có bữa té xuống sông là chết như chơi”.
Thỉnh thoảng, ông Ba Khùng ra sau hè, đến bên chiếc ghe thương hồ mục nát, giờ đã đổ đầy rác để trồng hành nói lảm nhảm điều gì không rõ y như đang tâm tình với người bạn cũ lâu ngày không gặp.
Người không hiểu chuyện nói ổng khùng nhưng chỉ có Cua Đồng, thằng con, là máu mủ mới hiểu được đó là những phút giây ba mình tỉnh táo nhất. Có hôm ông ra mé sông, ngồi cặp bụi bình bát, cầm xấp vàng mã đốt.
Những lúc như vậy, mặt ông nhăn nhúm lại, mắt rịn nước như thể lòng đang đau, đang rát bởi tàn tro đang xát vào những vết xước trong lòng. Rồi ông khẽ khàng trở vào chái bếp, bật quẹt, miệng thổi phù nắm lá dừa, lẩm bẩm: “Nấu cơm cho Ngọc! Ngọc đói bụng rồi!”
Nhưng có một buổi chiều, gió chướng trở ngọn thổi riu riu trên đọt cây dưới bến, nhìn thằng con đang nhen lửa bữa cơm, chợt ông Ba tặc lưỡi, mắt khắc khoải ngó xa xăm: “Chà, ăn cơm chiều mà được ngồi trên ghe, nghe gió thổi lồng lộng, nghe mấy ông bạn già cả đời lênh đênh khắp xứ nói chuyện tầm phào thì sướng thiệt!”
Thằng con day lại thấy mái tóc đã bạc đang lất phất trong con gió lạc bầy, cô đơn. Chợt ông già ứ hự một tiếng nhỏ: “Ừ mà… coi chợ nổi đông đúc vậy chớ đời thương hồ dễ buồn, dễ tủi, dễ cô đơn lắm.
Sống dưới ghe, cả đời trên sông làm sao có bạn bè đông như người trên bờ được! Vậy mà, lại có những người khi không lại coi chiếc ghe là mái nhà, muốn được ở hoài trong nhà, xa nó thì nhớ, nhớ thiếu điều muốn rớt nước mắt ra luôn.
Vậy mới kỳ!” Thằng Hai hết giật mình đến kinh ngạc khi nghe những lời nói bông khơi của ba mình. Nó trố mắt: Trời ơi, hổng lẽ ông già?... Bất chợt Hai Cua Đồng nghe mắt mình rơi xuống vài giọt mặn, cay cay, xót xót.
Sau hôm đó, chiều nào thằng con cũng ngồi nghe những lời tâm tình, đứt quãng, chấp vá của ba mình. Người không hiểu, nói ông Ba bị khùng. Nhưng nếu chịu khó góp nhặt và sắp xếp chúng lại thì ta mới hiểu và thông cảm cho ước nguyện của một con người trót đã sinh ra, từng sống và bươn chải trên sông.
Có khi ông còn cao hứng hò mấy câu: “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền. Anh có thương em thì cho bạc cho tiền. Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê”; “Đường trường nước chảy trong veo. Thương em chẳng nệ mái chèo ngược xuôi”.
Một buổi sáng, Hai dậy sớm, thấy ba mình đang lui cui tưới mấy bụi hành trong chiếc ghe thương hồ cũ sau hè. Anh đến bên thủ thỉ: “Ba ơi, vài bữa nữa mình xuống ghe, ở luôn, nghen ba! Con đã dọ mua một chiếc ghe cũ rồi. Mơi mốt ba dạy con mua bán, hen!”
Ông già chưng hửng, ngó thằng con, nước mắt ông rịn ra: “Ờ, ờ bắt ở trên bờ hoài tao nghe nhớ sông lắm rồi. Còn má mầy nữa, hổng biết bây giờ hồn bả đang trôi nổi ở đâu. Cha con mình phải đi kiếm bả dìa, Giang ơi!”
Hai Cua Đồng tên Giang. Gần hai mươi năm rồi anh mới biết tên thật của mình. Anh chạy lại, ôm chầm lấy người cha già, hôn vào đôi bàn tay thô, nức nẻ mà nức nở, nghẹn ngào. Người đàn ông cúi xuống nhìn thằng con trai bằng đôi mắt xốn xang.
Có lẽ lòng ông đang thức dậy một thứ gì đó đã ngủ yên hay thỉnh thoảng chập chờn như trong cơn say chếnh choáng. Ông thẫn thờ buột miệng: “Giang ơi! Trường Giang ơi! Con sẽ mãi mãi là sông, dòng sông dài bất tận”.
Nguyên Linh 

Thương quê thương cả quà quê,
Đường xa vẫn giữ tình quê trong hồn !
NM

Tam Hợi vàng 

“Ở xứ Lung Lá, tưởng gì không có chớ cá phi mùa này thiếu cha gì! Tao đánh một dạo lưới mặc sức cho mà ăn”.

Đó là lời giới thiệu của chú Út tôi. Bất kỳ ai khi mới nghe qua lời giới thiệu ấy mà chưa đến xứ Lung Lá thì cứ tưởng đó là lời nói dóc. Nhưng không, lời nói của chú Út tôi có thật trăm phần trăm. Có lần tôi đã tận mắt chứng kiến điều đó.

Chiều mùng năm tháng năm, ngoài trời mưa lâm nhâm, những đám mây đen kịn cứ cuồn cuộn kéo đến. Chú Út biết ngày mai tôi trở về Vĩnh Long nên gọi điện rủ tôi đi thả lưới ở dưới vuông nuôi tôm sú để bắt cá phi mang về nhà ăn. Cánh đồng nuôi tôm rộng mênh mông. Mỗi vuông nuôi tôm có diện tích hàng chục công (tầm lớn), xa xa mọc lên cái chòi nhỏ được lợp bằng lá dừa nước. Đó là cái chòi của người dân ở để giữ tôm.
Đúng hẹn, tôi lội ra tới bờ kinh xáng. Lúc đang nhìn dáo dác xung quanh thì từ xa tôi đã thấy chú Út đang bì bõm lội dưới vuông thả lưới. Vừa thả lưới xong, chú quây lại móc đất sình quăng xung quanh hai bên chỗ thả tai lưới. Lúc đó, trời cũng đã dứt hột mưa. Tôi đang đứng trên bờ vuông thấy mấy con cá đâm vào lưới vẫy tung tóe nước thật thích. Đang lúc tôi say sưa ngắm nhìn, thì chú Út bảo tôi:
- Xách cái xô lội xuống đây!
Chú Út còn cẩn thận dặn tôi:
- Mầy lội từ từ thôi, coi chừng đạp phải miểng ốc đó nghen. Ba cái con chuột, nó ăn mấy con ốc bươu vàng, rồi tha bỏ vỏ tùm lum tùm la hết trơn hà. Đi không khéo là đứt chưn như chơi nghen!
Tôi cầm cái xô từ từ lội xuống vuông. Tôi lội đến chỗ điểm đầu của tai lưới, nơi chú Út đang đứng chờ. Chú Út kéo nhẹ một đầu tai lưới đưa lên khỏi mặt nước, cá phi dính dày bịt, có đùm, có đùm, con nào con nấy to đùng vậy đó. Chúng nhảy loạn xì ngầu trên tai lưới. Chú Út đưa một đầu tai lưới cho tôi rồi nói:
- Mày cuốn lưới đi, để tao gỡ cá cho mau. Mầy không biết gỡ, cá đâm vào tay đó.
Chú Út đi trước gỡ cá. Tôi đi phía sau vừa cuốn lưới, vừa vịn cái xô đựng cá từ từ đẩy đi. Tai lưới ba màng dài độ chừng trăm mét. Chúng tôi gỡ gần một tiếng đồng hồ mà chưa được phân nửa tai lưới. Thỉnh thoảng, tôi thấy xót ruột, nên tôi nghĩ ra cách dùng hai chân kẹp cái xô rồi gỡ cá phụ ổng cho mau. Tay tôi vừa đụng vào con cá, nó lại nhảy lách chách, cuốn tròn tai lưới, vây nó đâm vào tay tôi rướm máu. Thấy vậy, chú Út trách:
- Thấy chưa, tao đã nói rồi mà mày không chịu nghe. Coi vậy chớ nó đâm nhức thấy mồ tổ luôn à nghen.
Chỗ chúng tôi thả lưới chỉ cách nhà thằng Trạng chừng vài trăm mét. Một căn nhà lá cất trên bờ kinh xáng, xung quanh toàn là những vuông nuôi tôm theo kiểu thả nuôi tự nhiên. Thằng Trạng ra đứng phía sau hè, thấy chúng tôi đang cặm cụi gỡ cá, nó chụm hai tay lại để trước miệng gọi thật lớn:
- Ui! Ui! Giăng lưới xong, ông với anh Ba vô nhà tui bàn công chuyện chút nghen!
- Ừa!
Chú Út ngước mặt lên trả lời thằng Trạng. Nhìn vẻ mặt của chú, tôi đoán là ổng biết thằng Trạng kêu nói chuyện gì. Nhưng tôi giả bộ không biết và hỏi:
- Nó kêu mình vô trỏng không biết có chuyện gì hông cà?
Chú Út đưa mắt nhìn tôi, chú cười khanh khách rồi nói với tôi:
- Có chuyện gì đâu mầy ơi! Nó kêu mình vô nhậu đó! Hôm nay là mùng năm tháng năm. Chắc nó có làm món gì đó cúng nên nó mới gọi tao với mầy. Thôi, tranh thủ gỡ nhanh rồi tao với mầy vô nó chơi một chút hen.
- Ừa, đi thì đi!
Nội tôi có hết thảy mười người con. Ba tôi thứ hai, má của thằng Trạng thứ ba, chú Út là thứ mười một. Mặc dù chú Út vai lớn, nhưng tôi, chú Út và thằng Trạng đều có cùng một tuổi- tuổi Hợi, mà là Quý Hợi nữa chớ. Từ nhỏ chúng tôi chơi thân với nhau như thể bạn bè và thường gọi nhau là “mày- tao”. Mặc dù cả ba đứa chúng tôi chơi rất thân, nhưng cũng không ít lần xảy ra mâu thuẫn, thậm chí còn đánh lộn nhau chỉ vì tranh giành đồ chơi. Tôi nhớ như in, có lần chúng tôi đang chơi bắn đạn cu li, bỗng dưng chú Út lượm được một viên đạn ở gần đó. Thấy vậy, tôi và thằng Trạng nhảy vô giành phần là của mình. Còn chú Út cứ khăng khăng khẳng định viên đạn cu li ấy là của chú vì chú lượm. Cả ba đứa giằng co mãi, không ai chịu nhường cho ai cả. Một lát sau, chú Út sợ tôi và thằng Trạng giựt lấy, nên chú cẩn thận giấu viên đạn vào người. Thằng Trạng vốn nóng tính nên khi biết chuyện liền nhào tới vật chú Út ngã xuống đất để tìm lấy viên đạn. Chú Út mếu máo khóc rồi đi tìm ông nội để méc chuyện.
Lúc đó, mọi người thường ví ba chúng tôi là những “heo vàng”, có người còn bảo “số mấy thằng này khi lớn lên sẽ sung sướng, “heo vàng” mà!” Xưa nay ông bà ta vẫn thường nói vậy. Nhưng tôi thấy cái tuổi chẳng có liên quan gì đến số phận của con người. Điển hình sờ sờ trước mắt đây, chẳng phải cả ba chúng đều là tuổi con “heo vàng” đó sao, nhưng bây giờ có ai được sống sung sướng đâu? Đứa nào đứa nấy cực khổ thấy mồ. Cực nhất là thằng Trạng. Nó là trụ cột trong gia đình. Hàng ngày, nó phải thức khuya dậy sớm để đi giăng câu, thả lưới kiếm sống qua ngày. Kế đến là chú Út, quanh năm bám ruộng tôm. Nhưng lâu nay chú có được mấy lần nuôi trúng vụ, toàn là thất mùa.
Hồi học tiểu học, thằng Trạng nổi tiếng lười học. Mang tiếng đi học mà nó cứ trốn đi chơi, không vào lớp học. Một hôm, cô Ba biết được lôi nó ra đánh một trận no đòn. Kể từ đó, nó không dám trốn học nữa. Nó chuyển sang ngủ gục trong lớp. Thầy giáo đang giảng bài, nó lén nằm úp mặt trên bàn ngủ. Đến khi thầy gọi lên hỏi thì nó cứ ú ớ trả lời bằng điệp khúc “Dạ thưa thầy! Con không biết.” Thế rồi học hết bậc tiểu học, thằng Trạng xin nghỉ học theo dượng Ba làm nghề cá.
Chú Út thì đỡ hơn, chú chịu khó học hành đàng hoàng. Nhưng hoàn cảnh gia đình đơn chiếc, các cô, các chú đều lập gia đình và ra ở riêng. Chỉ còn có mình chú ở với ông bà nội. Trong khi đó, ông bà nội đã lớn tuổi, vuông tôm thì không ai trông coi. Cho nên học hết lớp 11, chú Út xin nghỉ học để ở nhà lo phụ giúp gia đình.
Tôi thì may mắn hơn. Tôi được ba má cho ăn học đến nơi đến chốn. Học hết phổ thông, tôi thi đậu vào đại học. Tôi học bốn năm rồi tốt nghiệp và xin về công tác ở Vĩnh Long. Vì công tác xa quê, nên lâu lâu có dịp tôi mới trở về thăm quê một lần.
Khi tôi và chú Út gỡ cá xong, được hơn phân nửa “thùng bê” (loại thùng sơn tường 18 lít- BT). Chú Út dành phần rinh thùng cá, chú giao nhiệm vụ cho tôi xách tai lưới. Hai chú cháu đi một mạch vào nhà của thằng Trạng. Vào đến nơi, chú Út để thùng cá ngay giữa sân rồi xuống sàn nước dưới mé sông rửa chân. Tôi đưa mắt nhìn trên bộ ván ở ngay hàng ba thì thấy thằng Trạng đã bày biện sẵn thức ăn. Một tô canh chua cơm mẻ cá lóc nấu với năn bộp và bông súng Đà Lạt; dĩa bánh xèo, kèm dĩa rau sống gồm lá cách, lá cát lồi, đọt sộp non; một chai rượu đế. Thằng Trạng đang ngồi xếp bằng trên bộ ván chờ chúng tôi. Đôi bàn chân của nó lộ lên những vết chai sần cứng như đá. Vừa thấy tôi và chú Út, thằng Trạng cười thật tươi rồi bảo:
- Vô đây, mình làm sương sương một chút rồi về!
Chú Út gặng hỏi:
- Có mồi gì bén hông mậy?
Nghe tiếng chú Út hỏi, thằng Thưởng từ trong nhà chạy ra khoe:
- Nhóc luôn ông cậu. Có con rắn bông súng bự chà bá lửa luôn.
Chú Út cười khà khà, rồi hỏi tiếp:
- Thiệt không mậy?
- Nói thiệt đó. Hổng tin, ông cậu vô đây coi đi!
Thằng Trạng ngắt lời con:
- Nói dóc quá ông ơi! Con rắn bông súng chừng hơn nửa ký hà. Tui mới giăng lưới bắt được hồi khuya. Để một lát, tui đập đầu đem đi nướng mọi nhậu hen.
Vừa ngồi vào bộ ván, chú Út sực nhớ:
- Quên nữa! Thùng cá để ở đây đợi tới mình nhậu xong thì cá chết hết. Nếu cá chết thì sẽ mất ngon.
Thằng Trạng đưa ra ý kiến:
- Để tui kêu bà Cụm lấy vỏ lãi chạy chở thùng cá vô trỏng cho chị Ba chỉ mần!
Vừa nói xong, thằng Trạng quay mặt vào hướng nhà bếp, gọi vợ:
- Bà Cụm ơi, lên đây nói nghe nè!
- Có chuyện gì vậy ông Cụm?
Thu Trang- vợ thằng Trạng- dưới bếp đi lên và hỏi. Thấy tôi, Thu Trang chựng lại hỏi:
- Bộ ngày mai hia về Vĩnh Long hả hia?
- Ừ.
- Ổng dọn mồi sẵn nãy giờ để chờ cậu Út và hia đó!
Thằng Trạng bảo vợ:
- Em lấy vỏ chạy chở thùng cá vô trỏng cho chị Ba chỉ mần giùm anh Ba coi.
- Ờ, ông Cụm khiêng thùng cá xuống vỏ giùm đi!
Thằng Trạng liền bước ra sân khiêng thùng cá để xuống vỏ lãi cho vợ. Xong, nó quay trở lên bảo:
- Xong rồi, anh Ba cứ yên tâm mà nhậu hen. Hôm nay tụi mình quất một trận tới bến mới được à nghen anh Ba.
- Uống vừa vừa thôi, mai tao còn phải về Vĩnh Long nữa.
Thằng Trạng tặc lưỡi:
- Đâu có được anh. Lâu lâu anh mới về quê một lần mà. Phải uống cho quắc cần câu mới được.
Chú Út ngắt lời:
- Thôi, hổm rày tụi mình nhậu nhiều rồi. Hôm nay, thằng Ba nó uống được bi nhiêu hay bấy nhiêu. Mai nó còn chạy xe về Vĩnh Long. Đường xá xa xôi. Vả lại, đi xe cộ giờ nguy hiểm lắm mấy cha ơi!
Lần nào tôi về thăm quê cũng vậy, chú Út và thằng Trạng hay tin trước là hai người tổ chức đi kiếm mồi chuẩn bị sẵn. Cá lóc, ếch, lươn, lịch, rắn… Thằng Trạng hay chú Út hễ ai kiếm được con gì thì rọng lại chờ đến ngày tôi về quê là mần mồi nhậu. Ở xứ Lung Lá này, cá lóc kiếm dễ ợt hà. Hơn nữa, thằng Trạng là người sát cá. Ban đêm nó xách đèn pin đi soi nhái con rồi ra vuông cắm mấy cần câu hoặc đi đặt lọp thì sáng hôm sau chắc chắn sẽ dính cá lóc.
So với chú Út và thằng Trạng thì tửu lượng của tôi còn thua xa. Hai người còn tỉnh queo, trong khi đó tôi cảm thấy mình đã thấm mệt. Cho nên tôi xin được nghỉ trước để về còn chuẩn bị đồ đạc sáng mai về Vĩnh Long. Cả hai người đều đồng ý cho tôi nghỉ, nhưng với điều kiện phải uống một ly chia tay. Tôi đồng ý. Uống xong, chú Út bảo:
- Mầy ngồi đây đợi một chút để tao chạy vỏ chở mày vào trỏng, chớ mầy đi bộ biết chừng nào tới.
- Ông đi đâu vậy?
- Tao ra vuông một chút xíu vô liền hà!
Chú Út đi vô chỗ cây nước, chú mượn cái thùng mốp của thằng Trạng rồi đi thẳng ra vuông. Thằng Trạng cũng đang lui cui bắt mấy con cá lóc bỏ vào cái bao bằng lưới, cột miệng thật chặt. Xong, nó vào nhà sau lấy keo mắm cá chốt. Nó xách cá lóc và keo mắm ra để ở hàng ba, nói với tôi:
- Ông xách keo mắm và mấy con cá về trển ăn lấy thảo với tui hen.
- Sao mầy không để bán?
Thằng Trạng nhún vai phớt lờ:
- Bán có được bi nhiêu tiền đâu. Lâu lâu ông mới về quê, gởi ông ăn lấy thảo vậy mà!
Một lát sau, chú Út xách thùng mốp vô tới. Chú đặt thùng mốp trước mặt tôi rồi nói:
- Mầy kiếm cái gì đựng mấy con tôm mang về trỏng ướp nước đá. Sáng mai, mày xách về trển ăn.
Tôi nhìn trong thùng mốp có khoảng hai ký tôm sú cỡ ba mươi lăm con một ký. Thì ra nãy giờ chú đi ra vuông giở nò bắt tôm cho tôi. Thằng Trạng kiếm đâu ra cái bọc dài đưa tôi. Mặc dù, đã ngà ngà say, nhưng tôi vẫn thấy rành rõi và bắt từng con một cho vào cái bọc. Lúc tôi đang chăm chú bắt tôm, chú Út hối thúc:
- Nhanh lên, kẻo trời tối tao không thấy đường chạy máy đó nghen!
- Xong rồi nè!
Tôi và chú Út xuống vỏ lãi. Chú Út cầm cần máy để xoay chân vịt qua, lại. Tôi thì cầm cây dầm bơi cho chiếc vỏ ra giữa sông. Lúc chuẩn bị giựt máy, chú còn căn dặn tôi:
- Tôm này, mầy đem về trển muốn làm món gì thì làm. Nhưng mày nhớ đừng có nướng nhen…
Nguyễn văn Dô