Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

Nhạc - Thơ - Văn Quân "ngày xưa"

Ngày Xưa Ơi

Những Ngày Thơ Mộng 

Ngày thơ ơi,
Dòng sông nào nhớ thương tìm bến cũ ?
 Thuyền xa bờ luôn nhớ bến đò xưa,
Tuổi thơ ơi, thương biết mấy cho vừa...
Nhánh sông nhỏ, trong xanh và dịu mát !

Cố tìm lại trong sóng xa dào dạt,
Dòng sông ngày thân ái thuở ngây thơ...
Nước trên cao trôi mãi có bao giờ,
Đổ ra biển quay về tìm chốn cũ !?
NM
Quân "ngày xưa"
           Chiếc đồng hồ cổ trong phòng khách đã rè rè đánh lên bảy tiếng từ lâu mà hai chị em tôi vẫn chưa thấy ba tôi dắt xe ra cửa đi làm... Trong phòng khách vẫn còn vọng ra tiếng nói chuyện của ba mẹ và chị Bảy giúp việc, thường vào những ngày thứ hai đầu tuần ba tôi hay đi làm sớm.
           Tôi đã nghỉ hè được một tuần, em gái còn nhvẫn chưa đi học, hai chị em bày biện đồ chơi ngoài sân, chỉ có hai chị em với nhau nên chóng chán mặc dù chị em chúng tôi có đầy đủ các món đồ chơi dành cho bé gái như ấm trà, mâm chén dĩa, đũa muỗng, gà mên, bếp lò nhỏ, nồi nấu cơm....tất cả đều bằng nhôm có thể nấu và xào thức ăn như thật !
           
        Cuối cùng thì ba tôi cũng dắt xe ra, em gái tôi nhanh nhẩu hỏi ba sao đi làm trễ, ba cười vui cho biết sáng nay ba có dặn chị Bảy đi chợ  mua cho hai chị em hai món quà để hai đứa chơi trong mùa hè nầy. Khi xe ba nổ máy đi thì chị Bảy cũng xách giỏ đi chợ, chị vui vẻ cười vẫy tay hẹn sẽ về sớm đem cho chúng tôi món quà mà ba đã hứa !
*****
          Chị Bảy quê ở Trà Kha thuộc tỉnh Bạc Liêu cùng quê với mẹ, bà ngoại tôi hàng tháng ở Bạc Liêu lên thăm mẹ và cậu ba, tháng trước ngoại không lên một mình mà dắt theo chị Bảy, một phụ nữ bà con xa, mặc dù chị sắp xỉ tuổi với mẹ, nhưng theo vai vế, chị phải gọi mẹ bằng cô, vì thế chị em tôi gọi bằng chị. Chị tròn trịa da ngâm ngâm, mái tóc chị dài đen nhánh được búi gọn ghẻ sau ót, đa phần dân Bạc Liêu hay mặc áo ngắn tay kiểu như áo xẩm vì Bạc Liêu là nơi nhiều người Triều Châu và người Miên, không biết chị Bảy có lai Tàu không nhưng chị ít khi mặc áo bà ba như bà ngoại, chị nhanh nhẹn và luôn vui cười lại yêu mến trẻ con, vì thế hai chị em tôi rất thương mến chị...Ngoại nói có chị Bảy giúp việc ngoại tôi sẽ an tâm hơn khi ba mẹ chào đón em bé vào cuối năm.
           Hơn  một tiếng sau chị Bảy về đến nhà, thấy bóng chị thoáng qua là hai chị em tôi chạy theo chị vào bếp, chị vui vẻ đưa ra khoe cái túi  bằng giấy ciment dày có khoét những lỗ tròn nhỏ, tôi nghe có tiếng chiêm chiếp và rột rẹt ở trong đó, chị nhanh nhẩu mở toang túi giấy và ơ kìa hai chú vịt con lao nhanh ra...Chị vội vã lấy cái rổ to úp lại và cầm từng con đưa cho hai chị em lựa, em gái tôi giành ngay con vịt toàn thân màu vàng như cuộn len, nó chừa lại cho tôi con vịt có một đốm lông đen trên lưng ! Chị Bảy nói cố tình mua như vậy để dễ phân biệt !

        Chị Bảy đem hai chú vịt con ra sân trước dưới bóng mát của cây vú sữa, chị căn dặn hai chị em nhớ để chúng một lúc trong rổ cho quen chỗ rồi mới được mở ra. Em tôi sốt ruột cứ hé cái rỗ để nhìn hai con vịt dễ thương kia, khi chị Bảy vui vẻ mở cái rổ, chị nói với em gái tôi đặt con vịt của em sau lưng rồi đi từ từ, con vịt lẻo đẻo chạy theo kêu chíp chíp nho nhỏ làm em vui vô cùng. Em bắt đầu chaỵ chầm chậm, con vịt cũng chạy chậm theo sau, em chạy nhanh hơn hai chú vịt cũng chạy lạch bạch theo nhanh, đôi chân ngắn đỏ hồng lạch bạch theo bén gót, có khi không kịp té lăn quay lại vội vã đứng lên chạy theo trông thật tức cười và đáng yêu
              Mặt trời lên cao nắng tràn vào sân trong, chúng tôi cũng mệt vì chơi đùa với hai chú vịt nhỏ, mẹ gọi vào thay quần áo, tắm rửa chuẩn bị ăn cơm trưa. Buổi sáng hôm nay thật là thú vị, hai chú vịt con lanh lẹ dễ thương cho nên em tôi cứ luyến tiếc mãi ! Nhà tôi hướng tây buổi chiều có nắng chói không được chơi dù trong sân có mái hiên che mát, hai chú vịt cũng được chị Bảy bỏ vào chuồng gà ngoài sân        
         Buổi chiều ba đi làm về, nhìn vào chuồng gà thấy hai chú vịt lấm lem vì ngã lăn quay trên cát để đuổi theo em tôi thì ba hướng dẫn cách chơi khác mỗi khi vui đùa với vịt xong, mượn chị Bảy cái thau nhỏ cho hai chú vịt bơi trong đó, xắt mỏng rau muống cho vịt ăn nhờ vậy em tôi mới không hành tội bắt hai chú vịt chạy theo mình hoài, chúng tôi thích thú xem vịt chúi đầu xuống nước tắm thỉnh thoảng ngẩng đầu lên vung vẩy cho rơi nước xong mới thò hai cái mỏ màu cam xinh xắn bập bập rau     
            - Cho anh em Quân chơi với !..
          Giật mình ngẩng đầu lên tôi thấy hai đứa con trai bất ngờ xuất hiện trước mặt, cả hai có lẻ lớn tuổi hơn tôi một chút, đứa con trai mặc áo màu kaki tự giới thiệu mình tên Quân  và chỉ đứa em trai mặc áo màu xám nhạt đứng kế bên tên Thuyên,
           Quân còn chỉ cho tôi nhà của Quân ở gần đó, cửa sau nhà Quân kế bên nhà ông Ba Ưu và mặt tiền nhà Quân nằm ngay ngã ba hẽm lớn, căn nhà nầy luôn đóng cửa im ỉm ở mặt trước. Hàng ngày khi đi học ngang qua tôi hay tò mò nhìn, tôi ch thấy thấp thoáng ở cửa sau một người đàn bà lớn tuổi hơn mẹ tôi một chút bế đứa con gái nhỏ xíu, bà luôn mặc áo bà ba màu măng cụt, tóc búi phía sau, căn nhà im ắng không thấy bóng dáng đàn ông hay ai ngoài người đàn bà đó, chỉ có mỗi con chó mực được cột ở cửa sau cất tiếng sủa vang mỗi khi có ai đi ngang qua....!
        Thật là bất ngờ khi hai gương mặt con trai vừa sáng sủa vừa vui vẻ đến làm quen ! Em gái tôi vui lắm, nó sốt sắng xích qua một bên cho anh em Quân ngồi xuống, Quân nhanh nhẹn giành cắt rau và bưng thau nước đi thay, em tôi vui hẳn lên luôn miệng hỏi han, Quân và Thuyên chìu em tôi trả lời tất cả mọi chuyện ngay cả những câu hỏi ngây thơ nhất !
            Bốn đứa trẻ chúng tôi sáng sáng vui đùa rồi ngắm vịt bơi lội, chị em tôi càng vui hơn khi có hai anh em Quân, được vài hôm thì Quân đề nghị thay vì cho vịt bơi trong thau , Quân sẽ đào một cái ao nhỏ ngay trên cát ngoài sân cho giống ao thật hơn, khi nào chơi xong sẽ cho vịt "tắm" lại trong thau nhỏ, Thuyên nói giống như cái ao sau nhà Thuyên ở quê vậy
         Anh em Quân nhanh nhẹn đào sâu xuống cát một khoảng rộng và sâu hơn cái thau một chút, ao không tròn vành như cái thau mà có những đoạn uốn lượn trông rất thiên nhiên, đất đào ra được Quân be thành bờ cao chung quanh ao, Quân còn đi bứng những đám cỏ nhỏ hay cây con gần nhà trồng lên bờ cát, hai chú vịt càng tung tăng bơi thoả thích trong cái ao thiên nhiên bé nhỏ nầy 
      ....Lúc nào cũng như lúc nào khi mẹ hay chị Bảy gọi chúng tôi vào nhà thay quần áo là anh em Quân ngoan ngoãn đi về hẹn hôm sau sang chơi tiếp, tđó bốn chúng tôi thân thiết với nhau và luôn có những trò chơi mới !
            Em gái tôi tuy nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng xinh đẹp và liếng thoắng, em hay hỏi, hay nghe và cái gì cũng muốn người ta chìu theo ý mình, trong những ngày có anh em Quân thì em càng đưa ra nhiều ý tưởng mới, anh em Quân đều vui vẻ làm theo, chúng tôi không còn chơi đơn giản như trước mà quy mô hơn, thay vì bày biện đồ chơi nhà bếp ra nấu giả thì chạy vào bếp xin cơm và thức ăn thật, giả như nấu xong dọn ra ăn, rồi Quân đi nhặt những quả gòn non rụng trong sân nhà ông Mười kế bên giả làm ổ bánh mì xẻ ra cho rau thái nhỏ vào, cũng có giấy bọc chung quanh như ổ bánh mì thật để bán hàng...
           Em tôi lại đề nghị làm nhà ở bằng hai chiếc mền, Quân cột sợi dây dài lên cao nối từ cửa sổ ra hàng rào, hai bên phủ hai cái mền lớn và bốn chân mền được gác lên bốn cái ghế, thế là chúng tôi đã có cái nhà hai mái với hai phòng bên trong , chúng tôi bắt đầu nấu đồ ăn thật dưới sự chỉ đạo của Quân, tất cả chuyện gì khó khăn anh em Quân đều làm nhanh nhẹn, vén khéo và giỏi,  
      ....Thỉnh thoảng tôi quay lại nhìn về cánh cửa sau nhà Quân thì thấy người phụ nữ bế con đang nhìn về phía chúng tôi chơi, bà cũng lặng lẽ như cái yên tĩnh của căn nhà luôn đóng cửa phía trước, còn Quân đang chơi mỗi khi nghe tiếng em bé khóc là gọi Thuyên chạy về xem sao, Thuyên sấp xỉ anh nhưng rất ngoan nhanh nhẹn chạy về rồi quay lại ngay...
           Năm nay cây sứ hồng trồng trong chậu lớn giữa sân đúng lứa cho  hoa nở thật nhiều, ba tôi nói đó là dạng "sứ cùi" nên hoa càng nhiều thì lá rụng gần hết, mỗi lần chơi với nhau chúng tôi phải quét gom hoa lại. Em gái tôi thấy màu hồng của hoa đẹp thì thích lắm, em đòi chơi trò "công chúa", không cần chúng tôi  đồng ý hay không em đã chaỵ vô phòng ba mẹ mang hai chiếc khăn voan của mẹ dùng để choàng mỗi khi đi xa, chẳng biết ai dạy em có sáng kiến cột hai đầu khăn lại rồi chui vào thế là em có cái áo đẹp bằng voan dài lê thê so với chiều cao của mình. Công chúa phải có hoa trên đầu như trong truyện tranh em nhìn thấy, em chỉ những bông hoa sứ rụng trong sân đòi Quân phải kết thành vòng hoa cho em đội, tính em tôi rất bướng muốn cái gì cũng đòi cho bằng được, sợ em khóc làm phiền người lớn, lúc nào Quân cũng nghe theo.
       Tôi và Thuyên đi nhặt hoa, chọn những hoa còn tươi gom lại cho Quân, hoa sứ không có nhuỵ nên Quân dùng cuốn hoa gắn vào giữa năm cánh thật chặt cứ thế mà kết nối nhau lại tạo được vòng hoa trên đầu, vòng đeo cổ và cả hai tay, em tôi hài lòng lắm cười vui...    
        Chợt nhớ ra hai cái khăn dài lê thê phết đất, sợ khăn dơ em lại nghĩ ra trò khiêng công chúa đi từ đầu sân đến cuối sân, em  mè nheo kéo vai Quân mà đòi, đang cắm cúi xỏ cho hết hai vòng đeo tay cuối cùng, Quân hứa sẽ cùng Thuyên bắt chéo tay khiêng em tôi, em hớn hở gọi Quân và Thuyên là "hai quân sĩ"....
           Đến trò chơi nầy, ngoài việc cùng Thuyên đi nhặt hoa cho Quân xong thì tôi chỉ ngồi nhìn và chờ theo ý em như anh em Quân, cũng hơi buồn và không biết mình sẽ làm gì, tôi hỏi nhỏ Quân :
        - " Vậy tui làm gì hả Quân ?"
        Vẫn cắm cúi gắn cho chặt những bông hoa rơi, Quân vừa chăm chú làm vừa nói cho tôi đủ nghe :
        - " Mai làm "hoàng hậu" !!
    *****
        Câu nói của Quân làm cho tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, tôi đinh ninh mình sẽ là "tì nữ" nâng vạt áo cho em hay làm bếp nấu cơm cho công chúa... không ngờ Quân lại có ý nghĩ như vậy. Thật sự trong suốt thời gian bốn đứa chúng tôi chơi đùa với nhau, em gái tôi lúc nào cũng được nuông chìu, em đẹp và mỗi khi mẹ dắt đi đâu em cũng được mọi người khen khi thì "Em bé đẹp" lúc thì "trắng trẻo như công chúa" cho nên em quyết định làm công chúa ! ngôi vị "Hoàng hậu" tôi nghĩ chỉ là mẹ thôi ! Tôi là chiếc bóng của em, âm thầm, lặng lẽ....
          Câu trả lời của Quân làm tôi bất ngờ và xúc động, tôi chỉ biết im lặng nhặt hoa đưa cho Quân và ....nhớ hoài câu nói nầy của Quân cho đến ....suốt đời, dù trải qua một  thời gian dài gặp biết bao nghịch cảnh, dù nhọc nhằn hay đau khổ, câu nói của Quân làm ấm lòng tôi mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn và giúp tôi mạnh mẽ hơn để vượt qua gian khổ, làm hoàng hậu thì không thể nào thua ai và không bao giờ cô độc !!...."Tôi là hoàng hậu", dĩ nhiên điều nầy chỉ có tôi và Quân biết !!
         Rốt cuộc em tôi cũng chán, Quân bất chợt đề nghị đi qua ao rau muống vớt bèo cho vịt ăn, lúc nầy hai chú vịt bắt đầu ăn nhiều, cái ao Quân đào càng ngày càng sâu rộng hơn, em tôi hưởng ứng liền, tôi ngần ngại vì biết ao nằm bên kia đường Hai Mươi, chiều nào cậu ba cũng chở tôi qua để phụ với cậu mở cửa, sắp bàn ghế lau bụi cho lớp học bình dân
          Lớp học nầy ba mẹ đã thuê một căn nhà rộng ở đó rồi "huy động" cả nhà đêm đêm qua dạy chữ cho dân nghèo, ngoài ba mẹ còn có cậu ba và hai người bạn thân của cậu là cậu năm Đ và cậu hai N và tôi cũng là một "cô giáo nhỏ"...! 
          Năm đó tôi chỉ mới bảy tuổi nhưng hết hè tôi sẽ lên lớp nhất, mẹ nói tôi dư sức kèm trẻ em từ lớp vở lòng cho đến lớp ba, mẹ chỉ tôi cách dạy như dò cửu chương, đọc chính tả, những bài toán cộng, trừ, nhân, chia...    
        Buổi chiều ở ao rau muống thật buồn và hình như mau tối hơn vì đa phần dân nghèo chỉ xài đèn dầu hay cùng lắm là đèn "măng sông" và cũng chưa có điện kéo tới ! Lớp học cũng xài loại đèn nầy, mùi dầu hôi của đèn thật khó chịu. Chung quanh và trước mặt nhà nào cũng có một hàng lạch nhỏ thay cho cống thoát nước, ô rô lẫn cỏ dại mọc rất nhiều
           Thú thật vì tôi chỉ là con bé bảy tuổi cho nên "cô giáo" rất sợ muỗi, sợ những con rắn mối, cóc nhái thấy ánh đèn sáng chạy vào đớp muỗi. Trời càng tối thì tiếng ễnh ương, nhái bầu càng lớn, lắm lúc thật buồn ngủ, mỗi khi mẹ đi ngang qua xong tôi lại co hai chân lên ghế ! Mẹ vừa dạy vừa thỉnh thoảng tới kiểm tra xem tôi "dạy" ra sao !
          Đám "học sinh " mà tôi phụ trách là những đứa bé của gia đình nghèo quần áo lôi thôi, có đứa mũi xanh chảy lòng thòng, thỉnh thoảng đưa tay lên quệt ngang làm "cô giáo" cứ rình chmẹ đi qua thì né ra xa...!         
       Lúc Quân rủ, tôi chỉ làm thinh mà cũng không cho Quân biết buổi tối mình "dạy học" ở đó, đối với tôi khung cảnh nơi đây thật buồn khi chiều xuống, hoa rau muống cụp lại, bèo và rong rập rình trên mặt ao trong chiều tối tạo thành những mảng đen chập chờn trên mặt nước đen thui trông thật ảm đạm, thế nhưng thấy anh em Quân rủ và em tôi  háo hức, tôi lẳng lặng cùng đi...
          Chúng tôi băng qua đường, Quân cẩn thận trông trước trông sau, con hẽm lớn dẫn vào ao ban ngày trông quang đãng hơn nhiều. Khi chúng tôi đứng trước ao, một cảnh tượng sáng rực đẹp vô cùng mà tôi không ngờ hiện ra trước mắt : mặt ao rau muống mênh mông lăn tăn những đợt sóng nhỏ theo gió phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh lung linh như kim cương, không có tiếng ếch nhái ễnh ương mà là tiếng chim ríu ríu bay chuyền trên những cây cao trồng chung quanh ao, mặt ao lại đầy màu tím của hoa rau muống, chuồn chuồn lớn, chuồn chuồn kim và bướm dủ màu lượn l vờn nhau...         
        Lúc nầy tôi chỉ thấy màu sắc xinh tươi của hoa, màu xanh của lá và những đám rong, bèo tạo thành quang cảnh đẹp mắt linh động. Sinh khí dường như bao trùm những gian nhà tôle và nhà lá chứ không tăm tối như ban đêm, tôi chỉ đứng đó ngắm nhìn so sánh mà cũng không hề nói cho Quân biết, lúc ấy còn quá nhỏ tôi không biết tâm trạng con người ta khi đứng trước một cảnh quan giống nhau lại có thể có những cảm nhận khác nhau, nhờ Quân tôi đã thưởng thức được vẻ đẹp thiên nhiên đầy ánh sáng và sức sống của nơi nầy, một nơi mà ban đêm thật là tối tăm ...!!
          Cứ như thế vài ba ngày anh em Quân lại rủ hai chị em tôi đi vớt bèo cho hai chú vịt con, những lần đi đó chỉ có Quân và Thuyên thay nhau lội xuống cắt rau, vớt bèo tuyệt nhiên chị em tôi chỉ đứng nhìn và em tôi hò reo vui vẻ khi Quân bắt cho nó con bướm hay con chuồn chuồn kim...
         Thỉnh thoảng ông Ba Ưu qua nhà trò chuyện với ba tôi, ông là "ông đốc học" nên rất oai vệ, tiếng nói vang vang  lớn, trên tay lúc nào cũng cầm cây can và miệng luôn ngậm ống pip phì phà khói, ông có vẻ không thích những người "di cư" ông thường nhắc nhở ba tôi hãy dè chừng họ, vì bên trái nhà tôi cũng có một gia đình di cư, tuy nhiên hai vợ chồng nầy cùng hai đứa con nhỏ trông sạch sẽ hiền lành, cả nhà lúc nào cũng mặc quần áo màu trắng vải phin, hai đứa trẻ trắng trẻo mập mạp chỉ đeo hàng rào ngó sang nhìn chúng tôi chơi.... Gia đình nầy khác với gia đình Quân nhưng tất cả các đứa trẻ của cả hai nhà đều lễ phép ngoan ngoãn
          Trong khi ông Ba không thiện cảm thì ba tôi trái lại , có lần trong đêm Trung Thu ba nhìn chúng tôi chơi rước đèn cùng con nít trong xóm, anh em Quân luôn cầm đầu khéo léo dẫn dắt chúng tôi, nhất là Quân và Thuyên luôn chìu theo ý em, ba tôi đã cười và buột miệng nói : "Thằng "Bắc kỳ con" nầy khôn tổ sư !" Và chưa bao ba giờ phản đối hay khó chịu khi thấy chúng tôi thân thiết chơi với nhau suốt cả mùa hè....
            Ba tháng hè qua nhanh, chúng tôi bắt đầu đi học, chỉ có dịp gặp nhau vào ngày thứ bảy và chủ nhật, hai chú vịt con giờ đã lớn cho nên không thả chạy rông như trước, chúng bị nhốt trong lồng gà lớn có thau chứa nước để tự tắm. Lớp học tạm đóng cửa vì mẹ sắp có em bé, mùi dầu đốt dèn làm mẹ dễ bị ngộp. hơn nữa trong thời gian nầy cậu ba còn chuẩn bị thi tú tài 1....            
        Bà ngoại lại lên dắt theo bà Tám trạc tuổi ngoại, nghe nói bà ở Nhu Gia, bà Tám là người nuôi em trai lớn của tôi lúc mẹ sinh ra em cách hai năm trước, bà Tám lên thì chị Bảy lại về Trà Kha vì ngoại nói có người ở quê ra nhắn chị về, mẹ chị bệnh cũng khá nặng ! Chia tay với chị Bảy cả nhà ai cũng buồn vì tánh chị chân chất lúc nào cũng vui cười, chị hay kể chuyện  bà con dưới quê cho mẹ tôi nghe.
          Ba mẹ quyết định cho chị Bảy mang hai chú vịt về quê vì chúng đã lớn mẹ lại khó ngủ, đêm về hễ có tiếng động là chúng "cạp cạp" um sùm, chúng chưa đủ lớn để làm thịt vã lại ba mẹ cũng không muốn chị em tôi chứng kiến cảnh cắt cổ hai chú vịt thân thiết của hai chị em  !!
        Con chó mực của nhà Quân mấy hôm nay ủ rủ không hay sủa như trước, nó nằm mẹp cạnh góc cửa sau được vài hôm thì biến mất ! Ông Ba lại sang nhà tôi nói chuyện, tôi chỉ nghe câu được câu mất, ông nói có lẻ tụi nó ăn thịt rồi... "Bắc kỳ" hay ăn thịt chó với "cá rô cây", rồi ông hỏi đùa tôi có hiểu không ? Ông về nhà ba tôi mới giải thích và nói không hiểu tại sao ông Ba lại ác cảm với người Bắc di cư ?
        Hôm sau anh em Quân sang chơi, bất chợt em gái tôi hỏi thẳng: "Con chó đâu bộ nhà Thuyên ăn thịt nó rồi hả ?", Quân nói nhỏ: "Con chó bệnh cho nên nhà làm thịt, nhưng Quân không ăn !!" Em tôi xì  một tiếng "Quân xạo" lúc ấy Thuyên bênh anh liền, Thuyên nói " Thật đó nhà Thuyên ăn, nhưng anh Quân không bao giờ ăn !"   
        Câu chuyện tưởng như chẳng có gì quan trọng, thế mà ông Ba đi nói với hàng xóm, Tiếng ông lớn có lẻ nhà Quân nghe được, cánh cửa sau không còn con chó lúc nầy đóng im ỉm và hai anh em Quân không qua nhà tôi nữa...!
        Tết Trung Thu đến, anh em Quân lại sang chơi, trước khi về Quân nói nhỏ với tôi nhà Quân sẽ dọn đi chỗ khác, anh em Quân cũng chưa biết dọn về đâu. Ngày hôm đó thật là buồn, tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng lờ mờ đoán ra nguyên nhân từ việc con chó mực chết, sau nầy gia đình tôi mới biết ông Ba không ưa những người Bắc di cư vì họ trốn chế độ Cộng sản, vượt biển vào Nam. Gia đình ông Ba gốc Ba Tri Bến Tre là nơi hoạt động cho Mặt Trận Giải phóng Miền Nam, ông có hai người con trai lớn đi theo Cách Mạng vì thế ông không thích người di cư !          
         Gia đình Quân dọn đi âm thầm và chị em tôi không còn có dịp gặp lại hai anh em Quân ! câu nói "Mai là hoàng hậu" tôi vẫn không quên, sau nầy học Sư Phạm từ "Quân" thường được dùng, Quân là vua, quân là "anh", là "chồng" chỉ đại từ ngôi thứ hai.... Tôi yêu chữ Quân và những bài thơ nào có chữ Quân tôi đều thuộc...!
*****
          Ngồi trên chiếc xe GMC của Công An huyện Long Đất đưa đám phụ nữ chúng tôi về trại E5 của tỉnh Đồng Nai, tất cả đám nữ tù vượt biên chúng tôi đều buồn bã, về đó chúng tôi mới thực sự biết mức án vượt biên của mình.
         Xe dừng lại trước một trạm Công An khác để lấy thêm người, nhìn qua khung cửa xe có lưới sắt tôi thấy phía bên ngoài là khu chợ nhộn nhịp vừa tiếng nhạc, tiếng hát rồi tiếng người đọc quảng cáo cho hai cuốn phim sắp chiếu: phim đầu là "Trại nữ tù binh" Một sự trùng hợp lạ kỳ, bỗng dưng tôi bật khóc, đám con gái trên xe cũng khóc ,...! Tiếng người quảng cáo lại đọc tiếp phim thứ hai là "Quân Vương và Thiếp", phim kể về một mối tình thật đẹp giữa nhà vua và cô gái, tôi đã ngừng khóc lắng nghe, cái gì mà khóc chứ, Quân đã nói tôi là Hoàng hậu mà ! Tất cả những kỷ niệm ngày còn bé lại hiện về, Quân người bạn hàng xóm dễ thương, một người anh trai tốt bụng chu đáo, một tình bạn đầu tiên tuyệt vời mà tôi luôn ghi nhớ, tôi mong rất nhiều sẽ có ngày được gặp lại hai anh em Quân, và ở đây mỗi khi tôi buồn , tôi sẽ đưa tâm trí mình trở về những ngày thơ ấu cũ ...
          Nhưng mà Quân bây giờ ở đâu nhỉ ? Trong cái cảnh "cá chậu chim lồng" nầy tôi nhớ về Quân, về "ngôi vị" của mình biết bao nhiêu !! Không biết Quân có bao giờ nhớ lại thời thơ ấu cũ ? Quân vẫn còn hay đã mất trong cuộc chiến vừa qua, hay Quân đã vượt biên qua bên kia nửa vòng trái đất ?! chỉ biết một điều là không bao giờ tôi muốn ngâm câu :
Quân bất kiến
Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi....
(Tương tiến tửu - Lý Bạch)
Phỏng dịch:
Anh không thấy sông Hoàng hà luôn chảy ?
Cao trên không buông theo sóng gập ghềnh...
Sông xa bờ ra biển cả mông mênh,
Mãi phiêu bạt biết bao giờ trở lại !?
NM Phan thị Ngọc Diệp

Niết Bàn tuổi thơ
Niết Bàn nào phải chốn cao sang,
Vốn dĩ là đây, Phật giữa làng !
Tiếng chuông thanh thoát nâng người khổ...
Tiếng ngắn đục trầm cứu oán than !
..........
Đêm nay trăng sáng Phật đi,
Nhường ngôi cổ tự cho người trần gian....
Biển đời dâu bể đa đoan,
Nơi đây phế tích hồng hoang vẫn còn !
Tiếng chuông ghi khắc lòng son,
Dẫu đời cơ cực tâm con Niết bàn !!
NM
           Cõi Niết bàn tuổi thơ
Quê tôi, làng Nguyệt Áng*, một làng nhỏ ở miền Trung. Cách làng một quãng đồng, phía nam, có một ngôi chùa nhỏ. Cửa chùa mở về hướng tây, nhìn về Thần Đinh, ngọn núi linh thiêng thuộc dãy Trường Sơn.
           Ngôi chùa làng tôi có tự bao giờ tôi không biết, bố mẹ tôi không biết, ông bà tôi cũng không biết. Chùa nằm giữa đồng vắng, bốn bề nắng gió. Lên năm, sáu tuổi, tôi vẫn chưa một lần vào chùa nhưng tôi cảm nhận được qua tiếng chuông, qua lời mẹ tôi. Khi gà gáy phiên cuối, tôi còn mơ ngủ, mẹ tôi chuẩn bị gồng gánh đi chợ Cổ Hiền*, bố tôi pha ấm trà đặc trầm ngâm nhìn ánh trăng hạ tuần chiếu qua khe cửa là lúc tiếng chuông thức giấc. Tiếng “boong, boong” thả vào khoảng không mờ đục, xuyên qua làn sương sớm, lay động giọt trăng đậu trên cành lá. Tiếng ngân dài lan xa, rất xa rồi chìm vào tiếng sóng của dòng Kiến Giang* có mái chèo khua nhẹ, xuôi theo tiếng gió tràn qua phá Hạc Hải* mênh mông. Tiếng ngân như tiếng hò khoan, lúc thưa lúc nhặt, như tiếng lúa hát, như lời mây bay. Tiếng chuông đưa mùi hương cốm ai giã sớm, bay xa, hòa vào tiếng dế ríu ran thành bản nhạc. Tiếng chuông như bàn tay chị nhẹ nhàng đánh thức giấc ngủ vùi. Tiếng chuông dìu mặt trăng xuống núi, nâng mặt trời từ biển lên, một ngày mới bắt đầu.
             Mẹ tôi không theo đạo Phật, tôi đoán thế, vì bàn thờ không treo ảnh Phật Bà Quan Âm, nhưng ngày rằm, mồng một bà vẫn thường ăn chay. Rằm tháng bảy, nghe tiếng chuông lúc trầm lúc bỗng, mẹ tôi bảo đó là ngày người dương thế gặp người cõi âm nên tiếng chuông cũng vậy. Tiếng trầm là âm thế, tiếng bỗng là trần gian. Khi tiếng chuông nằm lại, cũng là lúc những nén nhang đã tàn. Mẹ tôi rắc gạo muối quanh vườn và cầu khấn. Mẹ nói là cầu mong có chốn  lưu thân cho những âm hồn phiêu bạt.
             Tôi lớn lên trong tiếng chuông chùa, sự vật đổi thay, tiếng chuông cũng khác. Năm đói kém, tiếng chuông buồn tha thiết như cố làm đầy chén cơm vơi nửa của tôi. Mùa lạnh giá, tôi run cầm cập đến trường, tiếng chuông ngắn lại như áp vào tấm lưng nhỏ bé ngọn lửa ấm. Mùa lũ lụt, tiếng chuông đục ngầu  trôi nổi  lênh đênh… 
            Tôi thường theo mẹ lên thăm cô tôi ở thôn Trường Dục*, con đường mòn nhỏ đi qua trước cửa chùa. Cách vài chục bước, tôi thấy mẹ thường chỉnh lại áo quần,  cất nón trên đầu và nhắc tôi im lặng. Mẹ tôi bảo để cho phật tịnh tâm  cõi Niết Bàn.
           Lần đầu tôi sợ hãi khi thấy trước cổng tam quan những ông Hổ nhe răng, vuốt móng, những Quan hàm én cầm búa cầm đao. Mẹ bảo, các ông ấy dữ nhưng là dữ với cái ác, che chở cái hiền. Phật ở trong tâm, mình làm điều lành phật thì phù hộ, trời cao thấy hết chúng sinh.   
          Năm tháng đi qua, tôi đã là niên thiếu, mẹ tôi thành người cõi âm. Một mình lên thăm cô tôi, nghe lời mẹ, tôi xõa quần, cách dép và lặng lẽ khi đi qua cửa chùa. Những lúc trời tối, tôi không sợ vì có ông Hổ, ông Quan che chở cho mình.
          Vài năm sau, phong trào chống mê tín dị đoan rầm rộ, cúng tế thưa dần và tiếng chuông chùa cũng tắt lịm. Một đêm, trăng sáng đến nỗi tôi không nhìn thấy trời, trời chỉ là bóng đen u uất. Bọn trẻ xúm nhau nhỏ to gì đó rồi chạy về phía chùa, tôi chạy theo. Đến nơi, tôi chen qua đám đông và lẫn vào trong. Lần đầu tiên trong đời tôi được vào chùa. Chỉ có mấy năm vắng tiếng chuông mà ngôi chùa như nhà hoang, mái ngói hở ra từng mảng, ánh trăng rách rát chảy xuống rưng rức vỡ tan dưới nền nhà loang lổ. Những ông Phật già nua, ốm o lưng trần lạnh lẽo, mặt đầy bụi, mắt ngấn lệ. Những ông Phật áo xống tả tơi chau mày đau khổ như gánh hết cơ cực của nhân gian. Phía góc xa, chân hương gió bạt. Ở chính điện nước mưa  đọng vũng bệ thờ.
            Người ta đưa phật đi về phía Bình Thôn, ở đó cũng có một ngôi chùa.
            Tôi không biết vì sao đêm ấy trăng sáng đến thế. Trăng sáng để soi rõ mặt  người, tôi nghĩ thế.
            Tôi nhớ lời mẹ dặn “trời cao thấy hết chúng sinh”.
            Vài ngày sau, dân quân súng ống, cuốc xẻng đập chùa một cách rầm rộ, họ san bằng như bom phá. Ông Hổ, ông Quan dưới tay họ lặng lẽ đầu hàng và tan tác từng mảnh.
             Người ta xây trên nền chùa một  lò gạch, do có nền cao không bị ngập lụt.
            Mỗi lần tôi lên thăm cô tôi, trời tối không còn ông Hổ, ông Quan che chở, tôi sợ hãi cắm cổ chạy thật nhanh.
            Lớn lên. Xa làng. Về quê, tôi trở lại thăm nơi chùa cũ. Trong tiếng còi inh ỏi, tiếng nhạc xập xình giữa khu dân cư ồn ào náo nhiệt. Trên nền đất, trong phế tích vẫn còn hồn xưa nếp cũ, cỏ vẫn xanh rì mải miết như cố níu lại hơi ấm chân người qua đây một thuở có còn không?
             Tôi cởi giày, bỏ mũ, lặng im như lời mẹ dặn thuở nào. Những hồi chuông dội vào hồn tôi, từng hồi, từng hồi mừng rỡ như gặp lại người xưa, như nức nở sẽ chia những oan ức nghiệt ngã. Tiếng gươm đao, tiếng hổ gầm giữa thời loạn lạc. Tiếng kinh cầu râm ran trong khói hương huyền ảo, tiếng đất dậy sóng một thời. Trong tiếng kinh cầu đó có tiếng sám hối của những người đập chùa hay không ???
             Cũng vầng trăng đó, cũng bầu trời đây, thiếu tiếng chuông chùa thế gian như cô đơn, như đời tôi vắng mẹ. Rằm tháng bảy, có còn ai vẩy gạo muối trong vườn để những âm hồn trẻ thơ đỡ phần hờn tủi.
            Mấy chục năm rồi, đau đáu trong tôi  câu hỏi, những ông Phật giờ lưu lạc nơi nao???
            Bỗng vang lên  thong thả tiếng chuông chùa và câu hát ru văng vẳng đâu đây:
  Ru ru riến riến rà rà
 Voi ông đi trước ngựa bà đi sau 
Đi sau lủng lẳng con cau 
Ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng
             Cõi Niết Bàn là nơi cực lạc. Với tôi, tuổi thơ cơ cực nhưng cám ơn đời đã cho tôi đã gặp cõi Niết Bàn.
Từ Sâm
Nha Trang xuân Qúi Ty – 2013

 Thương em !
Thương em không mẹ không cha,
Thương em sớm vắng chiều xa thâm tình...
Mai vàng mang đến yên bình,
Trong hương Xuân mới có tình yêu thương !
NM

Tuổi thơ mênh mông  

Từ cổng trường giáo dưỡng nhìn ra bên ngoài, con đường rộng và thẳng tắp chạy miết về phía cuối dốc, trườn mình rồi ngã nhào xuống như một dòng thác khô. Hai bên đường là hai hàng cây cao nằm kề bên những ngôi nhà cổ kín, đồ sộ đan xen trong sự bao phủ của các mảng nắng sáng. Những hàng cây hình như đã phải mỏi mòn chờ đợi mùa xuân, để rồi vừa mới đến xuân lại đi qua mau, làm chúng chưa kịp đón hết cái dư vị của buổi giao thời. Ánh nắng dát vàng lên sống lưng của những chiếc lá, thả vài tia le lói qua những kẻ lá rọi xuống mặt đường. Đã sắp đến rằm tháng Giêng, vậy mà mấy chậu mai đặt ở phía trước trường giáo dưỡng vẫn chưa tàn, họa chăng chỉ có vài cánh mỏng rơi vãi xuống đất, nghiêng nghiêng. Bên ngoài dù con đường trước nay vẫn vắng vẻ nhưng trong những ngày đầu năm nầy vài đôi nam nữ vẫn huyên thuyên chuyện trò và rảo bước. Còn trong trường giáo dưỡng nầy cái không khí mấy ngày Tết vừa mới qua hẳn còn âm vang đâu đây.

Thằng Tâm ra ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế đá đặt trước sân, gương mặt nó đăm chiêu lắm. Đâu đó, vài ba cơn gió se lạnh thổi về làm hai vạt áo Tâm khẽ run run nhẹ nhàng. Gió phớt qua chậm rãi. Hơi lạnh buổi sớm thoáng mang một hương vị ngọt ngào phả vào môi, vào má Tâm. Đôi mắt nặng vẻ u buồn của Tâm căng tròn dõi về phía xa như cố ngóng chờ, hy vọng một điều gì đó, đôi chân mày đen mỏng chau lại… 
Nó đang tủi cho số phận của mình. 
Tội nghiệp, mới mười lăm tuổi đầu mà bao cay đắng, tủi cực đã đến với nó. Tâm sinh ra trong một gia đình mà ba mẹ không đăng ký kết hôn và cả hai đều là đối tượng nghiện hút. Mẹ qua đời khi nó mới được mấy tháng tuổi. Sau khi mẹ mất cha nó cũng bỏ đi bụi đời, lang thang khắp nơi. Một đứa trẻ khát sữa, thiếu tình mẫu tử lúc chưa chập chững đi bước chân đầu tiên trong đời phải sống trong vòng tay yêu thương của người bà ngoại đã già yếu. Từ nhỏ nó đã chưa một lần thấy mặt mẹ và cũng không biết ba mình là ai, có lẽ trong cuộc đời nầy, người thân duy nhứt của nó chỉ có bà. Bà của Tâm, quanh năm nghèo khó, khốn khổ, bệnh còn không tiền mua thuốc, lắm khi không có lấy một đồng để mua gạo nấu cơm ăn hai bà cháu phải lặn lội ra đồng hái rau về luộc ăn cho đỡ đói. Sống trong hoàn cảnh như vậy thì làm gì Tâm được học hành đến nơi đến chốn. Khi nó được hơn mười tuổi, thấy bà đã già yếu không còn đủ sức nuôi mình, nó xin đi kiếm việc làm để phụ giúp bà, gánh vác một phần cuộc sống gia đình. Ai thuê gì nó cũng làm, nặng nhọc gì cũng ráng cố gắng cho xong, vì nó biết rằng mình phải làm, làm hết sức để đỡ đần bà. Tội nghiệp thằng nhỏ, mỗi ngày cắc củm năm mười ngàn đem về, nhưng có thấm vào đâu. 
“Thằng Tâm một lát qua rửa chén cho bà Bảy nghe con ?”. 
“Tâm, mày qua đây khiêng hàng vô kho với tao coi...”. 
Từ phụ hồ, khuân vác, rửa chén, giặt đồ, quét dọn, phục vụ quán ăn… chẳng có việc nào chưa từng trải qua. Nhưng nó lúc nào cũng bị người ta chửi bới, chà đạp. Khi rửa bể một cái chén hay làm vỡ một món hàng gì khi khiêng vác, người chủ mắng chửi nó bằng những lời thậm tệ. Khi phụ hồ thì bị mấy thằng lớn tuổi hơn chọc ghẹo, đánh đập. Những lần như thế nó ước gì sẽ có ba mẹ kề bên, mẹ sẽ ôm nó vào lòng dỗ dành cho nín, ba sẽ đến quát vào mặt người ấy rằng sao bà dám chửi con tôi… nhưng những ước mơ đó đối với nó thật xa vời. Người ta không cần thiết phải quan tâm gì đến thằng nhỏ nầy. Nó từ đâu đến, con nhà ai ? Trong mắt họ chỉ là một thằng đầu đường xó chợ. Hững hờ. Bỏ mặc. Họ thuê thằng Tâm và trả tiền với giá rẻ mạt cho những gì nó đã làm, vậy là xong. Họ chẳng cần thiết dành cho nó một tí tình cảm nào. 
Cũng từ dạo ấy, thằng Tâm cảm nhận rằng trên cuộc đời nào không có cay đắng nào nó chưa từng trải qua, không có tủi cực nào nó chưa từng nếm.
Nó mười ba tuổi, rồi bà cũng nằm xuống dưới ba tất đất, để lại một mình nó bơ vơ, trơ trọi giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã nầy. Những lúc nầy đây, khi buồn nó sẽ dựa vào ai để khóc ? Những lúc nó tủi cực nhứt, lấy ai để chở che ? Những khi nó vui, ai là người để nó chia sẻ ? Tất cả, tất cả niềm hy vọng đã theo bà bay đi mất, tất cả đã hết rồi. 
Cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng nó và bụi bẩn cuộc đời hằng sâu vào từng nếp gấp tâm hồn như không thể nào gội rửa sạch. Từ đó, nó đi lưu lạc đầu đường xó chợ cùng mấy đứa bụi đời để “hành nghề”... ăn cắp. Cuộc sống đối với nó tưởng chừng như không còn là cuộc sống nữa. Là nơi tận cùng của khốn khổ. Là chốn chỉ có căm thù và thèm khát. Xung quanh nó toàn mùi tanh hôi của xã hội coi trọng đồng tiền. 
Sau mấy “phi vụ lớn”, nó bị công an bắt. Cứ ngỡ là mình bị ở tù, vào trại cải tạo hoặc giả bị tra tấn, đánh đập… nhưng rồi nó được cho đưa vào trường giáo dưỡng nầy. Cũng từ đây cuộc đời nó đã sang trang, không còn là một thằng bẩn thỉu đầu đường xó chợ, không còn bị coi là côn đồ du đãng nữa, nó khỏi lo cái ăn cái mặc lại còn được học hành… 
Tuy vậy, nó vẫn buồn. 
Buồn vì cuộc đời, vì số phận ? 
“Tâm ! Con đang suy nghĩ gì vậy ?”. 
Nó quay lại sau lưng thì gặp cô Thủy đang đi tới
Cô Thủy là mẹ thứ hai của nó, vì chính cô đã cưu mang nó về trường giáo dưỡng nầy. Trong trường ai cũng yêu quý cô, các em còn rất nghe lời cô nữa. Đối với Tâm, nó rất biết ơn cô vì nếu không có cô thì ngày hôm nay không biết nó đang ở gầm cầu hay một xó tối tăm nào đó. 
“Dạ… con buồn quá cô ơi !”. 
“Sao lại buồn ? Có bạn nào chọc ghẹo con hả ?”. 
“Không, các bạn đối xử tốt với con lắm. con buồn vì… con không biết ba mẹ mình là ai”. 
Ngừng một chút, nó nhìn cô - một cái nhìn sâu lắm, nó nói tiếp : 
“… Con thiệt thòi hơn mấy đứa trẻ khác quá hả cô ?”. 
Nghe thằng Tâm nói tới đó cô Thủy sững sờ, cô nhìn thấy đôi mắt nó đỏ hoe. Từ trước đến giờ cô biết rằng Tâm và một đứa láu lỉnh, nhanh nhẹn, nhưng cô đâu ngờ nó cũng giàu tình cảm vậy, cứ tưởng đâu nó vô đây rồi chắc nó quên cái thời tối tăm xa xôi ấy… 
“Con vẫn thường nhớ về ba mẹ con hả ?”. 
“Dạ, tuy con không biết ba mẹ mình mặt mũi ra sao nhưng lúc nào con buồn là con nhớ về ba mẹ. Hồi đó con sống bụi đời, lúc nào bị người ta chửi mắng, chà đạp là con lại khát khao có ba mẹ ở đây để chở che cho con… Con…”. 
Nó không nói hết câu. Nó khóc. Cô Thủy cũng sụt sùi. 
“Con đâu có lỗi khi con mồ côi. Với cô, mỗi đứa trẻ mồ côi là một con chim bé nhỏ, đáng thương”. 
Nói xong, cả hai cô trò đều im lặng, nhìn ra ngoài, dường như cô Thủy cũng có nhiều suy tư lắm. 
Một lúc sau, thoáng nghe phía trong có người gọi mình, cô Thủy đi vào. Chỉ còn một mình thằng Tâm vẫn ngồi thẩn thờ trước sân, nó ước gì có người bạn nào đó đến bên chia sẻ với mình… Chợt nó nhớ đến thằng Thành - người bạn đã gặp cách đây một năm. Thời gian trôi qua không chờ đợi điều gì, một năm rồi nhỉ, thêm một năm Tâm ở trường giáo dưỡng rồi. Cũng là một năm kỉ niệm ngày mà Tâm gặp Thành. Thành đã đi, nó đã về với mẹ, Tâm vui lắm chứ, nó cũng ganh tị và ước ao được giống như Thành - được về bên gia đình. Nhưng nó biết rằng đó chỉ là vô vọng, vì gia đình nó còn đâu. Tâm ngồi một mình, nó muốn kêu lên thật lớn: “Mẹ ơi… mẹ về với con!”. Im lặng nặng nề. Vẫn không có ai lên tiếng, cây cỏ thờ ơ, con đường trước của trường giáo dưỡng vắng hoe, nắng vẫn trải một màu vàng lên những hàng cây. Không gian như chật hơn, những thứ ngột ngạt đang dần bó sát cái khoảng rỗng trong tâm hồn trong sáng của đứa trẻ nầy. “Ước gì mình khóc lên được”, Tâm nhủ thầm. 
Tâm không thể quên buổi sáng đầu tiên thằng Thành đến trường giáo dưỡng nầy. Lúc ấy Tâm thấy một thằng nhỏ rón rén sau lưng cô Thủy từ phía ngoài cổng bước vào trường. Thằng nhỏ ấy cỡ bằng tuổi Tâm, nước da hơi ngăm đen, trên má có vết sẹo dài nhưng nhỏ, nếu không để ý kỹ sẽ không phát hiện ra. Trán nó cao mà mũi lại thấp, gương mặt bè bè nhìn nó ngộ ngộ làm sao. Cô đến chỗ đám đông các bạn, chỉ thằng nhỏ đó rồi nói : 
“Đây là bạn Thành, sẽ là bạn mới của các em, từ hôm nay bạn sẽ vào ở đây chung với các em. Các em làm quen với nhau đi !”. 
Vốn là dân bụi đời, Tâm nhanh chân đến bắt chuyện : 
“Chào bạn, tôi tên Tâm, mười lăm tuổi”.

Thấy vẻ nhanh nhảu của Tâm, thằng Thành cũng hơi sợ : 
“Ờ… chào Tâm, tôi là Thành, mười bốn tuổi”. 
Nó ngừng một chút, rồi nhìn Tâm, nói một cách rụt rè : 
“Mà… Tâm ơi! Sống ở đây có tốt không vậy ?”. 
Thằng Tâm nghĩ : “Chà, thằng nầy cũng láu lỉnh thiệt !”, mặt nó tươi rói: 
“Sống ở đây vui lắm, khỏi lo cái ăn cái mặc gì hết, lại có chỗ ngủ, khỏi phải ngủ ở vỉa hè. Mấy cô thương chúng tôi lắm, mấy bạn ở đây rất nhiều bạn không có cha mẹ hoặc bị bỏ rơi nên chúng tôi xem mấy cô như mẹ mình vậy… Ở đây chúng tôi được học hành, được vui chơi cùng các bạn, không ai dám coi mình là đứa mất dạy, là thằng vô côn nữa… À, mà sao bạn vô đây vậy ?" 
Thằng Thành giựt mình, nó nhìn Tâm rồi lặng người, cúi đầu không đáp. Từ trước giờ nó cứ nghĩ là sẽ không nói cho ai nghe cái cuộc đời đầy nghiệt ngã của nó. Có ích gì chứ ? Chỉ là những hoài vọng mơ hồ, xa xôi mà không ai còn nhớ. Nhưng không hiểu sao lần đầu gặp Tâm nhưng nó lại cảm thấy tin tưởng Tâm, muốn chia sẻ với Tâm. Một lúc sau nó nói, thật chậm, thật nhỏ, như chỉ muốn một mình thằng Tâm nghe thấy : 
“Mẹ tôi bỏ đi làm ăn xa từ năm tôi bảy tuổi, tôi sống với ba, nhưng ba tôi thường hay la mắng nên thời gian sau tôi bỏ nhà đi tìm mẹ. Dĩ nhiên là tôi không tìm được mẹ rồi, năm ấy tôi mới có bảy tuổi mà. Tôi quên đường về nhà, gặp một anh làm nghề đánh giày cho đi theo đánh giày chung với anh ấy. Sau đó anh về quê không làm nữa, tôi tự kiếm sống một mình, bị người ta chọc gẹo rồi đánh lộn, vết sẹo nầy là của đánh lộn nè”, vừa nói nó vừa chỉ lên mặt. 
Thằng Tâm thấy “hấp dẫn” như một truyện kiếm hiệp, nó giục : 
“Sao nữa ?” 
“Rồi thì riết quen, cứ đánh lộn hoài, bị công an bắt, được đưa về đây… Ủa mà còn bạn thì sao ?”. 
Thằng Tâm trầm tư hơn, nó cũng buồn lắm : 
“Cũng gần giống bạn. Tôi bị mẹ bỏ rơi, sống với bà, đi làm mướn để kiếm tiền. Sau khi bà mất, tôi đi bụi đời, cướp giựt rồi bị công an bắt, sau đó được đưa về đây”. 
Bỗng dưng Tâm thấy nao lòng, nó thở dài rồi đứng phắt dậy, nắng vẫn trải nhẹ nhàng nhưng tại lòng Tâm lại nặng nề u uất, nó nói, giọng run run
“Nhưng mà, bạn còn có mẹ để hy vọng một ngày nào đó sẽ được gặp lại, còn tôi thì…”.
Hai đứa lặng người, cúi đầu, không ai nói với ai một lời nào nữa. Thằng Tâm nhìn ra ngoài đường, vẫn đôi mắt vô cảm ấy, như trông chờ, hy vọng, nó hỏi thằng Thành mà như đang nói với hư vô : 
“Sao ba mẹ lại bỏ chúng ta như vậy hả Thành ?”. 
Thành vẫn ngồi yên và bất ngờ trước câu hỏi của Tâm. Nó nhìn thằng Tâm, đôi mắt của Tâm to, tròn xoe ra vẻ trí thức nhưng trong đó ẩn chứa một cái gì đó sâu xa lắm. Thằng Thành muốn nói : “Tâm ơi, sao tôi biết chứ, câu hỏi nầy phải dành cho những người cha, người mẹ đã bỏ rơi con cái của mình trả lời kìa”, nhưng nó lại thôi không nói.
Rồi thì thằng Thành cũng bỏ đi. Nghe đâu mẹ nó đi làm ăn gì đó, giờ khá giả lắm, bà trở về tìm nó để rước ra thành phố sống. Tự dưng Tâm nghe như có cái gì mênh mang lắm, trải lên dày cộm trong lòng mình. Thằng Thành phải đi rồi, cái thằng bạn thân thuở nào còn ngồi nhì mưa, kể cho nhau nghe những chuyện đi “giang hồ”, cùng ngồi cạnh nhau trong những bữa ăn ở trường giáo dưỡng, vậy mà giờ đây… 
- Ê, mẹ tôi sắp về rồi, mẹ sẽ rước tôi ra thành phố sống, từ nay tôi lại có mẹ rồi ! 
- Ừ, Chúc mừng bạn nghe ! 
- Ủa, hình như bạn không vui hả ? Sao, có chuyện gì vậy ? 
Thằng Tâm ú ớ… Vui! Nó vui chứ, nó vui vì bạn thân nó tìm được mẹ. Nhưng nó cũng buồn. Buồn một phần vì phải xa Thành, một người bạn chỉ mới quen chưa đầy một năm, một người dễ thương, biết chia sẻ. Một phần buồn vì tủi thân cho mình. 
Đâu, tôi vui chứ ! 
Thằng Thành cứ huyên thuyên kể làm Tâm càng đau hơn : 
- Mai mốt tôi về thành phố không biết ở đó ra sao nữa. Tôi nghe nói ở đó vui lắm mà đường sá thì nhóc hết, lạng hoạn là lạc đường như chơi đó… 
Thằng Tâm nghe rồi ừ hử cho xong chứ thật sự nó cũng không để ý Thành nói gì. Nó không muốn xa thằng bạn thân như Thành. Mà, con người ai cũng cần có cha mẹ mà, phải không Thành ? 
Mấy ngày sau đó, mẹ Thành về, cô Thủy tổ chức một buổi tiệc nhỏ cho Thành chia tay với mấy cô và bạn bè trong trường, Thành và Tâm ngậm ngùi nói lời chào từ biệt nhau, không biết bao giờ mới được gặp lại. 
Vậy là một đứa trẻ mồ côi nữa lại được trở về mái ấm gia đình. 
Còn thằng Tâm thì sao? 
Đang miên mang với những hồi ức, chợt ngoài cổng trường có tiếng lao xao. Chắc có người nào tới. Thằng Tâm không buồn nhìn ra, cứ ngồi thừ ở đó. Chợt thằng Hải chạy tới, vừa thở hổn hển nó vừa nói
- Tâm ! Sao mày ngồi ở đó hoài vậy ? Thằng Thành về thăm mình kìa ! 
- Cái gì ? Thằng Thành ? 
Tâm như không tin nổi vào tin mình, thằng bạn thân thuở nào mà nãy giờ nó đang nghĩ đến lại xuất hiện ở đây, ngay giờ phút nầy ư? 
- Ừ, thằng Thành kìa, ra gặp nó đi, ngồi đó hoài. 
Nói rồi thằng Hải vụt đi, thằng Tâm cũng đứng dậy, lật đật bước đi mà như chạy… 
Thằng Thành ! Đúng là thằng Thành, nó từ thành phố xa xôi đi hơn hai trăm cây số về đây để chung vui mấy ngày Tết với bạn bè. Nó đi thăm cô Thủy - người mẹ thứ hai của nó, thăm mấy đứa bạn, mấy đứa em trong trường và… thằng Tâm. 
Hôm nay, trường giáo dưỡng ấm lên, mặc dù trời se lạnh nhưng dường như một ngọn lửa đã thắp sáng và sưởi ấm cho những đứa trẻ lạc loài… 
Một ngày vui, một ngày mà Tâm và Thành đã gặp nhau, ngày của tình bạn. Chúng biết rằng trong tuổi thơ mênh mông buồn thảm, một niềm vui - dù nhỏ nhoi - nhưng vẫn ghi dấu ấn suốt cuộc đời. Sáng nay, mai vàng rụng đầy mặt sân trường giáo dưỡng, hai thằng bạn ngồi nói chuyện với nhau. Chúng chợt nhận ra rằng Trái Đất lúc nầy thật bình yên. Bình yên như chưa từng có chiến tranh thù hận, chưa từng có nghèo đói. Bình yên như chưa từng có những cuộc chia ly, chưa từng có nước mắt
 Gió vẫn thổi, mang theo bao tình thương của những tâm hồn trẻ dại bay thật xa

 VĨNH THÔNG