Hiển thị các bài đăng có nhãn Món ăn quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Món ăn quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2020

Nhạc - Thơ - Văn Mật Mùa Xuân



Ngọt Ngào

Mật ngọt tràm vàng,
Hoa tràm nở dậy hương mùi mật ngọt,
Ta quen nhau qua mấy độ hương tràm...
Hoa cho hương làm mật ngọt ngào thơm,
Anh sẽ đón em về trong Xuân mới.
Anh mơ ước không làm chim én đợi...
Một mình anh chao liệng giữa trời Xuân,
Mà đôi ta ríu rít tiếng vui chung,
Giữa Xuân mới đậm đà hương mật ngọt
NM
                        Mật mùa xuân 
Mùa đã gọi gió bấc về lơ thơ trên những ngọn cây. Cái lạnh se se bấm khẽ vào da. Đợi ngó lên mấy cây tràm trước nhà, nhựa trong lá như quện đặc khiến lá chuyển sang màu sẫm hơn. Nhìn dấu hiệu của thiên nhiên, Đợi nhớ ba hay nói cỡ này bắt đầu gác kèo ong là được.
Nếu giờ Đợi vô kêu ba chèo xuồng đi gác kèo coi cũng kỳ. Kiểu gì ba cũng ngạc nhiên hỏi cho rõ cơn cớ gì thằng con vốn không ham mê cái nghề gia truyền này mà giờ lại nằng nặc đòi đi. Dám biết lý do rồi ông sẽ vừa cười vừa ra sau bếp nói với má. Má cũng sẽ cười theo ba, mặt má hồng lên bởi khói nóng và sự vui vẻ “Tui nói ông nó biết yêu rồi mà ông hổng chịu tin”.
Đợi biết yêu thật. Có phải ai xa lạ đâu, nhỏ Thương nhà khúc xóm trên. Ba má Thương cũng không khó mấy, lại muốn con gái có chồng gần cho dễ bề mưa gió qua thăm. Ngặt nỗi, hình như ba Thương chưa ưng Đợi lắm. Dù má cô có nói đỡ vô mấy câu. Nghe đâu ông nói Đợi lớn tồng ngồng rồi mà còn chưa biết lo chuyện mần ăn, sau này làm gì đỡ đần vợ con nổi. “Đó, ngay cả cái nghề gác kèo ong ba nó rành sáu câu vậy mà nó có thèm rớ tới đâu. Nó chê cái nghề đó cực khổ cù lần, thì biết đâu mai này nó cũng chê con gái mình quê mùa, nó chán”, Thương thỏ thẻ lại với Đợi y nguyên câu nói của ba cô.
Trời à, thật tình Đợi đâu có ý chê cái nghề của ba. Dù là anh thấy nó cực thật. Còn khó nữa. Phải tính toán, coi đoán đủ thứ nào gió nào nắng nào trời, lỡ trật một chút ong không chịu về làm tổ thì coi như công cốc. Anh chỉ thấy mình không hạp. Anh muốn làm gì đó mau có tiền, dẫu làm mướn cũng được. Nhiều lần Đợi đã tính chuyện đi làm ăn xa, nếu không phải lòng Thương trong một bận giáp mặt khi chở má đi chợ.
Một bữa Đợi tạt qua nhà Thương gửi mớ trứng gà, má cô có nói bóng gió phải có chút mật ong rừng trộn bột nghệ uống vô thì bệnh đau bao tử của bà hết cái một. Bà còn than giờ mật giả bán đầy, phải biết ở đâu có mật ong chính gốc rừng tràm uống mới yên tâm. Tràm mọc sát rạt ngút mắt mà không thấy ai đi ăn ong, “mót một giọt mật trầy con mắt hổng ra”. Đợi nghe mà thấy mặt nóng hổi, chắc đỏ tới mang tai. Bên cạnh, Thương bụm miệng cười khúc khích. Rõ ràng má vợ tương lai đã thò đầu dây cho chụp, Đợi làm sao coi được đó thì làm. Kiểu này, anh phải kêu ba truyền nghề ăn ong gấp rồi.
***
Trái với suy nghĩ của Đợi, ba không cười hay chọc anh. Đang quấn điếu thuốc gò, nghe anh xin theo gác kèo ong, ba khựng lại. Chắc ba đoán được ý thằng con rồi, nhưng vẫn bị một cảm xúc lạ lẫm chặn ngang mình. Có thể là vui, khi nghe con bắt đầu chú ý tới cái nghề truyền thống mà tưởng tới đời Đợi phải ngưng ngang. Có thể là lo, chuẩn bị tính coi sắp xếp sao để qua nhà bên kia chào hỏi ông bà sui tương lai. Tất cả trộn lẫn lại thành cái gật đầu gọn hơ của ba, Đợi nghe mừng trong bụng.
Ngay buổi đó Đợi đã đòi ba chỉ anh chuẩn bị đồ nghề. Thấy Đợi hăm hở, ba cố làm mặt nghiêm cũng phải phì cười. Ba cẩn thận chỉ anh cách chọn cây để làm nống, nạn và thân kèo. Ba chỉ chậm, từng chút một, bởi biết thằng con không ưa mấy chuyện tỉ mỉ. Dù vậy, Đợi cũng làm hư hết đâu chừng chục thân tràm. Má trong bếp chiên cá ngó ra, vừa lắc đầu vừa cười, mắt có vẻ hấp háy vui.
Đợi ráng căng não ghi nhớ. Coi cách chọn cây sao, cách đo thế nào, bao nhiêu tấc thì đủ. Coi bước nào cần lột vỏ phơi khô, cái nào cần vót nhọn, cái nào đục lỗ, cái nào vạt hình lưỡi búa. Nhìn ba làm thử, Đợi thấy sao mà dễ ợt. Tay ba thoăn thoắt gọn ghẽ, ba nhắm chừng bằng mắt mà không chệch một ly. Tới lượt mình làm, Đợi thấy khó trần ai, ráp vô kiểu gì cũng xộc xệch. Được cái Đợi không nản. Má hay nói tuy hậu đậu nhưng anh bền lòng. Mà nản sao được, khi vài bữa là Thương giả bộ bưng qua tô canh, lúc thì dĩa xôi “má con cho”, sẵn tiện gửi nhẹ ánh mắt động viên như nói “em đợi anh đó nha”.
Cuối cùng thì cũng chuẩn bị xong. Ba dẫn Đợi chống xuồng vô rừng. Đợi nhớ lời ba, phải canh chính xác hướng mặt trời mọc để tìm trảng tốt, đủ nắng. Rồi canh hướng gió nhắm chừng coi ong sẽ xuống làm tổ từ đâu. Trảng cũng không được nhỏ quá, ong không xuống được. Chà, coi bộ phải đi ăn ong mấy mùa nữa Đợi mới rành. Giờ, trông cậy hết vô ba, còn việc của anh là nuốt không sót lời dặn dò nào.
Tìm được trảng rồi, ba dọn dẹp cây cối lại cho gọn và bắt đầu dựng kèo. Đầu tiên, cây nống được cặm thẳng xuống, vừa làm ba vừa chỉ Đợi canh khoảng cách. Cây nạn được ba ấn vô tay Đợi kêu anh làm thử. Ba vỗ vai động viên, ổn rồi đó. Còn thân kèo, ba tự tay gác lên sao cho khớp những rãnh mắt đã được tạo sẵn. Kèo gác không đẹp, ong sẽ chê không đóng. Đợi nhủ thầm, ong gì mà chảnh! Gác kèo xong, ba còn dọn sẵn một con đường nhỏ để sau này tiện đi lấy mật. Nghe ba kêu còn phải gác cả trăm kèo nữa, tự dưng chân Đợi run. Thấy phản ứng của anh, ba cười nói, mớ kèo cũ còn dùng được, chỉ sửa lại thôi. Nghe vậy mặt anh mới tươi lại được. Chớ lần đầu đi gác kèo mà, ai không dễ mệt - Đợi bào chữa cho mình.
***
Kèo ong gác xong, một thời gian nữa sẽ quay lại thăm chừng, coi ong đã về chưa. Tràm đã bắt đầu nở bông vàng rực. Lòng Đợi cũng đang nở bông, hấp hởi mong tin mật.
Mùa xuân, tràm nở rộ và ong cũng về làm tổ nhiều hơn. Mật mùa này thơm và ngon bởi không bị pha loãng do nước mưa. Những giọt mật đó, được chắt từ một mùa yêu thương đầy hy vọng. Lòng Đợi phơi phới theo cơn gió bấc đùa thốc tàu lá chuối, nghĩ miên man về những giọt mật nguyên lành.
Hũ mật ong màu vàng cam, vị thơm ngon đặc trưng của vùng đất này sẽ trở thành món quà xuân Đợi đem qua “lấy lòng” ba má vợ tương lai. Chắc má Thương sẽ ưng lắm, Đợi đã hoàn thành được ý nhắn nhủ của bà còn gì. Bà sẽ có cớ để nói với ba Thương “Đó ông thấy chưa, nó đâu phải thằng rể điên điển như ông nghĩ”. Ba Thương sẽ ờ ờ, dù có vui cũng chỉ cười nhẹ thôi, nói Đợi mùa này nhờ có ba, mấy mùa sau tự thân vận động coi có làm ra trò trống gì không. Có chứ. Sẽ làm ra mật ong ngon y chang bây giờ, Đợi tin là vậy. Nhưng trước mắt, kiểu gì má Thương cũng sẽ đánh tiếng kêu anh đưa ba má qua nói chuyện. Coi mùa mật sau nếu được, chắc cưới luôn hen.
***
Thương nhìn thấy Đợi mà giả bộ như không thấy, chân lẹ lẹ rảo nhanh về nhà. Trong nắng xuân vàng, má cô hây hây màu trái chín. Đợi biết người yêu mình ngại. Chứ sao nữa, qua Tết là hai đứa chính thức về chung một nhà rồi. Cái suy nghĩ đó khiến người ta thở thôi cũng thấy hơi mình màu hồng và trở nên ngượng nghịu…
Mùa ăn ong thứ hai này, Đợi đã rành hơn chút đỉnh. Anh cũng để dành riêng cho má vợ mấy lít mật ngon nhất. Lần này mang qua, anh sẽ ngẩng cao mặt lên mà tự hào khoe với ba vợ “Ba ơi, kèo này con tự gác”. Ba Thương chắc sẽ cười cái thằng coi lớn đầu mà tính con nít, nhưng trong lòng ông chắc chắn rất vui. Cũng như ba Đợi, ông luôn mong có người tiếp nối những nghề truyền thống vùng này.
Đợi chống xuồng, chuẩn bị đi lấy mật đợt hai. Ba ngồi uống trà trước nhà nói vọng theo, dặn kỹ Đợi lấy mật nhớ chừa hậu. Anh dạ ran, gì chứ cái này anh nằm lòng. Cái gì cũng phải chừa hậu, mình lấy hết tàng ong thì tụi nó biết lấy gì mà sống. Cái gì cũng phải biết đủ, tham thì thâm - bài học vỡ lòng hồi xưa bà của Đợi hay dạy bằng những câu chuyện cổ tích. Má từ trong nhà bước ra, hỏi ba không đi với Đợi sao. Ba cười “Đợi nó lớn rồi”.
Mà Đợi lớn bộn thật rồi, qua Tết có vợ luôn chứ giỡn à. Nhưng thật sự, khi chiếc xuồng đưa Đợi vô rừng tràm trong mùa ăn ong đầu tiên một mình, Đợi thấy lạ lắm. Anh thấy người như cây tràm cao cao, đã bắt đầu biết chọn chỗ mà lớn lên, mà đơm bông chớ không phó thác cho đất trời mai rủi. Kiểu như má nói “con lớn thiệt rồi đó Đợi”, trong một bữa anh biết chạy te te ra xã mua thuốc khi thấy má ôm ngực ho khù khụ chớ không đợi má nhắc như mọi lần.
Rừng tràm nằm yên dưới nắng, lá khẽ đu đưa theo những đợt gió bấc. Đợi không lạnh mà thấy hừng hực cảm xúc rất lạ. Những bãi cỏ, lau sậy rẽ theo mũi xuồng tách ra như cánh cửa mở mừng đứa con của rừng. Đợi thấy sự thân thuộc mân mê từng ngón tay và háo hức dâng đầy trong mạch máu. Vậy mà hồi đó anh không chịu theo ba sớm, kỳ cục thật.
Trên đầu Đợi, bông tràm nở vàng hơn nắng. Theo gió lay, vài bông tràm li ti rụng xuống vai Đợi. Anh thầm nghĩ, nụ cười của Thương ngày cưới chắc cũng rực rỡ như màu bông tràm đang nở rộ trên cao. Rồi tự nhiên anh tự cười mình, mặt râm ran đỏ khi nghĩ tới lúc mình mặc áo chú rể. Chắc cảm xúc cũng sẽ rạo rực như bây giờ, hay hơn thế nữa. Và kiểu gì cũng ngọt ngào như những giọt mật sánh ngọt - món quà của đất trời mà Đợi đang hân hoan đi nhận. Mật mùa xuân, cũng là mùa những lứa đôi chuẩn bị ríu rít tiếng vui chung. Mật dậy một mùi thơm ngát trong Đợi, khiến anh thấy mình nhẹ hẫng như cánh chim én đang liệng vòng trên đầu…
PHÁT DƯƠNG
Theo Báo Cần Thơ


Hương rừng
Hoa cỏ dại thơm hương rừng ngan ngát,
Hoa bạt ngàn, hoa bưởi tím, hoa chanh...
Hoa mùa Xuân cảnh đẹp khác chi tranh,
Bầy ong mật chở phấn hoa về tổ.

Nắng đã nhạt, mặt trời sau ngọn núi...
Lòng lâng lâng như bưởi đã căng da...
Hương hoa chanh, cỏ dại thoảng đậm đà,
Cho mật ngọt thơm hương rừng thanh khiết !

Quên mất nỗi người chia xa biền biệt,
Ta giờ vui theo vị ngọt đời vui...
Trên đồi Keo đầy ắp tiếng nói cười,
Và ta có những tháng ngày hạnh phúc !!
NM

Nơi bầy ong làm mật
Từ lúc bà còn đang nằm viện, tụi con có ý ông bà sang tên đất đai của gia đình cho chúng. Trước lúc vĩnh biệt thế giới này bà cũng trăng trối với ông Minh. Theo di nguyện của bà ông Minh làm thủ tục  sổ đỏ đất đai cho con cái. Ông bà có một trai bốn gái. Hai vợ chồng con trai ở cơ quan, chồng lái xe con, vợ chạy thực phẩm cho bếp ăn tập thể. Các cô con gái đều chồng con nhà cửa đàng hoàng người chủ doanh nghiệp, người buôn bán ông để lại mấy gian nhà cũ làm nơi thờ phụng. Ông biết anh chị nào cũng máu làm giàu kể cả những việc mạo hiểm. Vợ chồng cô út sa vào đề đóm, cờ bạc, đa cấp vỡ nợ bán cả nhà cửa phải thuê chỗ ở. Ông tuyên bố không ở với bất cứ anh chị nào. Ông  quen cuộc sống độc lập thời còn lính. Mấy chục năm ông cùng đồng đội nằm gai nếm mật đánh giặc đến cùng  rèn luyện cho ông một bản lĩnh của người lính. Đồng đội dạy cho ông những kinh nghiệm sống bổ ích và những môn chữa bệnh, chữa rắn cắn bằng thảo dược, nuôi ong mật... 
Nghỉ hưu ông sống chan hòa với  bạn bè làng xóm được mọi người quý mến đùm bọc. 
Khi mãn tang vợ nhiều người chân tình  khuyên ông lấy vợ, để như đũa có đôi phòng khi đêm hôm mưa nắng trở trời. Ông chỉ băn khoăn vài năm nữa  sắp đến tuổi “thất thập cổ lai hy” không khéo lại mang tiếng là già  còn ham hố. Vả lại tìm người tâm đầu ý hợp thông cảm với hoàn cảnh mình đâu phải dễ.  Con cái lại không muốn ông đa mang, sau này “của ông của bà”. 
Ông Minh tặc lưỡi suy ngẫm: “Biết sao cho vừa lòng người”. Cuộc sống vẫn vận động đi lên.    
Ông dành thời gian đi kiếm cây thuốc, thái phơi khô dự phòng giúp bà con thế mà có lần ông suýt tai bay vạ gió. 
Lần ấy qua đồi keo ông phát hiện   một phụ nữ bị rắn cắn, cổ chân phải sưng vù, bầm tím rỉ máu, mặt  tái nhợt, quằn quại giãy giụa văng cả giấy tờ tiền nong ra đám lá khô dưới gốc cây keo. Ông Minh xé áo mình đang mặc làm ga rô vết thương, nhanh chóng đắp thuốc cấp cứu cho bệnh nhân. Ông cẩn thận lấy mũ đội đầu làm gối kê cao chân đau của nạn nhân, thu nhặt giấy tờ tiền nong để gọn vào chiếc nón lá. Qua giấy tờ biết nạn nhân tên là Lan năm mươi lăm tuổi ở thôn Thượng. Ông Minh bứt cành lá ngồi phe phẩy quạt chờ bệnh nhân hồi phục. Cô có khuôn mặt trái xoan, hàm răng trắng, tóc ngang vai vẻ trẻ hơn tuổi.
Lúc sau Lan chớp mắt đáo nhìn xung quanh, thấy mình nằm dưới đất cạnh người đàn ông cao lớn vận áo may ô  ba lỗ. Cô hốt hoảng mặt tái đinh ninh ngỡ mình bị hại, lấy hết sức bật dậy la toáng lên:
- Cướp cướp!
Tiếng la theo núi rừng đi xa dội lại làm ông Minh hết hồn thanh minh:
- Minh đây, không phải cướp…! Ông đưa tay chỉ vết thương: Rắn cắn… Chưa nói hết câu một thanh niên ở trần, quần đùi, mặt sát khí lao tới vung gậy  bổ xuống đầu ông Minh. Lan kêu thất thanh “đừng” vội đẩy ông Minh né sang bên. Ông Minh nhanh nhẹn bằng miếng đánh đỡ và khóa tay chàng thanh niên, cây gậy rơi xuống đất…
Hiểu sự việc người thanh niên nhìn ông Minh từ đầu đến chân phủi tay lắc đầu bỏ đi.
Lan chưa hoàn hồn nói không nên lời
- Bác có sao không? Em hết cả hồn vía?! Lan nức nở khóc
 Ông Minh pha trò:
- Không sao yên tâm! Lính mà lị. Hai người cười.
- Nó là Mạnh con trai em, làm bên vườn bưởi. Lan chỉ tay phía trước. Ông Minh gật đầu như vỡ lẽ.
Ông Minh đỡ Lan dậy. Hai người đi về phía thằng Mạnh.
Bưởi tốt tươi, cây thành hàng từ chân lên tận đỉnh đồi. Cây nào cũng mỡ màng, cành lá xum xuê, quả đan từ gốc tới ngọn. Mới tháng sáu mà quả bằng bát ăn cơm, một số to như mũ trẻ, ăn không he nhiều nước. Cành trĩu quả nặng kéo là mặt đất.
Mạnh buộc tre kiểu chữ A đỡ những cành lên khỏi mặt đất. Nhân đà ông Minh tiếp sức làm quen:
- Cháu chống được nhiều cành chưa?
- Nhiều.
- Mỗi cây có đến trăm quả không?
- Đến.
- Mạnh biết giống bưởi gì không?
- Soi Hà.
Nhấm nhẳn trả lời nhát một như miễn cưỡng câu trước câu sau Mạnh  lẩn sang chỗ khác. Sợ ông Minh phật ý Lan phân bua:
Mạnh không có tuổi thơ như bạn cùng trang lứa. Năm ba bốn tuổi bố bỏ đi sống với người đàn bà khác trong Nam bỏ hai mẹ con. Mẹ nuôi con bằng đồng lương công nhân ba cọc ba đồng. Đến lớp Mạnh bị bạn bè trêu chọc không có bố nó buồn và mặc cảm.
Đã thế mấy gã đàn ông máu me sán đến chọc ghẹo tán tỉnh thằng Mạnh ghét cay ghét đắng sinh ra định kiến lạnh lùng. Ông Minh đã hiểu vì sao Mạnh không muốn tiếp xúc. 
Theo Lan Mạnh rất thích nuôi ong mật vì ở đây mùa hoa bạt ngàn trắng hoa bưởi tím hoa chanh, hương thơm ngào ngạt, lắm mật ngọt cho ong bướm. Quang cảnh mùa đẹp như bức tranh tuyệt.            
Ông Minh tỉ mẩn chuyện với Mạnh kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi ong cách tạo mũ chúa, làm cầu, cách chia đàn, cho ong ăn vi ta min, vi lượng ong khỏe chống đỡ bệnh tật, bày kích thước  làm chuồng, đặt chuồng hướng Nam đón gió mát v.v. Mạnh trở nên thân thiện cởi mở yêu quý ông Minh. Bác cháu cười nói vui vẻ không còn khoảng cách. 
Lâu lắm rồi Lan mới được chứng kiến thằng Mạnh vui vẻ như thế. Lan sung sướng xao xuyến trong lòng. Cả ba người hình như đã gắn kết  gần gũi  hiểu nhau hơn.
Nắng đã nhạt, mặt trời xuống sau ngọn núi, gió thổi lao xao mát rượi, bầy ong chở đầy phấn hoa về tổ. Ai ai cũng cảm nhận lâng lâng nhẹ hẫng!
Ông Minh cố chống tay ngồi dậy, người đau ê ẩm. Căn phòng bệnh viện trắng toát sực mùi thuốc. Nhiều ngày nay cơn sốt rét có mầm bệnh từ những trận truy quét quân giặc  nằm  bờ bụi trong rừng sâu. Tuổi cao lại suy nghĩ chuyện con cái bán đất đai dốc vào những vụ làm ăn mạo hiểm hoặc đỏ đen... làm cơn sốt tái phát hoành hành ghê gớm. Mấy ngày nằm viện ông  không thấy bóng dáng con trai con gái, thỉnh thoảng con dâu đáo qua báo: “Các anh chị đang có câu chuyện làm ăn”! Ông Minh ngồi lặng thinh, nhìn vào khoảng không xa xăm lắc đầu!
Mạnh tay xách nách mang bước vào phòng bệnh vội liến thoắng:
- Hôm qua ở đây về mẹ cháu bảo  cháu mang trứng, hoa quả bác ăn nhanh chóng hồi phục. Ông Minh tươi tỉnh hẳn lên quên đi phiền muộn.
- Bác khỏe rồi. Mai ra viện.
- Bác lên với đàn ong, vườn bưởi  chứ?
- Nhất định rồi. Bác hứa. Hai bác cháu nắm tay nhau vui vẻ.
Bên ngoài phòng bệnh, mấy vị  bạn bè hàng xóm cười nói vui vẻ đến thăm ông Minh. Căn phòng ấm cúng đầy ắp tiếng cười.
Mấy ngày sau và những ngày sau nữa trên đồi keo và bưởi Soi Hà, ông Minh, cô Lan, Mạnh thỉnh thoảng chụm đầu vào nhau cười giòn tan. Những chuồng ong đông quân đang tíu tít chở đầy phấn về tổ. Bưởi đã căng da, hương thơm hoa chanh tứ mùa, hoa cỏ dại hoa keo ngan ngát.
Đào Xuân Thuý 

Mật ngọt của chà là

Vừa ra chơi Hùng Rán gọi thất thanh!
– Ơi….ơi! Bọn mày ơi! Ra sau trường bắt ong ruồi! Cả lũ lau nhau vừa chạy vừa hét. Chúng chạy ra sau trường học, nơi có bụi cây sời hồ và đám sậy lưa thưa đang độ trổ bông lau.
Gọi là trường chứ thật ra là hai cái phòng học cất bằng cây lá địa phương. Mái lợp fipro ximăng, vách chỗ dừng lá, chỗ gỗ, chỗ thì bằng thiếc. Bà con ở đây nghèo lắm, sinh sống chủ yếu bằng nghề đi biển làm vuông tôm. Đất đai phèn mặn trồng lúa chẳng được bao nhiêu. Lo miếng ăn là chính cho nên ít ai quan tâm đến chuyện học hành của con cái. Đi học là để biết đọc biết viết, học chưa hết cấp hai là đã nghỉ muốn hết về làm vuông. Mười tám đôi mươi là phải gánh chịu câu “Trai khôn thì cưới vợ, gái lớn là gả chồng”.
Mê mẩn quên cả giờ vào lớp vì tổ ong ruồi. Sân trường không còn bóng ai nữa thì giật mình. Cả chục đứa cuống cuồng chui ra khỏi bụi, chân trần không dép chạy vào lớp. Cũng do trường không có trống kẻng báo hiệu nên mới ra thế. Hiển nhiên là không thoát án phạt của thầy giáo Tuyên, nhốn nháo hai hàng đứng trên bục giảng cho đến hết tiết. Nhìn xuống dưới, lớp học trở nên thưa thớt vắng hoe.
***
– “Ê! Tụi mày, săn bắt ong không mai vô vuông nhà tao thiếu gì!” Tiếng của lớp trưởng Nam Long gọi khi bốn hàng dọc đang tan dần ra. Cả nhóm tụm lại xì xầm với nhau điều gì đó.
– “Ừ! Đi thì đi chứ sợ gì! lúc nãy thầy giáo phạt, làm bọn mình xấu hổ quá. Tụi con Ánh, con Lành, con Nhung nó cười mỉa mai thấy ghét. Mai được nghỉ học vô tư mà ong bướm!” Tuấn Anh lải nhải.
– “Nóng máu nhất là khi nhìn thấy con Thu Đến nó cứ cười hoài. Đang hận thù tạo nên chắc nó hả dạ lắm!” – Nở co cáu.
– Con Hà, Con Hải, con Huế, con Phương nữa… nói chung cả lớp”. Nam Sói hậm hực.
Dưới cái nắng trưa hừng hực cứ táp vào mặt. Đứa nào đứa đấy đi cho nhanh, còn kịp về giải quyết cái bao tử đang cồn cào gào thét.
***
– “Ong ở đây tao là trùm, chỉ cần rung cây nhẹ nhẹ cho nó bay ra. Bẻ nhánh cái cây ong làm tổ rồi….. chạy. Thế là xong! Khỏi cần phải lửa củi gì” Lớp trưởng Nam Long múa mép với cả bọn.
– “Dóc tổ! Ong chúa nó mà rượt theo là cả bầy dí mày chạy như gà rừng” Ninh khắc chế.
– “Mày dở ẹt, vừa chạy, vừa quay quay cái nhánh cây phủi nó. Kiếm gió ngược mà chạy thì cả ngàn ong chúa cũng chẳng làm gì được tao”.
– “Vậy nếu gặp tổ ong thì để cho nó bắt hen tụi mày” Nở chen vào.
– “OK! Tụi mày không biết cách phát hiện ong thì để tao chỉ cách cho nhé. Quan sát các bụi rậm thấp. Như bụi sời hồ có lưa thưa vài cây sậy, đám ô rô sát mé nước. Thấy ong thợ đảo đảo như “máy bay chuồn chuồn” ở trên là ở dưới có…tổ. Thêm chút xíu ánh nắng lọt vào nữa là chắc chắn có ong đóng tổ. Hay là mấy bụi chà là gai đằng đó kìa… là dễ dàng lấy nhất. Nhưng coi chừng gai”. Nam Long vừa đi vừa nói. Cả hội cùng bước theo đôi chân đen ngấm của vị thủ lĩnh vùng đất bồi mặn.
– “Bắt ong trong bụi chà là này nè lớp trưởng, lấy mật chấm củ hũ ăn mới ngon. Ăn ong chuyên nghiệp xứ nước mặn là vậy. Tao chặt củ hũ chà là cho” Phú Lôi cũng tỏ vẻ sành sỏi, tay cầm cây dao miệng “theo đóm ăn tàn”.
Vùng này làm vuông tôm thiên nhiên, cây cối rậm rạp nên có nhiều hang cua. Cá thòi lòi thì chạy như “ca nô” trên mặt nước. Ở những bãi đất rộng rất nhiều chà là. Con nước lên mênh mông trắng xóa hơi muối, nước ròng là lòi mặt đất lên liền. Cây chà là mọc thành từng bụi, thân như cây cau, gai góc quanh mình, chẳng ai thèm đụng đến nó làm gì cho chảy máu.
– “A….ai..ii…! đây rồi tụi mày ơi, tổ này cũng to quá!” tiếng Ninh vang lên làm cả bọn nhốn nháo chạy lại.
Một tổ ong thật, gần bằng cái rổ sề. Ong ruồi như vậy là to rồi. Không như ong mật tổ to hơn, nhiều mật hơn.
– “Phú Lôi … mày dưa dao đây”! Nam Long quát lớn.
Nó chặt một cái dứt khoát. Rồi giựt nhánh chà là chạy, ong bay ra toán loại. Nó “thao tác” nhanh quá cả bọn không phản ứng kịp. Bị ong rượt, chạy như ma đuổi, mỗi thằng một phía. Nó cũng không xác định được xuôi gió hay ngược gió. Tất cả nhảy ùm ùm xuống kênh, đứa lặn, đứa thì bơi qua bên kia bờ. Nam Long cười sặc sụa, chìa cái nhánh cây ra, cả lũ trố mắt nhìn ngơ ngác.
– “Tại sao kỳ cục vậy? Công không! Làm chạy xịt cả lốp” Nở hét lên.
– “Thì tại tổ này mới đóng, chưa có gì” giọng Nam Long nhè nhẹ trước sự thất vọng của cả đám.
– “Nghỉ mệt tí rồi đi tiếp” Trực Mập thở hổn hển ý kiến.
Phú Lôi than nhức, ran rát ở miệng. Từ đó môi của nó cứ sưng dần, to như trái chuối cơm. Nhìn nó không ai nhịn được cười. Nó không nói năng được câu nào, cứ cầm cây dao lầm lũi đi theo và súyt xoa vì nhức nhối.
Lần này thì Nam Long phát hiện ra một tổ, cũng to bằng lúc nãy nhưng nó rút kinh nghiệm. Bẻ một nhánh cây nho nhỏ, đứng trên gió, cào cào nhè nhẹ lũ ong non qua một bên, kiểm tra xem nhiều mật không? Và tránh tình trạng bị “ong hôn” như thằng Phú Lôi. Nó lấy cây dao cứa cho đến khi đứt lìa nhánh, rồi giựt phăng chạy như Marathon về đích. Phía trước các chiến hữu mỗi thằng một vị trí, sẵn sàng tăng tốc khi có “yêu cầu” từ đàn ong.
Chiến lợi phẩm này giao cho Ninh quản lý. Vì hắn tương đối thật thà, nhỏ con nhất trong đám, cho nên chắc chắn không giám buồn miệng “ăn vụng”. Vì “ăn vụng” sẽ đi chung với “ăn đòn”, Nam Long nó mà đấm cho thì chỉ có nít thở.
Xế chiều, cả nhóm thấm mệt vì nước mặn, đói vì căng sức khi bị ong rượt, lặn dưới nước… Phú Lôi là người tỏ ra mệt mỏi nhất, cái môi của nó cong lên, nhìn như cái hiên nhà. Cả nhóm ngồi lại bên một khoảng đất trống gồ ghề.
– “Thôi! chặt ngọn chà là ăn đi!”Cảnh Dế đề nghị.
– “Thằng nào chặt?” – Trịnh Tồ hỏi.
– “Mày chứ ai!” – Tiến Đen đáp không suy nghĩ.
– “Thôi đi! Vô đó cho gai đâm chết tao ạ!”.
– “Thằng Ninh, thằng Phú Lôi ở lại giữ ong. Còn lại tất cả đi chặt chà là”. Nam Long thể hiện vai trò đầu đàn.
Cả đám nhảy qua con mương, sình lún tới háng. Đi theo Nam Long.
– Rát quá tụi mày ơi! Minh ôm mớ đọt chà là ném cái phịch. Nó gãi đầu xoa chân, xoa tay. Đứa nào đứa nấy mặt mày sình đất lấm lem, chân tay chi chít trầy xước, rơm rớm máu vì bị gai chà là khứa. Bị kiến vàng cắn đầu cổ, tóc tai bù xù như người rừng.
Nam Long nhảy lò cò vì bị chà là đâm vào gót “Có ăn thì phải cực khổ chứ! Rút cái gai ra giùm tao coi”.
– “Nở rút gai cho nó kìa!” Tướng Nhật chỉ đạo.
Mỗi đứa cầm một cái ngọn chà là ăn ngon lành. Truyền tay nhau tổ ong gặm, mật tràn ra hai mép, ngọt xé cổ họng.
– “Thằng Phú Lôi bị ong hôn không được ăn mật, dính vào mật nó sưng to thêm đấy….tới ngày mốt cũng không xẹp đâu” Nam Long cảnh báo.
Cả lũ cười khanh khách, hùa theo, “Mày ăn là nghỉ học một tuần đó, đừng ăn độc lắm!”.
Phú Lôi cũng tin theo, ngồi gặm cái đọt chà là chát ngấm. Nhăn mặt, nó ném cái tủm xuống nước chịu trận. Số còn lại thì cứ cười khúc khích trong vẻ mặt đầy nghi ngờ của nó.
Nam Long đứng lên gặm miếng sáp ong cuối cùng. Ném cái cành khô vào đám sậy, hô to “Chạy tụi mày ơi!”, cả đám cười vang chạy theo. Phú Lôi không hiểu gì hết cũng chạy. Mãi sau này nó mới hiểu nó dính cú lừa, bị “ong hôn” thoa mật vào sẽ bớt sưng. Bây giờ thì muốn cho “ong hôn” cũng không tìm đâu ra mật ngọt tuổi thơ để đắp vào nữa.
LÊ VĂN TÁM



Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Nhạc - Thơ Văn - Nhỏ nhoi Hến

Quê Mẹ

Khóc Một Dòng Sông

Nghề Cào Hến Ở Miền Tây

Nỗi nhớ ngậm ngùi 

Có những giọt nước mắt,
Âm thầm rơi rơi mãi...
Và những dòng sông lặng lẽ trôi xuôi,
Sóng xa bờ thương nhớ mãi khôn nguôi 
Loay hoay tôi cứ miệt mài...
Cứ đi tìm kiếm bến vui bến buồn !
Dòng sông xưa 
Giờ xa cách cội nguồn
Sao vẫn nhớ, vẫn thương thời thơ ấu...!
Có những khúc hát âm thầm 
Tôi vẫn giấu.
Giữ trong tim và ghi nhớ ký ức xưa...
Mai sau đời lắm gió mưa,
Thì tôi vẫn nhớ tuổi thơ quê nghèo !!
NM

Nhỏ nhoi hến...

           Sông Việt Nam chỗ nào cũng có hến.
           Tôi đã từng mò hến ở sông/ mương từ Thanh Hóa đến Ninh Bình. To có nhỏ có, to thì như cái móng tay cái, nhỏ thì như con dắt, bằng đầu tăm. Mà rồi cũng luộc cũng đãi được, cũng thành món thành đĩa được.
           Nhưng đến khi về quê, làng Thế Chí Tây, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế ấy, mới biết thêm một loại hến nữa, lạ mà lại... không lạ.
           Ấy là loại hến to gần bằng con trai, cỡ nắm tay trẻ con ấy. Thời đói, hến với khoai lang là nguồn sống của cả làng. Qua những đận đói bằng khoai lang luộc ăn với canh hến. Khoai lang vùng cát, bở tơi, giờ ăn vài củ thì nó là đặc sản, chứ đói, ngày nào cũng ăn thì nó bứ ở cổ, nuốt không xuống. Nhưng lạ, cứ có tí nước hến, nó thun thút xuống, và không nóng bụng. Canh hến lại cũng nấu với... lá khoai lang. Ăn phát ớn. Hến trở thành một thứ hết sức bình dân, hết sức... không đáng nói đến.
           Thế nên có lần tôi đưa mấy ông bạn về, yêu cầu đưa ra với cô em dâu là: chỉ hến, hến và... hến. Ban đầu thì cô ấy không chịu. Lâu lâu anh đưa khách về thăm mẹ, ai lại đạm bạc rứa. Nhưng khi tôi nói, đây là yêu cầu của khách chứ không phải ý chí của anh thì được chấp thuận. Hai bao hến tổ chảng được khuân về, một phần ba là hến nhỏ, loại bình thường ấy, để nấu canh. Còn lại là hến to, một nửa hấp, một nửa bổ sống ra lấy ruột xào với thơm (dứa). Trời ạ, các bạn tôi hớn hở như lần đầu tiên được lên... vũ trụ.
           Cũng có lần ở với bạn ở khách sạn bên sông Như Ý, sáng sớm dẫn bạn ra xem... đãi hến ở ngay đập Đá. Bạn dân Thanh Hóa, đã từng sống với hến từ bé, nhưng lần đầu tiên thấy dân ở đây đãi cả thuyền hến như thế thì tròn mắt.
           Mẹ tôi dân Ninh Bình, rất giỏi chế biến món ăn từ hến, bởi thời chiến tranh, tất cả mọi nơi sơ tán đều bám vào sông. Hến là thứ sản vật sông rẻ nhất và chế biến ít tốn kém nhất.
           Hồi ấy mua hến bằng bò (lon), chỉ 2 bò là có một bữa ngon. Hến luộc lên, nhớ nâng niu nước. Bột mì (thức độn thay gạo) cán sợi ra, thả vào đấy, ruột hến xào sơ, đổ vào, thế là cả nhà có một bữa mì hến ngon lành, hoặc không ngon thì cũng qua bữa. Chủ nhật xôm hơn thì có... cơm. Nước hến được thả vào nửa quả cà chua, mấy ngọn thìa là hái ngoài vườn. Ruột xào với dọc mùng. Thứ họ khoai nước, giống hệt cây môn nhưng dai hơn. Tước vỏ xong thái nghiêng rồi bóp muối. Rửa sạch rồi xào. Rất là đưa cơm.
           Nhưng đến cơm hến thì người Huế rất tài.
           Nó là món ăn của con nhà nghèo. Chỉ là cơm nguội, hến cũng nguội, ruốc càng nguội, rau rất đạm bạc, toàn thứ rau vặt vãnh quanh vườn... để ăn khi đói, ăn cơm nguội, ăn trong ngày mưa không kiếm được thức ăn. Thế mà giờ nó là đặc sản.
           Ở Huế nổi tiếng nhất là cơm hến Trương Định. Thời chúng tôi đi học, hôm nào xủng xẻng lắm mới dám vào làm một chén cơm hến. Thường thì ăn xong một chén lại muốn chén nữa. Huế lạ. Chỉ ở Huế người ta mới có thể xơi... 2 tô bún một lúc, lại còn thêm ổ mì nữa. Bún sinh viên, lùa 2 lùa là hết. Miếng thịt mỡ to bản mỏng dính, gắp giơ lên thấy mặt người đối diện. Đưa bạn gái đi ăn bún, ăn xong hỏi: tô nữa nhé. Em e lệ khẽ gật, thế là... tô nữa, vẫn hết bay. Nên cái chuyện cơm hến làm mấy chén là thường. Và lạ, nó có thể ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều và ăn cả tối. Người chưa ăn bao giờ sẽ hơi khó ăn, bởi thứ nhất là... cay, thứ hai là hến có vị riêng của nó, như là tanh, như là ngọt lợ, nhưng lùa vào mấy đũa thì sẽ hết, bởi bao thứ gia vị đánh át nó đi. Đủ vị, từ cay chua mặn ngọt, toàn những cực mạnh, xộc vào, tan hết, ngậm nghe, như thấy cả đất trời vần vụ trong miệng.
           Thì đã bảo bất cứ sông nào cũng có hến. À nhưng mà hình như suối không có hến. Tôi chưa từng thấy hến suối bao giờ. Hến cũng không sống trong ao thì phải. Ao thì có những con quý phái hơn, cũng họ nhà hến, như trai, trùng trục vân vân. Hồi nhỏ vùng tôi ở có những con mương thủy lợi, dài hàng mấy chục cây số, có nơi gọi nông giang. Nó do con người đào, đào tay xã này nối sang xã kia, huyện này thông huyện kia. Đến mùa hạn, máy bơm bơm nước từ sông vào mương, rồi tỏa ra khắp tất cả các khu ruộng. Hệ thống miệng cống rất hiện đại và nhịp nhàng để có thể cho nước vào chỗ cần cho và rút nước chỗ cần rút. Vấn đề là, những khi máy bơm không chạy, nước chỉ còn ngang bụng, thậm chí ngang gối, là lũ trẻ con đi bắt hến. Cái xoong cột quai với chân, cứ thế lui hui thò tay bóp bùn. Vài tiếng cũng được lưng xoong. Là chơi thủ công thế, cò con thế, bắt vặt thế. Chứ còn dân chuyên nghiệp thì xịn hơn nhiều. Tôi thấy người bắt hến ở cả sông Hương và sông Mã đều giống nhau, ấy là trên những cái thuyền lớn, người ta đứng thả những cái cào lớn, cứ thế rê trên mặt bùn. Phải là những lực điền rất khỏe mới kéo được những cái cào như thế. Được bao nhiêu đổ lên thuyền, cuối ngày gom lại, bán cho mối. Cứ thế kiếm sống qua ngày.
           Giờ ở Huế người ta luộc hến cũng chuyên nghiệp. Những cái nồi/ chảo bự xư luộc mỗi lần hàng mấy chục ký hến. Rồi đãi cũng bằng những cái rổ thửa riêng bự xư. Từng gia đình thì mỗi nhà mỗi cách. Có nhà luộc xong thì vợ chồng con cái ngồi... nhặt từng con, trông giống cảnh trong sách giáo khoa xưa chủ điểm: Gia đình hạnh phúc. Vả, không phải ai cũng biết cách luộc hến, nên muốn đãi cũng khó. Luộc hến muốn cho nó róc, dễ đãi phải đợi nước thật sôi, thả ít muối vào, rồi đổ hến. Lửa thật to cho sôi bùng lên thì dùng đũa cả đánh mạnh và đều. Đa phần ruột hến sẽ bong ra từ động tác này. Rồi bắc ra ngay, đổ ra rổ hứng lấy nước, bởi nếu quá lửa hến sẽ dai, mất ngọt.
           Tóm lại là, làm sao cho cái ra cái nước ra nước sau khi luộc xong. Nhanh chậm hay có lẫn vỏ hay không là tùy tài năng từng người. Kinh hoàng nhất là con dắt xứ Thanh, chắc nó cũng tương đương con don sông Trà Quảng Ngãi, bằng cái đầu tăm, thế mà người ta cũng vẫn đãi, đâu ra đấy, hàng tạ ruột. Trông những cái thúng hoặc bao tải lặc lè đựng ruột chúng mà kinh. Kinh từ lúc bắt được từng ấy, rồi luộc, rồi đãi. Mà ngày nào cũng thế, tháng nào cũng thế, mùa nào cũng thế.
           Nước hến hạp nhất là rau lang hoặc rau muống. Và phải có mắm tôm hoặc mắm ruốc. Hứng lên có thể sốt cà chua đổ vào, chút mẻ nữa, rau thì là, ta có món khác, không phải canh rau, mùa hè ăn thì... chết cơm.
           Còn ruột hến. Đơn giản nhất là... đổ vào canh, tất nhiên là đã được ướp hoặc xào lướt qua. Muốn cho hến ra hến thì xào ruột với thơm (dứa), tất nhiên thì phải nhiều ruột. Món này nó thấm vô cùng, xúc bánh tráng, rượu kèm thì cứ thùn thụt đi trong ruột. Nó bình dân một cách cao cả (vì rất rẻ) nhưng cũng sang trọng một cách tử tế (vì quá ngon). Tất nhiên là đây đang nói loại hến bình thường, loại như móng tay ấy. Còn thứ hến to như nắm tay trẻ con quê tôi, quả thật ăn nó rất đã, rất hào sảng, vì to vì nhiều. Nhưng quả là cái độ tinh tế, độ vang vọng, độ dư ba, độ quyến luyến, độ ấm áp, độ vòng vo, độ đủ đầy, thấm tháp... thì nó thua hến nhỏ.
           Cùng họ với hến là trai, trùng trục... tôi nhắc ở trên. Ngày xưa ốm, mẹ nấu cho bát cháo trai, ăn xong toát hết mồ hôi là... khỏi ốm. Tất nhiên vị thuốc hiệu nghiệm nhất để khỏi ốm ngay tắp lự vẫn là... phở. Phở ngày xưa quý như... cháo trai bây giờ. Món này phổ biến ở phía Bắc, trong nam ít dùng. Trong Nam trai ít và dai hơn, ít thấy bán và cũng không thấy nhà hàng nào giới thiệu có bán. Ra Hà Nội, hôm nào quá chén tí, cơ thể ỏng ương, mồm miệng lơ ngơ, tôi hay chui vào mấy quán cháo trai ven hồ Tây, làm một bát tướng với mấy cái quẩy, lại tươi như... hến ngay. Trùng trục lại còn hiếm hơn trai. Con này mà nấu cháo thì trai phải e lệ nép vào góc ngay.
           Giờ tràn ngập các nhà hàng là họ nghêu sò sìa ốc... nước mặn hoặc lợ. Từ nghêu hấp xả đến sò huyết than hoa, từ nướng mỡ hành đến nhúng tái. Những con hến sông bình dị cứ sống đời bình dị, không, hoặc chính xác là ít, được vào nhà hàng. Nhưng bù lại, nó làm nên một thương hiệu cơm hến Huế. Nhưng so với món đồng hương với nó là bún bò thì có vẻ lép vế hơn nhiều. Chả cứ trong nước, mà sang ngay cả Mỹ, cũng vẫn cứ nồng nàn bún Huế, dù cũng chưa ai đo thử xem nó còn bao nhiêu phần trăm Huế. Nó cũng như Quảng Nam có 2 món danh bất hư truyền là mì Quảng và Cao Lầu. Nhưng rồi mì Quảng thì đã “vượt biên” khỏi xứ Quảng, có mặt ở khắp hang cùng ngõ hẻm cả nước, trong khi anh cao lầu thì vẫn quyến luyến quê hương, quyết không rời xa quê cha đất tổ, ở lại giữ bàn thờ cho mì Quảng tung tăng. Cơm hến, nói cho công bằng, cũng có xuất ngoại, nhưng nó không rầm rộ hân hoan tở mở tưng bừng như bún, có lẽ bởi cái tinh tế và kén vật liệu của nó. Chả thế mà phải có nguyên một cái cồn là cồn Hến. Nghe nói bảo cứ phải hến ở loanh quanh cồn ấy mới ngon. Rồi các loại gia vị khác. Thà nó to như cái chân giò, nhiều như thịt bò, rau sống, bún. Đây nó lắt nhắt, mỗi thứ một tí, mà lại phải rất nhiều thứ, thế thì làm sao kiếm đủ, mà có cố kiếm cho đủ thì giá thành lại rất cao, dù nó là những thứ hết sức bình thường. Bình thường đến tầm thường. Nhưng chính vì thế mà nó hiếm. Giờ cái gì hiếm thì đều quý. Tất cả các món ăn bình dân một thời giờ đều thành đặc sản. Từ ngọn rau lang sông Lô đến con cá rô đầm Sét, từ ngồng cải sông Hồng đến rau má xứ Thanh huyền thoại, từ trái cà Nghệ đến lọ tương Nam Định, thậm chí là rêu đá Ninh Bình, rau dớn Tây Nguyên mà thời chiến tranh bộ đội Trường Sơn nhìn thấy là rùng mình. 
           Giờ nếu ra Hà Nội, làm gì thì làm, ăn gì thì ăn, cao lương mĩ vị đến vỉa hè mặc kệ, có 2 món tôi không thể không “thời” bằng được trước khi về: Cơm nắm và bánh đúc. Bánh đúc thì đã vào nhà hàng, cơm nắm thì chưa, mua vỉa hè. Có hôm tôi làm chục nắm vào giữa phòng chờ sân bay Nội Bài dở ra ăn và phát cho bạn cùng ăn. Còn Huế, tất nhiên là ít nhất một cuộc cơm hến đến no kễnh ra rồi mới chịu đi. Còn thì, đi chợ mà thấy bán hến, bao giờ tôi cũng sà vào, làm mấy cân, tự tay làm từ đầu đến lúc... lên mâm. Đừng dại mua hến làm sẵn trong siêu thị, nó dai ngoách, chả còn tí ngọt nào...
           Nhỏ nhoi mà vọng vang, là Hến.
Văn Công Hùng
 Nhớ thương
Thương con sông nhỏ muôn trùng,
Cách xa viễn xứ mịt mùng cố hương..
Tấm lòng của kẻ tha phương,
Thiết tha thương nhớ cội nguồn chốn xưa
Ôi sao biết nói cho vừa,
Nhớ ngôi làng nhỏ dưới mưa đợi chờ...
Sông xưa dẫu cạn bây giờ,
Lòng tôi vẫn mãi bên bờ quạnh hiu !!
NM

Hồ Isabella lake nơi nghỉ ngơi cuối tuần của các gia đình yêu thiên nhiên
 Hồ Isabella lake nơi nghỉ ngơi cuối tuần của các gia đình yêu thiên nhiên
Bắt Hến Ở Hồ Isabella
Chừng hai tuần sau khi gia đình chúng tôi đến Hoa Kỳ và nhập cư ở thành phố này, Chung đến thăm. Trước anh một tuần thì có ông mục sư Tuế. Ông này mang cho một số thịt đông lạnh gói trong lớp giấy bọc màu vàng xỉn. Mẹ tôi đem bỏ hết vào tủ lạnh, và phải đến hơn một tuần sau chúng tôi mới khám phá ra mớ thực phẩm cao cấp này đã hết hạn cả năm về trước.
Mẹ tôi mang vất thùng rác một cách tiếc nuối, nhất định bà còn chưa quên những rổ cá ươn thối cả khu phố giành giật nhau ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh đầu con hẽm nhà chúng tôi ở Sài Gòn. “Mô Phật, đừng có nói hành người ta tội nghiệp. Người ta có lòng đem cho mình mà các con.” Tất nhiên là tôi không nói gì. Mấy cái chuyện đó đã có vợ tôi và mấy cô em gái lo liệu.
    Chung đến không mang theo gói thịt cá đông lạnh nào hết. Nhưng anh có một thùng đồ nghề để trong chiếc pickup [1] màu xám của mình. Chung đi một vòng căn apartment hai phòng đầy nghẹt người và trống hoang tất cả những thứ khác, săm soi từng lỗ cắm điện, mấy vòi nước trong nhà tắm, cái bếp ga, và cái tủ lạnh mới toanh cô em gái sang Mỹ đã lâu mua cho gia đình. Cả nhà xúm lại quan sát từng cử chỉ của Chung và luôn luôn có một ai đó sẵn sàng trả lời một cách mau mắn những câu hỏi của anh. Lần viếng thăm đầu tiên của Chung đủ làm cho mẹ tôi mê anh tít thò lò. “Ôi cái thằng sao mà tử tế!” Vợ tôi nhìn cô em chồng độc thân cười cười, “Người ta có vợ hai con rồi đó mẹ à.” Cô em phát cáu, “Cái đồ thằng cha đen thui đen thủi ai mà thèm!” Mẹ tôi chấm dứt cuộc thảo luận bằng một câu tục ngữ rất chi là bóng bẫy, “Đúng là bồ hóng chê lọ nghẹ!”
    Chung và tôi làm thân với nhau rất nhanh. Ở tuần thứ ba của quãng đời tị nạn, tôi tìm được một việc làm khiêm tốn ở một tiệm ăn do người bản xứ làm chủ. Tôi sẽ tiếp tục có những công việc khiêm tốn như thế trong những năm về sau. Vào những ngày nghỉ, Chung gọi điện thoại mời tôi đến chơi, thường là vào buổi tối. Ở đó chúng tôi ngồi ở chiếc bàn ăn trong căn bếp uống bia và nói chuyện người chuyện mình. Vợ anh chẳng khi nào tham dự vào những buổi nói chuyện như vậy. Chị không biết tiếng Việt. Chị trả lời chồng với cái giọng mềm và hơi kéo dài của người miền Nam Hoa Kỳ. Đó là một người đàn bà Mỹ tầm thước, chị cao hơn Chung nửa cái đầu, và ít lời. Khuôn mặt tròn lốm đốm tàn nhang mang vẻ bình yên một cách buồn bã, hoặc buồn bã một cách bình yên, như thể hai điều này cần thiết phải đi chung với nhau. Về sau tôi biết được rằng Chung đã làm việc cực nhọc mấy năm ròng để chị có cơ hội hoàn tất chương trình y tá ở ngôi trường Đại Học nằm ở phía Tây của thành phố chúng tôi đang cư ngụ. Chung tiếp tục làm việc cực nhọc như thế sau khi người vợ Mỹ ra trường và tìm được việc làm. Chung làm thợ tiện, và xem ra anh hài lòng với công việc của mình. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hề biết gì về đoạn mở đầu của cuộc hôn nhân giữa cô gái người Mỹ và anh cựu binh thiết giáp Việt Nam. Chung chưa bao giờ kể và tôi chưa bao giờ hỏi.
    Thành phố tôi ở nằm lọt thỏm trong một thung lũng bằng phẳng kéo dài hàng trăm dặm. Từ thành phố, đi về hướng nào cũng gặp phải những cánh đồng ngút mắt, và xa hơn nữa là trùng trùng lớp lớp những núi và núi. Thỉnh thoảng Chung đưa tôi đến những cánh đồng vừa mới thu hoạch xong. Ở đó chúng tôi đi lom khom dọc những luống đất thẳng băng tìm mót tỏi, hành củ, hoặc khoai tây còn sót lại. Những chiếc bao nhựa lấy từ siêu thị Safeway hay Von’s sẽ nhanh chóng đầy lên với mớ nông phẩm và được buộc lại kỹ càng trước khi vất vào thùng chiếc pickup màu xám. Chúng tôi cười nói vui vẻ trên đường về, mặc kệ tay chân mặt mũi lấm lem bụi đất. Vào những dịp này, Chung thường nhắc lại những lần đi mót khoai mót đậu ngày còn nhỏ. Những mầm khoai lang màu đỏ tím không lớn hơn ngón tay út được phủi sơ đất cát và bỏ vào miệng nhai rau ráu. “Ngọt lịm, ông ơi!” Trong một số năm tháng sau đó, chúng tôi vẫn thường đi chung với nhau trong những chuyến “gặt hái” như vậy, có khi chỉ có hai người, có khi với một số bạn bè người Việt trong cùng thành phố. Vợ con của Chung không bao giờ hiện diện trong những chuyến đi như vậy. “Chúng nó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ mất thì giờ.” Chung thường bảo vậy mỗi khi có ai đề cập đến việc này.
    Một hôm Chung gọi điện thoại, giọng hào hứng. “Ông qua đây, tôi có cái này hay lắm.” Khi tôi đến nơi, chỉ có mỗi một mình Chung đang loay hoay ở nhà bếp. Chắc là vợ con anh đã đi chơi hay mua sắm gì đó rồi. Chung đang nướng mấy cái bánh tráng trên cái bếp điện. “Cái hay lắm” thơm nức mùi hành mùi sả đang bốc hơi nghi ngút trong chiếc đĩa sứ lớn đặt trên bàn ăn. Thì ra là nghêu xào. “Nghêu ở đâu mà nhỏ xíu vậy?” Tôi hỏi. “Không phải nghêu, hến đó.” Chung trả lời, giọng chắc nịch. Tôi không biết là quanh đây có hến. Những con hến nhỏ bằng móng tay cái, vỏ màu xanh rêu mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn mua về nấu canh mồng tơi. Đã lâu lắm rồi tôi không còn được ăn canh hến nấu với mồng tơi. Không có mồng tơi, và nhất là không có hến ở quanh đây. Tôi cúi nhìn mấy cái vỏ hến đen xỉn cỡ ngón tay cái của mình và đâm ra nghi ngờ. Đây là những con baby clams![2] “Anh tìm chúng ở đâu vậy?” “Ở một cái hồ trên núi. Hôm nào mình đi nhé.” Chung trả lời, vẫn với cái giọng chắc nịch.
    Bỏ lại phía sau lưng những cánh đồng trồng cây ăn trái, xa lộ 178 sẽ ôm sát thượng nguồn sông Kern, the killer river,[3] như người bản xứ vẫn gọi. Bắt đầu từ nơi đây, xa lộ 178 biến thành một đường đèo hiểm trở. Con đường hẹp lại, hai lối đi ngược chiều nhau chạy vòng vèo giữa một bên là vách núi dựng dứng và phía bên kia là bờ vực chênh vênh nhìn xuống giòng nước sôi sục của sông Kern ba trăm bộ phía dưới. Dọc hai bên đường, chừng vài dặm lại có một khoảng trống nhỏ đục sâu vào vách núi hoặc nằm chơi vơi bên gành đá để xe hỏng máy hoặc chạy chậm ghé vào nhường chỗ cho những xe phía sau. Những nơi này được gọi là turnouts. Ở mãi trên đỉnh đèo, nơi con đường chấm dứt, là một chiếc hồ thực lớn. Hồ Isabella nguyên là một cái lũng thiên nhiên nằm giữa những hòn núi cao, nước từ những cơn mưa và từ những khối tuyết tan vào mùa Xuân đổ xuống đây trước khi hòa nhập vào thượng nguồn sông Kern và biến nó thành một giòng thác khổng lồ. Mặt phía Nam được chặn lại bởi một con đê bằng bê tông cốt sắt cao sừng sững như một dãy núi bị phạt ngang. Ngoại trừ cửa đập, hai bên bờ dốc thoai thoải của con đê được phủ đầy bởi những tảng đá lớn từ đó mọc lên những bụi cây nhỏ cằn cỗi. Hồ rộng mênh mông, một con đường trải đá chạy vòng vèo ôm lấy bờ hồ. Vào cuối tuần, thiên hạ từ những thành phố xa gần kéo đến cắm trại, câu cá, trượt nước làm khu hồ náo nhiệt hẳn lên. Chính là ở hồ Isabella này Chung và tôi đã đến nhiều lần để bắt hến. Nơi chúng tôi dừng lại khá vắng vẻ. Mang theo một chiếc cào sắt nhỏ và một bao cát, chúng tôi lội ra chỗ nước ngang thắt lưng, cào xới sục sạo dưới lớp bùn đen lẫn cát của đáy hồ tìm bắt những con nghêu nhỏ. Lũ nghêu sinh sôi nẩy nở khá nhiều nên công việc không mấy khó khăn. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, bốn bao cát mang theo đã đầy cứng những con nghêu nhỏ đen thui thủi. Chung vất chúng vào thùng xe, và chúng tôi ra về hân hoan. Xe xuống đèo, bờ vực phía tôi ngồi thỉnh thoảng biến mất trong tầm mắt ở những khúc quanh hiểm nghèo làm tôi thót ruột. Thực sâu phía dưới, dòng sông Kern quằn quại gào thét giữa hai bờ vực dốc đứng. Chung hoàn toàn không để ý đến vẻ bứt rứt của tôi. Thỉnh thoảng anh rời mắt khỏi con đường vòng vèo trước mặt, nhìn vào kính chiếu hậu. Tôi đoán Chung đang bận tâm đến những con baby clams mà anh nhất định gọi là “hến” trong những cái bao cát trong thùng chiếc pickup.
    Chung thường kể đi kể lại không mệt mỏi những lần đi bắt hến ở sông Cái. Con sông đào bên tả ngạn cướp đi dòng thủy lưu, sông Cái ngày mỗi cạn dần, có nơi lòng sông trơ ra toàn cát. Những con hến nhỏ bằng móng tay có lớp vỏ màu xanh rêu sống ở những quãng vắng, nơi nước chỉ đến thắt lưng. Chung sinh ra ở miền Trung. Con nhà nghèo. Cha mất sớm, mẹ vất vả một đời. Những mầm rễ khoai lang màu đỏ tím bám đầy đất cát, những gié lúa hiếm hoi rơi vãi trên cánh đồng mới gặt, những con hến nhỏ màu xanh rêu ở quãng sông cạn theo đuổi Chung suốt những tháng năm tuổi nhỏ. “Có khi bắt được cả chem chép. Tôi luôn luôn cạy vỏ chúng ra để tìm ngọc trai!” Tôi phá lên cười, làm gì có ngọc trai trong chem chép, hoặc ngay cả trong những con sò huyết đắt tiền. “Hồi đó mình còn nhỏ, ngu lắm. Cứ nghĩ đến truyện Trọng Thủy Mỵ Châu.”
    Cái đất nước nghèo xác của chúng tôi có nhiều huyền thoại. Gần như ai cũng biết chuyện Trọng Thủy được cha, vua nước Triệu, gởi đến triều đình vua Thục để ăn cắp chiếc nỏ thần đã nhiều lần chặn đứng những đợt tấn công của ông ta trước đây. Ông hoàng Trọng Thủy thành hôn cùng công chúa Mỵ Châu và cả hai nhất định đã có hạnh phúc với nhau, ít nhất cho đến khi Trọng Thủy đánh tráo được chiếc nỏ thần và kiếm cớ về nước. “Nếu có chuyện gì xảy ra và em phải rời bỏ kinh thành, hãy để lại dấu tích cho anh tìm em.” Ôm chiếc gối nhồi lông chim vào lòng, Mỵ Châu trả lời, “Anh đi theo con đường lông ngỗng thì sẽ tìm thấy em.” Cuộc tấn công sau đó của quân nhà Triệu xảy đến bất ngờ như cơn lốc. Vứt chiếc nỏ vô dụng, vua Thục kéo con gái lên lưng ngựa phóng ra khỏi kinh thành Cổ Loa đang bốc cháy ngùn ngụt. Trong lúc hối hả, công chúa Mỵ Châu chỉ mang theo được có mỗi chiếc gối nhồi lông ngỗng trên đó mỗi đêm nàng vẫn tựa đầu và nghĩ về những ngày tháng hạnh phúc với chồng. Những chiếc lông ngỗng trắng mềm mại từ chiếc gối được tung ra dọc con đường đào vong. Vua Thục dừng ngựa ở chiếc hồ đổ vào biển. Hồ lớn quá, không thể vượt qua, và tiếng vó ngựa của lính nhà Triệu vọng đến từ phía sau. Nhà vua quay đầu lại chính vào lúc chiếc lông chim cuối cùng từ tay công chúa Mỵ Châu rơi xuống đất. Con đường lông ngỗng đã hoàn tất nhiệm vụ đưa đường cho kẻ thù tìm đến. Vua Thục tuốt gươm ra. Mỵ Châu ngã xuống cạnh bờ nước, máu từ cơ thể nàng chảy vào chiếc hồ lớn. Những con trai trong hồ sẽ ấp ủ những giọt máu của Mỵ Châu trong lớp ngọc trắng óng ánh tiết ra từ cơ thể của chúng. Đó là chuyện về sau, rất lâu sau khi Trọng Thủy tìm đến nơi. Mọi sự đã quá trễ. Kẻ phản bội luôn luôn xuất hiện quá trễ nhưng hình phạt có khi đến rất sớm. Người ta nói rằng ngọc trai ở chiếc hồ lớn sẽ lóng lánh hơn, đẹp đẽ hơn nếu được chùi rửa bởi nước lấy từ cái giếng ở thành Cổ Loa nơi Trọng Thủy đã nhảy xuống trầm mình. Có khi quyết định của ông-hoàng-điệp-viên đến từ niềm ân hận không thể chịu đựng nổi hoặc từ nỗi nhớ thương người vợ quá cố hoặc từ cả hai. Những viên ngọc trai được mang qua bên Tàu, ở đó những ông hoàng bà chúa sẽ gắn chúng lên bộ xiêm y lộng lẫy của mình trước khi đến tham dự buổi dạ tiệc của triều đình. Không có viên ngọc trai nào dành cho đứa bé bắt hến ở con sông chảy qua ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung nước Việt.
    Tôi tiếp tục đi bắt hến và lượm nông sản cùng với Chung một thời gian. Đến một lúc nào đó, đời sống bỗng trở nên bận rộn. Có nhiều điều bức thiết hơn những con baby clams ở chiếc hồ nhân tạo trên núi. Công ăn việc làm, những nhu cầu và những vấn đề mới trong đời sống hôn nhân đòi hỏi nhiều thì giờ và công sức để giải quyết. Khi tôi từ chối lời rủ rê đi lượm tỏi của Chung, anh không giấu được vẻ thất vọng. “Không có ai khác đi cùng anh sao?” Tôi hỏi. “Mấy người đó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ tốn thì giờ hơn.” Những lần đi cùng Chung bắt hến ở hồ Isabella ngày càng thưa ra, và sau đó tôi ngưng hẳn. Những bất đồng ý kiến giữa vợ chồng chúng tôi xem ra không còn có thể hoá giải được nữa. Chúng tôi sau cùng quyết định sẽ tự mình thử giải quyết vấn đề theo cách riêng của mỗi người. Và chúng tôi chia tay, mang theo với mình nguyên vẹn những nan đề chưa có lời giải cộng thêm nỗi phiền muộn đến từ sự thất bại của chính mình. Về sau Chung thỉnh thoảng ghé thăm căn apartment nhỏ xíu của tôi, mang theo những nhánh tỏi còn bám đầy đất cát hoặc những con hến có lớp vỏ đen xỉn mà anh tìm bắt được trong những chuyến đi lẻ loi. Có vẻ như vợ con anh và những người bạn Việt Nam trong vùng chỉ thích dùng tỏi mua ở siêu thị. Ngay cả đĩa hến xào hành sả thơm phức và những cái bánh tráng dòn rụm sẽ trở nên nhạt nhẽo khi phải ngồi ăn một mình.
    Chính là nhờ vào bản tin buổi tối phát vào lúc mười một giờ đêm của một đài truyền hình địa phương mà tôi biết được cái tai nạn trên đèo 178. Chiếc pickup màu xám rơi xuống bờ vực lởm chởm đá và chìm nghỉm trong giòng nước xoáy của sông Kern, mang theo những bao cát chứa đầy những con nghêu nhỏ màu xám đen. “Mọi sự đã quá trễ khi người tài xế của chiếc xe tải hạng nặng nhìn thấy người đàn ông đang lúi húi phía sau chiếc xe của mình. Nạn nhân và chiếc pickup màu xám được gởi qua bờ vực, rơi xuống dòng sông Kern ba trăm bộ phía dưới, và tức khắc bị dòng nước hung hãn cuốn đi hàng dặm về phía hạ lưu. Tất cả những gì còn lại một vệt dài những con nghêu nhỏ vỡ nát nhầy nhụa dưới bánh xe của chiếc xe tải hạng nặng.” Ống kính máy thu hình bây giờ chuyển xuống mặt đường nhựa, và tôi có thể thấy chiếc vỏ nát nhừ của những con nghêu nhỏ. Không có một lời nào về những chiếc bao cát đã rơi xuống lòng sông cùng lúc với chiếc pickup màu xám và người đàn ông xấu số. “Người ta sẽ không bao giờ biết được điều gì đã khiến người đàn ông dừng xe một cách bất cẩn ở đàng sau khúc quanh nguy hiểm bên cạnh bờ vực cheo leo ở thượng nguồn con sông Kern hung hãn.” Người phóng viên của đài truyền hình đã chấm dứt buổi tường thuật như vậy. Tôi có chỗ không đồng ý với nhận định này của ông ta. Tôi cho rằng mình có thể hiểu được phần nào những gì đã xảy ra. Tấm chắn phía sau chiếc pickup màu xám đã bung ra vì một lý do nào đó và những con nghêu nhỏ từ một trong những chiếc bao cát đã tuôn xuống dọc con đèo 178 quanh co lồi lõm. Tôi có thể hình dung ngay tức khắc Chung đang hấp tấp dừng xe bên cạnh bờ vực dốc đứng và lui cui đóng lại tấm chắn. Có khi anh còn mò mẫm trong cái chập choạng của hoàng hôn để thu lượm những con nghêu nhỏ rơi vãi trong lòng xe và có lẽ ngay cả trên mặt đường. Người phóng viên bản xứ sẽ không bao giờ hiểu được vì sao người ta có thể trở nên bất cẩn cùng cực chỉ vì những con nghêu nhỏ vô giá trị như thế. Dù sao thì ông ta cũng đã nhắc đến “con đường xác hến,” a trail of smashed baby clams. Quê hương tôi không có huyền thoại nào về hến. Những viên ngọc trai màu trắng bóng ngời đến từ những hạt máu của nàng Mỵ Châu vẫn được các ông hoàng bà chúa mang lên người trong những dạ tiệc sang trọng không có chút liên quan nào đến loài hến hèn mọn, ở quê hương tôi hay trên đất Mỹ. Những con hến đen đủi trong mấy chiếc bao cát hoặc sẽ va vào vách đá lởm chởm của sông Kern và vỡ nát hoặc sẽ rơi tỏm vào giòng nước hung hãn và nhanh chóng bị cuốn về mạn dưới. Một hành trình gian khổ cho những con hến tội nghiệp. Một số sẽ kẹt lại dưới lớp đá ngầm, một số khác sẽ bị bắn tung khỏi mặt nước, nằm phơi mình trên đá sỏi làm mồi cho lũ chim và những con rái cá háu ăn. Những con nghêu nhỏ may mắn còn lại sẽ trôi mãi về miệt hạ lưu, ở đó dòng nước chậm lại và đổ vào một chiếc hồ rộng.
    Chung quanh hồ là những cây thông, cây bồ đề, cây khuynh diệp tỏa bóng mát lên dãy bàn ghế bằng hợp kim nhôm sơn màu xám nhạt. Vào những ngày cuối tuần, người ta kéo đến và bày thức ăn lên những chiếc bàn dài, tụm lại ăn uống nói cười vui vẻ, mắt thỉnh thoảng nhìn xuống hồ trông chừng đám trẻ nhỏ đang bơi lội, đùa giỡn ở thềm nước cạn. Tôi cũng sẽ đến đó, ngồi một mình ở chiếc ghế đá cạnh bờ hồ, nhấm nháp miếng khoai tây chiên mỏng dính, mắt không rời những đứa con gái nhỏ xinh đẹp trong bộ đồ tắm sặc sỡ đang rượt đuổi những con ngỗng ngờ nghệch trên bờ cát. Rượt đuổi chán, chúng sẽ chạy ùa xuống hồ, đắm mình trong làn nước mát. Thỉnh thoảng chúng chúi xuống sâu trong nước, mò mẫm tìm kiếm. Có khi là một viên sỏi chẳng ra hình dạng gì hết, có khi chỉ là một cọng rong xanh thẩm. Cuối cùng rồi chúng cũng tìm được vật tôi muốn chúng tìm thấy. Cả bọn sẽ chạy ùa lên bao vây lấy tôi, miệng liến thoắng giành nhau nói. “Ba có biết tụi con đã tìm thấy cái gì không?” Tất nhiên là tôi biết chứ, daddy knows everything![4] “Một con cá vàng,” tôi trả lời. Cả bọn phá ra cười, “Không có cá vàng trong hồ này, cá vàng chỉ ở trong những cái chậu bằng kiếng ở nhà hàng Tàu mà thôi, ba không biết hay sao?” Một đứa trong bọn sẽ nhắc nhở tôi như vậy. Và đứa kia sẽ xòe bàn tay nhỏ xíu của nó ra một cách thận trọng. “A baby clam!” Chúng đồng loạt hét lên. Tôi sẽ cầm lấy con nghêu nhỏ trong tay ngắm nghía một lúc rồi cải chính. “Không phải, đây là con hến.” Những cặp môi nhỏ hồng hào sẽ mở ra, cong lên, uốn éo, và từ đó phát ra những tiếng “hến” tròn trịa, trong vắt như tiếng sáo. Rồi chúng lại phá lên cười. Kéo chúng vào lòng, tôi sẽ xoay mình về hướng Đông Nam, nơi có rặng núi cao màu xanh nằm phơi mình dưới nắng chiều. Và xuống giọng thật thấp như thể đang nói về một điều gì vô cùng bí mật, tôi sẽ kể chúng nghe cuộc hành trình của con hến nhỏ trong lòng bàn tay mình, bắt đầu không phải từ đỉnh núi cao ngất trên kia, nơi có chiếc hồ nhân tạo mang tên Isabella, không phải từ cái bờ vực dốc đứng nhìn xuống dòng sông Kern hung bạo ở ba trăm bộ phía dưới, mà từ một ngôi làng nhỏ bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi dòng sông chảy qua sẽ cạn dần theo ngày tháng.
Phùng Nguyễn
tháng 4, 2000 
 
Hến làng thuở ấy
Trước khi viết về con hến, thiết nghĩ cũng nên tào lao mấy chuyện về mấy loài nhuyễn thể dưới đáy sông.
Hến làng thuở ấy
Minh họa: Nhím
Trước năm tám tuổi, khi còn ở phố, tôi chỉ biết có loài hến. Mạ đi chợ về, đổ hến ra cái thau, hến nằm ngổn ngang màu vàng vàng đen đen, tròn tròn, to bằng ngón tay cái. Ngâm một buổi thì những con hến thè cái lưỡi màu sáng xanh ra ngoài, như nếm thử cái thứ nước trong thau có uống được không, mà cũng có thể là nó đang thở. Những cái lưỡi mảnh mai ấy, có thể xem miệt mài không dứt, như thể chúng đang vẽ những bức tranh bí mật. Nhiều khi tò mò, tôi thò cả ngón tay chạm vào cái lưỡi mảnh mai ấy, lũ hến lập tức rụt cổ, khép chặt miệng lại… Cũng nhiều khi tôi thử nhưng cũng có những con không chịu khép, phải đứng dậy giơ chân đá cái thau một phát, chúng mới chịu khép miệng lại, như thể vừa có một trận động đất mù khơi…
Nhưng sau tám tuổi, sau 1975, cả nhà tôi rời phố về làng, chiều chiều tôi đi theo lũ bạn chăn trâu, mới biết trong bãi trâu nẹp tắm táp buổi chiều, có thêm một loài nhuyễn thể rất lớn, lớn có khi bằng cả bàn tay con nít, đó là con bọp bọp. Thuở ấy không ai ăn bọp bọp, vì thế chúng sinh sôi rất nhiều, cứ dẫm chân xuống bùn là bắt được. Từng chiều lẽo đẽo đi theo đuôi trâu dưới bãi sông, tôi bắt được hàng chục con, hình dài dài, màu đen đen. Vỏ ngoài xù xì xấu xí tàn tệ, nhưng tách đôi thân chúng ra, bên trong lại óng ánh long lanh mang một thế giới sắc màu khác hẳn. Như thể nó đang vẽ một bức tranh lạ lùng, hay tạo hóa bí mật giao bức tranh kỳ lạ cho chúng cất giữ.
Vài năm sau lớn lên, tôi đã thử tìm dọc bờ sông, nhưng không hề thấy chúng ở đâu khác, cơ hồ như cả con sông, chỉ có bãi trâu nẹp từng chiều mới có loài bọp bọp ấy. Có lẽ ở bến trâu mẹp ấy, mới có loài bọp bọp, và chúng đã ăn bùn phân trâu mà lớn.
Cũng từ khi biết đến nhà hàng ở phố, lại biết thêm loài nhuyễn thể có tên là trìa, trìa hấp sả, trìa nướng, trìa xáo rau răm, trìa nấu canh kiểu Thái Lan… Độ nhậu nào tôi cũng thích gọi món trìa, thơm tho mùi sả chanh, húp muỗng nước thấy lòng dạ nở nang như chính con trìa nó hiểu được thấu ruột gan mình. Rồi là bao nhiêu thứ sò, sò lụa, sò lông, sò huyết… Ăn sò, đừng dại đổ tất tật vào nồi. Cứ lấy một cái xoong đặt lên bếp lửa, cho chai bia vào, thêm ít ớt gừng tỏi, ăn con nào nhúng vào nước sôi con ấy, chín vừa tới gắp ra, ăn ngọt và nóng bỏng lưỡi, hết cuộc nhậu nhiều khi vẫn còn vài con sò sống trên dĩa, mà miệng mồm đã ca hát tung trời…
Nhưng vì sao lại là hến ám ảnh chứ không là những loài hai mảnh đắt tiền khác? Không phải vì Huế có món cơm hến được coi là món ăn dưỡng sinh số một rau nhiều thịt ít, đến mức nó đã được làm khô như mì ăn liền, gọi là cơm hến ăn liền. Cơm hến ăn ngon chủ yếu nhờ cái nước ngọt lừ, cơm hến ăn liền dù cố công lọc ruốt nhiều chi đi nữa, cũng nhạt thếch vô hồi, như là thứ để người xa Huế có chút hương vị để đỡ nhớ quê xưa…
Nhắc đến hến vì như thể nó đã di cư vào trí óc tôi và nhiều người trong làng, nằm lì ở đó, lập khu tự trị, từ những ngày ấu thơ. Đơn giản bởi hến là loài cứu đói. Những năm làng đói, trước sau 1980, mấy nghìn cái miệng háu đói của làng nằm trên những thân xác xơ rơ, như thể giơ cả xương ra nắng mặt trời, lòi hết cả sắc màu tím tái trong mưa lạnh mùa đông. Mấy nghìn cái miệng ăn hết cả đồng lúa vặt vẹo, ăn hết cả đồng khoai đồng sắn, ăn hết cả bao nhiêu rặng măng tre, ăn hết cả rau dại, củ chuối, bắp ngô xay hạt cứng hầm đến ba ngày ba đêm không nhừ... Kể lúa bắp khoai sắn cho nhiều, chứ hồi đó làm hợp tác xã, làm tập đoàn, hết mùa là hết lúa hết bắp, lấy đâu ra mà ăn. Thuở đó trong cơn đói, làng ăn như một cơn lốc, đi tới đâu sạch sành sanh thức ăn đến đó. Đến mức tới bữa ăn, chỉ còn một nồi nước sôi lõng bõng, rau tập tàng xắt nhuyễn thả vào, rồi rưới bột sắn vào khuấy lên, nhà có điều kiện còn thêm tí ruốt tí mỡ cho thơm, nhà con đông nghèo kiết xác chỉ việc vậy thôi, dắt xoong xuống bếp, cả chục cái mông kê đòn tre lết lại ngồi quanh, giơ chén chờ người phụ nữ đảm đang múc lưng bát mà húp xì xà xì xoạch… Nhớ lại những cảnh này, không khi nào tôi không khóc, người bồn chồn đứng lên ngồi xuống như mình vừa xem xong cuốn phim chưa bao giờ thấy chiếu trên màn hình, mà đạo diễn đã vứt nó đi đâu.
Một hè nọ, ăn sạch sành sanh các thứ, mấy nghìn cái miệng trong làng ngơ ngác. Chợt một người nhớ ra, dưới sông có hến rất nhiều, cả một mỏ hến âm thầm nằm ở đáy sông chưa được khai quật. Thế là nhà nhà mang rổ rá xuống sông lặn hụp. Hít một hơi lặn xuống, dí vành rổ vào đáy sông, lùa bùn vào, bưng cả cái rổ bùn lên đảo sách, trơ ra những con hến nón hến tra, đổ cả lũ vào thau vào nồi. Sông Bồ dạo ấy trong vắt, từng sáng từng chiều bỗng đục ngầu vì người ta thi nhau lặn hến. Nhiều khi chỉ lặn có một tiếng đồng hồ, thằng con nít mười hai tuổi như tôi mà cũng lấy được một thau hến đầy. Không chỉ đàn ông, đàn bà cũng đi lặn hến, nước sông đánh lật cả mấy tà áo và đám tóc dài xõa lòa xòa dưới sông như rong cỏ nước lùa…
Hến đem về nấu canh rau muống, canh dưa chuối, xào rau bí, xào môn, xào mướp đắng mướp ngọt… Qua ngày qua ngày qua ngày. Làng như tươi lại, mấy cái miệng câm nín như hến bỗng nhiên nở được nụ cười tưởng đã bị nỗi sầu ảm đạm cơm áo cuốn đi. Thức ăn từ đó cơ hồ cái gì cũng cho hến vào. Nhưng ngon nhất có lẽ món cháo hến nấu sắn. Sắn củ vừa nhổ xong, lấy bàn mài mài thành sợi, rồi nấu cháo hến như nấu cháo hến với gạo, xắt thêm mấy cọng lá sân, lá lốt, có hành ngò là thành món ngon vĩ đại. Thơm nưng nức, thơm nở nang, thơm như ai nông cả cái mũi mình ra để mà thốc cái mùi thơm vào, tha hồ hít hà. Sắn thường khi ăn nghẹn đến mấy tầng mây, giờ trôi vào cổ họng như uống cốc nước chanh mùa hè, có khi còn hơn thế nữa…
Mười bốn tuổi tôi xa làng lên phố, tưởng xa được cái đói, ai ngờ bếp ăn học sinh trường chuyên còn đói hơn, bữa ăn toàn sắn lát khô cứng ngắc hầm cả tấn than đá cũng không chịu mềm cho, phải vứt hết ra bàn ăn mà liếm mấy hạt cơm, người thắt lại như sợi dây, đau ốm dặt dẹo, vậy là lại về làng, rau cỏ sang ngày mà vẫn hồi sức, chắc chắn là nhờ có hến.
O tôi nói, sau này tụi bây sinh con nhớ đặt tên là Hến. Hến Chị, Hến Em, Hến Đen, Hến Vàng…, mấy cái tên cũng hay đó chứ, hơn đứt mấy cái tên xưa: Trâu, Chó, Bẹp Chị, Bẹp Em, Đùm Anh, Đùm Em… Ấy vậy mà khi tôi sinh con, không dám đặt tên Hến cho đứa nào.

Có thể tôi xấu hổ cho con vì mấy cái tên đó không còn hợp thời, cũng có thể tôi quên bẵng đi cái chuyện đặt tên Hến sau bao nhiêu ngày lang thang tang bồng cho đến khi viết mấy dòng này mới nhớ ra, mà cũng có thể tôi đành đoạn dứt bỏ quá khứ một thời ảm đạm với cái đói quay quắt. Ai mà biết được, tôi còn không biết huống hồ ai…
Phù Sinh

 Nhớ
Miệt mài trên sông rộng,
Vất vã giữa trời hanh...
Không quản gì mưa gió,
Nắng làm bạc tóc xanh.

Dòng sông quê lãng đãng,
Tình quê luôn hiền hoà...
Thương mẹ quê tần tảo,
Thương dáng người hanh hao !

Ánh ban mai ngập nắng,
Ấp ủ bờ sông quê...
Nhớ món ngon bình dị...
Biết khi nao tôi về ?
NM

Nhớ con hến sông quê   
Mỗi lần nhớ nhà, tôi lại hình dung tới dòng Trà Khúc uốn mình lãng đãng trôi ven thành phố Quảng Ngãi. Hình ảnh con sông quê dẫn dắt tôi nhớ tới những con hến nhỏ bé và món ăn bình dị của mẹ
Hến sông quê tôi chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay út. “Nhà” của chúng là đáy sông. Những lớp bùn, rong rêu, vi sinh vật dưới lòng sông là môi trường sống lý tưởng của chúng.
Cuối xuân đầu hạ, khi nắng ban mai tràn ngập mé sông, trên những bãi bùn non lấp loáng ánh bình minh lố nhố bóng người đi cào hến. Hai cái bóng ngắn cũn cỡn là chị em chúng tôi, bên cạnh bóng mẹ lênh khênh cùng chiếc nón lá
Không như những người bắt hến có nghề, họ bơi thuyền ra giữa sông, cắm sào ở chỗ sâu nhất rồi lặn xuống mà cào hến, mẹ con chúng tôi chỉ cào những con hến “lộ thiên”, trồi lên từ lớp bùn nhão quánh.
Cứ túc tắc vậy nhưng mặt trời lên chưa tới cây sào, mỗi người chúng tôi cũng được một rổ hến khá nặng tay. Chị và mẹ cắp rổ hến của mình chạy ra chợ làng. Những đồng tiền bán hến thành cá, thành rau và cả những cây bút, những quyển vở cho hai chị em tôi đi học.
Còn rổ hến của tôi (tôi luôn tự hào là “to” và “nhiều” hơn của chị và mẹ) thì để lại nhà. Dưới đôi bàn tay đảm đang của mẹ, những con - hến - của - tôi bỗng chốc biến thành vài món ăn thanh đạm nhưng đầy ắp hương vị khó quên.
Làm hến là khâu khá công phu trước khi chế biến hến ra tấm ra món. Mẹ đem hến ra giếng vừa chà vừa nhồi thật sạch bùn nhớt bám trên vỏ tới ba bốn lần rồi mới cho vào xoong, bắc lên bếp. Mẹ không cho nước vào mà nhiệt độ sẽ làm nước có sẵn trong con hến tiết ra, sôi lên.
Lúc này hến há miệng. Mẹ dùng đũa khuấy đều cho những con hến bé xíu rời khỏi vỏ. Thịt hến được vớt ra, để ráo. Những mẩu thịt hến nhỏ nhắn, trắng phau trông mát lành, ngon ngọt làm sao!
Trưa ấy, nước luộc hến cùng vài muỗng hến kết hợp với mớ rau tập tàng mà chị em tôi hái trong vườn trở thành nồi canh mát dịu. Còn với món bánh xèo, những con hến béo ngậy làm nên cái ngon cái ngọt khi được rắc làm nhân.
Hôm nào cào được nhiều hến, mẹ làm cho cả nhà món hến xào xúc bánh tráng thơm nức mũi. Cho dầu vào chảo, phi hành lên, nghe mùi thơm tỏa ra, trút hến vào đảo đều với hỗn hợp gia vị gồm nước mắm, đường, hạt nêm, sả, gừng băm nhỏ.
Bớt lửa, đậy nắp lại vài phút cho hến thấm gia vị rồi bắc xuống, rắc thêm tí rau răm, hành ngò, cho hến ra đĩa là xong. Phải nói, với món này, con hến rút hết tinh chất ra để mà ngon. Mùi sông nước nồng đượm, mát lành phảng phất trong từng con hến. Bẻ miếng bánh tráng làm muỗng, xúc mớ hến xào lên cho vào miệng, vị béo thơm, ngòn ngọt của hến hòa quyện mùi hương đậm đà của sả, gừng khiến chị em tôi lúc nào cũng như lần đầu thưởng thức, cứ mãi tấm tắc khen ngon.
Sau này, mưu sinh trên phố, tôi thường hay nghĩ về hình ảnh những buổi sớm mai ngập nắng trên đôi bờ sông quê. Ở đó, con hến với những món ăn bình dị từ bao giờ đã trở thành nỗi nhớ.
Trần Cao Duyên