Ánh bình minh rực hồng vừa ló dạng,
Khắp đường quê tiếng cười nói xôn xao !!...
Người người vui gặp gỡ cất tiếng chào,
Theo chân bước rủ nhau về họp chợ....
Sương còn đọng trên cành cây ngọn cỏ,
Lóng lánh cùng ánh sáng buổi bình minh....
Quây quần nhau mua bán với thân tình,
Mua và bán đều vui lòng thoả dạ !!
Đàn em nhỏ hãy còn đang ngáy ngủ,
Lẽo đẽo theo chân mẹ đón quà quê....
Xa bên sông đò vội cặp bờ đê....
Mong cho kịp bày hàng ra đón khách !
Mùa gặt qua đồng vàng tươi sắc mạ,
Càng rực vàng dưới ánh đỏ bình minh......
Toả hương thơm mùi rạ mới quê mình,
Thủng thỉnh quá kia đàn trâu nhai cỏ !!
Dân quê tôi bốn mùa luôn vất vã.,
Vẫn hồn nhiên vui đón buổi chợ quê....
Nắng chiều lên lại tất tả quay về ,
Vui đoàn tụ sau một ngày họp chợ !!
Tôi xa quê thuở hãy còn niên thiếu,
Thương nhớ hoài kỹ niệm buổi chợ quê !
Mơ trong mơ thiên đường nhỏ, lối về,
Có hương vị món "quà quê" xưa ấy....
Chợ quê 1
Chợ quê. Hai tiếng ấy thật gần gũi với mỗi chúng ta. Càng gần gũi hơn
với những người đã từng gắn bó nhiều năm với chợ quê nhưng giờ đây lại
đang sống ở nơi đất khách. Mấy ai đã từng sống ở quê mà lại không biết
đến chợ quê.
Quê tôi, một làng quê nhỏ nằm bên cạnh dòng sông Cầu lơ thơ nước chảy
với những triền sông bên lở bên bồi. Những rặng tre xanh, những ngôi
trường ngói đỏ, những mái đình cổ kính uốn cong như những dấu hỏi được
treo giữa trời ngàn năm lơ lửng, những cây đa, cây gạo cổ thụ đã từng
khắc ghi trong ký ức tuổi thơ tôi.
Tuổi thơ của tôi. Đó là những ngày bắt cào cào châu chấu, cùng bạn bè
cắt từng cuống rạ giữa đồng chiều mênh mang gió. Tuổi thơ của tôi là
từng đợt gió bấc tràn về rét căm căm những buổi chiều tan học. Lạnh là
thế, mưa phùn gió bấc là thế nhưng không đứa nào là không tranh thủ ngắt
trộm vài bông nếp cái hoa vàng trên đường đi học về. Chạy vội về nhà,
cho ngay bông lúa vào bếp, tiếng nổ thơm giòn, nghe lách tách đến là
vui. Rồi những chiều hè rủ nhau đi bắt hến, tiếng sáo diều vi vút đến
nao nao. Hay những chiều đông tê tái cùng nhau nhặt những quả phi lao
cho vào ống bơ, đốt lửa, túm năm tụm ba ngồi xung quanh sưởi ấm, tiếng
nói tiếng cười râm ran. Ngày ấy không như bây giờ. Đồ chơi cũng không
hiện đại và nhiều loại như bây giờ. Ngày ấy của chúng tôi chỉ có thế,
thế mà vui. Vui hơn tất cả là thỉnh thoảng được theo bà đi chợ quê
Đó là hình ảnh thân thương nhất của mỗi vùng quê. Chợ quê tôi
nằm cạnh bờ đê, dưới một gốc đa to. Chợ họp từ sáng đến trưa, mưa cũng
họp nắng cũng họp, chợ họp theo phiên nên bà nội tôi gọi là chợ Phiên.
Muốn biết sự phát triển của mỗi vùng quê ra sao người ta thường đi đến
chợ. Chợ quê tôi cũng thế, chợ là nơi tụ họp của khách thập phương với
đủ loại hàng quán. Chợ đông vui tấp nập, huyên náo ồn ào với đủ thứ âm
thanh và mùi vị trộn lẫn vào nhau. Chỗ tanh tanh hàng cá, chỗ đăng đắng
mùi vôi của hàng bánh đúc, chỗ mằn mặn hàng nước mắm, chỗ cay cay hàng
ớt, nơi nức mũi hàng bánh đa vừng, nơi ngào ngạt hàng hương, nơi chát
chúa hàng sắt hàng rèn… Từng đó thứ mùi vị và âm thanh cùng hòa quyện
vào nhau tạo nên sự phát triển của một vùng quê nhỏ yên bình. Thích mắt
nhất là mỗi khi sà vào hàng xén. Chao ôi! Biết bao nhiêu là thứ. Nào
cặp ba lá, nào lược nào gương, nào vòng tay vòng cổ óng ánh đủ màu và
nhiều thứ khác nữa đã tạo nên nét duyên con gái quê tôi.
Mỗi khi ngày mùa về, chợ Phiên ngày mùa vẫn đủ loại hàng hóa nhưng được
họp vội vàng chóng vánh. Vẫn đông vui tấp nập nhưng huyên náo, ầm ĩ hơn
ngày thường. Người vội bán, kẻ vội mua. Ai cũng muốn mua thật nhanh,
bán thật gọn để chạy ngay ra đồng kịp chở lúa về nhà trước khi ông mặt
trời đổ lửa xuống lưng hoặc tránh những cơn mưa rào bất chợt, chớp xé
dọc ngang trời. Chợ ngày mùa phảng phất mùi rơm, thơm nồng hương cốm,
sớm họp sớm tan.
Những khi mùa lũ, nước dâng cao chỉ cách mặt đê chừng vài mét. Chợ quê
khi ấy là những chiếc xuồng, chiếc thuyền con chở rau chở cá khua lách
cách bên sông vẫn í ới kẻ bán người mua nhộn nhịp như thường.
Quê tôi mùa Đông về, hoa cải nở vàng rực những triền sông. Từ xa nhìn
lại, giữa những làn khói lam chiều bàng bạc, ta vẫn thấy những triền
sông vàng tươi màu hoa cải như thắp nên màu vàng nắng mênh mang. Những
gánh cải ngồng vừa cao vừa dài được các bà, các chị xếp ngay ngắn gánh
ra chợ bán trông thật tươi ngon và đẹp mắt. Cái mùi ngai ngái nồng nồng
ấy không biết từ bao giờ đã trở thành một mùi đặc trưng quen thuộc của
mùa Đông ở những phiên chợ quê tôi. Và tôi yêu cái mùi ngai ngái ấy từ
khi nào không hay. Mùi ngô nếp thơm và dẻo, mía nướng ngọt ngào thơm mùi
mật... tất cả lan tỏa vào nhau làm cho ta cảm thấy ấm áp đến không ngờ.
Lâu lắm rồi tôi mới có dịp về thăm lại chợ quê. Nơi hai mươi năm trước
là chợ bây giờ vẫn là chợ. Nhưng chợ bây giờ không phải là những mái lều
được lợp bằng rơm, cói, lá dừa hay những mảnh vải bạt dựng tạm để tránh
nắng trú mưa mà thay vào đó chợ đã được quy hoạch gọn gàng, hàng hóa
phong phú đa dạng. Đường vào chợ không còn lầy lội, chênh chao giữa mùa
mưa phùn gió bấc như trước đây nữa mà được sửa lại khang trang rộng mở.
Vẫn thơm mùi gừng khi đi ngang qua hàng ốc luộc, vẫn mặn mòi mùi hến,
vẫn nặng lòng mùi nước ngọt phù sa, vẫn nửa đục nửa trong, vẫn cây đa
bến nước, vẫn đắng vẫn cay hanh hao mùi gió, vẫn “từng vị heo may trên
má em hồng”… Chợ quê ngày nào, bây giờ càng thêm đông đúc nườm nượp hơn
xưa.
Võ Thanh Bình
Võ Thanh Bình
Chợ quê 2
Nếu hỏi những người xa quê thường nhớ những điều gì, chắc không ít người sẽ nhắc tới cái chợ quê trong đó.
Chợ họp trên dải đất ven sông. Ngoài mấy loại rau trái quen thuộc,
chợ bán những thứ rặt nhà quê. Mớ càng cua, rau chai, đọt nhãn lồng, rau
tập tàng… xanh mướt, được mấy thím hái trong vườn, trong ruộng. Ăn rau
vườn vừa tươi, vừa ngon mà trong bụng không phải lo mấy chuyện phân hóa
học với thuốc sâu. Nhiều người đi chợ chỉ để bán mấy nải chuối xiêm đen
thưa trái, rổ bình bát mới chín hườm hườm. Cá, tép cũng vậy. Toàn là thứ
bà con vừa bắt được, đang bơi đủng đỉnh hay nhảy nhoi trong thau.
Chợ ngắn ngủn, đi một vòng là hết trơn. Người bán và người mua hầu
như quen hết mặt nhau nên chợ ít có cảnh bon chen, giành giật. Bán buôn
cũng thân tình, không có kiểu nói thách với mức giá trên trời như những
chợ khác. Có nhiều bà má tóc bạc nhưng sáng nào cũng hái mớ rau vườn đem
ra chợ bán. Riết rồi thành quen, đi chợ để gặp gỡ, để thăm hỏi nhau chớ
lời lỗ hổng được bao nhiêu.
Nhiều khi chỉ cần nhìn mọi người mua bán mình cũng biết thêm được
nhiều điều. Dân xứ mình tính tình rộng rãi nên cách bán buôn cũng phóng
khoáng. Đi chợ khoái nhứt là được ăn thử. Người bán lúc nào cũng sẵn
lòng cho khách thử một miếng. Ai thấy ngon thì mua nhiều hơn; ai chưa
mua thì biết rồi, lần sau ghé lại. Nhớ hồi được ghé thăm thủ đô, mình
hăm hở đi tìm mua trái sấu. Khi mình xin ăn thử một trái thì chỉ nhận
được cái lắc đầu. Có đi xa mới thấy mỗi vùng miền có cách buôn bán khác
nhau. Đâu phải ở đâu cũng giống như quê mình.
Cái chợ nhỏ xíu quê mình cũng là chốn kết bạn, hẹn hò. Nhiều mối tình
đã ươm mầm từ cái chợ quê bình dị đó. Mấy bữa nay, chị Tư ngồi buồn so
bên thau cá lóc. Tháng tới đây, người thương của chị vì hoàn cảnh gia
đình nên phải đi xứ khác làm ăn. Anh đi rồi, ai tiếp chị xách giỏ cá
nặng vào mỗi sớm mai? Ai tiếp chị dọn hàng khi tan buổi chợ?...
Hôm rồi, về thăm nhà một người bạn, mình được bạn dẫn đi chợ quê. Sao
chợ quê bạn cũng giống như chợ quê mình. Cũng những người dân quê lam
lũ, hiền lành ngồi bán mớ rau, con cá. Ở khắp các miền quê của xứ đồng
bằng này đều có những cái chợ quê giản dị, đơn sơ như vậy. Chợ quê là
nơi mà người bán và người mua đều cảm thấy an lòng vì trao nhau những
món hàng có kèm theo cả tình quê trong đó.
Hương Giang
Chợ quê 3
Với tôi, cũng như nhiều đứa trẻ quê mùa, có nỗi nhớ mênh mông về những
buổi sáng sớm ngày hè được theo bà, theo mẹ đi chợ, nhất là hình ảnh của
mẹ gánh gồng kĩu kịt nhiều thức quà từ vườn ra chợ. Tôi lẽo đẽo chạy
theo sau quang gánh của mẹ,tay cầm khư khư gói kẹo ú hay cái bánh nậm gói trong tờ lá chuối…
Chợ ở quê tôi họp trên một khoảng đất rộng. Chợ quê có nhiều dãy hàng
quán lợp bằng mái tranh liêu xiêu, nền đất. Đi từ đầu tới cuối chợ đều
gặp những người quen. Chợ lúc nào cũng đông đúc, bán nhiều món rất
"quê", từ mớ lá chuối, các loại lá thuốc nam như rau tần, mớ sả, ngải
cứu, mớ tôm, mớ tép, rau vườn nhà, con gà, con vịt, trái đu đủ, bắp
chuối, cũng có khi thêm ít khoai lang... Ở cuối góc chợ các cụ già ngồi
bỏm bẻm nhai trầu bán mấy xâu thuốc lá đã phơi khô và vài mớ lá trầu
xanh mướt. Ngày nhỏ, đứa trẻ nào được theo mẹ đi chợ mắt như không rời
khỏi sắc đỏ, sắc xanh của những hàng bán vải và nằng nặc đòi mẹ mua cho
bằng được những viên kẹo ú tẩm bột làm quà mang về.
Những hôm mẹ đi làm đồng, nhà chẳng có gì ăn, mẹ dặn tôi chạy xuống bà
Tám mua chịu thức ăn mang về, rồi bà lại chỉ tôi cách thức nấu các món
ăn, món này phải nấu thế này mới ngon, món kia phải nấu như thế mới để
được sang ngày hôm sau. Mẹ tôi, có khi túng tiền thì lại mang rau, mấy
chục trái chanh trong vườn hay mấy tán đường bát ra đổi thức ăn của bà
Tám. Với tôi, chợ quê đã tồn tại gần gũi với tôi biết chừng nào, chợ quê
thiệt thà và trọn nghĩa tình thôn xóm. Những món quà chợ quê giản dị
nhưng hương vị của nó chính là hương vị của tuổi thơ, của ký ức quê nhà.
Quà chợ quê cùng lũ trẻ lớn lên.
Chợ quê tôi ngày ấy bây giờ đã được xây dựng khang trang, sạch sẽ, hàng
hóa cũng đa dạng hơn. Nhưng bà con vẫn lưu giữ nếp sinh hoạt cũ, vẫn
họp chợ từ lúc sáng tinh mơ đến tầm nửa buổi sáng. Những ngày nghỉ tôi
về nhà, vẫn giữ thói quen ra chợ với mẹ. Mẹ tôi, cũng hay đem ra chợ bán
một vài thứ gì đó, khi là mấy trái đu đủ, khi là mớ rau sam, khi là rổ
mận...
Tôi ngồi với mẹ, lặng im ngắm từng dòng người qua chợ… Vẫn còn nghe
những lời thăm hỏi, sẻ chia thắm thiết dành cho nhau… Vẫn còn thấy nụ
cười rạng rỡ của bọn trẻ con khi níu tay bà, tay mẹ đi chợ…
Hoàng duy XuyênChợ quê 4
Mẹ tôi vẫn ngồi đó, nơi cái góc chợ nhỏ
cuối làng để kiếm từng đồng chắt chiu nuôi con cái ăn học. Tôi đội ơn
cái chợ quê nghèo ấy như từng đội ơn mảnh đất làng nơi mình sinh ra bởi ở
đó, mẹ tôi đã bán cả tuổi thanh xuân con gái của mình…
Một góc chợ Thuận
Bài thơ tôi được đăng báo lần đầu tiên là “Phiên chợ đầu năm”gắn liền góc chợ quê và hình ảnh mẹ. Thực ra gọi “mẹ” là để hợp với cái ngôn ngữ toàn dân thôi chứ tôi hay gọi “mạ” – đó là một cách gọi của hầu hết những đứa con ở làng quê miền trung yêu dấu. Chữ “mạ” nghe vừa quê quê vừa bình dị. Người nhà nông có hai cách gieo trồng. Ruộng khô thì trẫy hạt trực tiếp gọi là gieo. Ruộng trũng sâu ngập nước không gieo được trực tiếp thì ươm mầm ở chỗ cao, đợi khoảng hai mươi ngày cho cây lúa lên cỡ một gang tay thì nhổ xuống cấy. Những cây lúa đem đi cấy đó gọi là “mạ” hay “má”, phù hợp với cách xưng với hiền mẫu của người nhà quê. Chính điều này nên mỗi khi gọi “mạ” là tôi liên tưởng đến những thân lúa hiền lành bị tay đời nhổ lên cấy xuống và chắt ra hạt lúa thơm mùi sữa cho con cho cái.
Ngày còn nhỏ, tôi thường vính cái tao
gióng của mẹ ra chợ. Những gánh rau gánh cải mẹ tôi nhổ từ góc vườn từ
sớm hãy còn tươi được ướp sương sớm trên đường, cứ thế ra đến cuối làng.
Mẹ tôi ngồi bên một con đường nhỏ cạnh chợ, rau ráng thì ngồi ở đây bán
tiện hơn. Với lại muốn ngồi được trong chợ thì phải có phần đất khoán.
Người quê đi chợ sớm để mua hai thứ đó là cá và rau. Những mẹt cá tươi
từ phía biển Triệu Lăng, biển Cửa Việt quảy lên đến chợ Thuận bốc mùi
tanh và vị mặn của muối. Rau ráng thì coi như cây nhà lá vườn của người
nhà quê, đem ra chợ đổi chác kiếm đồng ra đồng vào.
Chợ xuất hiện khá sớm trong đời sống
người Việt mình. Từ cái thời con người có của ăn của để, muốn trao đổi
cho nhau những thứ cần thiết. Kẻ ở miền cao lắm sơn hào, người miền biển
nhiều hải vị, họ tìm đến nhau và đổi chác một cách tương đối. Thế rồi
những điểm tụ họp đó cứ như chỗ cố định để“đúng hẹn lại lên”,
lâu dần mà nên chợ. Vì lẽ đó, chợ được xem là nơi gặp gỡ tương thương.
Chợ đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người Việt, đã có câu “nhất cận thị, nhị cận giang” lại sinh thêm “thị thời thiết hữu” là vậy!
Chợ thường nằm trên một khoảnh đất
thoáng đãng. Nơi đó thuận tiện cho việc đi lại của cư dân trong vùng.
Chợ nằm trong làng gọi là “chợ làng” và nó mặc nhiên gắn với tên gọi
riêng. Ví như ở Quảng Trị, làng Bích La có chợ họp ở đình làng thì gọi
là “chợ Đình”. Làng Lưỡng Kim có chợ họp ở Chùa thì gọi là “chợ Chùa”…
Chợ nằm giữa các làng, không thuộc địa phận của làng nào thì gọi bằng
hai tiếng thân thương “chợ quê”. Góc chợ nghèo nuôi nấng tôi nằm kẹp
giữa ba xã Triệu Thuận, Triệu Đại, Triệu Long. Nói là kẹp giữa ba xã hay
đúng hơn là ba làng Phúc Lộc, Đại Hào, Vệ Nghĩa nhưng thực chất là hơi
buôn bán của cư dân cả một vùng lớn trong huyện Triệu Phong. Phía trên
này xã Triệu Độ theo gió lào chạy về, người miền biển ngược nguồn đi
lên, dân Triệu Long theo đường chính cũng gồng gánh hàng tới… Cái chợ ấy
tục gọi là Chợ Thuận, tên này có sớm từ trước. Ngày nay người ta hay
đánh đồng chợ Thuận với tên xã Triệu Thuận. Tôi lớp hậu bối sinh sau đẻ
muộn, chỉ dám nghĩ rằng chắc vì cái vị trí họp chợ nó thuận lợi nên gọi
“chợ Thuận” mà thôi!
Chợ quê gắn liền với lịch sử dân tộc.
Ông tôi kể hồi chiến tranh, có một dạo lính giặc bắt một người nghi là
tình báo, đem trói ở chợ Thuận mà khảo bằng roi sắt. Họ treo cái xác
thoi thóp ấy ở ngay cột chợ khiến người làng ba ngày đêm không dám họp
chợ buôn bán. Những tiếng rên cuối cùng của người kia vang xa hãi hùng.
Tôi nghe kể lại mà tuồng như cái thanh âm dữ tợn còn văng vẳng bên tai.
Chợ của một thời chiến tranh tang tóc đẫm máu đồng bào tôi.
Chợ sau những ngày hoà bình lập lại trở
thành một trường học. Khi chính sách diệt giặc đói giặc dốt ban hành,
người quê đi chợ còn kẹp thêm những trang giấy để đọc. Đọc chán thì lấy
ra gói hàng. Rồi cứ thế mảnh giấy có những con chữ ấy cứ truyền qua tay
nhau. Thời đó chữ nghĩa giấy má chưa nhiều như bây giờ, gặp được một mẫu
tin là muốn đọc được. Thế là người đi chợ bày chữ cho nhau, dạy nhau
sau thúng mẹt cải ngò. Tôi được biết hồi trước ở cổng chợ có một tấm
biển đề hàng chữ Quốc ngữ. Ai đi chợ có thể đọc câu khẩu hiệu đó mới
được vào, còn nếu không phải lòn qua một cửa hẹp dành cho gia súc gia
cầm.
Việc họp chợ cũng tuỳ thuộc từng nơi.
Chợ làng thường họp buổi sáng vì một lẽ đơn giản, buổi sáng trời mát mẻ,
cá tôm còn tươi rau ráng còn sương. Đi chợ sớm vui lắm! Khi mặt trời
chưa kịp lên, chưa nghe được tiếng người thì mùi tanh của cá biển đã báo
ngày mới đến. Người miền biển ở xa nhưng lại đến chợ sớm nhất. Những
chị gái đứng ở bên bờ biển, đợi chàng ngư dân đánh mẻ sớm về là sốc
thẳng từng cái mủng lên chợ. Sau cá là đến rau ráng, những mớ cải non
tươi xanh mua lấy mua để về ăn kẹp với tép kho. Mùi ngò, rau thơm rau
quế, rau diếp cá bện lấy nhau thấm vào từng khía áo các chị các mẹ. Chợ
quê, có gì bán nấy, cây nhà lá vườn ăn không xuể thì đem ra chợ, thể nào
cũng có người cần.
Nhiều chợ họp vào ban đêm gọi là chợ
Đêm, chợ Hôm. Chợ họp sáng sớm gọi là chợ Mai. Chợ quê đồng bằng họp
hằng ngày. Ở các vùng cao thường có chợ phiên. Quảng Trị quê tôi có chợ
Phiên Cam lộ. Hình thức họp chợ theo phiên thường gặp nhiều ở mạn ngoài
bắc. Cái này lại là một đặc điểm cư dân vùng miền của người Việt. Người
miền bắc tính cách trầm lặng, thích chắt góp nên cứ ở nhà mà trồng tỉa
sản xuất, đến phiên thì đi cho đỡ mất công. Ví như đã có chợ phiên thì
trong mỗi tháng thường có một số kì nhất định, có phiên dành cho thúng
mủng chiếu bị, có phiên dành cho trâu bò heo lợn… Thậm chí có phiên chỉ
dành cho uống rượu và trai gái gò ghẹo nhau. Những phiên chợ hiếm hoi ấy
thường chỉ xuất hiện một lần trong năm: chợ tình Sapa, chợ Đình Bích
La… Người miền nam năng động nhanh nhẹn nên chợ họp hằng ngày, với lại
cái thời tiết nóng nảy của miền nam thì rau ráng cá mực mua về ăn ngay
chứ không thể để dành được lâu. Văn hoá vùng miền chi phối nhiều đến
cách họp chợ.
Đặc sản của mỗi vùng quê cũng chính là món được bán nhiều trên chợ vùng đó. Ta thường nghe câu ca xứ Huế “mua cau Nam Phổ mua trầu Chợ Dinh”,
vậy thì chợ Dinh nhất thiết có đặc sản là lá trầu rồi. Chính vì câu ca
này mà người xứ Huế khi dựng vợ gả chồng đều muốn đến chợ Dinh kiếm mấy
lá về dạm ngõ, “miếng trầu là đầu câu chuyện” mà! Ở Quê Tôi có
chợ Cạn nổi tiếng với bún. Bún chợ Cạn vừa nhỏ, sợi tẻ, vừa dẻo vừa mềm
ăn vào rất “mát” chứ không nặng bụng như bún chỗ khác. Nhắc đến bún, mới
thấy cái nghề này nó đơn giản nhưng không phải dễ học. Người ta giã
gạo, xát nhuyễn thành thứ hồ sền sệt. Nung nồi nước thật sôi rồi dùng
một cái tay vắt mà nặn sợi bột vào nồi. Sợi bột luộc nên thành bún.
Trông đơn giản vậy nhưng làm cho ra bún ngon trở thành thương hiệu không
phải dễ.
Quà quê mẹ mua từ chợ. Sau những mớ mau
mớ cải bán được, người mẹ quê thường dành ra mấy đồng để mua cho con
mình chiếc bánh đa, miếng bánh đúc. “Ôi quê ta bánh đa bánh đúc, phiên chợ nghèo lều quê mái tranh”-một
câu hát trong bài “Về quê” của Phó Đức Phương cứ thắc thỏm tôi. Những
ngày ấu thơ, mỗi lần chợ về mẹ tôi hay kẹp dưới cái mẹt chiếc bánh đa
tròn giá mấy đồng bạc lẻ. Bánh đa ăn nóng thì thơm lắm! Mùi hương gạo
nướng cháy lên cứ chọc thèm khiến đứa bé năm tuổi đầu nuốt nước miếng
ừng ực. Bánh đa vừa lấy xuống khỏi than hồng thì giòn. Rất dễ vỡ. Thế
mới có câu “ra chợ đạp bánh đa” để nói về cái xui xẻo trong đời
sống. Bánh đúc thì nấu từ gạo tấm cho chín nhuyễn như cháo bầy ra nống,
để nguội rồi cắt ra từng miếng nhỏ mà chấm nước lèo thì ngon đáo để!
Tất cả những thứ quà đậm hương vị gạo ấy mẹ mang từ chợ về. Đứa con nhỏ
đứng hong hóng ở ngõ, thấy cái bóng mẹ thấp thoáng sau luỹ tre làng là
chạy ào ra lật mẹt vòi quà. Hồi nhỏ, cứ mỗi lần ngóng mẹ về là cứ dài cả
cổ ra, ruột gan nóng ran lên. Hai anh em tôi đứng ở ngõ, chơi trò đoán
quà mẹ. Thi thoảng anh tôi giả vờ “mạ về rồi!”, thế là mừng quýnh cả lên
tưởng thật.
Chợ có hai dịp đáng nhớ nhất trong năm
là chợ tết và chợ xuân. Chợ tết là chợ họp vào những ngày cùng tháng tận
còn chợ xuân thì đầu năm bán lộc.Bút ký của Hoàng Công Danh
Những buổi chợ quê
Cứ đều đặn mỗi ngày, mẹ
như "chiếc đồng hồ sinh học" đã lập trình sẵn, thức dậy vào lúc bốn giờ
hay bốn giờ rưỡi. Một ngày mới bắt đầu với mẹ khi mẹ lui cui chuẩn bị
xếp đồ hàng ra chợ bán.
Cái rét căm căm của những buổi mai trời trở lạnh cũng
không làm mẹ rùng mình. Những đêm dần về sáng trời tối mịt mùng cũng
không ngăn mẹ lỡ buổi.
Mười mấy hai chục năm trời, chỉ trừ khi đau ốm, còn lại
hôm nào mẹ cũng gánh hàng ra chợ bán. Mẹ dường như đã gắn chặt với
những buổi chợ quê.
Những buổi chiều quê, khi tiếng bìm bịp gọi nhau về chờ
nước lớn ở bãi đất hoang um tùm phía phải mảnh vườn nhà là lúc mẹ tất
tươm chắt mót đồ vườn để chuẩn bị cho buổi chợ. Có cao sang gì cho cam,
chỉ mấy thứ rau dại mọc thành đám, những loại chuối xác xơ theo mùa. Khá
hơn là dăm ba trái dừa khô lột vỏ, mấy trái cam, lọn xả, nhúm ớt... Thế
nhưng với mẹ là cả một niềm vui.
Một ít nhọc nhằn cộng với không khí bon chen mặc cả
dường như đã ăn sâu vào tiềm thức mẹ. Buôn bán lời lỗ không làm mẹ bận
tâm. Mẹ bảo: đồ vườn nhà mà, bỏ công ra lấy lại chén cơm manh áo qua
ngày là tốt rồi! Chỉ mong khỏe mãi để cố gùi gắng mà lo cho tụi bay. Âu
đấy là phước ông bà để lại cho đấy!
Đã từ rất lâu rồi, tuy không còn đòi đi chợ với mẹ để
vòi quà vặt, nhưng tận trong ký ức tôi vẫn nhớ như in những buổi chợ quê
được mẹ cho đi cùng. Xách cho mẹ bốn trái dừa cột đôi lại mà tôi thấy ê
ẩm cả hai tay. Mệt nhưng vui vì ít ra tôi cũng đóng góp được tí công
sức vào niềm vui của mẹ.
Nhiều năm như thế, tôi hầu như quen dần cái cảnh "cơm
hàng cháo chợ". Đôi lúc những qui luật mua bán mà người ta tạo dựng lên
rồi ngấm ngầm mặc nhiên để giao ước với nhau ở chợ một cách rất bình
thường. Dù biết, ít nhất rằng trong đó có bao nhiêu điều khắc nghiệt...
Tôi vào trung học. Tôi cũng ít đi chợ cùng mẹ. Thi thoảng tôi cũng phải đưa hàng phụ mẹ khi hàng nhiều.
Bây giờ đã bỏ xa lúc ấy hơn chục năm. Tôi đã tốt nghiệp
Đại học. Giữa khoảng tốt nghiệp và ngày đầu nhập học - tôi biết - đó là
cả một quãng đường gian lao mà mẹ phải vượt qua để lo lắng cho tôi...
Vẫn ngày hai lượt đi về, với gánh hàng trên vai. Vẫn những buổi chợ quê
vào những buổi mai đẫm hơi sương hay từ khi trời còn mịt mù tối. Có khác
chăng đi nữa là đôi vai mẹ đã gầy hơn năm ấy và tóc thì đã bạc hơn lúc
trước nhiều.
Khi đã là thanh niên rồi va chạm với cuộc đời, nhiều
lúc trong tôi vẫn dâng trào nguyên vẹn cảm xúc của năm xưa. Lo lắng, báo
đáp ơn nghĩa sinh thành là bổn phận của một người con như tôi. Nhưng
thú thật, nhiều lúc trong cơn mơ chập chờn của một buổi mai nào đó, tôi
thèm lắm cái cảm giác thức dậy cùng mẹ chuẩn bị đồ hàng... Chuẩn bị đồ
hàng để ra chợ bán...
T.M.THÁI
Trở Về Thôn Cũ (Nhạc Xưa) - Ngọc Minh
Quê Ngoại - Chợ chiều
Món ăn quê hương được làm từ bàn tay khéo léo, đảm đang của các dì các mợ luôn in đậm trong ký ức trẻ thơ : từ vị ngọt mát của trái dừa xiêm trong vườn nhà, miếng cá tươi dưới thuyền mới lên, đĩa bánh xèo,bánh ít lá gai, bánh tráng dừa cho tới tô bánh canh, bát cháo vịt...cũng đều mang đậm hương vị quê nhà tạo nên nét đặc trưng thật khác biệt không đâu có được.
Lớn lên một chút, về quê được theo Bà, theo mẹ ra chợ.Các dì các mợ xúm vào hỏi han rối rít, ở chợ mà từ người bán đến khách mua đều biết nhau, nhà ai có người thân ở xa về thì cả làngđều mừng vui, thật là ấm áp chân tình biết bao !
Chợ ở đây được gọi là Chợ Chiều vì vốn là nơi mua bán hải sản đánh bắt được từ khơi xa trở về chiều chiều cập bến, sau ngày giải phóng chợ họp thêm cả buổi sáng nhưng tên chợ vẫn được giữ nguyên như cũ...
Cá hồng tươi rói mới ở thuyền lên :
Đây là loài cá thịt trắng ngần như thịt gà,ngọt lịm, bà Ngoại vẫn hay làm cho mình ăn,còn nhớ bà gọi đây là cá mó :
Hoa cúc vạn thọ mới hái ngoài vườn (Còn nguyên cả rễ, hi..hi..)
Sà sang hàng bún bánh nhé, đây là bánh hỏi, bánh bèo và bún nước tro, chấm nước mắm đục mắm cá/nêm )dầm ớt tỏi cay xè, rất ngon :
Có hai loại : bánh xèo vỏ ( tráng mỏng mềm, không có nhân , có thể gọi đây là một dạng Vietnamese crepe ); bánh xèo thường (vỏ giòn, có nhân ).Nhà mình hay ăn loại thứ nhất, vì lạ miệng và có thể ăn nhiều mà không bị ngán
Bánh bột lọc thật hấp dẫn, bánh được nặn thật khéo bé xíu xiu, gói đủ 1 con tôm tươi đỏ au và 1 miếng thịt nhỏ vừa đủ 1 gắp gọn gàng ))
Tới hàng bánh bèo tôm chấy lúc nào cũng đông khách, ra muộn chút là không còn Vị khách may mắn với mẻ bánh cuối cùng :
Đi dạo mỏi chân, uống trái dừa xiêm ngọt mát cái nào
Chỗ này , cô bán bánh khọt đang nhanh tay đổ bột, xúc nhân cho khách kịp mua về ăn sáng :
Bánh hòn độc đáo làm từ bột củ mì (bột sắn), nhân mặn từ đậu trắng ghiền nhỏ xào với dừa nạo vụn, đậu phộng giã nhỏ, hấp chín, rưới hành tím phi thơm thật hấp dẫn !
Phụ nữ ở quê mình rất giỏi nấu ăn và có tài chế biến các loại bánh trái thơm ngon từ hạt gạo ngày mùa cũng như từ hoa màu khi giáp hạt.Những khi có việc, bữa cỗ quê cũng thật đầy đủ, đẹp đẽ được các dì, các cô xúm vào làm loáng cái đã xong.
Đây là tôm nướng than hoa :
Đĩa cỗ chuẩn bị bày lên mâm cúng :
Nỗi
nhớ về một miền quê xa, ký ức tuổi thơ về phiên chợ quê , về những món
quà làm từ nguyên liệu địa phương tươi ngon, giản dị mang đậm hồn quê sẽ
theo ta đi mãi ...
Chợ nổi Cà Mau –
chút tình sông
nước
nước
Không biết bây giờ bạn đang lang
thang ở đâu, lên Sa Pa đi chợ tình hay đã xuôi chợ Viềng Nam Định, không
biết đang sì sụp ăn ốc nóng ở chợ Âm Phủ – Đà Lạt hay về miền tây Nam Bộ
xuôi thuyền thăm các chợ đồng bằng. Được du khảo qua các chợ, đó là niềm đam
mê không dễ gì dứt bỏ, có lần bạn đã nói thế, phải không. Vậy thì sao bạn
không về thăm chợ nổi Cà Mau quê tôi ?
Nằm giữa lòng thành phố Cà Mau,
quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta
có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân
vịt gác chỏng lên loang loáng dưới mặt trời. Không biết chợ đã hình thành từ
khi nào, phải chăng từ những chiếc ghe thương hồ xuôi ngược một hôm neo đậu
gần nhau để mồi xin chút lửa, trao đổi cho nhau nắm gạo lứt, tấm vải bố tời,
trái bầu, trái bí… mà nên một xóm chợ trên sông đông đúc, sung túc nhất đồng
bằng như bây giờ ?
Sao bạn lại không thể cùng tôi dạo
chợ trên sông, đi từ buổi sớm mai trong lành để ngắm xóm chợ tươi tắn, nhiều
màu sắc và lạ lùng trong con mắt người xứ khác. Mà, sao lại là buổi mai ? Vì
chợ lúc bình minh lên như thời thơ ấu của một đời người, đạp đẽ, tinh khiết,
trong ngần. Sương đọng trên chiếc mùng giăng trên mui ghe của đám trẻ con
ngủ vùi, ngủ nướng rồi bảng lảng tan cho một ngày buôn bán bận rộn bắt đầu.
Hàng trăm chiếc ghe to, nhỏ khẳm lừ, đậu sát vào nhau thành một dãy dài,
người bán, người mua trùng trình trên sóng nước. Buổi sớm mai, đó là buổi
của những chiếc xuồng con với các chị, các dì bán hàng ăn sáng, mùi thơm của
các loại bánh lan tỏa xa hơn cả tiếng rao hàng, là buổi của những chiếc ghe
hàng bông đổ ra từ trăm ngàn con sông, rạch để bổ hàng rồi trở về theo trăm
ngàn lối sông rạch cho chuyến buôn xa. Buổi của những chủ ghe tất bật bày
biện sao cho mớ hàng hóa của mình mới mẻ, tươi tắn và tinh tươm nhất.
Ngày trước, chợ trên sông Cà Mau
cũng giống như nhiều chợ nổi đồng bằng khác buôn bán rất nhiều mặt hàng từ
nhu yếu phẩm đến thực phẩm, nghe kể, chợ bán cả bàn ghế, giường ngủ, tủ thờ…
Bây giờ, cách buôn bán ấy chỉ còn ở những ghe hàng bông lưu động đến tận nhà
người dân, riêng chợ nổi Cà Mau chỉ tập trung bán sỉ hàng hóa nông sản tươi,
những thứ rau, trái miệt vườn. Với khách đường xa, đi chợ trên sông là để
xem, để khám phá cái nguyên khí một miền quê lạ. Bạn không cần ghé vào từng
ghe để xem hàng họ bán những gì, bạn chỉ cần biểu em gái chèo đò chèo chậm
thôi, thong thả thôi ngang qua chợ. Bạn cứ nhìn cái nhánh cây thon, dài buộc
ở đầu ghe kia, trên cây treo gì thì ghe bán thức ấy, lúc la lúc lỉu trông lạ
vậy, nhưng đó là tiếng chào mời không lời. Chẳng cần rao bán, chèo kéo nhưng
khách cầm lòng nào mà bỏ đi. Cầm lòng được sao với cái màu đỏ thanh thao của
trái đu đủ chín cây, đỏ au au của chùm chôm chôm, vàng ươm của khóm, xoài,
xanh riết của cóc, ổi, tím của cà… Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp
được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy
khóm, rẫy mía miên man dọc triền sông Trẹm quê mình.
Mỗi chiếc ghe neo đậu ở đây là một
ngôi nhà, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp là vậy, nhưng
khách thương hồ lại có tâm hồn hiếu khách, hào sãng, rộng rãi. Bạn đến, họ
sẽ chẳng hẹp lòng gì mà không mời bạn nếm thử miếng dưa gang thanh thao, cái
thơm ngọt lạ lùng của trái dừa nước, thử cái vị chua chua của trái dâu, trái
khế quê nhà. Nếu bạn lỡ phải lòng cô bán hàng duyên dáng nào đó thì xin hẹn
ước mau mau, để chần chừ về nhà rồi quay trở lại, sợ rằng sẽ đứng trên chiếc
đò nhỏ chao trên sóng ( hay lòng của ta chao) nhìn cây cọc buộc ghe vắng một
sợi dây quen, có buồn lắm thì cũng đành hát “người đã đi rồi khôn níu lại”.
Biết làm sao được, bản chất của xóm chợ này là vậy, hợp rồi tan như lục bình
trôi, như bèo dạt.
Tôi luôn nuôi một niềm hy vọng sẽ
cùng bạn lênh đênh trên chợ nổi quê mình. Khoe cái sầm uất, rộn ràng của chợ
buổi sáng, buổi trưa, cho bạn cảm nhận cái man mác buổi chiều. Cái man mác
buồn đúng là của một chiều phố núi nào đó, một xóm nhỏ heo hút nào đó nhưng
ở trên sông này vẫn có nét riêng. Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh
đậu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu
ngó chăm chăm xới nồi cơm nghi ngút khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi
trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu ngón chân cái, phì phà
nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá
chốt, cá mè. Những cô con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi tìm niềm vui
bằng việc nụm nịu chăm nom cho mấy bụi hẹ, chòm rau húng lủi, vài cây ớt ốm
nhom trong cái khạp bễ để trên mui ghe mà nghe phảng phất niềm thương nhớ
đất.
Bình dị vậy mà chợ nổi quê tôi đã đi
vào nhạc, vào thơ, vào những bức tranh, bức ảnh. Những văn nghệ sỹ đến, làm
nên tác phẩm rồi đi mà vẫn hẹn lòng quay lại bởi niềm hứng khởi trước những
vẻ đẹp lạ lùng, đặc trưng của miền sông nước mãi mãi không bao giờ cạn. Vậy
sao bạn còn chưa đến với đất quê tôi ?
Nước sông Gành Hào ngày ngày ra biển
rồi lại quay về há không phải vì không nỡ xa, không phải vì thương nhớ chợ
nổi Cà Mau đó sao ? Sông còn vậy, huống chi người ?
Nguyễn Ngọc Tư
Ấm áp chợ quê ngày Tết 1
"Chợ quê xưa thường là những túp
lều nhỏ, cột tre mái lợp lá tranh hoặc rạ hay những quầy hàng được che
phên, liếp trông dân dã mà gần gũi biết bao
Đi chợ tết thú vị lắm! Cuối năm cuối
tháng, ai cũng đi mua đồ về chuẩn bị cho mâm cỗ tất niên, mua lá về gói
bánh. Hình ảnh những chú bé bán cát khiến tôi gợi lại một truyện ngắn
của Hoàng Thái Sơn. Những nắm cát trắng lấy từ Rú Tường Vân đem lên chợ
Thuận bán lấy công. Người bán cát là bán công vậy bởi chả có mặc cả kì
kèo. Người mua bỏ ra mấy đồng bạc lẻ là có cát về thay lư hương trên bàn
thờ tổ. Chợ tết lắm trò bù khú, đây sòng tôm cua kia trò phóng dĩa.
Những âm thanh vỡ oà lên chốc chốc sau cái lật dĩa của chủ cái làm rộn
thêm không khí chợ tết. Với tôi, thú vị nhất khi đi chợ tết là ngắm nhìn
những cô gái quê bình dị. Tôi đi học quanh năm, đến tết mới rãnh rỗi
ghé ra chợ gặp các nàng tuổi mười sáu cũng đủng đỉnh theo mẹ đi sắm đồ
tết. Chợt bên hàng kia cô bé nào quen quen ửng đỏ mặt giấu vào sau lá
cải. Ơ! Thì ra cô gái làng bên bấy lâu ở nhà trồng rau thêu thùa, giờ
cũng phơi phới tựa hồ ngọn gió xuân khiến tôi khựng đi như tờ lịch cuối
cùng của năm! Thằng bạn thân ở làng cứ sáng ba mươi năm nào nó cũng đến
nhà rủ “đi chợ ngắm gái quê”. Chỉ ở những phiên chợ cuối năm ấy tôi mới
hoạ hoằn tìm được cho mình một hình ảnh cô thôn nữ đúng nghĩa.
Ngược lại với chợ tết, chợ xuân lẻ tẻ
lưa thưa. Họ đi chợ xuân chủ yếu là bán lộc đầu năm. Người quê lắm quan
niệm, mà quan niệm về ngày giờ quan trọng hơn cả nên đi bán lộc xuân vào
mùng mấy cũng phải có sách. Mẹ tôi quanh năm tất bật, thức khuya dậy
sớm – nhìn mẹ tôi thấy được hình ảnh cô thôn nữ bao đời của làng quê
Việt Nam. Vậy mà tết nhất của mẹ giờ đây chỉ được ngày mùng một và mùng
hai. Sáng mùng ba là đã gánh gồng đi bán lộc xuân, khi trên đường làng
người ta vẫn đang áo mới du xuân. Tôi có cuốn sổ coi ngày giờ tốt xấu,
đem chỉ trỏ với mẹ cốt là để mẹ nghỉ ngơi thêm vài hôm nhưng chả bao giờ
mẹ chịu. Cái cần mẫn đã khắc lên mẹ tôi một lịch trình sống, rồi cứ thế
mà vận hành, không cho phép mình được nghỉ ngơi nhiều. Gọi là bán lộc
nên chi ai mua sao bán nấy, người ta cho bao nhiêu mừng bấy nhiêu chứ
không hề mặc cả ngã giá như ngày thường. Người đi chợ xuân cũng không
tiếc chi mấy đồng bạc đầu năm nên cũng xởi lởi lắm! Vậy là kể ra đi bán
đầu năm cũng kiếm được lộc thật đấy chứ?
Ông ngoại đặt cho mẹ tôi cái tên đệm là
“thị” – “chợ” và cuộc đời mẹ gắn liền với cái chợ quê ấy thật! Trong trí
nhớ của tôi thuở đầu còn sót lại thì mẹ là một người đàn bà bên mẹt
rau cải ven đường. Bây giờ đi xa, mẹ tôi vẫn ngày ngày ngồi với mớ cà mớ
đậu ở cái sạp tre chợ Thuận. Tôi tự hứa với lòng không được quên góc
chợ ấy, nơi nuôi nấng mình lớn khôn trưởng thành. Nơi đó mẹ tôi đã trộn
cái thơm phức con gái với mùi tanh tưởi cá đồng để nặn nên những đứa con
biết nói tiếng NGƯỜI.
Một đêm đói bụng, thèm cái món cá bống kho nghệ mà mẹ vừa mua hồi sáng ở chợ. Viết mấy dòng như thấm cả dư vị quê hương.
Minsk, 25.4.2008
Ấm áp chợ quê ngày Tết 2
"Chợ quê xưa thường là những túp
lều nhỏ, cột tre mái lợp lá tranh hoặc rạ hay những quầy hàng được che
phên, liếp trông dân dã mà gần gũi biết bao
Cứ mỗi độ xuân về Tết đến lại là dịp
để những người xa quê trong và ngoài nước tìm về quê cha đất tổ với hi
vọng gặp gỡ người thân sau bao ngày xa cách: Thắp nén nhang trầm tưởng
nhớ người đã khuất! Đây có lẽ cũng là dịp “tìm” lại những kỉ niệm tuổi
thơ đã trôi qua. Dường như hai tiếng quê hương đã thấm sâu vào máu thịt
của người dân Việt. Có những người vì lí do nào đó không được về quê ăn
Tết thì thường bồi hồi ôn lại trong kí ức với chính mình hoặc với bạn bè
xung quanh những kỉ niệm về quê hương, người thân… với nỗi nhớ diết da.
Người
Việt Nam chúng ta, ai cũng mang trong mình một hình ảnh đẹp về nơi chôn
rau cắt rốn của mình. Đó là cây đa cổ thụ cành lá xum xuê, chiều chiều
vọng vang tiếng chim tìm về tổ. Nhớ cái giếng làng trong vắt, nơi đó vào
những đêm trăng các cặp trai gái trong làng hát lời trao duyên, hay
cây thị già trĩu quả toả bóng xuống mái chùa cổ kính. Quả thị chín vàng,
hương thơm dìu dịu lan toả khắp làng quê. Thân thuộc gần gũi với người
dân thôn quê là luỹ tre xanh ngắt, bên những mái nhà tranh, trong khói
lam chiều lúc mờ lúc tỏ.
Nhưng có lẽ gần gũi, thân thiết gắn bó nhất vẫn là chợ quê. Đặc biệt là chợ quê trong ba ngày giáp Tết thì đố ai quên được.
Đất
nước chúng ta hẳn khó có thể có làng hoặc xã nào mà lại không có chợ.
Chí ít thì cũng dăm ba quán nhỏ tụ họp ở nơi thuận tiện bên bờ sông,
cạnh đình làng, đường làng… Đông vui thì chợ phủ, chợ huyện, chợ phiên !
Tuần họp đôi ba lần hoặc tháng họp bốn lần
Chợ
tết quê là hình ảnh quen thuộc, dân dã những đã đi rất nhiều vào thơ
ca, nhạc họa và đặc biệt là tâm hồn mỗi người con xa quê để nhớ về. (Ảnh internet)
Chợ
quê xưa thường là những túp lều nhỏ, cột tre mái lợp lá tranh hoặc rạ
hay những quầy hàng được che phên, liếp trông dân dã mà gần gũi biết
bao.
Vào
các ngày giáp Tết, mới canh hai, canh ba khi gà gáy vang; đường làng,
ngõ xóm nhộn nhịp người xe đi lại. Tiếng lẹp kẹp của những đôi dép,
tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn gánh, tiếng bước chân thình thịch của những
người đàn ông… Tiếng lẹp kẹp của những đôi dép dưới chân các bà, các chị
gánh hàng, tiếng những con gà bị trói kêu quang quác; tiếng eng éc của
những con lợn… tiếng chầy giã giò khua vào cối đá bốp chát… bốp chát…
tất cả những âm thanh ấy dù muốn, dù không cứ gợi mãi trong chúng ta nhớ
về không khí Tết quê và chợ quê ngày Tết.
Các
phiên chợ ngày Tết thường rất đông người. Người từ các nơi đổ về đông
đến nỗi muốn đi qua chợ phải lách, phải gạt nhau ra mới đi nổi.
Có
lẽ hấp dẫn nhất với trẻ em tại các phiên chợ tết xưa là hàng đồ chơi;
những cái trống bỏi nho nhỏ làm bằng sắt tây sơn xanh, đỏ khi lắc kêu
boong boong ! Hoặc chen vào đám đông xem người bán pháo, đốt pháp tép,
pháp đùng. Hoặc vòi vĩnh mẹ mua câu đối Tết hay mấy bức tranh cá chép,
tranh Lê Lợi, Quang Trung cưỡi voi đánh giặc… hoặc tranh nhau xem múa
rối nước, rối que…
Nhiều
đứa trẻ theo mẹ đi chợ mải chạy theo người bán kẹo kéo hoặc người “thợ”
nặn tò he, bán tượng Quan Công, Trương Phi, bông hoa hồng, cô gái mặc
áo mớ ba mớ bảy… được nặn bằng thứ bột dẻo quẹo có pha tẩm phẩm xanh,
đỏ, tím, vàng… mà rồi vì ham vui bị lạc không biết đường về ! Để rồi đêm
ba mươi Tết có người tìm tới tận nhà trả con. Mẹ - con ôm nhau khóc
khóc - cười cười.
Nói về chợ Tết quê, tôi vẫn nhớ mãi những câu thơ của ai đó:
“Người các làng xôn xao đi chợ Tết
Những gánh hàng nặng trĩu đôi vai…
Chỉ
mấy câu thơ mộc mạc, bình dị đó cũng phần nào giúp chúng ta cảm nhận ra
được nét mộc mạc độc đáo của cái không gian ồn ào mà sôi động của phiên
chợ Tết và sự đan xen của các loại âm thanh nó chứa đựng sự đơn sơ,
bình dị nhưng rất gần gũi, rất “quê” của phiên chợ Tết.
Phiên chợ tết vùng cao (Ảnh internet)
Quả
thật các chợ quê ngày trước, phản ánh rất rõ tính tự cung, tự cấp đặc
điểm kinh tế hạn hẹp của một thời kỳ mà nền kinh tế nước ta do hoàn cảnh
chiến tranh nên chưa phát triển được như ngày nay.
Ngày
Tết theo mẹ đi chợ, được mua cho bộ quần áo mới để đón xuân, dù là bộ
quần áo nâu, hay vải phin trắng, phin xanh hoặc đôi dép cũng thấy phấn
chấn, vui vẻ lạ thường. Có lẽ khi ở tuổi trưởng thành, mấy ai mà không
hình dung lại cảnh người mẹ nghèo lo mua quần áo, quà bánh, rượu, thuốc
cho chồng, con nhưng lại rất ít chú ý mua sắm cho mình. Mẹ mua hương
hoa, giấy tiền cho người đã khuất ! Mua lá dong, đỗ xanh, gạo nếp rồi
nhẩm tính Tết này gói mấy đồng bánh chưng và đi Tết những đâu… sao cho
không thua kém chị kém em. Thật là cao quý thay phẩm hạnh, đạo đức tuyệt
vời của người phụ nữ Việt Nam.
Quả
thật! Chợ Tết quê là sự giao thoa giữa sắc mầu của một vùng đất nông
nghiệp với đủ các sản phẩm do con người một nắng hai sương làm ra. Từ cá
loại gạo nếp, gạo tẻ, gạo tám thơm, gạo lúa nương, lượng thơm lừng của
miền tây Tổ Quốc… đến rau xanh, bí đỏ, bí đao, quả gấc chín đỏ để đồ
xôi, những phên đường mía, mật mía… cho tới quả cam chín hồng, những quả
bưởi vàng mơ. Những quả cau nho nhỏ, những lá trầu xanh… tới những con
gà, con vịt… những mớ lá dong, những thúng đỗ xanh… cho tới măng rừng,
cá biển cũng hiện diện đầy đủ trong phiên chợ Tết, kẻ bán người mua sôi
động ồn ào.
Vào
những ngày giáp Tết, ở những chợ họp bên đường, bên sông, thuyền, xe
xuôi ngược ra vào, chở đủ loại hàng hoá. Cảnh trên bến dưới thuyền quả
là hữu tình thơ mộng. Những chiếc ô tô đủ loại chở đầy hoa quả, chở
quất, đào vào ra tấp nập. Những bông hoa hồng đỏ thắm, những bông cúc
chúm chím như nụ cười e ấp của người thiếu nữ ở tuổi dậy thì; những bông
hoa huệ ngát hương, những bông hoa lay ơn đủ màu sắc… cứ bập bềnh theo
từng đợt sóng xô thuyền, trên sông nước trông thật đẹp mắt.
Gần
đây, kinh tế đất nước đang trên đà đổi mới, các chợ quê đã đổi thay
nhiều. Những gian hàng được xây kiên cố và được chia thành nhiều quầy
bán đủ các loại hàng hoá nội, ngoại. Từ vải vóc, đồ dùng sinh hoạt, các
món ăn chín, sống ! Đến xe máy, ti vi, tủ lạnh… và quà tặng ngày xuân.
Nó chứng tỏ cuộc sống, kinh tế ở nông thôn Việt Nam đang thay da dổi
thịt !
Đời
sống nâng cao cả tinh thần lẫn vật chất không thua kém gì thành phố,
thị xã. Nhưng dù sao trong lòng chúng ta vẫn thấy nhơ nhớ một cái gì đó
của những phiên chợ Tết quê ngày xưa. Phải chăng đó là những kí ức tuổi
thơ được theo mẹ đi chợ Tết.
Được
sống trong cái không khí ồn ào mà sôi động của chợ quê ! Để rồi giờ đây
khi tóc bạc mái đầu ta vẫn không thể nào quên được hình ảnh cụ đồ già,
ngồi trên chiếc chiếu hoa viết câu đối Tết như nhắc ta nhớ về truyền
thống văn hoá tốt đẹp mà ông cha đã bao đời vun đắp gây dựng lên
Chính Chi