Vàng son một thuở
Dấu tích vàng son vẫn còn đây,
Mối tình xưa cũ dẫu theo mây....
Bay đi, để lại ngàn thương tiếc,
Để nhớ muôn đời chẳng nhạt phai..!
Mối tình xưa cũ dẫu theo mây....
Bay đi, để lại ngàn thương tiếc,
Để nhớ muôn đời chẳng nhạt phai..!
SA ĐÉC VÀNG SON MỘT THUỞ
Tôi
đến Sa Đéc khi trời đã ngả chiều. Những tia nắng yếu ớt và buồn thiu
vắt qua các ngọn cây cao chót vót như cố níu lấy chút ánh sáng để giữ
cho ngày dài thêm một vài khoảnh khắc trước khi bóng tối trùm lên. Trong
không gian chập choạng ấy, lại thêm một bên bờ sông Tiền dập dờn sóng,
cứ gợi lên một điều gì đó không rõ rệt là vui hay buồn.
Cũng
giống như những đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long, Sa Đéc mang trong
lòng cái phóng túng, hào sảng của vùng đất mới, đồng thời không hề giấu
diếm vẻ mộc mạc, quê kiểng qua cách ứng xử và cả trên gương mặt phố
phường. Chính vì thế mà tôi luôn dành một tình cảm đặc biệt cho phương
Nam nắng gió này. Một tình cảm lạ lùng và hết sức tự nhiên, tựa như trên
đường phố bắt gặp một đôi mắt đẹp, một tà áo dài bay bay lòng bỗng ngẩn
ra, bồi hồi... Ví von vậy cũng không hẳn là đúng nhưng thực lòng, khi
đứng nhìn sông Sa Đéc tấp nập ghe thuyền và những con đường nho nhỏ,
chạy quanh co giữa một thị xã êm đềm, tôi thấy như đang đứng ở quê nhà
mình. Một cảm giác trìu mến, ấm áp cứ lan tỏa một cách nhẹ nhàng và thầm
lặng, không cưỡng được.
Chiều
đã hết. Bóng hoàng hôn chậm chạp phủ lên bầu trời thị xã một màu xám
trong man mác. Không phải do ánh đèn đường mà từ bóng sáng trên trời cao
rọi xuống gợi lên trong lòng người xa xứ nỗi nhớ quê, nhớ người. Tôi
chợt nghĩ, nhà thơ Hồ Dzếnh, khi viết bài Chiều chắc cũng
trong tâm trạng như thế này. Cái màu chiều khó mà thể hiện được trên bức
tranh sơn dầu, thậm chí tranh thủy mặc. Nó chỉ có thể cảm nhận bằng
những giác quan và cuối cùng là nhìn khói thuốc bay lên cây, vờn quanh
cái thời khắc chiều chậm đưa chân ngày để mà thành thơ.
Tôi đứng giữa buổi chiều Sa Đéc với bổi hổi bồi hồi như vậy.
oOo
Sa
Đéc có số phận thăng trầm theo diễn biến lịch sử ở vùng đất phương Nam
và của cả đất nước này. Địa danh Sa Đéc theo nhiều nhà nghiên cứu thì
bắt nguồn từ chữ Phsar Dek, theo tiếng Khmer, có nghĩa là Chợ Sắt. Một
số người khác lại cho rằng Phsar Dek là tên một vị thần nước của dân tộc
Khmer. Trước kia, đây là đất của Thủy Chân Lạp, được Chúa Nguyễn khai
phá, mở mang bờ cõi. Sau khi ổn định được vùng đất mới này, Chúa Nguyễn
cho thành lập 5 đạo và Sa Đéc thuộc Đông Khẩu Đạo. Năm 1832, vua Minh
Mạng thay đổi hệ thống hành chính, chia Nam bộ thành lục tỉnh và Sa Đéc
thuộc phủ Tân Thành, tình An Giang. Năm 1867, sau khi xâm chiếm nước ta,
Pháp lại thay đổi, chia Nam kỳ thành nhiều địa hạt và tỉnh An Giang
được chia thành 3 địa hạt là Châu Đốc, Sa Đéc và Ba Xuyên. Một thời gian
dài, Sa Đéc là một thị tứ, nơi tập trung buôn bán phồn thịnh bậc nhất
của đất Nam Kỳ.
Chưa
được bao lâu thì đến năm 1889, Pháp lại thành lập tỉnh Sa Đéc, gồm có
các quận: Châu Thành (tức thị xã Sa Đéc, một phần Châu Thành và một số
vùng phụ cận ngày nay), quận Cao Lãnh và quận Lai Vung. Trong vòng 5
năm, Sa Đéc phải chịu sự thay đổi 3 lần từ 3 chế độ chính trị. Năm 1951,
nhà cầm quyền thời kỳ này nhập Sa Đéc vào tỉnh Long Châu Tiền thành
tỉnh Long Châu Sa. Cho đến năm 1954, tỉnh Long Châu Sa lại được chia
thành 3 tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Đến năm 1956, chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ lại hủy bỏ tình Sa Đéc, chia phần đất phía
bờ bắc sông Tiền nhập vào tỉnh Kiến Phong; bờ nam sông Tiền nhập vào
tỉnh Vĩnh Long. Nhưng đến năm 1966, tỉnh Sa Đéc được tái lập và thị xã
Sa Đéc trở thành tỉnh lỵ. Mười năm sau, tháng 2 năm 1976, tỉnh Sa Đéc
nhập với tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Đồng Tháp và thị xã Sa Đéc vẫn được
giữ làm tỉnh lỵ. Đến năm 1994, tỉnh lỵ Đồng Tháp được chuyển về Cao Lãnh
và Sa Đéc lại trở thành một thị xã với nét vẻ riêng của mình: tấp nập,
đông đúc nơi chợ búa, bến thuyền... và thâm trầm trên các mái ngói cũ
xưa.
oOo
Ngày
trước, tức cách đây chừng vài chục năm, nhắc tới Sa Đéc, người dân Việt
ở miền Nam thường nhớ tới một người và một sản vật. Đó là bà Năm Sa
Đéc, một nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng và bánh phồng tôm Sa Giang khét
tiếng.
Bà
Năm Sa Đéc nổi tiếng với các tuồng hát bội, cải lương và cả lĩnh vực
phim ảnh nữa. Lứa tuổi trung niên trở lên, nhiều người còn nhớ vai Lữ Bố
trong tuồng Phụng Nghi Đình hay vai Mạnh thị trong tuồng Mạnh Lệ Quân do bà thủ vai. Hoặc, trong các vở cải lương Đời cô Lựu, Đoạn tuyệt,
bà Năm đóng vai mẹ chồng cô Diệu, mẹ chồng cô Loan (đều là mẹ chồng) đã
để lại dấu ấn sâu đậm cho khán giả. Đặc biệt, khi về sống với công tử
tài hoa và sau này thành học giả Vương Hồng Sển, và “kỳ án” bánh bao Cả
Cần đã khiến khán giả mộ điệu không thể quên được hình ảnh bà Năm Sa Đéc
vừa chanh chua, đanh đá trong vai mẹ chồng, vừa uy dũng trong vai võ
tướng vừa hiền lành, chất phác và đảm đang, tận tụy giữa cuộc đời thật
của mình.
Còn
bánh phồng tôm Sa Giang bây giờ không còn như trước nữa. Không biết có
phải do có quá nhiều nhãn hiệu bánh phồng tôm hay do khoa học phát
triển, công nghệ chế biến tinh vi đã làm hương vị bánh hiện nay trở nên
nhàn nhạt thế nào.
Tuy
nhiên, lần này ở Sa Đéc, tôi được thưởng thức một món ngon mà tôi tin
rằng, không ở đâu sánh bằng, kể cả Mỹ Tho. Đó là hủ tiếu Sa Đéc. Người
phụ nữ phụ trách món hủ tiếu này ở khách sạn Bông Hồng nhiệt thành giới
thiệu những hương vị đặc biệt làm nên tô hủ tiếu danh bất hư truyền. Tôi
cẩn trọng như một nhà... khảo cổ học, nếm từng chút một và cuối cùng
phải gật đầu công nhận hương vị tô hủ tiếu khô Sa Đéc ở đây ngon không
thể tả được. Người phụ nữ chỉ vào tô đựng nước tương có màu nâu đậm đà,
tiết lộ: Chính chất này làm nên cái riêng của hủ tiếu Sa Đéc mà ngay ở
Cao Lãnh cũng không có được. Cũng sợi hủ tiếu dai dai, cũng những con
tôm đỏ au, những cục thịt băm, miếng tim (đặc biệt là không có gan),
cũng khoảnh sườn heo như những tô hủ tiếu nơi khác nhưng rõ ràng hủ
tiếu khô Sa Đéc có một hương vị rất lạ và rất riêng. Tiếc một điều là
không thể ăn thêm một tô nữa để xác nhận vị giác của mình.
oOo
Nhưng,
mục đích chuyến đi Sa Đéc lần này không phải... khám phá hủ tiếu hay
món ngon Sa Đéc mà chính là tìm lại một Sa Đéc vàng son một thuở. Không
hiểu sao, khi đứng trên cầu bắc qua sông Sa Đéc, nhìn những con thuyền
ngược xuôi và đưa tầm mắt chạy dọc theo đường Nguyễn Huệ, nơi có ngôi
nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi tiếng tôi chợt nhớ đến câu hát của Vũ Thành An:
“Ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...”.
Sa Đéc ngày nay đã có những con đường rộng lớn nhưng vẫn còn đó những
con đường hẹp, chạy quanh co trong phố, giống như Hội An hay khu phố cổ
Hà Nội. Chính những con đường này trở thành chứng nhân cho những thăng
trầm của Sa Đéc (hay của một đời người?).
Tôi
ghé vào ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê. Ngôi nhà vẫn còn giữ được những nét
xưa cũ nhưng cảm giác chật chội đến một cách tự nhiên. Anh chàng hướng
dẫn viên đẹp như con gái, thú nhận: “Một phần do con cháu bán đất lấy
tiền sinh sống, phần bị người khác lấn chiếm nên không gian nhà cổ trở
nên chật chội hẳn đi”. Thực ra, căn nhà cổ (được ông Huỳnh Thuận, cha
của ông Huỳnh Thủy Lê xây dựng năm 1895 bằng gỗ và được sửa lại theo
kiến trúc hiện nay từ năm 1917) này thiết kế mang phong cách Trung Hoa
như thường thấy ở Hội An (Quảng Nam) hay ở Chợ Lớn (Sài Gòn), không có
gì đặc biệt hơn. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được nhiều người, trong và ngoài
nước, tìm đến là do mối tình của ông Huỳnh Thủy Lê với nữ văn sĩ người
Pháp Marguerite Duras. Mối tình đó được bà đưa vào tác phẩm L’ Amant
nổi tiếng khắp thế giới, được dịch sang nhiều thứ tiếng và được chuyển
thể thành phim cùng tên, năm 1991. Bộ phim này từng gây xôn xao Sài Gòn
một thời và những nhà kinh doanh nắm bắt cơ hội tung ra thị trường kiểu
mũ “Người tình”, dựa theo kiểu mũ nhân vật chính trong phim.
Trước
dấu tích xưa cũ còn sót lại (bị tàn phá khá nhiều) của ngôi nhà cổ này,
cứ gợi lên một không khí ảm đạm, buồn thương về những gì đã qua. Nhà
đẹp nhưng không vui, những căn phòng theo kiến trúc cũ chật chội nhưng
lạnh lẽo cứ buộc liên tưởng đến những cô phòng trong cung cấm ngày xưa.
Tôi men theo lối đi, cố gắng tìm một cái gì đó, khả dĩ chứng minh cho
những ngày hạnh phúc của chủ nhân ngôi nhà này bên người tình mắt xanh.
Nhưng, hoàn toàn tuyệt vọng, dù đã biết trước là không thể có. Tình yêu
của họ hẳn cũng mong manh và chính vì thế mà đẹp đẽ nên thu hút được
nhiều người tìm đến đây.
Khi
rời Sa Đéc, tôi lại nghĩ đến lẽ hưng phế của cuộc đời. Sa Đéc từng là
tỉnh lỵ đông vui và bây giờ cố gắng chứng tỏ mình. Song, làm sao biết
được gì sẽ xảy ra! Cũng như tô hủ tiếu Sa Đéc kia đang oằn lưng chống đỡ
những món ăn xa lạ được bày ra mỗi ngày trên bàn tiệc để giữ hương hoa
vàng son một thuở không bị tàn phai ngõ hầu dành tặng cho những người
qua đây một ký ức đẹp.
LƯU VỸ BỬU
Tất nhiên, gã đàn ông ấy không được viết rõ ràng danh tính trong tác phẩm “Người tình”, nhưng những chi tiết và những tình huống đã được soi chiếu vào thực tế và độc giả dễ dàng nhận ra là Huỳnh Thủy Lê!
Trong tiểu thuyết, Marguerite Duras hé lộ lần gặp gỡ định mệnh đầu tiên diễn ra vào lúc bà “mười lăm tuổi rưỡi” còn Huỳnh Thủy Lê đã 32 tuổi. Cái cột mốc “mười lăm tuổi rưỡi” được Marguerite Duras nhắc đi nhắc lại nhiều lần, như một khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Mối tình say đắm nhưng đầy trái ngang giữa Marguerite Duras và Huỳnh Thủy Lê rơi vào bẽ bàng. Hai trái tim lãng mạn không thể gắn kết với nhau vì Huỳnh Thủy Lê phải cưới vợ theo sự sắp xếp môn đăng hộ đối của người cha, còn Marguerite Duras trở về Pháp năm 18 tuổi!
Đúng như Marguerite Duras viết trong “Người tình”, Huỳnh Thủy Lê dẫu lịch lãm trên chiếc xe Limousine sang trọng và hào phóng chi tiêu, nhưng “anh sẽ không có gì cả, nếu làm trái ý cha mình”. Sự chân thành của Huỳnh Thủy Lê lẫn sự rồ dại của Marguerite Duras cũng không cứu vớt được mối tình nghiệt ngã trước những định kiến phũ phàng.
Sau khi cưới vợ, Huỳnh Thủy Lê được thừa kế gia sản và có 5 người con.
Huỳnh Thủy Lê sống chủ yếu ở Sài Gòn nhưng vẫn giữ biệt thự ở Sa Đéc như
một kỷ niệm. Năm 1972, Huỳnh Thủy Lê qua đời, 5 người con của ông cũng
ra nước ngoài lập nghiệp. Ngôi nhà ở Sa Đéc được Nhà nước quản lý từ năm
1975.
LÊ THIẾU NHƠN
"Người tình" trong nhà cổ Sa Đéc
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi bật như một điểm đến cho du khách khi về với
miền sông nước Cửu Long là nhờ chủ nhân của nó liên quan đến tác phẩm
“Người tình” lừng danh!
Nếu nói về kiểu dáng mỹ thuật và mức độ hoành tráng, thì nhà cổ Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc (Đồng Tháp) không thể so sánh với nhà cổ Huỳnh Kỳ ở Cầu Kè (Trà Vinh) và nhà cổ Huỳnh Phủ ở Thạnh Phú (Bến Tre). Thế nhưng, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi bật như một điểm đến cho du khách khi về với miền sông nước Cửu Long là nhờ chủ nhân của nó liên quan đến tác phẩm “Người tình” lừng danh
Thực tế, cái tên gọi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê cũng là cách lả lơi theo tác phẩm “Người tình”, vì ngay chính điện ngôi nhà có ghi danh chủ nhân “Huỳnh Cẩm Thuận” bằng tiếng Hoa. Nói một cách rõ ràng hơn, nhân vật Huỳnh Thủy Lê chỉ thừa kế từ cha mình - thương gia Huỳnh Cẩm Thuận, và có một thời gian không ngắn cư ngụ tại đây.
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Cẩm Thuận bỏ công bỏ của xây dựng từ năm 1895 với chất liệu gỗ mang phong cách cố hương Quảng Châu (Trung Quốc). Đến năm 1917, khi văn hóa Pháp bao trùm cả Đông Dương, thì ngôi nhà gỗ được bọc thêm kiểu dáng phương Tây bên ngoài. Chính sự kết hợp này mang lại cho biệt thự một nét riêng khá độc đáo!
Nếu không có tác phẩm “Người tình” thì có lẽ giờ đây nhà cổ Huỳnh Thủy Lê chỉ là một nhà cổ bình thường, và thiên hạ chắc chắn gọi đúng tên của nó là nhà cổ Huỳnh Cẩm Thuận. Thế nhưng, ở đời có những cơ duyên kỳ lạ, bất kỳ thứ gì dù đơn sơ đến đâu mà được khoác lên huyền thoại thì đều có sức thu hút đặc biệt.
Nếu nói về kiểu dáng mỹ thuật và mức độ hoành tráng, thì nhà cổ Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc (Đồng Tháp) không thể so sánh với nhà cổ Huỳnh Kỳ ở Cầu Kè (Trà Vinh) và nhà cổ Huỳnh Phủ ở Thạnh Phú (Bến Tre). Thế nhưng, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi bật như một điểm đến cho du khách khi về với miền sông nước Cửu Long là nhờ chủ nhân của nó liên quan đến tác phẩm “Người tình” lừng danh
Thực tế, cái tên gọi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê cũng là cách lả lơi theo tác phẩm “Người tình”, vì ngay chính điện ngôi nhà có ghi danh chủ nhân “Huỳnh Cẩm Thuận” bằng tiếng Hoa. Nói một cách rõ ràng hơn, nhân vật Huỳnh Thủy Lê chỉ thừa kế từ cha mình - thương gia Huỳnh Cẩm Thuận, và có một thời gian không ngắn cư ngụ tại đây.
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Cẩm Thuận bỏ công bỏ của xây dựng từ năm 1895 với chất liệu gỗ mang phong cách cố hương Quảng Châu (Trung Quốc). Đến năm 1917, khi văn hóa Pháp bao trùm cả Đông Dương, thì ngôi nhà gỗ được bọc thêm kiểu dáng phương Tây bên ngoài. Chính sự kết hợp này mang lại cho biệt thự một nét riêng khá độc đáo!
Nếu không có tác phẩm “Người tình” thì có lẽ giờ đây nhà cổ Huỳnh Thủy Lê chỉ là một nhà cổ bình thường, và thiên hạ chắc chắn gọi đúng tên của nó là nhà cổ Huỳnh Cẩm Thuận. Thế nhưng, ở đời có những cơ duyên kỳ lạ, bất kỳ thứ gì dù đơn sơ đến đâu mà được khoác lên huyền thoại thì đều có sức thu hút đặc biệt.
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê
Năm 1984, khi nữ sĩ Marguerite Duras đặt dấu chấm hết cho dòng cuối cùng của “Người tình” ở ngoại ô Paris, chính bà cũng không thể ngờ đó là cuốn sách rực rỡ nhất trong số hơn 40 tiểu thuyết của mình. Và nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ngờ cuốn sách hé lộ giai đoạn bí mật nhất trong cuộc đời của mình, đã làm phục sinh một ngôi biệt thự cổ nằm lặng lẽ bên một nhánh sông Tiền yên ả.
Ban đầu “Người tình” được xếp vào thể loại hư cấu, nhưng câu chuyện của “Người tình” và không gian của “Người tình” khiến độc giả tin rằng yếu tố sự thật lấn lướt hoàn toàn yếu tố tưởng tượng. Sau khi “Người tình” được trao giải thưởng Gouncourt uy tín và được dịch ra gần 50 ngôn ngữ trên thế giới, nữ sĩ Marguerite Duras lên tiếng thừa nhận đó là tự truyện về thời thiếu nữ của bà ở Việt Nam.
Nữ sĩ Marguerite Duras sinh năm 1914 tại Sài Gòn. Thân phụ của bà là một doanh nhân Pháp sang Việt Nam làm ăn, không may bị bạo bệnh qua đời khi bà mới 4 tuổi. Thân mẫu của bà không thể tiếp tục sự nghiệp làm ăn ở đô thị, đã đưa cả gia đình bốn người về sống tại Sa Đéc ngày ấy chỉ là một thị trấn nhỏ.
Mẹ dạy học tại Trường tiểu học Sa Đéc (nay là Trường Tiểu học Trưng
Vương), còn Marguerite Duras vẫn phải lên Sài Gòn học nội trú. Cuộc sống
của Marguerite Duras trôi qua trĩu nặng với người mẹ đã khô cạn khát
vọng, người anh nghiện ngập và người em trai yếu đuối. Sự tẻ nhạt và
túng quẫn ấy đã thay đổi khi Marguerite Duras gặp gã đàn ông người Hoa
giàu có trên chuyến phà Sa Đéc - Vĩnh Long trong một lần về thăm nhà và
quay lại Sài Gòn đi học!Năm 1984, khi nữ sĩ Marguerite Duras đặt dấu chấm hết cho dòng cuối cùng của “Người tình” ở ngoại ô Paris, chính bà cũng không thể ngờ đó là cuốn sách rực rỡ nhất trong số hơn 40 tiểu thuyết của mình. Và nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ngờ cuốn sách hé lộ giai đoạn bí mật nhất trong cuộc đời của mình, đã làm phục sinh một ngôi biệt thự cổ nằm lặng lẽ bên một nhánh sông Tiền yên ả.
Ban đầu “Người tình” được xếp vào thể loại hư cấu, nhưng câu chuyện của “Người tình” và không gian của “Người tình” khiến độc giả tin rằng yếu tố sự thật lấn lướt hoàn toàn yếu tố tưởng tượng. Sau khi “Người tình” được trao giải thưởng Gouncourt uy tín và được dịch ra gần 50 ngôn ngữ trên thế giới, nữ sĩ Marguerite Duras lên tiếng thừa nhận đó là tự truyện về thời thiếu nữ của bà ở Việt Nam.
Nữ sĩ Marguerite Duras sinh năm 1914 tại Sài Gòn. Thân phụ của bà là một doanh nhân Pháp sang Việt Nam làm ăn, không may bị bạo bệnh qua đời khi bà mới 4 tuổi. Thân mẫu của bà không thể tiếp tục sự nghiệp làm ăn ở đô thị, đã đưa cả gia đình bốn người về sống tại Sa Đéc ngày ấy chỉ là một thị trấn nhỏ.
Tất nhiên, gã đàn ông ấy không được viết rõ ràng danh tính trong tác phẩm “Người tình”, nhưng những chi tiết và những tình huống đã được soi chiếu vào thực tế và độc giả dễ dàng nhận ra là Huỳnh Thủy Lê!
Trong tiểu thuyết, Marguerite Duras hé lộ lần gặp gỡ định mệnh đầu tiên diễn ra vào lúc bà “mười lăm tuổi rưỡi” còn Huỳnh Thủy Lê đã 32 tuổi. Cái cột mốc “mười lăm tuổi rưỡi” được Marguerite Duras nhắc đi nhắc lại nhiều lần, như một khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Mối tình say đắm nhưng đầy trái ngang giữa Marguerite Duras và Huỳnh Thủy Lê rơi vào bẽ bàng. Hai trái tim lãng mạn không thể gắn kết với nhau vì Huỳnh Thủy Lê phải cưới vợ theo sự sắp xếp môn đăng hộ đối của người cha, còn Marguerite Duras trở về Pháp năm 18 tuổi!
Đúng như Marguerite Duras viết trong “Người tình”, Huỳnh Thủy Lê dẫu lịch lãm trên chiếc xe Limousine sang trọng và hào phóng chi tiêu, nhưng “anh sẽ không có gì cả, nếu làm trái ý cha mình”. Sự chân thành của Huỳnh Thủy Lê lẫn sự rồ dại của Marguerite Duras cũng không cứu vớt được mối tình nghiệt ngã trước những định kiến phũ phàng.
Du khách tham quan nhà cổ Huỳnh Thủy Lê
Bộ phim “Người tình” do hai diễn viên Lương Gia Huy
(Hồng Kong) và Jane March (Anh) đóng vai chính. Khán giả theo chân
“Người tình” đã đến Sa Đéc để thăm viếng ngôi nhà mà nhân vật nam ngoài
đời từng sinh sống. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê định danh và thu hút du khách
nhờ có bóng dáng “Người tình”.
Mỗi năm nhà cổ Huỳnh Thủy Lê mang lại cho ngành du lịch Đồng Tháp một khoản doanh thu tương đối lớn.
|
Từ sức hấp dẫn của tiểu thuyết “Người tình”, đạo diễn Annaud quyết định
đưa tiểu thuyết này lên màn ảnh vào năm 1990. Khoảng 90% cảnh quay bộ
phim “Người tình” được thực hiện tại Việt Nam, trừ những cảnh mặn nồng
của nam nữ vai chính được quay bí mật tại Pháp.
Khi được mời cố vấn về văn hóa cho bộ phim “Người tình”, nhà văn Sơn Nam nói với đạo diễn Annaud: “Hãy cố gắng để 50 năm sau hoặc 100 năm sau, khi hậu thế muốn biết về mảnh đất Nam Bộ giữa 2 cuộc chiến tranh, người ta sẽ tìm xem phim của ông”.
Quả nhiên, đạo diễn Annaud đã làm một “Người tình” với những hình ảnh quá quyến rũ, từ cảnh mộc mạc miền Tây đến cảnh chộn rộn Chợ Lớn cuối thập niên 30 của thế kỷ 20. Trước khi mất (năm 1996) nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ít lần ca ngợi thành công của bộ phim “Người tình”!
Đến nay, “Người tình” vẫn là bộ phim nước ngoài đầu tư lớn nhất để quay tại Việt Nam. Nếu tính theo thời giá quy ra… vàng, thì kinh phí làm phim “Người tình” của đạo diễn Annaud gấp đôi kinh phí làm phim “Người Mỹ trầm lặng” của đạo diễn Phillip Noyce.
Thế nhưng, dù kinh phí không hạn chế, thì đạo diễn Annaud cũng không thể dàn dựng bến phà đúng không khí Marguerite Duras miêu tả dạo nào trên dòng sông Tiền mênh mông. Bến phà mà Huỳnh Thủy Lê và Marguerite Duras gặp gỡ trong phim “Người tình” được quay tại… Cát Lái - TP. HCM.
Một sự thay thế bối cảnh nữa trong phim “Người tình”, đó là ngôi nhà cổ. Cảnh quay không nhiều, chỉ có một trường đoạn Huỳnh Thủy Lê về thưa chuyện với cha mình để thương lượng ý định tiến xa hơn với cô gái da trắng, chứ không đám cưới theo hôn nhân định trước. Đạo diễn Annaud đến Sa Đéc và chứng kiến ngôi nhà cổ năm xưa đã bị bủa vây và xâm lấn bởi các hộ dân chen chúc xô bồ, nên cho rằng hơi nhỏ và không bắt mắt.
Đạo diễn Annaud lấy hình ảnh nhà cổ Sa Đéc và lấy hình ảnh nhà cổ Dương Chấn Kỷ ở quận Bình Thủy - Cần Thơ để tạo tác tư gia họ Huỳnh trong phim “Người tình”. Khán giả khi xem “Người tình” phải rất tinh ý mới nhận ra cảnh nào của nhà cổ Sa Đéc và cảnh nào của nhà cổ Cần Thơ. Thế nhưng, sòng phẳng mà nhận xét, hình ảnh nhà cổ Cần Thơ lấn lướt hình ảnh nhà cổ Sa Đéc trong trường đoạn hiện ra trên phim “Người tình”
Khi được mời cố vấn về văn hóa cho bộ phim “Người tình”, nhà văn Sơn Nam nói với đạo diễn Annaud: “Hãy cố gắng để 50 năm sau hoặc 100 năm sau, khi hậu thế muốn biết về mảnh đất Nam Bộ giữa 2 cuộc chiến tranh, người ta sẽ tìm xem phim của ông”.
Quả nhiên, đạo diễn Annaud đã làm một “Người tình” với những hình ảnh quá quyến rũ, từ cảnh mộc mạc miền Tây đến cảnh chộn rộn Chợ Lớn cuối thập niên 30 của thế kỷ 20. Trước khi mất (năm 1996) nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ít lần ca ngợi thành công của bộ phim “Người tình”!
Đến nay, “Người tình” vẫn là bộ phim nước ngoài đầu tư lớn nhất để quay tại Việt Nam. Nếu tính theo thời giá quy ra… vàng, thì kinh phí làm phim “Người tình” của đạo diễn Annaud gấp đôi kinh phí làm phim “Người Mỹ trầm lặng” của đạo diễn Phillip Noyce.
Thế nhưng, dù kinh phí không hạn chế, thì đạo diễn Annaud cũng không thể dàn dựng bến phà đúng không khí Marguerite Duras miêu tả dạo nào trên dòng sông Tiền mênh mông. Bến phà mà Huỳnh Thủy Lê và Marguerite Duras gặp gỡ trong phim “Người tình” được quay tại… Cát Lái - TP. HCM.
Một sự thay thế bối cảnh nữa trong phim “Người tình”, đó là ngôi nhà cổ. Cảnh quay không nhiều, chỉ có một trường đoạn Huỳnh Thủy Lê về thưa chuyện với cha mình để thương lượng ý định tiến xa hơn với cô gái da trắng, chứ không đám cưới theo hôn nhân định trước. Đạo diễn Annaud đến Sa Đéc và chứng kiến ngôi nhà cổ năm xưa đã bị bủa vây và xâm lấn bởi các hộ dân chen chúc xô bồ, nên cho rằng hơi nhỏ và không bắt mắt.
Đạo diễn Annaud lấy hình ảnh nhà cổ Sa Đéc và lấy hình ảnh nhà cổ Dương Chấn Kỷ ở quận Bình Thủy - Cần Thơ để tạo tác tư gia họ Huỳnh trong phim “Người tình”. Khán giả khi xem “Người tình” phải rất tinh ý mới nhận ra cảnh nào của nhà cổ Sa Đéc và cảnh nào của nhà cổ Cần Thơ. Thế nhưng, sòng phẳng mà nhận xét, hình ảnh nhà cổ Cần Thơ lấn lướt hình ảnh nhà cổ Sa Đéc trong trường đoạn hiện ra trên phim “Người tình”
Về miền Tây, theo dấu 'Người tình'
Chuyến khám phá miệt vườn Tây Nam bộ của Sài Gòn Tourist đưa tôi qua những cù lao xanh mướt bên sông Tiền, chợ nổi Cái Răng, rừng tràm Trà Sư, và dừng chân trước một ngôi nhà cổ kỳ lạ ở thị xã Sa Đéc- Đồng Tháp, nơi diễn ra một thiên diễm tình Việt- Pháp đã đi vào tiểu thuyết “Người tình” nổi tiếng toàn thế giới...
Ngôi nhà kỳ lạ ở miệt vườn
Trong cái nắng chói chang ban trưa Đồng Tháp, nhà cổ
Huỳnh Thủy Lê hiện ra sừng sừng bên sông. Ngôi nhà được xây cất từ năm
1895 này cho đến bây giờ vẫn nổi bật không thể trộn lẫn giữa thị xã đã
mọc lên rất nhiều những cao ốc hiện đại.
Ngôi nhà có lối kiến trúc độc đáo kết hợp giữa Đông và
Tây với nét cao thoáng, xây bằng gạch rất dày nhưng hình dáng lại theo
truyền thống người Việt, mái lợp ngói âm dương, hai bên đầu hồi cong vút
hình thuyền như những mái đình Bắc Bộ.
Bước vào nhà ba gian, tôi bắt gặp cách trang trí nội
thất theo phong thủy người Hoa. Các bao lơn, thành vọng sơn son thếp
vàng, chính giữa có chạm đôi loan phụng thể hiện loan phụng hòa mình,
sắc cầm thỏa hiệp có ý nghĩa là hạnh phúc trường tồn. Giữa bàn thờ có
bức hình Quan Công với bộ râu dài cuộn như nước chảy. Gian trong vẫn còn
chiếc phản khảm xà cừ với những đường nét cực kỳ tinh xảo.
Hai phòng ngủ bằng gỗ quý, chăn đệm trắng tinh và mành
rèm khép hờ gợi vẻ êm đềm trướng rủ màn che... Nền nhà lát bằng gạch
bông được đặt hàng và chở từ Pháp sang. Nền gạch hơi trũng ở giữa gian
chính của ngôi nhà.
Mới đầu, người ta cứ tưởng do bị lún, nhưng sau này mới
biết đó là một nét phong thuỷ theo ý tưởng “nước chảy chỗ trũng” để cầu
tiền tài vào nhà. Hơn một thế kỷ đầy biến động trôi qua, ngôi nhà cổ
Huỳnh Thuỷ Lê vẫn nguyên vẹn những giá trị kiến trúc độc đáo, nhưng điều
khiến hàng vạn du khách trong và ngoài nước đổ về đây lại là để được
tận thấy nơi diễn ra câu chuyện “Người tình”.
Chủ nhân của ngôi nhà - ông Huỳnh Thuận không khởi
nghiệp làm giàu bằng ruộng lúa như những đại điền chủ khác ở miển Tây
Nam bộ, mà bằng kinh doanh lúa gạo.
Ông có chành gạo lớn nhất Sa Đéc, nơi tập trung lúa gạo
để chuyển đi bán ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như đưa về cảng Nhà Rồng để
xuất khẩu. Phất lên với nghề xuất khẩu gạo, ông Huỳnh Thuận xây dựng
nên những dãy phố sầm uất ở thị xã Sa Đéc để cho thuê.
Ba phần tư bất động sản ở Sa Đéc là của ông Huỳnh
Thuận. Ngoài ra, ông còn có nhiều bất động sản ở Sài Gòn - Chợ Lớn để
cho thuê. Cậu con trai út Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Thuận chọn nối
nghiệp trao cho toàn bộ gia sản. Vì vậy mà ông Thủy Lê thường xuyên đi
lại giữa Sa Đéc và Sài Gòn để quán xuyến chuyện làm ăn của gia đình bằng
chiếc xe Limousine.
Hồi ấy khắp xứ Nam Kỳ lục tỉnh, chỉ có hai chiếc
Limousine, một của công tử Bạc Liêu ăn chơi khét tiếng và một của Huỳnh
Thủy Lê.
Tuy giàu có nhưng Huỳnh Thủy Lê không chơi bời theo
kiểu “đốt tiền luộc trứng” như công tử Bạc Liêu. Gia đình họ Huỳnh ở xứ
Sa Đéc được người dân biết ơn vì đã bỏ nhiều tiền ra để xây chùa và
trường học.
Công tử gốc Hoa - cô gái Pháp và tiểu thuyết “Người tình”
Hôm ấy chiếc Limousine chở Huỳnh Thủy Lê từ Sa Đéc lên Sài Gòn dừng lại trên bến phà Mỹ Thuận.
Công tử Huỳnh Thuỷ Lê lúc còn trẻ. |
“Tôi 15 tuổi, trên chuyến phà qua sông Cửu Long” - Nữ
văn sỹ M. Duras đã viết như vậy trong phần mở đầu của tiếu thuyết “L.
Amante” (Người tình).
Trên chuyến phà ấy, ngồi trong chiếc ôtô đen sang
trọng, công tử Thủy Lê bắt gặp một thiếu nữ da trắng, tóc nâu, đang đứng
cạnh lan can phà nhìn dòng nước chảy xuôi. Nàng đội mũ rộng vành, mặc
chiếc váy đầm màu sáng – cô gái Pháp toát lên một vẻ đẹp rất Á Đông
khiến công tử Thủy Lê như bị thôi miên.
Chàng lặng lẽ mở cửa xe đến bên nàng. Chỉ qua vài lời
bắt chuyện của Thủy Lê, họ bỗng thấy như thân quen từ thuở nào, nhất
là khi nhận ra cả hai cùng ở Sa Đéc, sống gần nhau “hai nhà cuối phố”.
Chàng mời nàng cùng lên xe về Sài Gòn và nàng đã gật đầu…
Về Sài Gòn, họ gặp nhau mỗi ngày và yêu nhau như một
điều tất yếu. Họ yêu nhau trong những cơn cuồng say của thể xác và tinh
thần nhưng không thể công khai quan hệ của mình bởi những ngáng trở về
sắc tộc, giai cấp, giàu nghèo.
M.Duras - lúc ấy là một thiếu nữ da trắng “mẫu quốc”
trong gia đình mà bốn người (người anh cả nghiện ngập) phải sống nhờ vào
đồng lương của người mẹ làm hiệu trưởng trường nữ sinh Sa Đéc bấy giờ.
Còn Huỳnh Thủy Lê lại là một công tử giàu có, được thừa hưởng cơ nghiệp
gia đình và lại là dân thuộc địa.
Chính vì thế, cuộc tình của diễn ra trong “bóng tối”,
không dám thừa nhận với bất cứ ai. Nhưng ai đó đã nói trên đời có hai
điều khó giấu nhất: say rượu và đang yêu. Sau hai năm, gia đình của
Huỳnh Thủy Lê đã biết việc con trai mình yêu một thiếu nữ “mẫu quốc”.
Cha của Thủy Lê nhất quyết bắt con từ bỏ tình yêu
“ngang trái” này, 10 năm trước ông đã hứa hôn cho chàng một thiếu nữ
Tiền Giang.
Dù rất yêu Duras, nhưng truyền thống Nho giáo đã ăn sâu
vào huyết quản của người Hoa, Thủy Lê không dám cưỡng lời cha mà đành
chấp nhận cuộc hôn nhân sắp đặt.
Còn Duras cùng gia đình về Pháp trong một cuộc chia ly
khắc khoải, đầy nước mắt. Hôm ra bến tàu, M.Duras ngóng mãi hình bóng
của người tình, mong được nhìn thấy Thủy Lê lần cuối.
Tàu vừa nhổ neo, Duras đứng tựa vào lan can như những
lần trên phà Mỹ Thuận vô vọng nhìn vào bờ. Trong khoảnh khắc, cô nhìn
thấy Thủy Lê đang đứng nép bên ôtô màu đen quen thuộc. Họ chỉ kịp vẫy
tay chào...
Dù đã kể lại câu chuyện tình này biết bao lần, nhưng
Thanh Tuyền, nữ thuyết minh của nhà cổ Huỳnh Thủy Lê vẫn đầy cảm xúc khi
nói về đoạn kết của cuộc tình này.
“Sau khi cưới vợ, Huỳnh Thủy Lê trở về với công việc
kinh doanh. Ông và bà Mỹ có với nhau 5 đứa con 3 trai 2 gái, hiện nay
đều đinh cư ở nước ngoài và rất thành đạt. Cô con gái Huỳnh Thủy Anh về
làm con dâu Trần Văn Hương, nguyên Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ.
Huỳnh Thủy Tiên hiện nay đang là GS.TS Giám đốc bệnh viện ở bang
Califonia (Mỹ). Huỳnh Thủy Hà, giảng viên Đại học Sorbone (Pháp)...
Khi đã ở tuổi thất thập ông Thủy Lê có sang Pháp tìm
gặp người tình thuở nào. Một ngày nọ, chuông điện thoại reo, bà M.Duras
cầm máy và lặng người đi khi nghe giọng một người đàn ông.
Dù gần 50 năm đã trôi qua, bà vẫn nhận ra giọng Thủy
Lê. Thủy Lê đang ở Paris và tha thiết mong gặp bà. Bà đã từ chối gặp mà
nước mắt rơi ràn rụa. Và bà nghe thấy giọng của Thủy Lê đang run lên:
“M.Duras, anh yêu em và yêu em suốt đời”.
Một năm sau, Huỳnh Thủy Lê qua đời tại Sa Đéc ở tuổi
70. Những cảm xúc về người tình trỗi dậy, M.Duras đã viết cuốn tiểu
thuyết “L’Amant, Nhà xuất bản Les Éditions de Minuit năm 1984”. Cuốn
sách nhanh chóng trở thành best- seller với 2,4 triệu bản, đoạt giải
Goncourt danh giá của Pháp và dịch ra 43 thứ tiếng.
Và tiểu thuyết đã được dựng thành phim nhựa “Người
tình” cũng gây xôn xao dư luận. Trước đó đã viết nhiều sách đều chìm
vào quên lãng, nhưng với tiểu thuyết “Người tình” M.Duras đã đi vào lịch
sử văn chương nước Pháp. Cuộc sống riêng không hạnh phúc, M.Duras qua
đời năm 1996 ở Paris”.
Cảnh trong phim "Người tình". |
Trưa ấy, tôi thấy nhiều du khách nước ngoài đến tham
quan ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê trong đó có nhiều người Pháp. Sau khi ông
Huỳnh Thủy Lê mất, các con đều định cư ở nước ngoài, ngôi nhà này trở
thành trụ sở của công an.
Nhưng người ta thấy có rất nhiều khách du lịch cứ lấp
ló trước trụ sở. Hỏi ra mới biết họ muốn vào xem... trụ sở công an,
nhưng vì nguyên tắc của ngành nên không thể. Sau này, thấy lượng khách
nước ngoài kéo đến và đứng ngoài ngày một đông, Sở Du lịch Đồng Tháp đã
kiến nghị biến nơi đây thành một điểm du lịch.
Nhà cổ Huỳnh Thuỷ Lê cũng được công nhận di tích lịch
sử cấp quốc gia. Ngôi nhà có sức hút lớn đến mức, có hẳn một tour du
lịch mang tên “Theo dấu người tình”, mỗi ngày trung bình khoảng 100
khách du lịch nước ngoài tới đây để trải nghiệm cho riêng mình.
Ngôi nhà cổ miệt vườn- được trùm lên thiên
diễm tình của công tử người Hoa và cô gái Pháp - đã vượt qua những giới
hạn của thời gian và không gian, trở thành điểm đến hấp dẫn của những ai
từng thổn thức với “Người tình"
Phùng Nguyên
Anh Còn Nợ Em
Chuyện đời lắm cảnh đa đoan,
Mà lòng lại trót đa mang khối tình....
Chẳng tròn duyên nợ ba sinh,
Chuyện tình cụ Vương Hồng Sển
Ngày 9/12/2006, kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà văn hóa Vương Hồng Sển,
tại trụ sở mới của tạp chí Xưa và Nay (181 Đề Thám, quận 1, TP.HCM) đã
cử hành lễ tưởng nhớ cũng như trưng bày một số hình ảnh, hiện vật của cụ
Vương với sự tham gia đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo,
nhà sưu tập cổ vật trong nước.
Trong dịp "đốt lò hương cũ nhớ người xưa" này đã có nhiều phát
biểu nêu bật những đóng góp của cụ Vương đối với sự nghiệp văn hóa nước
nhà. Riêng về cuộc sống tình cảm của cụ, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn và
một số vị khác có nhắc đến nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc và hình bóng của một
"em Tuyết" đẹp tuyệt vời đã làm rung động trái tim của cụ từ thuở thanh
xuân cho tới lúc bạc đầu. Vậy "em Tuyết" là ai?
Nhà xưa mái tuyết phai tàn,
Tình xưa vẫn ngõ mấy hàng song song |
Ảnh:
Diệp Đức Minh
Nhà xưa mái Tuyết...
Cô Dương Thị Tuyết đẹp có tiếng ở vùng chợ Sóc Trăng vào những năm
cuối thập niên 20 của thế kỷ trước. Đẹp đến nỗi cụ Vương Hồng Sển gọi
bằng mấy tiếng "sắc nước hương trời" và vẻ tươi mát trẻ trung như hoa
hàm tiếu sánh với những nụ "hoa đào vừa hé". Ngoài sắc đẹp được xếp vào
hàng hoa khôi trong vùng, cô Tuyết lại là cháu nội của bà phủ An nức
tiếng giàu có với 2.000 mẫu ruộng cò bay thẳng cánh và gia sản sáng lòa
với nhà cao cửa rộng mà tiếng đồn phú quý lan khắp Sài Gòn. Thế nhưng có
hai điều đã đặt "em Tuyết" (chữ cụ Vương Hồng Sển dùng) trước ngã năm
ngã sáu đường đời.
Một là, bà phủ An do một chướng duyên nào đấy đã "không nhìn" cô
cháu nội (Tuyết) của mình trong một thời gian dài, lúc đó cô Tuyết vừa
đang trong độ tuổi trăng tròn. Hai là, ba má cô Tuyết rất ham đánh bạc,
tiền của trong nhà đội nón ra đi khiến cho "nợ thiếu tứ giăng". Trong
tình cảnh như vậy, cô Tuyết như một đóa hoa hàm tiếu nở hé trên đất
nóng. Chẳng thiếu gì người mơ ước được đem những giọt nước mát tưới cho
đời Tuyết được tươi, trong số đó có một thanh niên 26 tuổi.
Thanh niên đó chính là Vương Hồng Thạnh, sinh năm Nhâm Dần (1902)
tại Sóc Trăng (cùng quê với Tuyết). Mấy chữ Vương Hồng Thạnh (đọc theo
âm Hán Việt) khi làm khai sinh (ghi theo chữ Quốc ngữ) mới thành Vương
Hồng Sển. Chữ Sển, theo một số người hiểu chuyện, thì không có nghĩa gì,
mà chỉ do đọc chệch âm "Thạnh" mà ra. Tới năm 17 tuổi, chàng Vương rời
Sóc Trăng lên Sài Gòn học Trường Chasseloup Laubat tức Trường Jean
Jacques Rousseau sau này (nay là Trường Lê Quý Đôn, quận 3, TP.HCM). Bốn
năm sau, tốt nghiệp Thành chung lúc 21 tuổi (1923). Đến năm 23 tuổi đã
cưới vợ, không phải "em Tuyết" mà là cô Trần Thị Th. nhưng chỉ ở với
nhau 9 tháng rồi ly dị.
Khi cuộc hôn nhân đầu tiên trong đời khép lại, chàng Vương mới mở
ra một cánh cửa mới nhằm đến "em Tuyết" mà Vương thương yêu nồng nàn và
cũng đau khổ nhiều năm vì Tuyết. Bấy giờ, chàng Vương 26 tuổi và cô
Tuyết mới 17 tuổi (1928) đã làm lễ thành hôn và sống chung với nhau
trong 19 năm trước khi chia tay. Lúc mới gặp nhau, chàng Vương đưa "em
Tuyết" từ chốn tha hương về lại quê Sa Đéc và sau này trong một hồi ức
đã kể lại đoạn trường tứ cố vô thân ấy như sau: "Rồi từ ngày anh (Vương
Hồng Sển) đưa em (Dương Thị Tuyết) về tỉnh Sa Đéc, mười lượng vàng của
mẹ anh mãn phần trối để lại, anh dâng cho nhạc phụ, nhạc mẫu làm lễ
sính, ông bà "nướng" tất cả trong sòng me (cờ bạc), cầm thế cho nhà Tăng
Quang Vỉ, 10 lượng thế lấy 600 đồng bạc đầm xòe, khi mẹ chúng ta mất
rồi, người bố ghẻ hứa chuộc nhưng không giữ lời...".
Tình cảnh lúc ấy thật bi đát. May sao bà phủ An thay đổi thái độ nhìn
nhận "em Tuyết" làm cháu ruột của mình và cho hưởng gia tài. Khi bà phủ
mất năm 1931 đã trối lại cho "em Tuyết" một gia sản không nhỏ trong đó
có đôi bông 6 ly là đôi bông tai kim cương mà bà đã đeo từ lúc còn sống,
nhất là "cái vòng xoàn đeo cổ, đếm 16 miếng vàng có nhận hột xoàn từ 3
đến 4 ly (nếu biết lấy xoàn này nhận làm bông tai sẽ có 160 đôi hoa tai,
mỗi đôi nay giá mấy triệu đồng)". Nhưng về sau này tất cả của cải nói
trên theo lời thuật của cụ Vương thì "thảy đều tiêu tan như bọt xà phòng
vì em Tuyết thua bài thua bạc sạch trơn".
Còn những ngày hàn vi chân ướt chân ráo ở Sài Gòn về Sa Đéc lại
rất ấm áp như cụ Vương kể: "mỗi đêm anh mê chia bài thiên cửu, dắt em
theo ngồi ngoài sòng chờ anh sát phạt ba cây bài gỗ, đến khuya rủ nhau
đi xơi mì chú Dầu nơi mé rạch Sa Đéc, qua năm 1931 đổi về tỉnh nhà Sóc
Trăng, rồi năm 1938 đổi lên Cần Thơ, kế thuyên chuyển về đô thành Sài
Gòn làm việc nơi Soái phủ Nam kỳ, có tiền dư, có sức khỏe, ngờ đâu từ
ngày xảy ra việc binh Nhựt tràn vào cõi Nam, tiếp theo là cuộc Pháp mất
thuộc địa, toàn quyền Decoux bị hạ bệ, Nhựt hất chưn Tây, để lãnh đủ hai
trái bom (nguyên tử) tan tành giấc mơ Đại Đông Á, đôi ta chạy về ruộng
nhà ở làng Hòa Tú, trần ai khổ cực có nhau, bỗng chuyến trở về Châu
Thành Sóc Trăng, ngồi dưới sương lạnh trọn một đêm dài, về tới nhà phụ
thân anh, em xán một bịnh trối chết, bịnh ban cua lưỡi trắng, chạy thầy
chạy thuốc, bổn thân anh bơm thuốc, hốt bụm chất dơ, em lành mạnh rồi,
em đáp xe đò lên Sài Gòn mượn tiếng đi bán xoàn để có tiền chi dụng, ngờ
đâu kim cương là đại họa, cái bâu cổ 320 hột quý làm cho đổi trần thay
đen...". Nghĩa là về sau những chuyến đi Sài Gòn của "em Tuyết" đã dần
dần rời xa mối duyên "nghìn xưa đã lại" với cụ Vương để ra đi cùng một
người khác tên là Th. Nỗi đau lại đến với cụ Vương trong "cuộc tình tàn"
thứ hai này.
Vĩnh biệt "em Tuyết" ở Sài Gòn
Vượt qua cơn bệnh nặng, "em Tuyết" của cụ Vương hồi phục. Sắc đẹp mặn
mà của người phụ nữ ở độ tuổi 30 - độ tuổi của quả ngọt đang hồi chín
tới - đã làm xiêu lòng một "người thứ ba" nhỏ hơn cụ Vương đến mười mấy
tuổi.
Đó là Hồ Văn Th. được cụ nhắc tới trong hồi ức như một người quen
biết với cụ cũng như với "em Tuyết" từ trước và là một tay chơi bài
"khôn" đáo để. Cụ viết như nói với "em Tuyết" rằng: "Anh không lanh lợi
như Th., mỗi dịp Tết hội nhau chơi bài, Th. ăn gian mà anh lù khù vẫn
chung tiền...". Con người "lanh lợi" ấy, tuổi lại trẻ hơn cụ Vương
nhiều, đã cùng "em Tuyết" hẹn hò, lao vào cơn lốc đầy ma lực của tình
yêu mới. Ở lãnh địa nhiều sức hút này, Th. và "em Tuyết" ngày càng đi
đến chỗ gắn bó không còn muốn xa nhau nữa. Hai người ngày càng biểu lộ
rõ hơn tình cảm của họ trước mọi người. Để rồi đến một bữa nọ "em Tuyết"
công khai ngỏ lời muốn chia tay với "chàng Vương" sau 19 năm chung sống
(không có con).
Cụ Vương lúc đầu tìm lời khuyên nhủ, nhắc nhớ những ngày hai
người đầu ấp tay gối, đùm bọc chia sẻ ấm lạnh từ đất Sài Gòn, Sa Đéc đến
Cần Thơ và Sóc Trăng với Tuyết. Nhưng dường như những kỷ niệm xưa do cụ
Vương khơi dậy đã không mạnh bằng tiếng nói mới thầm thì nhưng mãnh
liệt từ mối giao tình với Th. nên cuối cùng, như cụ Vương viết: "Em
(Tuyết) vẫn bỏ anh, mấy lần cậy anh em thương thuyết, nài nỉ cách mấy,
em cũng không ở lại. Thế rồi em lấy Hồ Văn Th., nhỏ hơn anh trên mười
mấy có dư, em vui duyên mới, anh tê tái, nát ruột như tương". Thế là cụ
Vương đành chia tay với người vợ thứ hai này sau gần hai thập niên ăn ở
với nhau. Lúc ấy cụ Vương đã 46 tuổi và "em Tuyết" 36 tuổi (1947), khi
chia của cải "em biếu anh mớ sách cũ và bao nhiêu thứ đồ cổ mà em không
tha thiết, em chỉ xin và anh ưng lòng để em ôm hộp sắt Fichet ra đi, hộp
chứa đựng vàng vòng của phụ thân anh tự tay làm ra, và bao nhiêu của
báu mà anh không màng, anh chỉ màng mối tình 19 năm âu yếm mà em đành
đứt đoạn, của báu ấy xiết bao người mê thích, chỉ một anh không thích mê
chút nào, thật vậy, anh chỉ mê chén xưa tuy nứt nẻ và mê ấm sứt vòi".
Dưới mái ngói của vuông nhà cổ tích nầy, cụ Vương đã viết những dòng khóc lóc "cuộc tình tàn với Tuyết",
Đúng thế thật, lúc bấy giờ cụ Vương đã say mê sưu tầm đồ cổ và sách
báo. Trong những năm cuối sống với "em Tuyết" cụ đã biên soạn công trình
nghiên cứu đầu tiên công bố trong kỷ yếu của Hội Khuyến học Nam Việt
vào đầu năm 1943 và xuất bản Les Bleus de Hue à decor Mai Hạc par Vương
Hồng Sển vào năm kế đó, 1944. Có thể tình yêu đồ cổ và nghiên cứu những
giá trị quá khứ của cụ đã không hợp mấy với tâm hồn đang đòi hỏi một
"hiện tại" ngọt ngào hơn của Tuyết. Song theo cụ sở dĩ "em Tuyết" khăng
khăng theo mối duyên mới là vì "mấy hột kim cương tai hại... ai kia nói
có xoàn là sang là quý, xin cho tôi cãi lại, tại tôi quá dễ dãi, bắt
chước lối ăn ở theo Tây, để vợ quá tự do" lấy cớ mang xoàn lên Sài Gòn
bán để rồi giao du rộng rãi. Một lý do nữa do cụ Vương nêu lên và viết
lại về nguyên do dẫn đến thái độ chia tay quyết liệt của Tuyết là: "Một
phần cũng tại Cảnh (em khác mẹ của cụ). Cảnh nhẫn tâm đổ lư hương nhạc
mẫu (mẹ của em Tuyết) để em nước mắt dầm dề, rồi xảy ra chia uyên rẽ
thúy từ đây, ôi nhắc lại làm chi, mọi sự đã trễ rồi. Quan (anh của Cảnh)
lạy em xin tội, anh riêng nhờ chị Emille Penne giải hòa nhưng mối hòa
nan giải".
Sau ngày xa "em Tuyết", cụ Vương rời Sóc Trăng trở lại Sài Gòn
vào mùa thu năm 1947. Còn Tuyết lập tổ ấm mới với Th. cùng chung sống
trong hơn 30 năm rồi Th. qua đời trước, hai bên cũng không có đứa con
nào. Từ đó bà Dương Thị Tuyết sống đơn chiếc ở Sài Gòn cho đến ngày qua
đời tại cư xá Thanh Đa. Ngày bà mất, cụ Vương được tin trễ sau khi liệm.
Cụ đã vội đến viếng ngay khi hay tin và viết những dòng thắm thiết sau
đây: "Em Tư (Tuyết) ôi, anh khóc em đây, thôi thôi, em Tư của anh đã
không còn rồi! Chiều 6 Juillet (6.7.1992), thằng Thông đến vội vàng, cho
hay tin em đã nhắm mắt từ hôm 4 và đã liệm xong rồi, trễ quá rồi và
ngày mai 7.7, sẽ đưa đi hỏa táng ở Cây Quéo và tro cốt sẽ gởi nơi nhà
thờ. Tin như sét đánh, chẳng kịp bưng tai. Còn gì nữa đâu !". Đọc
những dòng tiếp theo của một người chồng 91 tuổi rất mực yêu vợ cũ chúng
ta sẽ hiểu rõ thêm tấm tình của cụ Vương dành cho bà Dương Thị Tuyết
vẫn nồng nàn như thuở nào, và biết thêm những giờ phút cô đơn cuối đời
khi mãn phần của một hoa khôi Sóc Trăng ngày nọ: "Em hai lần lấy
chồng mà "hoa không kết quả", em sạch sành sanh, nhắn anh một lời cụt
ngủn: "Gởi lời thăm nhé!", Tư Tuyết em ôi, lòng anh đau như cắt, nhứt là
hay tin cốt tro của em sẽ gởi vào thánh đường, nhưng nhà thờ gần đây
mới bày ra tro cốt gởi nhà lưu trữ, còn anh đây, nửa theo Thánh Giá, nửa
theo đạo Khổng, anh đang điều đình với Phụng là dưỡng tử của em, hãy
cho anh rước tro em đưa về an táng nơi đất chùa ở Quang Mỹ tự (Phước
Thiền), Biên Hòa, may ra được gần phần mộ của bà và của anh Ba Thoại,
bào huynh của em. Nay em ra đi, anh sống lại làm chi với tuổi 91 để
chứng kiến cảnh thương tâm này? Hồn em có linh, xin chứng chiếu...".
Chàng Vương cầu hôn năm 22 tuổi
Ảnh : T L
Gặp nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc
Người đàn bà thứ ba xuất hiện trong đời sống tình cảm của cụ Vương và
trở thành người vợ chung sống mặn nồng, lâu nhất với cụ suốt 41 năm là
nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc mà NSND Đinh Bằng Phi đã tóm lược cuộc đời hoạt
động nghệ thuật vang bóng của bà bằng mấy câu: "Trong giới hát bội, ít
ai quên được một nữ nghệ sĩ tài danh mà tiếng tăm vang lừng từ Nam ra
Bắc, từ lúc thanh xuân đến tuổi lão thành, đó là nghệ sĩ Năm Sa Đéc. Bà
có một cuộc đời nghệ thuật khá vinh quang và cuộc đời thường của bà
không kém phần sóng gió".
Nói sóng gió là do việc đổi dời của bà theo nhiều bước thăng trầm
của các gánh hát trứ danh thời đó và ngay cái tên Năm Sa Đéc cũng xuất
phát từ việc "đụng hàng" với một cô đào khác. Nguyên tên thật của bà là
Nguyễn Kim Chung, sinh năm 1907, là con của ông bầu gánh hát bội Nguyễn
Duy Tam. Lúc đầu ông Tam đặt cho bà tên gọi ở nhà là Năm Nhỏ. Nhưng về
sau để tránh trùng tên với cô đào Năm Nhỏ gốc người Cần Thơ lúc bấy giờ
đã nổi tiếng, ông Tam đã đổi tên gọi bà thành Năm Sa Đéc với ý là "Cô
Năm (Nguyễn Kim Chung) gốc người Sa Đéc".
Trước khi gặp cụ Vương, Năm Sa Đéc đã là một trong những nghệ sĩ
tiền phong trên sân khấu hát bội được đánh giá thanh sắc lưỡng toàn thu
hút đông đảo khán giả ái mộ. Và cụ Vương là một "khán giả" đặc biệt đã
ghi sâu hình ảnh "em Năm Sa Đéc" vào mộng chiều xuân, như bài văn tế sau
này ghi lại:
- "Gió lá vai mang nhè nhẹ", em xuống giọng "thoàn"
- Người hùng lòng thấy lâng lâng, hồn theo mộng bướm.
- Đôi chân bước khoan thai dìu dặt, êm đềm như gió trúc lay cành.
- Muôn mắt nhìn đắm đuối say sưa, miên man tưởng "chiều thu đổ lá". (...)
- Rạp Quảng Lạc Hà Thành nô nức, lễ tiếp nghinh, tiệc mở cờ treo;
- Danh "Cô Năm Sa Đéc" lẫy lừng, đến biểu diễn hoa dâng quạt thưởng.
Cụ Vương để tâm tìm hiểu "cô Năm Sa Đéc" và biết sau ngày gánh hát
nhà của cha tan rã, Năm Sa Đéc dạt sang Cần Thơ đi hát cho gánh của Bầu
Bòn. Ở đó, mặc dầu xuất thân từ sân khấu hát bội, song Năm Sa Đéc cũng
phải chiều ý của Bầu Bòn để hát pha cải lương theo nhu cầu của khán giả
thời ấy. Nhưng rồi, cũng không bền, Năm Sa Đéc lại xuất hiện ở các đoàn
hát của Trần Đắt, Huỳnh Kỳ sắm các vai kiếm khách, văn thần, võ tướng
qua các vở cải lương. Tiếp đó cô đến với đoàn Song Phụng, rồi lại về Sài
Gòn với đoàn Phước Xương (của cô Ba Ngoạn) và tài năng lại rực sáng,
lôi cuốn khán giả với các vai kép, vai văn, hoặc vai võ như Lữ Bố, Triệu
Tử, Địch Thanh...
Bấy giờ, tuy Năm Sa Đéc sống giữa chốn đô hội nhưng không mấy
vui, vì mang trong lòng mối tình đổ vỡ giữa cô và nghệ sĩ Hai Th. Chính
lúc đó cụ Vương cũng lên Sài Gòn, cũng mang trong lòng mối ngổn ngang
sau ngày chia tay với Tuyết. Hai người gặp nhau và có lẽ mối đồng cảm
trong "trường tương tư" đã nhanh chóng kết nối cụ Vương với nữ nghệ sĩ
tài danh này như lời nhận xét của người trong giới, rằng: "Cuộc đời của
nghệ sĩ Năm Sa Đéc bước vào một khúc quanh mới, khi cô gặp gỡ và kết
nghĩa với học giả, nhà khảo cổ Vương Hồng Sển, khi hai người vừa "gãy
gánh giữa đường". Ông thì làm công chức, viết sách, nghiên cứu các thú
chơi đồ cổ, đá gà, hát bội, bà thì hát bội, diễn cải lương... Ban đầu
lúc kết nghĩa vợ chồng, vào cuối năm 1947, cụ Vương và Năm Sa Đéc sống
trong một ngôi nhà nhỏ ở xóm Cù Lao nằm trên đường Võ Di Nguy cũ. Đó là
ngôi nhà lợp lá ọp ẹp nhưng cũng không phải là nhà riêng mà phải thuê
lại của một người chủ quen gọi là thầy Sáu. Tuy vậy cuộc sống chung ấm
áp dưới mái lá đó đã để lại những kỷ niệm không quên mà sau này cụ Vương
nhắc lại:
- Anh hồi tưởng: Chòi lá năm xưa, Cù lao xóm cũ
- Ngồi nghe em hát, giọng du dương trưa sớm chẳng nhàm tai,
- Bàng hoàng giấc mộng trầm tư, đành chết điếng khúc quanh chiều rẽ lối.
- Long lanh ngấn lệ trào dâng,
- Lặng lẽ trang tình xếp lại (...).
- Đôi vợ chồng ra vào khắng khít, mắm muối mà vui,
- Một chòi tranh sau trước đìu hiu, ghế bàn chẳng có.
- Cụ Vương với thời sống với nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc ở "Vuông nhà cổ tích"
- Ảnh : TL
Những câu trên nằm trong bài "văn tế Năm Sa Đéc" khá thảm thiết. Bài này
do một người khác ký tên Tế Nhị chấp bút "viết thay lời chồng là Vương
Hồng Sển". Mà lại viết trước khi nghệ sĩ Năm Sa Đéc qua đời để nhằm "dọn
sẵn bài khóc vợ" cho cụ Vương với sự đồng ý của cụ.
Thật vậy, nguyên vào cuối tháng 7.1981 (tức 7 năm trước khi bà
Năm Sa Đéc mất), cụ Vương đến nhà của Tế Nhị ở đường Hai Bà Trưng rồi
thuật hết tâm tình của mình trong đời sống vợ chồng với bà Năm Sa Đéc
cho Tế Nhị nghe. Tế Nhị ngồi trên chiếc ghế mây, vừa nghe vừa ngẫm nghĩ
và theo lời cụ Vương sau đó Tế Nhị đã "xuất thần đọc cho tôi chép (bài
văn tế), chép tới đâu nước mắt tôi chảy tới đó". Là vì trước hết bài văn
nhắc đến quãng đời "rất nghệ sĩ" của hai người trong cảnh khó khăn: Bút
rè ngòi, tiền cạn túi, anh khoe đồ cổ, chúng chẳng thèm mua. Nhà dột
nóc, gạo lưng nồi, em bán bánh bao, lời không đủ sống (...). Tôi la cà
quán sách giải buồn. Bà cắp củm, túi tiền nhỏ giọt.
Về sau này, cuộc sống khá hơn khi họ dời về "vuông nhà cổ tích"
rộng rãi hơn nhiều, khang trang hơn nhiều ở đường Nguyễn Thiện Thuật gần
chợ Bà Chiểu năm xưa... Chính ở ngôi nhà này bà đã qua đời đột ngột vào
trưa ngày 26.1.1988 sau khi đã đi một vòng thăm những nghệ sĩ lão thành
như Ba Út và Năm Đồ về. Cụ Vương than: "Em sao vội phủi tay đứng dậy?
Tắt đèn đời, tìm giấc ngủ thiên thu. Anh chỉ còn trơ mắt nhìn theo: qua
giòng lệ viết trang tình nửa đoạn"...
Hồng Hạc
Sa Đéc thành phố Hoa bên dòng Sa Giang
Nguồn gốc địa danh Sa Đéc
(Nguồn: “Tìm hiểu nguồn gốc Địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả thuyết” của Nguyễn Hữu Hiếu)
Sa Đéc ngày nay là một trong hai thị xã của tỉnh Đồng Tháp
Hai tiếng Sa Đéc có lẽ xuất phát từ âm của tiếng Phsa ădek của người Khmer hạ, một vị thủy thần gốc Khmer. Trong sách Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, phần Tự quán (trang 38-39), có chép:
“Chùa Tô Sơn ở địa phận thôn Hưng Nhượng, huyện Hà Dương (tỉnh An Giang), phía tây núi có viên đá hình con rùa. Người xưa truyền rằng: gặp khi trời hạn thì đến đấy cầu đảo ắt có được mưa, thổ nhơn bèn lập đền ở chân núi để thờ, gọi là Sa Đéc (tức là Thủy thần)”.
Trong khi đó trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện sau:
Ngày xưa ở đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu), có một tên chúa đất họ Thạch, vừa giàu có, vừa hung ác. Đất đai cò bay thẳng cánh, con thỏ, con nai ở trong rừng; con cá, con tôm ở dưới sông, con chim ở trên trời… tất cả đều là của họ Thạch. Ai hái, bắt thứ gì mà không nộp một nửa hoa lợi thì đừng hòng thoát khỏi tay y. Đám thuộc hạ của y làm tai mắt ở khắp nơi.
Chúa đất họ Thạch giàu có như vậy mà chỉ có mỗi một mụn con gái. Tên nàng là Phsa-dek, xinh đẹp, tính tình nhân hậu hoàn toàn khác cha. Một hôm, nàng dùng ghe lườn cùng nàng hầu rong chơi trên sông Tiền, chẳng may gặp mưa to gió lớn, ghe bị chìm. Trong lúc chủ tớ đang loai ngoai chờ chết, bỗng đâu có một thanh niên lao xuống cứu được cả hai.
Chàng trai nọ đưa hai người về chòi của mình chăm sóc. Khi tỉnh lại, hai người trò chuyện mỗi lúc mỗi thân mật, gắn bó. Nàng hỏi:
- Chàng đang ở trên đất của ai, chàng biết không?
- Biết chớ, toàn vùng này đều là đất của chúa đất họ Thạch ai mà không biết.
- Chàng không sợ ông ta à?
- Có gì mà phải sợ. Tôi từ phương xa tới đây, đất đai, sông nước là của trời sinh, chỗ nào thích là tôi ở. Ông Thạch đâu có sinh ra đất này hoặc khai khẩn gì đâu mà nói là của ổng.
Phsa-dek không cho chàng biết mình là con gái của chúa đất. Từ đó hai người thường lén lút gặp nhau. Bọn thuộc hạ cho tên chúa đất biết chuyện này. Lập tức hắn nhốt nàng lại và lệnh cho tìm bắt chàng trai nọ cho kỳ được. Bọn thủ hạ truy lùng chàng trai, chàng nhanh chân thoát được, nhưng trúng phải tên độc. Tưởng chàng đã chết, chúng bỏ đi. Nhưng may mắn, chàng được một người đi rừng tình cờ cứu sống. Chàng giữ lại mũi tên có khắc chữ Thạch để mưu tính chuyện trả thù.
Ngày nọ, chàng đột nhập vào dinh cơ tên chúa đất, đốt phá cho đã, rồi bắt hắn mang đi. Bỗng Phsa-dek thấy được, tri hô lên. Đám thuộc hạ ùa tới giải vây cho chủ. Chàng trai quá đỗi sững sờ, ngạc nhiên khi thấy nàng ở đây. Lợi dụng giây phút đó, đám thuộc hạ bắt được chàng và tra tấn rất dã man. Nghĩ rằng tại mình nên người yêu cũng là ân nhân mới gặp nạn, nàng đau đớn ngất lịm đi.
Khi được tin chàng trai bị cột chặt vào bè, rồi phóng hỏa đốt thả trôi sông, nàng Phsa-dek vùng dậy chạy theo nhảy xuống bè để cùng chết chung với chàng, nhưng bị thuộc hạ của chúa đất phóng theo bắt lại.
Phsa-dek bỏ nhà đi tu. Vài năm sau, tên chúa đất họ Thạch qua đời. Nàng trở thành người thừa kế một sản nghiệp đồ sộ của dòng họ Thạch. Một phần tài sản được nàng chia cho dân nghèo, phần còn lại dùng vào việc đắp đường, bồi lộ, dựng cầu và xây một nhà lồng chợ để cho người mua, kẻ bán có chỗ che nắng trú mưa.
Ngôi chợ đó được gọi là chợ Phsa-dek, lâu ngày nói trại thành Sa Đéc đến ngày nay. Còn nàng thì được nhân dân kính cẩn tôn lên hàng nữ thần. Tương truyền nàng rất linh thiêng, nhân dân cầu xin điều gì cũng đều được linh ứng.
Đền thờ thủy thần Sa Đéc trên núi Cô Tô với chuyện này không biết có liên hệ gì với nhau không?, song cả hai đều liên quan đến tên gọi Sa Đéc.
Trong Gia Định thành thông chí (tập hạ) của Trịnh Hoài Đức mô tả chợ Sa Đéc như sau:
“Chợ ở đông huyện Vĩnh An. Phố chợ dọc theo bờ sông, nhà hai bên liên tiếp 5 dặm, dưới sông có những nhà bè, gác làm phòng ốc, đậu sát nhau, hoặc bán hàng lụa, khí dụng ở Nam Bắc chở đến, hoặc bán dầu rái, than, mây tre… Trên bờ và dưới sông hàng hóa tốt đẹp, trông khá vui vẻ, thật là nơi thắng địa phồn hoa vậy”.
Như vậy, Sa Đéc quả thật là một chợ nổi, nổi tiếng trên sông nước. Phải chăng chính vì vậy mà người Khmer gọi là Phsa ădek (có nghĩa là chợ nổi) và người Việt phát âm thành Sa Đéc?
(Nguyễn Hữu Hiếu)
Gánh Sadec Amis của Thầy Thân
Sự ra đời của Sadec Amis
Ông
Đinh Công Thanh (78 tuổi), Hội Khoa học lịch sử Sa Đéc (Đồng Tháp),
đang dành tâm lực viết các gương nổi tiếng đờn ca tài tử của Sa Đéc xưa
cho biết André Thận tức Nguyễn Văn Thận (có sách ghi là Lê Văn Thận) là
một công tử xuất thân từ gia đình giàu có ở Sa Đéc (nay là TP.Sa Đéc,
Đồng Tháp). Nhưng theo ông Thanh, vì tư liệu về cuộc đời thầy Thận tản
mát, con cháu thầy Thận là ai cũng không rõ, còn lớp người biết nhiều về
thầy Thận thì cũng nhắm mắt xuôi tay nên để chứng minh lời khẩu truyền
thầy Thận là “phá gia chi tử” dẫn đến đói nghèo đúng hay sai còn tốn
nhiều công sức.
Nguyễn
Văn Thận lớn lên trong gia đình giàu có tại Sa Đéc, thầy tốt nghiệp
trung học Chasseloup Laubat ở Sài Gòn, từng đi làm “cò Tàu” cho hãng tàu
Tây Messageries Fluviales chạy tuyến Hậu Giang - Nam Vang. Vì yêu thích
đờn ca tài tử nên thầy đã hợp tác cùng ban Bảy Đồng và đích thân đứng
ra xin phép tắc để hợp thức hóa mọi hoạt động văn nghệ. Từ đây, nhóm đờn
ca tài tử hoạt động có giấy phép hẳn hoi với cái tên mới Sadec Amis mà
sau đó có người ghép lại đọc sai thành Sadecamis.
Năm
1916 - 1917, thầy Thận xem đoàn xiếc của Mỹ sang Sài Gòn và lưu diễn
tại các tỉnh miền Nam đã nảy ra ý hay đem áp dụng cho Sadec Amis. Thầy
Thận đã đệm màn phụ diễn như xiếc chen vào màn ca ra bộ nên gánh thầy
luôn lôi kéo khán giả. Sau đó thầy trương bảng: Gánh hát thầy Thận
Cirque jeune Annam - Ca ra bộ - Sadec Amis.
Trong
gánh thầy Thận có nhiều “kỳ nhân” như “người rắn không có xương sống”
xếp được hai chân chui được vào ống cống đường kính chừng 5 tấc rồi lộn
ra như con rắn; có lực sĩ nằm để xe hơi cán ngang bụng; có nữ nghệ sĩ
Mai Hảo với tài đi dây, nhào lộn trên đu chẳng kém các nghệ sĩ xiếc của
Tây; lại có nghệ sĩ Tám Danh giỏi võ với biệt tài phóng dao, đánh
kiếm... Thời kỳ đó gánh thầy Thận lên Sài Gòn che rạp trước chợ Bến
Thành được khán giả chen nhau mua vé.
Dấu ấn 2 chữ “cải lương”
Nhắc
về Sa Đéc, ông Thanh tự hào cho biết: “Gánh thầy Thận có công đầu trong
buổi ban mai hình thành sân khấu cải lương. Còn chữ cải lương cũng xuất
phát tại Sa Đéc trên gánh Tân Thinh với câu chữ treo trên bảng
hiệu: Cải cách hát ca theo tiến bộ/Lương truyền tuồng tích sánh văn
minh.
Chủ gánh là ông Trương Văn Thông, là người Sa Đéc, dựng gánh hát từ năm
1922. Tại Sa Đéc còn ngôi biệt thự xây dựng theo lối cổ của Pháp mà
người địa phương quen gọi là biệt thự “Tân Thinh”. Đây là tài sản của
gánh Tân Thinh xưa”.
Thầy
Thận có ý định bỏ gánh hát để dựng lên một sân khấu cải lương hoàn
toàn. Thế nhưng, lực bất tòng tâm nên thầy đã sang gánh hát lại cho bạn
là thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Phần đời sau này của thầy Thận ra sao, sống
chết sang hèn thế nào hiếm thấy đề cập đến.
Ông
Thanh nói thêm, tuy là tài tử nhưng chắc chắn thầy Thận phải có uy tín
mới “dời” được hai nhân sĩ từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
là cụ Đặng Thúc Liêng và Trương Duy Toản giúp đỡ. Cụ Toản vì tham gia
cứu quốc nên bị Pháp câu lưu ở Cần Thơ theo dõi. Cụ Toản đã lập ra ban
nhạc tài tử Ái Nghĩa để ca các bài đơn ca do chính cụ soạn hát chơi
trong các thôn xóm. Nghe danh, nhóm Sadec Amis đã mời cụ tới Sa Đéc nhập
gánh và cụ Toản nhận lời, cụ đã soạn các bài đơn ca thành liên ca như Bùi Kiệm thi rớt trở về, Kim Kiều hạnh ngộ... phổ
theo điệu Tứ đại oán. Gánh thầy Thận rất nổi tiếng, lưu diễn ở các nơi
và rất ăn khách ở Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho mà trong đó Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều ăn khách nhất.
Gánh Sadec Amis được vang danh nhờ những bài như Tứ đại oán gồm 5 lớp, trích đoạn lớp nhứt do cụ Toản soạn như sau:Khi
từ khi Kiệm thi rớt trở về/Bùi Ông mắng nhiếc nhún trề/Trách quở mắng
chàng ham bề vui chơi/Kiệm thưa tài bất thắng thời/Có lẽ nào con không
lo bề công danh/Tuổi con hãy còn xuân xanh... Lúc ấy do biểu diễn
cách tân nên đông khán giả lắm. Với phương châm người ta nghe đờn ca
sướng tai chưa đủ mà phải làm sao coi cho khoái mắt nữa mới hay. Nhóm
thầy Thận với chỉ dẫn của cụ Toản đã mạnh dạn tách rời ca sĩ ra khỏi dàn
đờn để bắt họ đứng lên, đối diện với nhau và vừa ca vừa ra bộ, làm màu,
theo sát tình cảm của từng câu, đoạn ca gọi là ca ra bộ. Sau đó ca ra
bộ lớn dần với những bước nghệ thuật kế tiếp là hát chập là hình thức
liên ca, ra điệu bộ, được lồng trong các cốt truyện có tình tiết nội
dung. Buổi bình minh của sân khấu cải lương khởi điểm từ đây. Trong bài
viết Hát bội hay hát bộ học giả Vương Hồng Sển cũng đề cập:
“Trở lại tìm hiểu hậu tổ cải - lương là ai, xin cho tôi nhấn mạnh và ghi
công cho ông André Thận và ông Mạnh Tự Trương Duy Toản”.
Thanh DũAnh 2 Ngò Sa Đéc - Hoàng Lê Hải
Vè kẹo kéo Sa Đéc
Vè vẻ ve ve
Nghe vè kẹo kéo Mần thiệt là khéo Ai thấy cũng thèm Ai thấy cũng khen Rằng kẹo Sa Đéc Người nào chưa biết Quảng cáo là mua Cô bác ông bà Xin mời ăn thử Ngon hay là dở Cứ việc chê khen Có bán có thêm Đồng xu một miếng Ai trả hai tiếng Sáu miếng năm xu Ai trả lu bù Thì tui không bán Thợ khéo thượng hạng Không phải lôi thôi Đậu không thúi hôi Bánh phồng thiệt xốp Mật đường đem lược Không cặn không ruồi Ai ăn kẹo rồi Thì ghiền kẹo kéo Ai thường lui tới Cũng phải mua về Kẹo ngon rẻ rề Nổi danh khắp chốn Không cần hao tốn Mà có kẹo ngon Mua cho bà con Cùng là giòng họ Bán không mắc cỡ Tui bán sạch trơn Tui xin cảm ơn Ai mua kẹo kéo Sa Đéc xứ khéo Mần kẹo thiệt tài Ăn hủy ăn hoài Ai mua kẹo kéo Bà Năm Sa Đéc và học giả Vương Hồng Sển - Ảnh: tư liệu Đặc sản hủ tiếu Sa ĐécHủ tiếu bà Năm Sa ĐécDù người nghệ sĩ tài danh, người vợ của học giả Vương Hồng Sển đã an giấc nghìn thu nhưng tên tuổi bà vẫn gắn với món hủ tiếu Sa Đéc nổi danh qua gần nửa thế kỷ.“Thương hiệu” độc đáo
Thời gian trôi qua cuốn theo nhiều thứ vào quên lãng, nhưng nhắc đến
bà Năm Sa Đéc người ta lại nhớ đến hủ tiếu Sa Đéc và ngược lại. Bà Năm
Sa Đéc tên thật là Nguyễn Kim Chung, sinh ở làng Tân Khánh Đông, Sa Đéc
(nay thuộc xã Tân Khánh Đông, TP.Sa Đéc, Đồng Tháp). Trong lớp sân khấu
đỉnh cao ngày xưa, bà là người tài sắc lưỡng toàn được công chúng mến
mộ. Dù thành danh, có tên tuổi nhưng sau năm 1973 do đời sống sân khấu,
điện ảnh khó khăn nên bà Năm Sa Đéc đã bươn chải, mở quán hủ tiếu ở Sài
Gòn. Tên tuổi của bà bước đầu đã đảm bảo cho quán, nhưng để giữ được
chân khách là do hủ tiếu quá ngon.
Theo ông Nhất Thống, Hội Khoa học lịch sử TP.Sa Đéc, hủ tiếu bà Năm
nấu mang đậm hương vị quê nhà Sa Đéc. Sợi bánh mềm mà không bở, cũng
không dai, vị bánh không chua, hương bánh thơm mùi gạo mới, trắng tươi
màu sữa. Có người kháo nhau rằng, bánh hủ tiếu được bà Năm lấy từ làng
bột Tân Phú Đông (Sa Đéc) mỗi ngày, do cánh xe đò Sa Đéc - Sài Gòn
chuyển tới. Người ăn có thể gọi hủ tiếu thịt hoặc hủ tiếu xương tùy
thích, mà xương hay thịt thì cũng mềm và có mùi thơm đặc biệt không như
những nơi khác. Cái mùi thơm ấy là do "tay nghề" của bà Năm khi chế biến
và đun nấu nồi nước lèo ở nhiệt độ thích hợp. Khi tô hủ tiếu được bưng
ra, mùi thơm ngào ngạt, thực khách có thể gia giảm nào là nước mắm, nước
tương, dấm đỏ, chanh, ớt, giá nhúng nước sôi hay giá sống mà vẫn không
đánh mất hương vị độc đáo của tô hủ tiếu Sa Đéc chính hiệu này. Nhờ quán
có doanh thu mà chồng bà là học giả Vương Hồng Sển an tâm nghiên cứu,
khảo cứu.
Quán hủ tiếu ấy sau năm 1975 tồn tại được một thời gian. Bây giờ,
quán vẫn còn đó nhưng đã đổi chủ. Tiếc thay, bà Năm mất thì con cháu
không ai nối nghiệp để duy trì và phát triển cái "thương hiệu" độc đáo
giữa một thành phố sôi động văn hóa ẩm thực.
Thế nhưng ngày nay, đi ngang qua P.An Hòa (TP.Sa Đéc), du khách và
người dân bản xứ hay gặp một tiệm bánh với bảng đề tên khá to “Hủ tiếu
Bà Năm Sa Đéc”. Không lẽ con cháu bà quay lại nghiệp xưa? Đem chuyện này
hỏi những người nghiên cứu ở Sa Đéc thì được biết chủ kinh doanh và bà
Năm Sa Đéc chẳng có quan hệ gì nhau, nhưng lúc trước do mến mộ tên tuổi
bà nên mở quán bán bánh hủ tiếu lấy tên người xưa.
Về nơi đất mẹ
Ông Đinh Công Thanh (78 tuổi, ngụ TP.Sa Đéc) là nhà báo về hưu đang
dành sức lực viết sách về cuộc đời các nghệ sĩ tài danh, tài tử xuất
thân từ Sa Đéc. Ông kể, vì cùng quê với nhau nên giữa Sài Gòn, ông Thanh
và bà Năm có quan hệ hữu hảo, ông gọi bà bằng cô và gọi người con riêng
của bà Năm cũng trạc tuổi ông là ông Nguyễn Ngọc Đặng bằng bạn.
Lục lại tư liệu xưa và các bài viết do bản thân thực hiện về bà Năm
Sa Đéc, ông Thanh nói bà Năm là con của ông Nguyễn Văn Tam, người lập
gánh hát bội đầu tiên ở Sa Đéc mang tên Thiện Tiền Ban ra đời vào năm
1915. Lúc 7 - 8 tuổi, bà Năm mê hát lắm, đêm nào bà cũng được anh cõng
đi coi hát rồi bập bẹ theo. Cho nên sau này bà bước vào nghiệp sân khấu
được cha mẹ đồng ý chứ không nặng thành kiến “xướng ca vô loài”. Chồng
trước của bà Năm là đốc phủ sứ tên Ch. và 2 người có con riêng là Nguyễn
Ngọc Đặng. Ông Thanh ngậm ngùi, bà tài danh, hương sắc vẹn toàn nhưng
cuộc sống chung quy vẫn có những khổ tâm, nỗi buồn riêng khó thổ lộ.
Ông Thanh kể tiếp, lúc sinh thời ông Đặng hay than phiền ông xin đi
theo nghiệp mẹ hát bội, hát cải lương nhưng bà Năm nhất quyết can ngăn.
Bà Năm khuyên con hãy lấy bà làm gương, dính vào nghề tổ cả đời khổ tâm,
khổ thân. Thế nhưng, do có lẽ máu di truyền nên ông Đặng không làm kép
hát được thì đi đóng phim. Ông đã đóng các vai phụ trong các phim như
Ván bài lật ngửa, Người đẹp Tây Đô, Ngọn nến hoàng cung... và nhiều vai
phụ khác. Ông Thanh nói: “Lúc 50 tuổi, ông Đặng để râu dài tới ngực,
nhìn như ông cụ, ngay cả cách đi đứng cũng giống như ông già. Ấy là do
ông quá mê nghệ thuật nên bất chấp ngoại hình già nua. Ông Đặng được mời
đóng vai ông già hay tiên ông trong các phim ngắn, phim thiếu nhi, phim
quảng cáo. Năm 2005, ông bệnh nặng qua đời, một số tạp chí đưa tin với
tựa đề: Ông tiên đã về trời”.
Bà Năm mất, thi hài được đưa về đất mẹ. Mộ bà Năm nằm ở phường Tân
Khánh Đông, nơi ấy có cháu con chăm sóc. Và làng làm bột Tân Phú Đông
vẫn còn kia, các quán hủ tiếu ở Sa Đéc với đủ cách chế biến và giá cả từ
thấp đến cao vẫn còn hiện diện ở ngay Sa Đéc. Nhưng nhắc đến hủ tiếu là
nhớ đến bà Năm dù bà đã thanh thản đi về cõi bên kia.
Thanh Dũng
|
Bánh bao Cả Cần
“Bánh bao Cả Cần” là thứ bánh bao đặc chất của người miền Nam (sản xuất ở Sài Gòn), khác với bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” không trắng như bánh bao gốc của người Hoa, mà hơi hẩm, vì không dùng bột tẩy. Vị bánh bao bùi hơn, ăn không dính răng, nhân bánh bao hoàn toàn là thịt băm, không pha lẫn cá và dầu mỡ như bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” nổi tiếng ở Sài Gòn từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước xuất hiện ở vài quán nhỏ tại khu vực đường Nguyễn Tri Phương (quận 5 – Chợ Lớn cũ), sau đó, bánh bao mang tên Cả Cần trở thành một quán độc lập, nằm trọn trên khoảng khuôn viên sát cạnh ngã 4 Nguyễn Tri Phương – Hùng ương, phía trước công viên Văn Lang.
Người đầu tiên sản xuất thứ bánh bao này là ông Trần Phấn Thắng (đã
qua đời từ lâu). Từ nhiều năm nay, Sài Gòn có nhiều nơi sản xuất bánh
bao (không kể bánh bao của người Hoa), với những thương hiệu không thể
nhớ hết. Bên canh những xe bán bánh bao mang biển hiệu: bánh bao
Singapore, bánh bao Đài Loan, bánh bao Malaysia… nhưng bánh bao Cả Cần
vẫn cứ đông khách như mọi khi. Và ngày nay, thương hiệu “Cả Cần” đã đi
vào lịch sử ẩm thực của Sài Gòn.
Theo anh Trương Thanh Liêm, một người quen với ông Trần Phấn Thắng cung cấp:
1. VỀ CÁI TÊN ÔNG CẢ CẦN:
Người ta chỉ suy đoán chữ CẢ CẦN dựa theo cái nghĩa đen của nó để
thêu dệp rằng: Ông Thắng có cha làm ông Cả tên Cần, theo kiểu HAI LÚA
thì chắc có em tên BA GẠO.
Thật ra thì Ông Thắng là người gốc Mỹ Tho là người thứ ba trong nhà,
có ông anh tên Trần Phấn Phát, sỹ quan Quân Lực VNCH. Cha ông gốc Tàu
Minh Hương, không có làm Hương Cả gì cả. Cả hai anh em rất thích văn
chương văn nghệ và có một nhóm bạn rất là văn nghệ sỹ trong đó phải kể
đến Nhạc Sỹ Lê Thương (tác giả Hòn Vọng Phu) cũng như nhà báo và dân
biểu đối lập thời VNCH là Lý Quý Chung chẳng hạn.
Ông Thắng tâm sự: Cần là tên một người bạn thơ ấu của hai anh em
chẳng may mất sớm. Chữ Cả ông ghép vào vì cá tính của ông thích những
chữ cùng phụ âm như kiểu Tin – Tình – Tiền – Tù – Tội. Và ông tâm đắc
câu quảng cáo của ông dùng bao năm nay toàn bằng chữ C:
Có Cả Cần Cần Chi Có Cả
Cũng vì thích loại câu dùng cùng một phụ âm này mà tên con ông đặt toàn chữ T. Ông Bà Thắng có đông con (tôi nhớ không lầm thì cũng gần chục). Tôi nhớ được tên của bốn cô con gái của ông là:
Trần Mỹ Tiên
Trần Mỹ Trinh
Trần Mỹ Thanh và cô út là
Trần Mỹ Tâm
Có Cả Cần Cần Chi Có Cả
Cũng vì thích loại câu dùng cùng một phụ âm này mà tên con ông đặt toàn chữ T. Ông Bà Thắng có đông con (tôi nhớ không lầm thì cũng gần chục). Tôi nhớ được tên của bốn cô con gái của ông là:
Trần Mỹ Tiên
Trần Mỹ Trinh
Trần Mỹ Thanh và cô út là
Trần Mỹ Tâm
2. VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUÁN ÔNG CẢ CẦN:
Ông Bà Cả Cần xuất thân từ công chức VNCH. Bà người gốc Bến Tre, nấu
ăn rất ngon. Ông có tài ăn nói duyên dáng và khả năng ngoại giao bạn bè
rất rộng. Từ sự kết hợp đó, ông bà quyết định bỏ nghề công chức ra mở
quán Hủ Tiếu và Bánh Bao Mỹ Tho. Tên Cả Cần được ông chọn đầu tiên cho
Quán đầu tiên nằm ở ngã tư Công Lý – Trương Quốc Dung (tôi mang máng nhớ
tên đường này là vậy). Trước năm 1975, nếu ai đi lại con đường ra sân
bay Tân Sơn Nhất sẽ không thể không thấy cái Bánh Bao To Tướng trước khi
băng qua cổng xe lữa.
Sau thời gian ngắn thì Quán Ông Cả Cần thành công rất nhanh nhờ tài
nấu ăn của bà và tài ngoại giao của ông. Cũng vì quen biết giới văn nghệ
sỹ thời đó nên ông Thắng mượn nghệ danh của cô Năm Sa Đéc (vợ của ông
Vương Hồng Sễn) làm tên quán thứ hai ở Ngã Tư Nguyễn Tri Phương – Nguyễn
Trãi (Chợ Lớn) . Đến đây thì nãy sinh một vài đồn đoán rằng:
- Ông Cả Cần gốc Sa Đéc không phải gốc Mỹ Tho
- Bà Năm Sa Đéc có quan hệ với ông Cả Cần
- Bà Năm Sa Đéc có phần hùn trong quán Cả Cần
- Ông Cả Cần gốc Sa Đéc không phải gốc Mỹ Tho
- Bà Năm Sa Đéc có quan hệ với ông Cả Cần
- Bà Năm Sa Đéc có phần hùn trong quán Cả Cần
Cả ba điều này đều là đồn đoán và không có thật. Ai có đến quán Bà
Năm Sa Đéc (của ông Trần Phấn Thắng) thì đều biết quán này nằm giữa
đường gần như chắn ngang con đường Nguyễn Trãi chạy từ Sài Gòn ra. Vì
thế khoảng thập niên 70, ông Thắng bị Đô Trưởng lúc đó là Đỗ Kiến Nhiễu
(nghe đâu cũng gốc Mỹ Tho) bắt tháo dỡ. Ông theo vụ kiện đến cùng, kết
cục thì ông Thắng thắng và quán vẫn còn tồn tại như ngày nay. Nhưng vì
vụ kiện này mà Bà Năm Sa Đéc rút tên ra. Quán mang tên MỸ TIÊN . Mỹ Tiên
là tên cô con gái lớn của ông Thắng . Sau 1975, quán vẫn mang tên Mỹ
Tiên.
3. GIA ĐÌNH CẢ CẦN NAY ĐÂU?
Sau năm 1975, gia đình ông Thắng còn giữ được một số tài sản và quyết
định ra đi. Vì gia đình có gốc Hoa nên đi cả nhà, thậm chí những người
đầu bếp giỏi, phụ bếp và cả phụ vụ bàn. Giá vàng ông phải trả lúc đó
khoảng 12 cây vàng cho một đầu người.
Gia đình ông ra đi suôn sẻ trong một đêm lặng gió. Cuối cùng thì định
cư tại Montreal, Canada . Đến đất tạm dung Montreal chẳng bao lâu thì
với số vốn mà nhân lực mang theo ông bà đã mở được hai quán để tên ONG
CA CAN: một ở dưới phố trên đường St Catherine gần trường Đại Học McGill
, một ở Côte des Neiges. Cũng vẫn với khiếu chữ nghĩa bẩm sinh của
mình, ông Thắng đã dí dỏm gọi quán ở Côte des Neiges là TRÊN DỐC TUYẾT,
Montreal là Mộng Lệ An.
Hai ông bà thành công rất nhanh ở xứ Canada cho nên khi VN mở cửa năm
89 thì năm 90 cô con gái lớn ông đã thực hiện chuyến về VN đâu tiên và
ông bà cũng lần lượt về sau đó để tìm lại cơ hội làm ăn cũng như lấy lại
nhà hàng cũ.
Sau khi ông bà ra đi thì nhà hàng cũ do một người bà con xa cai quản.
Ông bà cũng thường gởi tiền về giúp đở. Nhưng về phẩm chất nấu ăn thì
không giữ được như trước cho nên nhà hàng dần dần mất tiếng và suy sụp.
Đây là điểm yếu của đa số nhà hàng Việt Nam nói chung và nhà hàng Ông Cả
Cần nói riêng. Bà Cả Cần là người giỏi giang quán xuyến, nhưng nhà hàng
là phương tiện sống của đại gia đình cho nên bà giữ bí quyết rất kỹ.
Thậm chí ở Canada, chưa chắc con bà lúc ấy nấu được như bà.
Khi công cuộc điều đình mua lại đất đai nhà hàng cũ còn đang được
tiến hành thì bà Cả Cần đột ngột bị TAI BIẾN MẠCH MÁO não và năm bất
động. Tội nghiệp cho bà. Bà nằm thế đến gần 2 năm trời và bà qua đời năm
1995.
Sau khi bà qua đời thì ông Thắng về Việt Nam thường hơn để làm ăn.
Nhà hàng bên Canada thiếu bà không còn đông như trước. Các cô các cậu
lập gia đình chỉ còn vài người theo nghề cha mẹ. Chỉ vài năm sau đó thì
Ông Cả Cần Trần Phấn Thắng cũng qua đời tại Việt Nam . Nhà hàng TRÊN DỐC
TUYẾT đóng cửa. Giờ chỉ còn nhà hàng dưới phố St Catherine.
Có người nói bảng hiệu sau này của nhà hàng trên đường Nguyễn Tri
Phương là ÔNG CẢ CẦN. Có thể nhà hàng đổi tên lại sau khi ông Cả Cần về
nước. Bao năm trước đó nó vẫn mang tên MỸ TIÊN. Tên Mỹ Tiên là cái tên
thứ hai sau cái tên BÀ NĂM SA ĐÉC …
(Theo Lophocvuive)
Nói thêm về hủ tiếu Mỹ Tho của quán Cả Cần:
Có nhiều người cứ nhầm hủ tiếu Mỹ Tho với hủ tiếu Nam Vang. Khác
hoàn toàn. Nước hủ tiếu được nấu bằng khô mực nhí (vụn), tôm khô và
xương nên nước ngọt tự nhiên, thơm và trong. Bánh hủ tiếu, sợi nhỏ dai
và là bánh khô. Hủ tiếu Mỹ Tho không có để trứng cút hay tôm tươi mà chỉ
có xương, thịt heo hoặc thêm gan heo thôi….
Ở Sài Gòn, có duy nhất 1 chỗ có hương vị hủ tiếu giống với hủ
tiếu Mỹ Tho, đó là quán hủ tiếu Mỹ Tho – bánh bao Cả Cần – nằm ngay
trước công viên Văn Lang, góc đường Hùng Vương – Nguyễn Tri Phương, Q.5.
Thị xã nổi tiếng này đã gây ấn tượng mạnh với
tôi bắt nguồn từ tên của một nghệ sĩ cải lương nổi danh một thời là “bà
Năm Sa Đéc” với vai diễn bà mẹ chồng ác nghiệt trong vở “Lá sầu riêng”
từng lấy bao nước mắt của khán giả. Vùng đất này còn nổi tiếng với câu
chuyện tình lãng mạn của một nữ văn sĩ người Pháp vào thời Đông Dương,
và là quê hương của món hủ tiếu ngon nức tiếng cùng làng hoa Tân Quy
Đông duyên dáng bên sông.
Rời nhà cổ, chúng tôi chạy xe tiếp tục đến thăm làng hoa Tân Quy Đông
cách đó chừng 10km… Bên kia sông là một chuỗi các lò gạch tỏa từng cụm
ngọn khói đen nghi ngút rồi nhạt dần trong bầu trời xanh. Điểm độc đáo
của làng hoa này là nằm ngay sát bên đường lộ, rất thuận tiện trong việc
buôn bán hay tham quan. Vào mỗi dịp tết, đây là nơi thu hút rất đông du
khách. Thăm làng hoa, tôi như lạc vào không gian mang màu sắc của hoa
cảnh, thấp thoáng vang vọng tiếng trả giá, lời chào hỏi, tiếng nhạc cải
lương trên chiếc đài be bé mà một người trồng hoa đem theo ra tận các
liếp hoa để giải cơn “nghiền”.
Huyền sử Sa Đéc
Từ Sài Gòn, sau 2 giờ chạy xe tới Cai Lậy, qua Cái Bè đến Cổ Cò rồi
vượt cầu Mỹ Thuận, xuống chân cầu có hai nhánh rẽ: quẹo trái là vào đất
Vĩnh Long để đi tiếp đến Cần Thơ - Sóc Trăng - Bạc Liêu và Cà Mau là
điểm dừng cuối cùng của đất nước; quẹo về tay mặt để vào Sa Đéc. Tuấn
Dương - anh chàng “thổ địa” của đoàn giới thiệu sơ về đất này: Xưa kia,
đây là xứ Chân Lạp và miệt này có tên là Psardek (có nghĩa là Sắt).
Tương truyền, ngày xưa có nàng Psardek, con gái chúa đất họ Thạc, đã
phải lòng một chàng trai nghèo. Phản đối mối tình này, cha nàng đã sai
người trói chàng trai lại và thả trôi sông. Nàng Psardek buồn tình bỏ đi
tu. Về sau, khi cha mất, nàng đã dùng tài sản của gia đình làm từ
thiện, tu bổ đường xá, xây cất chợ búa giúp đỡ người dân quanh vùng có
một điểm tụ họp buôn bán trao đổi hàng hóa ổn định. Cảm ơn công đức của
nàng từ đó người ta gọi chợ và vùng này là Psardek. Về sau, nhà Nguyễn
cai trị đã đặt tên cho nơi đây là phủ lị phủ Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.
Tên Psardek khó phát âm với người Việt, nên lâu ngày từ Psardek người
ta đọc trại thành Sa Đéc như hiện nay.
Đến Sa Đéc ăn hủ tiếu và xem nhà cổ
Trong bữa trưa của chúng tôi tại thị xã, Tuấn Dương giới thiệu với cả
đoàn món hủ tiếu Sa Đéc khá nổi danh, vừa hướng dẫn mọi người phân biệt
sự khác nhau giữa hủ tiếu Nam Vang, Mỹ Tho và Sa Đéc. So với mọi vùng
làm ra sợi hủ tiếu thì Sa Đéc được xem là nơi chế biến “số dách”, vì vậy
người sành ăn miền Tây đều “chuộng” hủ tiếu Sa Đéc do sợi được làm từ
loại gạo dẻo thơm ngon, lúc ngâm phải “vút gạo“ thật kỹ nên khi ra lò và
khi ăn thì hủ tiếu có đặc điểm mềm, dai và không bị chua. Về cách nấu,
Sa Đéc có hai loại hủ tiếu tiêu biểu là: món hủ tiếu thịt heo và hủ tiếu
bò viên. Hủ tiếu bò viên chỉ có một món bò viên nên nước dùng phải có
xương bò cùng xương heo ninh chung thì mới đậm vị, riêng về hủ tiếu heo
thì trong nồi nước dùng cơ bản phải có thật nhiều xương heo được ướp
theo một bí quyết riêng rồi mới được ninh nhừ cho ngọt nước. Người Sa
Đéc khoái ăn theo kiểu : “một tiếu một xí quách”. Du lịch vùng này, bạn
chỉ cần chỉ cần gọi như vậy là một lát sau cô bán hàng bưng ra một tô hủ
tiếu đầy đủ thịt băm, tim gan còn một tô kia đầy những xương ống heo
ninh nhừ. Lúc này, khách chỉ việc ăn hủ tiếu rồi nhẩn nha những cục xí
quách mềm rục.
Sau bữa cơm ngon lành, chúng tôi đến ngôi nhà cổ còn khá nguyên vẹn của
đại điền chủ Huỳnh Thủy Lê – người từng vang danh trong tiểu thuyết nổi
tiếng ”Người Tình” của nữ văn sĩ Pháp Marguerite Duras. Ngôi nhà này
nằm ngó ngay ra mặt sông Sa Đéc hiền hòa với phong cách kiến trúc Đông –
Tây hội ngộ khá hoàn mỹ. Có thể nói, kiến trúc sư đã khéo léo phối hợp
chất Nam bộ trong tổng thể cùng nét bài trí đậm hơi hướng Trung Hoa,
riêng các vật trưng bày được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Cuối năm 2010,
ngôi nhà này vừa kỷ niệm tròn 115 năm tuổi. Hồi đầu thế kỷ XX, năm 1917
nhà đã được trùng tu và xây lại với nguyên liệu là vôi vữa cùng bột ô
dước, riêng nếp nhà cũ nguyên bản làm bằng gỗ đã bị đập bỏ hoàn toàn.
Tuấn Dương cho biết: năm 1972, ngôi nhà này bị bỏ hoang vì chủ nhân đã
đưa cả gia đình ra nước ngoài sinh sống; sau 1975 một đơn vị quân đội đã
tiếp nhận và đặt trụ sở trong thời gian khá dài. Đầu năm 2007 ngôi nhà
này mới chính thức được chuyển thành địa chỉ du lịch.
Theo thống kê, Sa Đéc tồn tại 79 căn nhà cổ, trong đó có 17 ngôi nhà
được xây cất vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đa số đều mang dấu ấn
của kiến trúc Pháp. Hiện nay, trừ ngôi nhà Huỳnh Thuỷ Lê được chăm chút
cẩn thận, những ngôi nhà khác đang xuống cấp trầm trọng, cần phải có một
kế hoạch duy tu bảo tồn kịp thời. Đến Sa Đéc, ngoài nhà cổ Huỳnh Thủy
Lê, du khách Pháp đều không quên thăm trường tiểu học Trưng Vương (nơi
mẹ của nữ văn sĩ Marguerite Duras từng là hiệu trưởng), trải qua cả thế
kỷ nhưng ngôi trường vẫn còn khá nguyên vẹn với nét kiến trúc đậm chất
Pháp cùng dáng vẻ bán hiện đại. Tôi đã đọc tác phẩm nổi tiếng này và
cũng đã thưởng thức bộ phim qua diễn xuất tuyệt vời của tài tử Lương Gia
Huy cùng Jane March. Nhưng khi viếng nhà cổ, trường xưa, một cảm xúc
chợt dâng đầy trong lòng lúc nhìn ngắm các vật dụng gợi nhớ quá khứ, tất
cả làm tôi thấy dường như hồn xưa đang chầm chậm quay về.
Du ngoạn làng hoa bên sông
Dưới sông, các chuyến ghe tấp nập người vác kiểng hoa xếp đầy trong
khoang theo từng loại có hàng có lối. Lẩn mẩn tôi đếm: Hồng Túc Cầu, Mãn
đình hồng, Cúc đại đóa, Cúc mâm xôi, Cúc vàng cùng hoa Mai 5 cánh cho
đến Mai 48 cánh … Riêng hoa hồng có hơn 20 loại (sau này được biết tại
Sa Đéc có vườn hồng trồng tới hơn 50 giống). Trên một thuyền khác tôi
thấy chuyên các loại ớt kiểng với hình dáng “là lạ” từ tròn, dài, bát
giác với đủ màu sắc từ trắng, xanh, tím đỏ hồng vàng nhìn thật thích
mắt. Xa xa những chiếc ghe bầu có tải trọng lớn lại chuyên các chậu tắc
kiểng, thiên tuế mướt xanh được uốn nắn rất công phu.
Qua một đêm ngủ thật ngon tại một khách sạn nhỏ bên dòng sông Sa Đéc
hiền hòa êm ả, chúng tôi vội chạy ra làng hoa để tranh thủ chụp hình
những nụ hoa còn đọng giọt sương mai trong nắng sớm. Tạm biệt Sa Đéc,
tôi vẫy tay chào những nghệ nhân trồng hoa mới gặp mà tưởng như rất thân
quen qua lời chào hỏi dân dã và nụ cười hiền hòa, thân thiện. Mọi
người đều mong Xuân đến sẽ mang cho ta nhiều hi vọng về một tương lai
tốt đẹp, và chính những nụ cười chân chất ấy làm ta ấm lòng và thêm yêu
mảnh đất dịu dàng với cái tên mộc mạc Sa Đéc.
Về miền Tây, săn ảnh đẹp lò gạch Sa Đéc
Miền Tây Nam bộ không xa lạ đối với những ai có
niềm đam mê du lịch sông nước. Song vẫn còn có tour "độc" gây ngạc
nhiên và hứng khởi không ít cho những tay săn ảnh đẹp và thích du lịch
bằng "ngựa sắt".
Hãy thử một lần rong ruổi xe máy về lò gạch Sa Đéc để săn những bức ảnh độc đáo của một miền sông nước thanh bình.
Tour hiếm săn ảnh nghệ thuật
Du ký miền Tây săn ảnh nghệ thuật là một loại tour hiếm. Tìm
kiếm trên Google, có đến 805.000 kết quả với từ khóa "tour chụp ảnh
miền Tây" chỉ trong vòng 0,21 giây, nhưng không có kết quả nào về tour
du lịch chụp hình nghệ thuật ở miền Tây sông nước. Đặc biệt là tour về
Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp) sáng tác ảnh nghệ thuật ở lò gạch ven sông lại
càng hiếm. Và có lẽ chỉ có dân phượt với niềm đam mê săn ảnh đẹp và xê
dịch bằng xe gắn máy mới đủ sức đeo bám photo tour ròng rã ngồi trên xe
máy dưới thời tiết nắng gắt mưa dầm luân phiên trên nẻo đường miền Tây.
Khởi hành từ TP.HCM, buổi chiều muộn đoàn nhiếp ảnh gia cưỡi
xe máy đã dừng chân ở thị xã Sa Đéc. Để rồi sau một đêm thao thức mơ về
ngôi lò gạch đỏ mơ màng ven sông, những tay máy thiện nghệ trong đoàn
phượt đã thỏa ước nguyện săn những bức ảnh "độc" nhất. Buổi sáng rực
nắng và mây bồng bềnh, gợi niềm hứng khởi cho đoàn nhiếp ảnh gia hăng
hái qua sông bằng một chuyến phà nhỏ, sang lò gạch Đức Thành bên kia
sông. Một ngày nắng đẹp hứa hẹn cho hàng ngàn cú bấm máy đẹp lung linh.
Trên chuyến phà gỗ nổ máy qua sông, nhiều tay máy trong đoàn
không bỏ lỡ cơ hội sáng tác ảnh đẹp từ góc nhìn trên phà. Một vùng trời
nước mênh mang mở ra những nẻo đường xuôi ngược sông nước miền Tây. Mái
chèo của bà mẹ quê khua rộn ràng sóng nước. Những chuyến sà lan hối hả
chở cát trên sông. Và những con thuyền đang rộn ràng ăn những mẻ gạch đỏ
tươi mới ra lò. Sát bên mé sông, lô xô những vòm lò gạch in lên nền
trời mây trắng từng nét cong mềm mại duyên dáng. Những nét duyên ngầm
của miền sông nước đã được thu gọn trong những cú bấm máy thiện nghệ của
đoàn khách qua sông.
Theo người dân địa phương đi phà qua sông vào lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Tranh thủ sáng tác những bức ảnh về miền Tây sông nước trên chuyến phà qua sông vào lò gạch - Ảnh: KHÁNH NGỌC |
Cảnh nhộn nhịp trên bến dưới thuyền bên ngoài lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Săn tìm ảnh "độc" nơi lò gạch
Đây rồi, lối vào lò gạch nho nhỏ với bờ tường gạch đỏ nhuốm
màu rêu phong rực lên dưới ánh nắng vàng tươi. Một bà mẹ quê đội nón lá
đi ngang ngõ nhỏ. Một giàn mướp vàng tươi nở trên nền gạch cam rực rỡ.
Cô gái thị thành diện áo hoa dạo bước ngõ vào lò gạch. Chỉ đơn sơ thế
thôi cũng đủ gợi cảm hứng rạo rực cho các tay máy đốt cháy bao nhiêu thẻ
nhớ máy ảnh.
Cái nóng như thiêu trong lò gạch cũng không ngăn được các
tay máy lăn xả vào gần những chiếc lò nung gạch đang cháy phừng phừng vỏ
trấu, những chồng gạch ống, gạch lát sàn còn đang ướt rượt xếp cao
nghệu để tìm góc sáng tác ảnh "độc". Ngắm nhìn mải mê qua ống kính máy
ảnh những người thợ lò gạch cần mẫn như những con ong cái kiến, xếp gạch
còn ướt vào máy xén để định hình khuôn gạch, vài cô gái trẻ hăm hở xông
vào "học việc" thợ gạch.
Được ngày nắng to, công nhân lũ lượt xếp gạch ướt ra sân
phơi cho được nắng. Sau lưng những người công nhân đang nhịp nhàng trải
gạch trên sân, từng dãy ụ lò gạch đỏ sẫm in lên nền trời xanh mây trắng,
khiến cả lò gạch trông như một tổ ong lớn với hàng trăm ong thợ làm
việc hăng say. Và rồi những tiếng bấm máy lạch xạch lại vang lên không
ngớt.
Một tay máy nữ trong đoàn sáng tác ảnh đang sáng tác
tại ngõ nhỏ vào lò gạch Sa Đéc với nhịp sống đời thường trong dáng hình
bà mẹ quê mộc mạc nón lá - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Cảnh phơi gạch trong ngày đẹp nắng ở lò gạch Sa Đéc gợi cảm hứng mạnh mẽ cho các tay máy phượt săn ảnh đẹp - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Cô gái trẻ trong đoàn (đội mũ lưỡi trai) vừa săn ảnh
nghệ thuật, vừa lăn xả vào "học việc" làm gạch với công nhân lò gạch Sa
Đéc - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Ngoài những lò gạch đang đỏ lửa nung gạch, có cả những lò
gạch trình diễn công đoạn nung gạch cho khách tham quan tạo dáng chụp
ảnh. Luồng ánh sáng rọi vào lòng lò gạch qua ống khói trên nóc vòm lò đã
tạo nên nguồn sáng cực "độc" trên mặt người mẫu. Màu tường kết bằng
gạch nung trong lòng lò gạch đỏ nồng nàn sau bao đợt lửa nung trở thành
phông nền độc đáo không đâu có. Và cả cửa vòm mộc mạc lối vào mỗi cửa lò
gạch mang đậm dấu ấn khói lửa nung và màu thời gian bàng bạc, tạo nên
dấu ấn nghệ thuật rất riêng cho các bức ảnh thêm nét độc đáo.
Tất cả những nét đẹp lạ của lò nung gạch khiến các tay săn
ảnh mê mải bấm máy rào rào. Người thì leo lên đống gạch nung xếp cao
ngất, người lại nằm ngửa dưới đất bấm chếch máy lên cao. Mọi góc máy
sáng tạo đều được tận dụng tối đa trong lò gạch để cạnh tranh nhau góc
máy lạ nhất.
Trong vài giờ ngắn ngủi săn ảnh đẹp ở lò gạch Sa Đéc, đoàn
săn ảnh đẹp đến từ phố thị Sài Gòn đã vỡ ra thêm nhiều điều về đời thợ
lò gạch, về cả cách sáng tác ảnh nghệ thuật với hoạt động sản xuất gạch,
cách làm chủ ánh sáng trong lò gạch để có ảnh. Để rồi trên đường về lại
Sài Gòn, đã nghe lòng da diết nhung nhớ sắc đỏ thắm lò gạch ven sông
thị xã Sa Đéc…
Lò gạch trình diễn quy trình sản xuất gạch cho khách du lịch tham quan và chụp ảnh - Ảnh: KHÁNH NGỌC |
Lò nung gạch dành cho khách du lịch tham quan và chụp ảnh ở lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Công nhân đang dỡ gạch vừa chín tới trong lò nung ở lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc - Ảnh: KHÁNH NGỌC
|
Bài, ảnh: KHÁNH NGỌC