Truyện ngắn "Lạc quê"
Nhớ Khói Lam Chiều
Khói quê
Nhớ khói
Nhạt nhoà theo gió phôi pha,
Hương gây mùi nhớ xót xa đắng lòng ?!
Thương thời khói toả mênh mông,
Khói ôm mái lá bên sông mịt mờ ...
Giữa đồng khói nhẹ như tơ,
Quẩn quanh cỏ dại nương nhờ gió đưa !
Khói sáng sớm, khói chiều mưa...
Xa rồi....lâu lắm tôi chưa quay về !!
Đường đời che khuất khói quê,
Một lần ao ước được về lối xưa...!!
NM
Lâu lắm rồi tôi không ăn cơm bếp, lâu lắm rồi không ngửi thấy mùi khói
hăng hắc giữa trưa nắng chang chang và tiếng nói của mạ vọng ra từ mái
nhà tranh xiêu vẹo.
Cái nền đất cũ mọc lên ngôi nhà mới, hình ảnh mái nhà tranh thỉnh
thoảng trở về trong ký ức tôi. Trên thực tế, mái nhà xưa không còn. Cuộc
sống ngày một giàu có hơn về vật chất cũng có trả giá thiệt hơn về đời
sống tinh thần. Thực lòng tôi tiếc nuối, đôi khi chậc lưỡi mà rằng hết
rồi mái nhà tranh, khói lam chiều cũng chỉ còn là kỷ niệm.
Ngày xưa nghèo, trong những gian lao con người không hối hả, họ sống
chậm nên ngẫm hết được mọi sự đời. Cuộc sống giờ đây dễ đánh mất sự
thảnh thơi. Tự mình thay đổi chứ không ai bắt ép. Ngày ấy, tôi ước mong
có mái nhà lợp ngói để ra khỏi mái nhà tranh mùa nắng chiếu vào tận
giường, mùa mưa nước nhỏ giữa nền nhà thon thót. Không gì bằng một giấc
ngủ ngon trong chăn ấm, gió không thể lùa vào ngôi nhà kiên cố. Giờ tôi
đã đạt được ước mong của cuộc đời mình. Nhưng chính thứ mà tôi muốn giã
từ giờ trở về khuấy động. Nỗi nhớ cứ nhưng nhức ở tận đáy lòng khi nghĩ
về mái nhà xưa. Phải chăng đó là chút duyên nợ trong những ngày khốn
khó?
Tôi tự hỏi lòng mình, có bao nhiêu thứ phồn hoa thời hiện đại không
nhớ, không thương lấy chi tháng ngày bần hàn làm kỷ niệm riêng tư. Cũng
không phải khó hiểu, khi phần lớn đời mình gắn liền với một miền quê mà ở
đó tiếng gọi nhau chiều hôm là tiếng lòng yêu thương như tiếng kêu của
lũ chim gọi nhau về tổ ấm. Có quá nhiều thứ để tôi nhớ mong, dáng cha
vác cày, anh trai tôi đi đủng đỉnh dắt trâu từ cánh đồng về, mớ rau mẹ
mang trên tay chuẩn bị lo cho gia đình bữa cơm đạm bạc. Gánh nước trên
vai chị và nắm củi khô trên tay em. Bao nhiêu thứ đó đều hội tụ về một
mái nhà. Và dưới những liếp tranh, nơi nhỏ nhoi nhưng đầy ắp những con
người cứ chí chới gọi nhau. Lúc thì nồi khoai, lúc vài quả bắp, khi quả
mít chín thơm tho mới hái từ vườn vào. Tất cả mọi thứ đều diễn ra dưới
mái nhà tranh, những yêu thương gói vào đó thơm tho như vỏ quả mít ủ
trong đó những hương thơm ngầy ngậy. Trong ký ức tôi hằn lên những chiều
mưa. Dù cơn mưa rả rích hay những trận mưa nước ngập vào tận nhà thì
khói lam chiều vẫn bốc lên trên mái nhà đơn sơ. Tôi thường hay ngắm
khói. Từ mái nhà tranh những giọt mưa rớt xuống như tấm mành trong khi
đó trên mái tranh khói vẫn thả lên trời vương vãi. Những lúc tôi đứng
ngắm mưa rơi, tôi nhìn khói bay... cha thường bảo thằng này sau đa cảm
lắm. Hồi đó tôi chưa biết đa cảm là gì, giờ ngộ ra đó là chút tình vương
trong trời đất, không nhiều nhưng đủ để người ta nhớ, không đủ dày để
kết nối yêu thương nhưng cứ vất vưởng lên trời như làn khói dễ đến mấy
chục năm khấp khởi ùa về.
Gần đây tôi lên miền núi, khi chiều tận ngọn núi và mặt trời vừa lúc
nằm quên trên hàng cây xanh phía đỉnh đồi. Khói nhà ai đã bốc lên, trên
miền rừng giờ vẫn lác đác những mái nhà tranh, sau cơn mưa khói từ mái
nhà lên màu lam. Càng lên cao, gió thổi khói bay giữa không gian và màu
lam chuyển sang màu trắng mỏng tang và bay đi cùng gió. Chợt dưng tôi
nhớ nhà quay quắt, ngôi nhà của hơn ba mươi năm trước nằm bên cạnh cánh
đồng, phía trước là con sông còn sau lưng là dãy núi. Đôi lúc tôi tự
hỏi, phải chăng tôi thèm khói cùng với những yêu thương. Cha đi hơn chục
năm để lại ngôi nhà trống vắng, mạ không còn nhóm lửa nấu cơm bởi cuộc
sống hiện đại đi mất rồi. Và nữa, làng xóm ngày xưa một bước đã sang
được nhà nhau giờ xây hàng rào bằng bê tông kín mít. Cửa nhà khép lại
cùng với cửa lòng. Trong thênh thang trời đất tìm người tri kỷ còn khó
hơn tìm làn khói lam chiều giữa miền quê heo hút. Những kỷ niệm nhắc
hoài không nhớ, những điều ngày xưa tưởng chừng là ký ức chung, làn khói
lam chiều từ mái nhà tranh đã trôi vào một nơi nào đó trong tiềm thức.
Càng cố tình khơi dậy nó càng bị người ta lãng quên.
Tôi thường chép ngày xưa thành trang ký ức cho riêng mình. Để rồi tận
đẩu tận đâu có người nhắc rằng tôi nhớ dai dễ sợ. Tôi cười, có lẽ phải
cảm ơn những ngày xưa, cảm ơn những thanh củi mục đang còn thấm nước.
Ngày ấy, vào mỗi mùa mưa, cả con sông trước nhà sóng vồn lên dữ dội. Tôi
là đứa thích bơi sông, nhất là sóng càng to càng khiến tôi phấn khích.
Ra giữa sông mùa lũ để vớt củi từ miền rừng trôi về làm nhiên liệu cho
gia đình trong suốt mùa đông. Đó là lí do chính đáng, đồng thời với nó
là thỏa mãn đam mê sóng nước của mình. Củi được vớt từ sông, anh trai
tôi mang lên bờ bổ nhỏ rồi chị gái tôi gánh vào nhà. Mái nhà tranh chất
đầy củi cạnh bếp, lúc đút củi vào hơi nước từ đó bốc ra vờn lên mái
tranh rồi thả khói lên trời. Màu lam ngày ấy giờ chợt cay tròng mắt. Nó
lạ như thế, nhiều lúc tôi nhớ khói kèm với nhớ sông, nhất là sông mùa lũ
lụt. Rồi tôi ngẫm, câu chuyện cho riêng mình. Việc bơi ra giữa sóng
nước bao la vớt một cây gỗ lớn vào bờ tưởng chừng như khó khăn nhưng lại
đơn giản. Còn việc bơi qua cuộc đời mình, vớt lấy chính mình trong dòng
chảy bao la của cuộc sống tưởng chừng giản đơn nhưng rất đỗi nhọc nhằn.
Có quá nhiều lúc tôi gục đầu, cũng có lúc giọt nước mắt không nhỏ xuống
đất mà chui vào cổ họng khiến giọng nói tôi trở nên nghẹn đắng. Đã có
những lúc buồn đau, bí bách như cái đứa trăm năm khát một con sóng ngoài
khơi hay người chờ đến ngày dài tháng rộng từ mái nhà xưa vẫn không
chụp được màu khói. Những lúc đó tôi thường ghé nơi thanh tịnh, lúc là
mái nhà sàn giữa rừng, có khi là mái chùa trong thôn vắng. Ngồi ngẫm đời
chơi và đếm xem mình bao nhiêu tuổi, nhìn lá vàng rơi giữa những ngày
thu se lạnh và đếm xem bao ngày khói đi qua.
Cuộc đời trôi theo những yêu thương và đứng lại cùng màu nhớ. Có hôm
tôi nhớ làn khói xưa thấy tội. Hồi nhỏ cứ bảo nhau rằng “khói lên trên
trời thành mây” đó là suy nghĩ thời trẻ thơ mỗi khi chiều về ngắm khói.
Giờ thả lòng theo nỗi nhớ vẫn còn ngây dại khi nỗi nhớ cứ đi theo khói
mấy chục năm rồi. Đôi lúc cũng thắc thỏm nghĩ, sau khói là gì, nếu đơn
thuần khói lên trời thành mây thì kiếp sống phù sinh đã có hồi kết quả.
Chợt vui cho phận khói, chợt thấp thỏm cho phận mình. Mình... lên trời
thành chi?
Hoàng Hải LâmCõi Nhớ
Khói lam
Ngày hai cữ sáng – chiều, Giang thường cầm chổi quét cho sạch đám lá
si rụng đầy sân chùa. Giang đã bắt đầu biết quan sát mọi thứ xung quanh
trong sự tĩnh lặng.
Ngôi chùa được dựng trên nền khuyết của một vách núi tự bao giờ,
Giang cũng chẳng biết. Giang vô ở hẳn trong chùa năm tám tuổi. Là chú
tiểu, nó đã ở đây với thầy trụ trì được tám năm. Bây giờ, Giang mười
sáu. Giang chỉ nhớ mang máng lời ngoại kể. Khi nó chào đời, gia đình bắt
đầu khánh tận. Tuổi thơ của Giang trôi đi trong nỗi khốn khó của gia
đình. Ba – má đi coi bói, ông thầy nói Giang là khắc tinh nên đem vô
chùa gởi cho nhẹ nghiệp chướng.
Ngày ngoại mất, Giang khóc thiệt nhiều. Thầy dẫn nó xuống núi viếng
ngoại. Chỉ kịp nghe thầy đọc xong bài kinh sám hối, thắp mấy cây nhang
cho ngoại rồi Giang lại được thầy dẫn quay về chùa.
Có vài lần, gia đình quày quả lên chùa thăm. Những lúc ấy, Giang thấy
lòng rộn ràng. Nó được ăn nhiều thứ trái cây, bánh kẹo mà nhà chùa
không có sẵn. Giang vui. Trong niềm vui thoáng qua của những câu chuyện
xóm làng.
Thầy thương Giang lắm. Nhưng cũng rất khắt khe với nó theo giới luật
của nhà chùa. Vì Giang là đứa trẻ hiếu động. Thầy dạy học cho Giang qua
kinh kệ và tưới vào hồn nó những bài đức dục không làm xao động lòng
trần.
Hổng biết sao, chiều nay Giang nhớ nhà ghê gớm. Nó ra trước sân, nhìn
xuống chân núi. Ánh hoàng hôn phủ lên ngút ngàn ruộng lúa xanh rì kéo
dài tận chân trời. Giang phóng tầm mắt theo sự dịch chuyển của đàn cò
phía bên kia lũy tre chỉ còn là những chấm đen di động trong không
trung. Từng cụm khói lam bốc lên từ chái bếp của những mái nhà sửa soạn
cho bữa cơm chiều, con sông uốn khúc lượn quanh… Tất cả đọng lại như bức
tranh thủy mặc trước mắt. Ở ngay dưới chân núi thôi nhưng Giang thấy
sao mà xa quá.
Một bàn tay khẽ khàng đặt lên vai Giang. Quay lại, thì ra Thầy đã
đứng sau lưng tự lúc nào mà Giang không hề biết. Nó bắt gặp ánh mắt của
thầy cũng nhìn về hướng dưới chân núi. Nơi có mái nhà bốc lên từng cụm
khói lam. Trong ánh mắt sâu thẳm của Thầy, Giang đọc được nỗi nhớ. Giang
cũng từng nghe người dưới chân núi lên vãn cảnh chùa kể với nhau về
thầy. Mà miệng đời như ngòi rạch thì làm sao ngăn. Họ nói rằng, thầy đi
tu cũng từ nơi phát ra những cụm khói lam ấy. Nơi có một tình yêu không
trọn vẹn trong cõi xôn xao của người đời. Nơi mà chiều nào đứng đây cũng
thấy rõ mồn một từng cụm khói lam phấp phới tan vào trong mây cứ nhắc
người ta về sự sống đang tồn tại và cuộc hạnh ngộ xa vời.
Rất nhiều lần, Thầy dẫn Giang vô rừng, xuống núi tìm dược thảo. Những
khi chân Giang tóe máu vì đạp phải gai rừng, đá nhọn, Thầy đều cõng nó.
So trọng lượng của Giang thì trọng lượng của những cụm khói lam kia có
là gì đâu. Nhưng, chiều nay Giang đã thấy sức nặng ngàn cân của cụm khói
lam trĩu nặng trên mắt Thầy. Xa xăm nhưng nặng trĩu. Giang tự hỏi :”
Thầy có cõng nổi cụm khói lam kia như cõng nó không ?”
Ừ, đi tu khó lắm. Phải có căn duyên thì mới được trọn đường. Cũng
giống như chữ HẠNH nằm kề chữ PHÚC vậy. Người sống có phẩm hạnh thì sẽ
gặt được phúc đức. Bởi thế, trong nhân gian vẫn thường hay ao ước với
tới được hạnh phúc đó sao.
Bất chợt, Thầy và Giang đều bắt đầu đọc bài kinh sám hối. Cả hai cùng
lặng lẽ quay vô chùa trong tiếng lá rụng. Trước khi rời gót, Giang còn
liếc nhìn xuống phía xa dưới chân núi. Từng cụm khói lam vẫn bốc lên rồi
vương vào chân mây. Như đã vương vào phẩm hạnh của lòng thầy.
Trường Giang
Nắng sau vườn khói
Thì đó cũng là khi nó mang ơn chị, ơn của người vừa cứu nó thoát trận
lũ cuốn, người vừa cho nó tình thương, vừa cho nó cuộc sống. Nó không
bao giờ sợ chết, nhưng mà chết là không còn được gặp chị, nó làm sao
chịu nổi. Thôi thì sống, để trái tim còn đập cho chị, và hình như là
mang hết tình yêu để trả lại chị…
Đã
lâu rồi không về thăm chị. Căn nhà nhỏ bên này sông đìu hiu hơn cái
thuở mấy đứa em chị còn xíu xít quấn lấy chân những trưa tan buổi chợ
về. Mấy cây mai khô khốc chỉ còn đậu lại phiến lá xanh mờ phiến bụi mùa
này lại không trổ hoa, sau vườn mấy cây lựu đỏ cũng buồn trái không đỏ
thẫm như cái hồi chị tách đôi giữ cho mình một nửa. Cái ao sau nhà cạn
nước, lổ chổ mấy cái hang cua, hang còng bỏ hoang hay là cái điển tích
đi theo người tình phụ y trân như số kiếp của chị. Trường ngồi nhớ lại
những ngày xưa mà lòng đau rát như máu rỉ ra từng chút một, như ai cắt
khứa vào trong lòng nó mà lại nhẫn tâm bắt nó quên đi.
o0o
Về
thăm xóm, mấy đứa nhóc ngày nào giờ đi học hết. 10 năm, chắc tụi nó lên
cấp hai rồi. Mẩm có gặp lại cũng dễ gì biết ra thằng Trường đẹt năm nào
giờ điển trai, cao lớn và có công ăn việc làm gì đó ngon lành trên
thành phố. Trường cười, lời bà Bảy Trầu thuật lại ngọn ngành bao nhiêu
lời đồn thổi về nó trong cái xóm trồng trầu lưa thưa này. Người ta hay
phỏng đoán vậy, ít có ai hiểu nó hơn là chính nó, ngay cả cha dượng hiền
từ nhận nuôi nó khi nó mới 15 xác xơ côi cút. Cả cái xóm này chỉ có
chị, duy nhất chị mà thôi, chị hiểu nó rất nhiều, chị am hiểu cái sở
thích kỳ quặc của nó là mê mẩn mấy cây lựu đỏ vườn nhà chị lúc vào mùa,
cây lựu lá xanh mướt, nhỏ nhẻ mà cứng rắn cong lặng trong gió chiều.
Những buổi chiều nắng sau vườn khói chỉ còn vài vạt chiếu xuyên qua kẽ
lá dừa, chị bắt nó ngồi nhổ tóc sâu, mái tóc chị xoã dài mém đụng mé ao,
nó không ngờ là tóc chị dài thế, mềm thế. Chị hái cho nó trái lựu chín,
vị lựu giòn tan, buổi chiều thơm thơm mùi bông bưởi. Nó nhớ nó ghét
thằng Sún, em chị, cái đứa hay ma mãnh giật nửa trái lựu đỏ trên tay nó,
cái miệng he he hàm răng sún. Chị đền cho nó trái lựu to hơn, nó ôm
trái lựu to chạy miết ra ngoài đê. Lúc ấy không có tình thương nào bằng.
Năm
nó lên 14 tuổi, vẫn chưa dứt cái tên thằng Trường đẹt. Nó là dân của
xóm trầu này khi nào đâu ai biết, chỉ biết nhà nó đi ghe về vùng đất
này, năm ấy lũ mấp mé cả cái ván gõ nhà bà bảy Trầu, bão lớn đến độ ghe
nhà nó gặp tai nạn lưu lạc hết, nó được người ta cứu trên một thân chuối
dạt vào bờ sông, kể từ đó nó không còn nhớ cha mẹ nó là ai nữa, có ai
hỏi nó chỉ cười, rồi mếu, rồi cười. Nó lớn lên bằng tình thương của
người dân xóm trầu nhưng không đong đầy như tình thương ba má dành cho
nó, chắc có lẽ vậy nên nó lớn không nổi, đó, thì gọi là thằng Trường đẹt
thôi.
Duy
chỉ có chị là không gọi nó như vậy, chị bổ sung nó vào một dọc ba đứa
em trai của chị, có một đứa đã mất. Chị thương nó như tình thương của
một người chị, cái thứ tình thương ruột thịt duy nhất mà nó tìm được
trong cuộc đời này. Một thứ tình thương mỏng manh dễ gãy đổ. Bởi nó nghe
nói chị sắp lấy chồng. Nghĩa là chị sắp sang sông. Nó sợ mất chị. Sợ
hơn cả nỗi sợ không nhà.
o0o
Mùa
mưa lũ khiến cuộc sống xóm trầu bộn bề khổ cực hơn rất nhiều, nó đi
theo phụ ông Bảy Trà quăng lưới giăng câu. Âu thì cũng là qui luật bù
trừ, niềm vui của người này đôi khi lại là nỗi buồn của người kia. Nghề
chài cá thu được nhiều lợi nhuận, nhất là những bữa sóng to, cá nhiều,
trên cánh đồng nước mênh mông, nó cùng ông Bảy so gan với đất trời, giản
đơn cũng chỉ để có một thúng gạo cho qua mùa lũ, mưa cứ rich rả trên
trời như thế. Những ngày tháng đó dường như mãi đi theo nó...
Hôm
ấy mưa, suốt buổi chiều mưa dội nặng nề trên mái lá. Nó chạy ra đồng
trong tâm trạng lo lắng lắm, nó lo ông Bảy gióng xuồng ra đồng nước giữa
lúc mưa mù trời thế này thì nguy hiểm vô cùng. Ông bảy lại hay thấy nó
ngủ say rồi hay giăng lưới một mình, đã có lần nó thấy ghe bị đảo, ông
Bảy cầm giầm chống mạnh xuống đường ruộng rồi chống về, mưa nghiêng
chiềng cái dáng mảnh khảnh của ông Bảy rồi bất chợt chùn tay chèo. Cái
viễn cảnh ông Bảy đương đầu với sóng to lũ dữ đeo bám vào nó. Nó lo sợ
lần này cũng giống vậy. Gió xé tạt đám lá chuối lạch phạch cong oằn theo
triền đê. Cả cánh đồng nước có những đám bông lau lởm chởm cũng oằn
theo một chiều không dứt. Con đê bỗng nặng nề rồi trãi dài dưới chân
dường bất tận lắm. Nó thất thanh. Tiếng của nó không thấm thía gì với
bão và gió đang vô tình cuốn bay mọi thứ trên đường đi ...
...
Nó thấy mình nhẹ hửng, không còn la lối gì được nữa, tệ nhất là nó
không thở được, có cái gì đó nghẹn ở cổ họng. Bàn tay bấu vào cái gì như
bẹ chuối, còn chân thì lửng lơ, chuột rút, không chạm được vào cái gì
cả. Ai đó nhấc bổng nó lên, có cái gì nóng hổi luồn qua vai, tím tái.
Gió hất vào mặt lạnh ngắt, tiếng rào rào của mưa đồng vẫn bên tai, nhưng
chen vào đó là tiếng người, tiếng chó sủa lẫn lộn, thảng thốt từng hồi.
Nó sặc sụa. Thực quản đang mở dần, nước trào ra, không khí lại tuôn vào
ngập tràn lá phổi. Nó không ý thức được mọi thứ cho đến khi nó tỉnh lại
trên tấm ván gõ nhà bà Bảy, thấy khuôn mặt chị xanh xao chằm chằm vào
đôi mắt nó đang hấp háy dưới ngọn đèn chong, ngọn tóc bám trên má nhỏ
xuống vài giọt nước vừa nóng, vừa lạnh.
Thì
đó cũng là khi nó mang ơn chị, ơn của người vừa cứu nó thoát trận lũ
cuốn, người vừa cho nó tình thương, vừa cho nó cuộc sống. Nó không bao
giờ sợ chết, nhưng mà chết là không còn được gặp chị, nó làm sao chịu
nổi. Thôi thì sống, để trái tim còn đập cho chị, và hình như là mang hết
tình yêu để trả lại chị.
o0o
Chị
mang cho nó hai ba trái lựu chín trong cái khăn trùm đầu rằn ri màu
xanh bạc rồi đi chợ. Nó nhớ mùi bông bưởi thoảng nhẹ nhàng cùng cái vị
giòn giòn của lựu chín ghê gớm. Khẽ nhoài người ra khuôn cửa bằng mây
tre yếu xìu, nó với giọng : "Hai ơi.. cám ơn nghen!". Chị giật mình,
quay lại mỉm cười rồi te tái bước. Đôi mắt có đều gì vừa vui vừa xót xa.
Nó khó hiểu, đem chuyện nói với bà Bảy.
-"Con
Hai sắp lấy chồng rồi, ở đây mấy ngày nữa đâu. Tụi bây ráng mà thương
nó !". Bà Bảy vừa nói vừa chà chà xác trầu trên răng. Bà bảy hay ăn trầu
vậy. Nó nhìn bà bảy, lẳng lặng chạy ra vườn, nắng sáng chiếu lửng lơ
buồn buồn xuyên qua mấy làn khói. Khói bếp cay xè mắt mũi.
Tuần
sau, mấy cái ghe đước trang trí cờ hoa võng lọng cập mé bờ kinh. Hôm ấy
là một ngày mưa ảm đạm, thế nhưng người dân xóm trầu trông đó làm vui.
Biết bao lâu mới có một cái đám cưới rôm rả, mà nghe đâu chú rể là con
ông chủ tịch xã có bà vợ nhơn đức nổi tiếng ở thị trấn bên kia sông,
rằng con Hai Thảo về ở bển sẽ sung sướng như bắt được vàng. Đám cưới có
mấy chục mâm quả, có cau trầu, có bà mối hẳn hòi. Không biết chị có lấy
đó làm vui không nhưng ai đời đi đưa dâu mà đôi mắt nhòe nhoẹt ướt. Bờ
bên kia người ta ì xèo đón cô dâu mới, nó ngồi bên này, chỉ biết lặng
thinh.
Rồi
nó cũng xa quê, cái ngày chị sang sông cũng là ngày dượng nó bắt được
tin tức dong ruổi của mấy ông lái trầu bán trên tận thị xã rằng nó đang
sống dưới xóm trầu. Nó thương cái dáng ông dượng khắc khổ sương gió đi
tìm nó, chỉ để giữ với ba nó lời hứa, như giữ trách nhiệm phải trả ân
nhân mình theo cái nhân cái nghĩa ở đời. Nó lặng lẽ rời khỏi xóm trầu
hồi nào chẳng ai biết. Chỉ kịp đặt ở bậu nhà ông Bảy vài trái lựu chưa
chín, te tái chát.
Trong
cuộc đời con người ta gặp bao nhiêu là hên xui may rủi. Có những cái
may mắn đến cứu nó thoát khỏi cảnh thất học tối tăm của đời một người
chỉ biết bám vào lũ mà sống. Nhưng cũng chính cái vận may đó làm mất đi
của nó nhiều thứ. Cái thứ mà nếu nó được đánh đổi, chắc nó cũng sẽ đánh
đổi. Bởi cho dù mãi mãi nó vẫn là một thằng mồ côi xơ xác, mãi mãi sống ở
cái xóm trầu nghèo hèn này, mà được thấy chị, được gần chị, thì bấy
nhiêu cái thành quả mà nó có cũng chỉ là hư ảo mà thôi.
o0o
10
năm, nó tìm đường trở về xóm trầu. Về dòng sông, về cái vườn rộng ngày
nào xác xơ mấy cây lựu không ra trái nữa. Những nếp nhăn trên trán bà
Bảy hằn lên bao nhiêu biến cố của cái xóm nghèo này. Bà vẫn giữ thói
quen nhai trầu cho dù cái cơi thời buổi kinh tế thị trường không còn đầy
xanh những lá trầu như hồi trước nữa. Bà chỉ tay về phía bên kia bờ
sông khói hun hút, lặng tờ mấy cánh đồng sóng, biểu có rãnh qua thăm chị
Hai, chị khổ lắm, nghe đâu con ông xã uống rượu về hay đánh chị, rồi
đuổi chị ra khỏi nhà. Chắc có lẽ vì nghèo nên mẹ chồng không ưa, cũng
không cản. Lại còn dè bỉu chị sâu cay "Cây độc không trái, gái độc không
con", ít lâu sau chồng chị đi theo người khác, bỏ mặc chị cay đắng với
sông dài vô bờ vô hướng. Sông dài quá chị không về, hay vì lẽ gì mà chị
chẳng về, mãi ở bên đó thế kia?
Nó
không bao giờ biết, chị đi đâu, chị về đâu. Bởi trong tâm thức của
người dân xóm trầu giờ này, chắc gì có còn lưu lại hình ảnh chị Hai Thảo
hiền lành qua bấy nhiêu năm trời xa ngái. Bao nhiêu năm khắc khoải mong
tìm về, tìm về để chỉ biết chị có còn giữ hình ảnh của mình ngày xưa,
có còn giữ ánh mắt chị ngày xưa. Mà chỉ cần chị còn giữ một chút thôi,
một chút thôi thi thảng trong đôi mắt chị, là cũng đủ làm lòng nó ấm áp
xiết bao. Nhưng biết tìm đâu bây giờ, tìm về những tháng năm xưa cũ hay
là tìm trong những câu chuyện làm tối tối ngồi nhìn ra đồng mà tự dưng
nước mắt trào tuôn không ai muốn. Trách cái then cài cửa ủ dột hoen úa
cứ đâm miết vào lòng vào dạ mà nghe thương nhớ, xót xa.
o0o
Đã
lâu rồi không về thăm chị. Mái nhà cũ xác xơ nay đã bạc phết, khẽ rơi
rụng theo mấy ngọn gió chướng rồi xoay xoay vô định. Ngõ xưa vườn cũ còn
đây mà bóng chị đã xa khuất. Bên kia sông, ngọn cỏ lau cong cong như
nét cọ vẽ trong mây nước, cong cong như nắm đất tròn cuối cuộc đời chị
lúc thanh lặng lúc dật dờ. Thấp thoáng trước mắt hình ảnh chị quầy quả
chiếc giỏ mây con con đi chợ về trên con đê đã thương tiếc cất giữ giùm
cho nó một trời yên bình của tuổi thơ. Chưa kịp nói cho chị biết rằng
vẫn có người còn thương chị, còn dằn xé biết bao khi chẳng thể làm được
gì có nghĩa với chị. Chưa kịp về nhỏ một giọt nước mắt khóc cho cả cuộc
đời chị chưa trọn một ngày vui. Nhưng biết đến bao giờ? Chị ơi !...
Về
thăm chị, cửa đóng then cài. Buổi trưa chỉ loáng thoáng tiếng gà nhảy
ổ, tiếng tài tử cải lương xuống sề một câu quen thuộc mà bất cứ ai trong
cái xóm nghèo này cũng nằm lòng, cũng biết. Nắng sau vườn khói hiu
quạnh thả lên trời. Ngộ quá, buổi trưa mang máng đầy khói cứ thả lửng lơ
sau vườn như thương nhớ đều gì xưa cũ xa xôi.
Cảm giác buồn như gióng lên từng hồi, cứ dâng lên tận đâu đâu.