Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Tiếng Tỳ bà


Làn điệu Việt: Giới thiệu cây đàn tỳ bà

 Nam Nhân Vô Lệ - 琵琶版/ Tỳ Bà Bản

 TỲ BÀ                                                                                      
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm  
Trăng đan qua cành muôn tay êm 
Mây nhung pha màu thu trên trời 
Sương lam phơi màu thu muôn nơi 

Vàng sao nằm im trên hoa gầy 
Tương tư người xưa thôi qua đây 
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề 
Hoa vừa đưa hương gây đê mê 

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ 
Cây đàn yêu đương run trong mơ 
Hồn về trên môi kêu: em ơi  
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi 

Tôi qua tìm nàng vay du dương  
Tôi mang lên lầu lên cung Thương  
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi  
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu  
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng  
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
BÍCH KHÊ

            
  Thúc giục 
 Tỳ bà thúc giục vang vang,
   Tay nâng chung rượu hiên ngang lên đường...!
   Thân dù ngã giữa chiến trường,
  Hỏi ai chiến đấu kiên cường hơn ta ?!
NM
 
      
  TIẾNG TỲ BÀ TRONG KHÚC HÁT LƯƠNG CHÂU
Bửu Châu mến,
Đất nước mình đã từng trải qua những tháng năm ngập ngụa mùi súng đạn. Lứa tuổi của chúng mình ngày ấy từng chứng kiến cảnh người chung quanh sống nay mà không biết ngày mai có còn hiện diện ở trên đời. Đêm không chỉ xa nghe tiếng súng vọng về mà còn nghe chính tiếng gầm của đại bác ngay giữa lòng phố thị. Từng ấy năm kề cận với lằn ranh giữa sống và chết, hầu hết ai cũng thấy và thông cảm hình ảnh “say nằm” của người chiến binh trong Khúc Hát Lương Châu của Vương Hàn hơn ngàn năm trước :
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Bản chép mà Bửu Châu gởi cho mình, ghi lại khúc ngâm của người bạn, có lẽ đó là bản dịch của cụ Trần Trọng San
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
Ngày xưa Cụ Bùi Khánh Đản cũng có bản dịch, dịch sát từng chữ :
Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về
Trong Khúc Hát Lương Châu của Vương Hàn – Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. Khi đọc bản chuyển ngữ của mình (1), Bửu Châu đã đặt vấn đề cho mình phải giải thích : căn cứ vào đâu mà mình xác định tiếng tỳ bà đó là của giặc Hồ !?
Chắc Bửu Châu cũng đồng ý với mình : Mã thượng của Hán ngữ nghĩa là trên lưng ngựa, vì vậy mới có thành ngữ Tinh thần mã thượng, lâu nay nó là hình tượng của người không cạn tàu ráo máng với kẻ đã sa cơ dưới chân ngựa. Nhiều bản dịch Lương Châu Từ đều toát lên ý nghĩa tiếng tỳ bà thúc giục người chiến binh lên ngựa ra trận. Cũng đúng là như vậy, nhưng xem ra có vẻ khập khiễng vì thượng mã mới là lên ngựa, người chiến binh đang muốn uống mà phải lên ngựa ra trận liền thì hình ảnh say nằm ở dưới kia nó sao sao ấy. Các bản dịch cũng đều mơ hồ, không cho thấy tiếng tỳ bà đó là của ai. Đi tìm chủ nhân của nó, trước tiên chúng mình cùng thử hình dung lại hình ảnh của người chiến binh uống rượu ngoài biên địa :
Đó có thể nào là cảnh đàn đúm, rượu chè be bét khi đã ca khúc khải hoàn, hoặc kiểu như Trương Phi nát rượu say nhè, chưa đụng trận đã để mất Từ Châu (!?). Đó có thể nào là cảnh được mời chén rượu khích lệ trước khi lên ngựa đề thương … kiểu như Quan Vân Trường trong trận chiến Lạc Dương, ra chém đầu Hoa Hùng mang về mà chén rượu được mời chưa uống vẫn còn ấm (!?). Hình ảnh ủy lạo, uống rượu để nâng cao sĩ khí trước khi ra trận là hình ảnh phổ biến. Nhưng vẫn còn có một hình ảnh khác là cảnh giặc đã đến bên chiến hào, người chiến binh vẫn còn đủ hào khí đối ẩm … kiểu như Hạng Vũ giữa trùng vây, uống rượu xuất quân đánh một trận đánh cuối cùng cho ra đánh ở Cai Hạ (!?)
Người chiến binh ở Lương Châu, đất biên địa tứ bề là giặc, chén rượu khích lệ đâu đủ để say mèm giữa chiến trường. Hào khí và bi thương của Lương Châu Từ là nằm ở chén rượu uống để quyết chiến. Để từ đó mới buông ra câu ta thán để đời : Từ xưa nay ra trận, có mấy ai đã được trở về, vậy thì có gì đâu mà giễu cười cảnh say nằm nơi chiến địa !? Nó vừa có bi thương của hình ảnh trận Cai Hạ. Nó vừa có hình bóng hào hùng của cảnh ba anh em Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự cùng rót cho nhau chén rượu trước khi huyết chiến với quần hùng trên chùa Thiếu Lâm trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung.
Tác động để người chiến binh dục ẩm – muốn uống, phải nâng chén rượu lên, chính là tiếng đàn tỳ bà trên lưng ngựa kia đang thôi thúc – tỳ bà mã thượng thôi, giặc đã – đang ở sát bên chiến hào …
Về nhạc khí cổ, về đàn tỳ bà, về “cầm trăng” của nàng Kiều, mình có đọc được bài viết của Gs. Trần Văn Khê – Mạn Đàm Âm Nhạc Trong Truyện Kiều (2) :
Thông thường chữ hồ cầm – nghĩa là đàn của rợ Hồ – dùng để chỉ cây đàn nhị. Nhưng xem trong sách Thích Danh và tự điển Từ Nguyên – Từ Hải của Trung Hoa thì hồ cầm không chỉ là tên gọi đàn nhị mà cả đàn tỳ bà nữa. Truy tìm “tỳ bà loại” trong các sách cổ Trung Hoa mới biết nước này có đến ba loại là Tứ huyền tỳ bà (Việt Nam sử dụng loại này, có bốn dây và thân đàn hình bầu dục), Ngũ huyền tỳ bà (tỳ bà có năm dây) và Nguyễn tỳ bà hay còn gọi là Nguyễn cầm (lấy theo họ của người sáng chế ra nó là Nguyễn Hàm sống vào đời Tấn). Đàn Nguyễn cầm có thùng tròn với bốn dây, hiện nay gần như đã thất truyền bên Trung Quốc (bản thân tôi may mắn được tận mắt chiêm ngưỡng một cây Nguyễn cầm đang được tàng trữ tại Bảo tàng viện Shosoin ở Nara của Nhật Bản).
Như vậy hình ảnh người chiến binh tay kiếm tay đàn, hình ảnh cây cầm trăng (Nguyễn tỳ bà) Bốn dây to nhỏ nên vần cung thương của nàng Kiều, hình ảnh cây đàn Tỳ bà trên bến nước Tầm Dương đã từng làm đẫm cả chéo áo của Tư Mã Giang Châu, chúng thảy đều có thể được gọi là Hồ cầm – một loại đàn của người Hồ.
Trên diễn đàn Viện Việt Học (3) mình cũng có thấy một thông tin về cây đàn Tỳ bà (Pipa) :
“Tỳ bà” cũng gọi là “phê bả”, xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào đời Hán : Lưu Hy trong tác phẩm “giải thích danh từ, nhạc khí” ghi : “phê bả” xuất phát từ các dân tộc Hồ, dùng gảy trên lưng ngựa. Tay đưa về đằng trước gọi là “phê”, tay gảy về phía sau gọi là “bả”, sau người ta dưạ vào cách gảy mà đặt tên … dân du mục đương thời thích đánh đàn tỳ bà trên lưng ngựa, vì thế mới nói là “mã thượng sở cổ dã”. Đại khái từ thời Ngụy Tấn được gọi chính thức là “tỳ bà”.
Đàn tỳ bà có âm vực rộng, âm sắc cao, âm thanh nó vang vang cùng với gió cát sa mạc. Có lẽ từ điều nầy mà không loại trừ khả năng ngày xưa người Hồ đã dùng nó để ra hiệu lệnh nơi chiến trường sa mạc. Giống như người Hán nơi Trung thổ đã dùng chiêng trống để điều khiển ba quân tiến hay thoái. Giống như hình ảnh Cổ bề thanh động Trường thành nguyệt – Tiếng trống ở Trường thành làm bóng nguyệt lung lay, lung lay cả nỗi lòng của người chinh phụ đang mong ngóng người chồng chiến binh nơi quan ải trong Chinh Phụ Ngâm của Việt Nam.
Đất Lương Châu những năm đời nhà Đường, người Hồ đang vùng vẫy vì những tấc đất của họ đang bị thôn tính dần dần trước tham vọng của một vương triều hết Tảo Bắc, Chinh Đông, rồi lại Chinh Tây. Một loại tỳ bà nào đó có xuất xứ từ người Hồ, có thể ngày ấy nó là tiếng nói của họ. Nghe vang tiếng tỳ bà ấy là biết người Hồ đã đến bên chiến lũy. Từa tựa như ngày xưa khi nghe tiếng tắc cù, mấy đứa mình đã biết ngay đó là tiếng súng của ai. Bà cô của mẹ mình – em gái của Ông Ngoại, là người đã cùng với người chị lập nên cái quán nghỉ chân hồi đầu thế kỷ trước bên giòng sông Côn ở dưới núi Bút sơn – Mả mẹ chàng Lía, đến bây giờ nơi nầy vẫn còn mang tên là đất Quán Nổng. Mình còn nhớ hồi ấy mỗi lần nghe tiếng tắc cù giữa trăm ngàn tiếng súng, mắt của bà lại xa xăm : mấy ổng về …
Nghe vang tiếng tỳ bà là biết người Hồ đã đến bên thành, chính điều nầy mới phù hợp với hình tượng người chiến binh uống rượu trong Khúc Hát Lương Châu. Uống! uống để quyết chiến. Uống! uống cho say mèm để quên đi câu hỏi là ta đang chiến đấu cho tham vọng nào. Say vùi giữa trận ư !? Từ xưa đến nay người chiến binh nào mà thân không gởi chốn sa trường! Tiếng tỳ bà ở bến nước Tầm Dương đầm đìa nước mắt. Còn Tiếng tỳ bà trong Khúc Hát Lương Châu, nó bi thương lại thấm đẫm máu của chiến binh.
Bửu Châu mến, Đường Thi lâu nay đã để lại cho người đời biết bao là thi ảnh huyền ảo. Ninh Giang Thu Cúc – một người chị văn thơ của mình có nhận xét về những thi ảnh ấy : “nửa như sờ nắm chúng dễ dàng, nửa lại thấy chúng trừu tượng mênh mông vô hình vô tướng” … Khi gắng dùng lục bát, một loại hình độc đáo của thơ Việt để chuyển ngữ Đường Thi, mình thấy thật không dễ dàng. Vì đã dễ dàng gì sống cả tâm hồn với những khoảng trống trong thơ, những mênh mông vô hình vô tướng của Đường Thi. Việc làm ấy của chúng mình !? Chỉ mới là những bước chập chững của cuộc chơi văn chương. Ấy chỉ là những bước đi tìm chính mình có hiện hữu không cùng với những khúc ngâm của Đường Thi :
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Rượu bồ đào sóng sánh ánh dạ quang trong chén
Tỳ bà giặc Hồ đã thúc quân vậy cứ hãy uống đi
Có say nằm giữa sa trường ai nỡ giễu cười ta
Vì xưa nay nơi trận chiến đã mấy ai được trở về
Bồ đào chén ánh dạ quang
Cứ nâng dù giặc thúc vang tỳ bà
Vùi say mặc kẻ cười ta

Mấy khi chinh chiến ai sa trường về
Trường Nghị

            
  Giải thoát
 Chuông vàng thánh thót ngân nga,
Hoà cùng giai điệu tỳ bà sớm hôm
Ngờ đâu người động lòng tham,
    Trộm đôi vật báu giam cầm xót xa...
 Minh quân từ ái vị tha,
      Quyết tâm giải cứu thoát ra kiếp nàn !
   Đàn xưa nay tích tình tang,
     Cùng chuông thoả chí hoà vang tơ đồng !?
    Giờ đôi báu vật song song,
Trở về đoàn tụ một lòng sắt son !!
 NM

Bài ký một giấc mộng
Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừạ Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát. Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám, phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc, khấn thầm rằng:
    - Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong taỵ Ai uất ức, đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bàỵ Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ, như khóc như than, nửa ẩn, nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu mà giảị Trẫm không nói lại lần nữa, bảo cho các thần biết.
    Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.
    Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:
    - Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét, vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về, dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa Tây, chỉ trăm bước là về tới chính cung thôị
    Ta gượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư, phục xuống trước mặt tâu rằng:
    - Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn, định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em thiếp giam ở địa phương nàỵ Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi tuần qua đi, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng thư, mong đội đức thánh minh soi xét chọ Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc được ra ngoài hang tối, thấy bóng mặt trờị
    Hai cô nói xong, rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui rạ
    Ta tỉnh giấc, trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được. Được cũng có hai bài thơ:
    Bài thứ nhất rằng:

    Cổ nguyệt lạc hàn thủy,
    Ðiền ôi vị bán âm.
    Dạ dạ quân kim trọng,
    Thê thê thiên lý lâm.

    Tạm dịch là:
    Mặt trăng xưa, rơi xuống nước lạnh,
    Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửạ
    Ðêm đêm cân vàng nặng,
    Ðau xót lòng ngàn dặm.

    Bài thứ hai:
    Xuất tự ba sơn sự nhị vương,
    Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương
    Hậu lai giá đắc kim đồng tử,
    Không đới đào chi vĩnh tự thương.

    Tạm dịch là:
    Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua,
    Trên đầu liền xóm hai người sánh đôị
    Ðến sau gả cho chàng kim đồng,
    Uổng công đội cành đào, cảm thấy đau xót mãị

    Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần, nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều, vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy và đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩạ
    Các họa sĩ đều nói:
    - Lời nói của quỷ thần rất huyền bí, không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lạị
    Trải qua ba năm, không ai biết hai bài thơ ý nói gì.
    Một hôm ta ngủ trưa, mộng thấy người Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm, mời gã cùng ngồi, cầm tay nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia, đem ra hỏi:
    Tiên thổi địch nói:
    - Tiên triết ta có câu: “Không thể biết được mới gọi là thần”. Ðem lòng trần dò lòng thần, dò thế nào được? Vậy nên ba năm nay muốn thân oan cho người mà vẫn chưa được.
    Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:
    - Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lý Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, trên đàn là Ngọc tỳ bà. Là chuông, mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi lần được thấy ở ngự tiền, vẫn được ban thưởng. Nhà vua rất quý, đem cất vào nhạc phủ cẩn thận. Ðến đời Huệ Tông, trễ nải chính trị, ruồng bỏ nhạc công, hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà Trần. Lúc ấy, một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục, thừa cơ lấy trộm hai nhạc cụ ấỵ Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy, toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội, liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu tích đị Khí vàng và ngọc lâu này thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua đào lên để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó. Trong bài thơ nói: “Cổ nguyệt lạc hàn thủy”, là: bên tả chấm thủy, giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt” ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói: “Ðiền ôi vị bán âm”. Kim, đồng ghép lại là chữ “chung”. Thiên lý ghép lại là chữ “mai”, vì chữ “thổ” ngược lại là chữ “thiên”. Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” (nghĩa là Chuông chôn bờ hồ). Còn các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôị Hai chữ “vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”. Hai chữ tuy đảo ngược, nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ “chung”. Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu: “Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì xem bờ hồ nào có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.
    Ta lại hỏi âm và nghĩ của 71 chữ ở đầu trang.
    Tiên thổi địch nói:
    - Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêụ Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn động cũng có người còn đọc được. Nhà vua triệu họ đến, bắt họ đọc thì khắc biết.
    Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữạ Chợt có cơn gió thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi tìm. Quả nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ 
Lê Thánh Tông

201

Đàn tỳ bà TQ - TP "Thập diện mai phục"

 Vén Rèm Châu (Lời Việt) - Quang Phước

            Khúc biệt ly             
  Tiếng đàn đưa ta đến với nhau,
    Hôm nay lại gảy khúc ly sầu...!
   Vầng trăng năm đó tròn trong sáng,
     Giặc đến xua tan giấc mộng vàng !

   Lần cuối nâng đàn em tiễn anh,
Tiễn giấc mộng vàng thuở xuân xanh...!
  Chỉ tiếc sao mình không đến sớm?
Được chết cùng anh ước nguyện thành !!
 NM

1b9aaaecf356cd7862d09f8e

Chuyện tình đàn tỳ bà trong mộng

Tên gốc: 浮梦华之琵琶情

Tác giả: Nại Lương

Một.

Đã vào canh năm, dù khí trời mùa thu có hơi lạnh nhưng ánh trăng ngoài cửa sổ vẫn sáng như cũ. Một giọt lệ rơi, tiếng tỳ bà vang lên trong không gian yên tĩnh, tiếng hát não nề, lòng lại một hồi lạnh lẽo.
Em và chàng gần trong gan tấc nhưng lại cách cả chân trời, chẳng biết có thể cùng chàng tiếp tục tình duyên. Em gả vào Phó phủ đã bốn năm, mà chúng ta đã xa cách nhau tới mười thu.
Trời đã tối, lần đầu tiền tới Giang Nam em ôm đàn tỳ bà nhìn nơi sông nước xa lạ ở đây, trong lòng e sợ. Gió thu lướt qua tà váy trắng của em, giống như một con bướm trắng bay vờn, như lời chàng nói. Trong đoàn người, thân thể nhỏ gầy của em bị xô đẩy, cuối cùng rơi từ trên cầu xuống nước, chàng đã cứu em lên rồi cười nói, “Một con bướm gãy cánh, ha ha. Ta là Phó Thiều Hoa, xin hỏi cô nương tên là gì, nhà ở đâu?”
“Tấn Châu, Thiên Cổ Nguyệt.” Em hơi cúi đầu, không dám nhìn thẳng, bởi chàng thật đẹp. Khuôn mặt của chàng trông như vẽ vậy.
“Từ Tấn Châu đến Giang Nam xa như vậy, xin hỏi cô nương đến Giang Nam làm gì?”
“Mãi nghệ.”
“Hưm…” chàng cười nhạt, ánh mắt trở nên xa cách hơn. Từ đó về sau, em không gặp lại chàng lần nào nữa.

Hai.

Em đã nói dối với chàng, em không phải đến nơi này để mãi nghệ mà là tới để nhận lại tổ tông. Em vốn là thiên kim của đại phú hào lớn nhất ở Giang Nam, từ nhỏ theo mẫu thân bôn ba khắp nơi, mẫu thân bệnh nặng mà em cũng đã trưởng thành nên trở về nhận lại tổ tông, khi lão gia đường đường chính chính đưa em về phủ cũng là lần thứ hai em gặp chàng.
Ông của chàng và ông nội em là bằng hữu nhiều năm, mà chàng thì thay ông đến Thiên phủ dự tiệc. Em đứng trong bức rèm chu sa mỉm cười, chàng cười đáp lại với em.
Em ở bên trong ôm tỳ bà gãy nên một khúc, chàng nghe em đánh đàn, nói rằng ít ai có thể tạo nên âm điệu như vậy, Thiên Cổ Nguyệt thật không hỗ là nhân tài.
Em nghịch ngợm đáp lại chàng một câu, “Những điều chàng không biết còn rất nhiều.”
Sau này chàng nói cho em biết, đời đời của Phó gia đều làm tướng của nước Lê, chàng nói với em rất nhiều, rằng quân Phó gia trên chiến trường chống lại Hung Nô một cách anh dũng, khiến em phải liên tục khen ngợi.
“Chàng thấy em có giống người tập võ hay không?” Em cúi đầu hỏi chàng.
Chàng nhìn em đánh giá rồi cười nói, “Thiên cô nương ốm yếu đến mức không chịu nổi một đòn, sao có thể là người tập võ?”
“Mẫu thân của em chính là nữ đại tướng Tào Nguyên của nước Lê, em từ nhỏ sống ở Tấn Châu cũng coi như nhà con cháu tướng gia.” Em lầm bầm.
“Hóa ra là con gái của Tào đại tướng quân. Trước kia vào triều ta đã gặp, bà vẫn trấn thủ nơi biên cương, lập được không ít chiến công thật khiến cho ta bội phục.”
Tiệc rượu đã tàn, những ngày trong khuê phòng không ngừng nhớ đến chàng, từ lâu em đã biết lần đầu tiên gặp chàng đã khiến em phải tương tư. Ông nội nhận ra tâm tư của em nên đến nhà chàng làm mai cho hôn sự này, đến ngày thứ hai chàng mang sính lễ đến Thiên phủ.

Ba.

Tiệc cưới rất náo nhiệt, chàng uống say lảo đảo bước vào phòng. Khi chàng nhấc khăn trùm đầu của em lên thì binh lính truyền thánh chỉ: Đại tướng quân Phó Thiều Hoa thành Nam tiếp chỉ, nhanh chóng đưa quân tới biên giới Tây Vực tiếp viện Tào tướng quân ở Tấn Châu.
Ông ngoại bị quân địch đột kích, người tuổi cao trên chiến trường đã từng một thời dũng mãnh thiện chiến, tư thế oai hùng nhưng nay giặc tới liên tiếp bị đánh bại. Binh sĩ Tào gia mất hết ý chí, phải phái binh về kinh thành xin chi viện.
Em ngã xuống đất, nước mắt không nén nổi mà tràn ra, thay ông ngoại mà lo lắng, sợ người sẽ gặp biến. Từ nhỏ em đã mất đi cha, sau này lại mất mẹ, em không muốn lại mất đi ông ngoại của mình.
Chàng ôm lấy em an ủi rằng mọi chuyện sẽ ổn, chờ chàng quay lại sẽ đưa ông ngoại về cùng, cho chúng ta cùng vui vẻ.
Chàng hôn nhẹ lên môi em rồi xoay người rời đi.
Hỉ phục cởi ra thay vào đó là áo giáp nặng trịch, tay cầm cây thương Hồng Lăng đứng trên thành nam, từ trên nhìn xuống ba vạn binh mã, khí thế hiên ngang, oai dũng.
“Hôm nay là ngày cưới của bản tướng, nhưng vẫn đến nơi chiến trường khốc liệt quyết một trận sinh tử. Toàn quân Phó gia nhất định phải chiến thắng mà quay về!”
Ba vạn quân đồng loạt hô lớn, “Thề sẽ tận lực vì tướng quân đến chết! Thề sẽ đi theo tướng quân!”
Chàng ngồi lên ngựa, giơ cao Hồng Lăng thương, quay đầu lại nhìn phía trên thành cao, em khoác lụa hồng cười vẫy tay với chàng. Em chưa kịp tháo trang sức, hỉ phục còn chưa thay mà chàng đã phải xông đến nơi chiến trường ác liệt.
Qua một tháng, đứng trên thành nam nhìn ra xa nhưng lại không thấy bóng dáng của quân Phó gia. Hàng ngày em ngồi trong bóng đêm ở chỗ cao nhất thành nam gãy tỳ bà, chàng nói chàng rất thích nghe em chơi đàn, không biết ở nơi xa kia liệu chàng có nghe thấy hay không?
Tiếng tỳ bà não nề, em dùng sức gãy một khúc hát dân gian, giai điệu chỉ có chàng mới hiểu được trong đó chứa bao nhiêu bối rối.
“Cổ Nguyệt.”
Em nghe thấy tiếng chàng gọi em, mừing rỡ quay đầu lại tìm chàng thế nhưng xung quanh chỉ có những bức tường bằng đá. Đó chỉ là tưởng tượng của em mà thôi, một lần mộng cũng giống như hoa quỳnh, sớm nở tối tàn.
Xoay người, phía sau lưng chỉ có sự cô tịch. Em nhắm mắt lại, trong đầu lại hiện lên cảnh chàng chém giết trên chiến trường, lòng lại thêm một tảng đá đè nặng.

Bốn.

Thời gian trôi qua như dòng suối, em gả vào Phó phủ đã hơn ba năm, mãi đến ngày đông giá rét năm thứ tư, kinh thành truyền đến tin tức: Quân Phó gia chiến thắng trở về thì bị quân địch gài bẫy, toàn quân bị diệt, không ai sống sót mà quay về, xin nén đau thương.
Em ngây cả người, nước mắt lại nhịn không được mà rơi, lòng giống như bị dao cắt nát. Cơ thể không ngừng run rẩy, mọi thứ xung quanh trở nên mơ hồ, trước mắt như xuất hiện một hố xoáy cuốn lấy em. Em không tin, đứng dậy đi ra cửa, chân đã không còn nghe theo sai khiến của bản thân, đi nửa đường thì ngã, viền mắt đỏ gay. Em không tin những gì họ nói, đây không phải là sự thật. Phải không chàng?
Mẹ chồng ra lệnh đưa em về phòng nghỉ ngơi, em nằm trên giường, đôi mắt trống rỗng vô hồn. Em không biết phải làm sao cả, bây giờ đến khóc cũng không nổi nữa rồi.
Đứng trên thành nam nhìn xuống, tuyết trắng xóa một mảng làm cảnh hùng chí ngày xưa tan đi nhiều.
“Phó Thiều Hoa, chàng không phải đã nói với em sẽ bình an quay về sao? Chàng trở lại cho em! Xin chàng, trở về đi, có được không?” Em ôm đàn tỳ bà khóc lớn, phát tiết hết những cảm xúc của những ngày qua. Nhưng chàng có biết không?
Tiếng khóc khàn đi nhưng em vẫn cứ khóc thật to.
Đêm đến, thừa dịp mọi người ngủ say. Khoác trên mình áo giáp, trái đeo một đoản đao, phải giắt một trường tiên, em sải bước lên ngựa, nắm chặt dây cương thúc ngựa chạy thẳng đến chiến trường.
Tuyết ở biên giới lạnh gắt, em nhiễm lạnh từ trên ngựa ngã xuống, cho đến khi cơ thể mất hết cảm giác. Em nằm ở đó một ngày một đêm.
“Cổ Nguyệt.”
“Cảnh xuân thật đẹp, em nhớ chàng.” Em khóc lớn muốn ôm chàng, nhưng không cách nào chạm vào được.
“Nhanh lên chút…”
Em khẽ mở hai mắt, hóa ra là mộng, bị tuyết chôn vùi, tiện tay bốc một nắm tuyết nhét vào miệng. Cảm giác lạnh lẽo trong miệng lan ra giống như tiếp thêm sức lực, từ trong tuyết bò dậy. Chờ em tìm được ngựa thì nó đã chết vì rét.

Năm.

Cảm ơn ông trời đã thương xót để em tìm thấy chàng, đáng liếc thi thể chàng đã lạnh từ lâu, máu đã đông cứng rồi.
Nếu em có thể đến sớm một chút thì chàng có thể sống rồi, em gượng cười. Đáng tiếc là số mệnh đã định, em ôm chàng ngẩng đầu nhìn trời cười trào phúng: Vì sao Thiên Cổ Nguyệt tôi không thể cùng chàng chết cùng một chỗ!
Em dùng mây kết thành giường, kéo chàng về Giang Nam, đến khi tới cửa Giao phủ thì trông em chẳng khác gì một người điên, đầu tóc rối bời, cả người bẩn thỉu. Sức lực đã đến giới hạn, em ngất xỉu.
Vào canh năm, tiếng tỳ bà của em dừng lại, em tham lam mong muốn ông trời trả chàng lại cho em, nhưng tất cả đều quá xa vời.
“Thiếu phu nhân, đã đến lúc mai táng thiếu gia rồi, mời người…” một nhà hoàn dè dặt nói, chỉ sợ chạm phải vết thương trong lòng em.
“Để ta nhìn chàng lần cuối…”
Vẫn tình
Tiếng tỳ bà năm xưa...
Trăng Tầm Dương dịu dàng soi bóng nước,
Tiếng tỳ bà dìu dặt lướt trên sông...

Âm ba như có như không,
Nhặt khoan tha thiết khiến lòng bâng khuâng!
Tài tử hội ngộ giai nhân,
Kể sao cho hết gian truân cuộc đời ?
Tiếng tơ thiếp nói thay lời,
Ngõ cùng tri kỷ kiếp người đắng cay.!...
Tương phùng âu cũng duyên may,
Bao nhiêu u uất giãi bày cho vơi ...
Gặp nhau trong cuộc dạo chơi,
Nào hay tâm sự để đời về sau !!  
NM
 
TIẾNG ĐÀN TỲ BÀ TRÊN BẾN TẦM
DƯƠNG            

Vy Kính
Riêng tặng BS Nông Thế Anh

I/ CUỘC GẶP GỞ ĐỂ ĐỜI:    

Trên sông Tầm Dương đêm ấy, một đêm trăng tuyệt đẹp và êm đềm, chỉ còn nghe tiếng mái chèo đều đặn khua sóng nước, làm lao xao đám cỏ lau sậy ở bến sông. Nước trời bao la, gió thu se lạnh, lòng người cũng cảm thấy cô độc, u hoài. Trong khoan thuyền vừa neo đậu giữa dòng, có một khách du khoác tấm áo xanh đã củ sờn vai, đang nâng chén rượu tiễn đưa người bạn đi xa. Chợt hai người nhìn nhau im lặng vì vừa nghe văng vẳng đâu đây tiếng đàn Tỳ bà réo rắt. Tiếng đàn như vút theo gió, theo mây; lướt qua không gian sóng nước mông mênh, trong tiết trời se lạnh của một đêm thu trên sông. Giữa bến sông hẻo lánh tại một huyện lỵ xa kinh đô nhà Đường, sao lại có một danh kỷ nào có tài đánh đàn Tỳ bà thật độc đáo, mang âm hưởng của nhã nhạc cung đình thế này. Hai người ra hiệu cho ông lái đò tìm đến nơi phát ra tiếng đàn Tỳ bà huyền diệu đó.
Tiếng đàn khoan nhặt, có lúc nỉ non như tiếng ve sầu, có lúc miên man cuồn cuộn như sóng nước Trường giang, cũng có lúc thánh thót như mưa rơi trên phiến đá. Thanh âm độc đáo này ắt phải do một tay danh thủ, không ngờ lại  phát ra từ một con thuyền nhỏ nghèo nàn đang neo đậu ở bến sông có nhiều lau lách. Khi cập vào mạn thuyền, họ mới biết người đánh đàn Tỳ bà là một phụ nữ đã luống tuổi, nhưng nét duyên dáng vẫn chưa phai nhạt. Khách du ngõ lời mời người kỷ nữ sang thuyền mình để được nghe nàng đánh đàn.
Có ai ngờ rằng cuộc hội gặp gỡ đêm ấy tại bến sông Tầm Dương của  huyên Cửu giang đời Đường, giữa một nhà thơ và một nữ danh kỹ đánh đàn để lại cho hậu thế cả ngàn năm sau những vần thơ tuyệt tác làm rung đông lòng người.Ta hãy nghe lời kể lại bằng thơ của chính người trong cuộc Năm thứ mười, đời Hoàng Đế Yuan Ho [Đường Huyền Tn] tôi bị giáng chức và bị đày về huyện Cửu Giang làm tùy viên. Mùa hè năm sau đó, khi tôi đang tiễn một người bạn ra đi, chúng tôi nghe trên thuyền bên cạnh có tiếng đàn tỳ bà theo điệu nhạc kinh đô.
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản

Túy bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt

Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhơn vong quy khách bất phát
B.C.D

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách 
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc t
y [1]

Say những luống ngại khi chia rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong

Đàn ai nghe vẳng bên sông, 
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi
Người dịch:          P.H.T                                    
1.chén Quỳnh là chén ngọc quý, ý nói chén rượu. Trúc ty là ống sáo và dây đàn, ý nói buổi tiệc rượu có âm nhạc đàn, sáo…
Hỏi thăm thì biết là người chơi đàn từng là một ca kỹ ở kinh đô ngày trước và ngày nay là vợ của một thương nhân. Tôi mời cô ấy qua thuyền tôi chơi nhạc.
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
B.C.D

Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh

Dời thuyền ghé lại thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành ti
ệc

Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay.
P.H.T 
Cô ấy kể lại cho chúng tôi nghe chuyện đời cô và nỗi bất hạnh của cô
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ  
Tự tố bình sanh bất đắc chí 
Đê my tín thủ tục tục đàn 
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh long mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
 
Đại huyền tào tào như cấp v
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
B.C.D
Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu;
Mày chau, tay gảy khúc sầu,
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.

Ngón buông bắt ,khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to dường đổ mưa rào rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng ?
P.H.T
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U
U yết tuyền lưu thủy hạ than
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
?
Biệt hữu u sầu ám hận sanh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

B.C.D
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu,
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ;
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
P.H.T
Ngân bình sạ phá thủy tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhứt thanh như liệt bạch 
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
B.C.D
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong,
sàn sạt tiếng đao;
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông;

Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời.
P.H.T
Tự ngôn bổn thị kinh thành nữ
Gia tại Hà mô lăng hạ trú 
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhứt bộ
Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục

Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu

Nhứt khúc hồng tiêu bất tri số
B.C.D
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Mô trú ở lân la;
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên.
Gã Thiện tài so phen dừng khúc, [2]
Thu nương ghen lúc điểm tô,
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
P.H.T
2. Gã Thiện Tài và Ả Thu Nương là tên những nhân vât nam nữ có tài danh  và sắc đẹp. Ngũ lăng niện thiếu ý ám chỉ các vương tôn cống tử, quyền quý
Điền đầu ngân bề kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ô
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tùng quân a di tử
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy

Lão đại giá tác thương nhơn phụ
B.C.D
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi;
Năm năm lần lữa vui cười,

Mải trăng hoa, chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dong;
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
P.H.T
Thương nhơn trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ [3]

Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn
B.C.D
                  
3.Phù Lương là thị trấn Phù Lương , nơi người chồng ca kỷ đi buôn trà
Khách trọng lợi khinh đường ly cách,
M
i buông chè sớm tếch nguồn khơi;            
Thuyền không, đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng
P.H.T
Từ ngày rời kinh đô đến nay tôi không hể thấy buồn, nhưng từ đêm hôm đó, tôi bắt đầu cảm nhận gánh nặng của cuộc đời đi đày của tôi. Vì vậy, tôi viết bài thơ 616 chữ này.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhơn
Tương phùng hà tất tằng tương thức

Ngã tùng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngoạ bịnh Tầm Dương thành
B.C.D
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang địa đê thấp

Huỳnh lô khổ trúc nhiễu trạch sanh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Ðỗ quyên đề huyết viên ai minh

Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
B.C.D
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm:

Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối:
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von;

Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng.
P.H.T
                                             

4. Chốn cát lầm là nơi cát đội lên che lấp các vật dụng, ý nói nơ vùi chôn tài năng
Khỉ vô sơn ca dữ thôn địch
Ấu nha triều triết nan vi thính
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
Vi quân phiên tác tỳ bà hành

Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp
B.C.D
Há chẳng có ca rừng, địch nội?
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe.

Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Đứng lâu dường cảm lời ta,

Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây.
P.H.T
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp
Toà trung khấp hạ thùy tối đa

Giang châu Tư Mã thanh sam thấp
Nguyên tác:    Bạch Cư Dị
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi;
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu
Tư mã đượm mùi áo xanh
 [Người dịch: Phan Huy Thực]

II/TÁC GIẢ BẠCH CƯ DỊ & DỊCH GIẢ PHAN HUY THỰC:    
 Những đọan thơ chữ Hán trên của B.C.D là trích đọan từ bài  thơ Tỳ Bà Hành nổi tiếng của nhà thơ Bạch Cư Dị,  một đại thi hào đời Đường.[làm khỏang năm 835]. Còn những đọan thơ song thất lục bát là của dịch giả  thi sĩ Phan Huy Thục, một bản dịch [khỏang năm 1831] được đánh giá là tuyệt tác từ trước đến nay.    
                Bạch Cư Dị tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, sinh tại Thiểm Tây  năm 772. Từ nhỏ nối tiếng hiếu học và thông minh. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ.Thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê ông đã am tường nỗi vất vả của người lao động.
           Sống và lớn lên trong thời đại vương quyền, đất nước triền miên trong chiến tranh nên ông đồng cảm với những khát vọng và uất hận của các tầng lớp dân chúng thấp hèn, nghèo khó trong xã hội phong kiến đương thời. Chính điều này ảnh hưởng không nhỏ đến những thăng trầm của cuộc đời ông và từ đó ươn mầm cho những dòng thơ hiện thưc và phê phán cua ông sau này.                             
Đổ Tiến sĩ năm 20 tuổi, được phong chức Tả Thâp di trong triều nhà Đường, nhưng với tính tình cương trực, ông đã không ngần ngại bênh vực lẽ phải, phê phán những thế lực quan lại bè phái xu nịnh  nên ông không được vua và các nịnh thân ưa thích. Họ diềm pha khiến vua đợi có dịp hạch tội. Năm 815 đời vua Nguyên Hòa thứ mười, ông bị  vua giáng chức làm Tư mã [tùy viên] ở Giang Châu trong ba năm. Chức vụ nhỏ này không có thực quyền, không được làm vịêc gì ích lợi cho dân cho nước nên ông sinh buồn bả, chán ngán thế thái, nhân tình. Ông dành nhiều thời gian học đạo trong một mái nhà tranh bên cạnh một ngôi chùa, “ôm túi thơ, rượu bầu” du ngọan đó đây. Bài thơ Tỳ bà hành làm trong giai đọan này.  Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam có lẽ là bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca.
                   Giai đoạn từ năm 821 tới năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn năm 846 hưỡng thọ 74 tuổi. Là một trong những nhà thơ hàng đầu của thi ca Trung Quốc,trong Đường thi, ông chỉ xếp sauLý BạchĐỗ Phủ. Thơ của ông đại diện cho dòng thơ hiện thực, phê phán. Thơ ông với những lời lẽ giản dị, mạnh bạo phản ánh nổi uất nghẹn của dân chúng bị áp bức trong đói nghèo,  phê phán bọn tham quan, ô lại như trong bài Tần trung ngam, Tân nhạc phủ
Ông chủ trương cùng với Nguyên Chẩn và Lưu Vũ Tích theo con đường “phục cổ cách tân” chọn những cái hay của thi ca cổ điển để đổi mới thi ca đượng thời, Ông muốn thi ca phải gắn bó với nhân sinh, phản ánh hiện thực xã hội và phải có tư tưởng nhân văn. Bạch Cư Dị đã nói “ Làm văn phải vì thời thế mà làm, làm thơ phải vì thực tại mà viết “ (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác ).
Ông để lại cho hậu thế trên 2800 bài thơ.Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo như trong bài Trường hận ca . Ông  công kích đời sống xa hoa của các tham quan, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần trung ngâm, Tân nhạc phủ). Ông cảm thấy đời mình cũng lận đận, long đong,  ba chìm bảynôi chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng (Nghị hôn).
Riêng hai bài Tỳ bà hànhTrường hận ca, bằng lối kể chuyện miêu tả, đã tỏ rõ tài thơ của Bạch Cư Dị.  Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên trong nhưng lúc nhàn du.. Thơ của ông vương một nỗi buồn kín đáo. Ông cũng thích đàm đạo về Thiền, về Lão Trang,
  Điều may mắn là nguyên tác được dịch ra Việt ngữ một cách tài hoa bởi nhà thơ Phan Huy Thực. Bài thơ dịch có một ảnh hưởng to lớn trong văn học cổ nước ta. Có rất nhiều bản dịch của các tác giả nổi tiếng như Phan văn Ái và một số tác giả vô danh nhưng chỉ có bản dịch của Phan Huy Thực là hay nhất.Nếu nguyên bản chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ thì bản dịch độc đáo của Phan Huy Thực làm theo thể thơ song thất lực bát [7-7-6-8] cũng 616 chữ. Nhiều học  giả trước năm 1954, khi nói về bản dịch tiếng Việt đều cho là của Phan HuyVịnh, nhưng sau đó nhà nghiên cứu Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cũng đã thông báo trên tạp chí Nam Phong cho biết dịch giả “Tỳ bà hành” là Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ly và sau này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn cũng xác nhận như vậy. Đặc biệt GS Phan Huy Lê cho biết gia phả họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch “Tỳ bà hành” là Phan Huy Thực. Thời điểm ra đời của bản dịch là  trước năm 1831.
Bản dịch “Tỳ bà hành” được phổ biến rộng rãi và được xem như một di sản văn học quí giá của Việt Nam, chủ yếu là nhờ bản dịch của Phan Huy Thực. Người dich khi gặp những đoạn khó thường giữ lấy ý chính của tác giả mà bỏ qua nhiều chi tiết. Nhưng nếu chi chú ý kỷ xảo mà quên nội dung thi lai không làm người đọc hiểu chính xác. Dich giả P.H.T đã khôn khéo vận dụng từng hoàn cảnh cụ thể, vừa dich thoát ý mà vẫn tôn trọng ý chính của tác giả, cũng như dùng những từ binh dân va gợi hình, gợi cảm. Vi du chỉ trong 4 câu đầu thay vi dich sát ý chữ: dạ[ban đêm], phong diệp [lá phong], địch hoa [lau, sậy]thu sắt sắt [gió thu lạnh], nguyệt [mặt trăng] PHT lai dùng chữ :canh khuya, lau lách điu hiu và gương trong, đọc lên nghe gần gủi, xúc cảm hơn. Riêng chữ “lau lách” có tính ẩn dụ [thay vì dùng chữ lá phong], đã nói lên thân phận của con người nhỏ nhoi, tầm thường. Còn chữ “chén quỳnh, trúc ty” gợi lên buổi tiệc rượu chia tay có nhạc xướng.. Trong suốt tòan bài thơ dịch chúng ta còn tìm được những câu chữ gợi hinh như “thiết kỵ đột xuất đao thương binh” được dịch là “ngựa sắt dong san sát tiếng đao”. Hay là ở câu thơ cuối:”Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp” được dich là “Giang Châu Tư Mã đượm màu áo xanh” đã nói lên tình cảnh tuy đã 43 tuổi rồi nhưng địa vị, công danh vẫn chưa có gì nổi bật [áo xanh khác với hoàng bào]. Nghệ thuật thoát dich như thế quả là điêu luyện. Dịch giả đã chọn thể thơ 7-7-6-8 để diễn đạt một lối kể chuyện lên bổng [ngắt 3 chữ của hai câu song thất] và xuống trầm [nhờ sự nhẹ nhàng, đều đặn âm độ của hai câu lục bát]. Cho nên tài hoa, văn thơ giỏi như cụ Tản Đà cũng không dịch bài Tỳ bà hành mà chỉ chọn bài Trường hận ca để chấp bút. Đóng góp lớn nhất của Phan Huy Thực là sử dụng tiếng Việt, dùng những từ ngữ thông thường, được chọn lọc khéo léo, sáng tạo, làm cho tác phẩm.có sức truyền cảm mạnh. Từ rất lâu bản dịch Tỳ Bà Hành đã được phổ cập rộng rãi và được xem là một tác phẩm văn học xuất sắc, tồn tại độc lập với nguyên tác. Qua bản dịch này,  khả năng diễn đạt tư tưởng và tình cảm cũng như nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam đã được chứng minh. Nội dung bài thơ Tỳ Bà hành đã gợi hứng sáng tác cho các nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Công Trứ, Phan Chu Trinh, Xuân Diệu, Vũ Hòang Chương. Các bản dịch Tỳ Bà Hành , đã được đưa  vào hát nói, nhất là ca trù rất được mọi người ưa thích. Năm 1986, bài Tỳ Bà Hành (bản dịch) , được nghệ sĩ Quách thị Hồ [miền Bắc VN] thể hiện bằng thể ca trù đã được LHQ tặng giải thưởng cao quý  
III/ TIẾNG ĐÀN TỲ BÀ [bản dịch của P.H.Thực]
Bài thơ dịchTỳ Bà Hành  gồm 616 chữ, có 22 khổ thơ song thất lục bát kể lại câu chuyện gặp gở của quan Tư Mã Giang Châu họ Bạch với người đánh đàn Tỳ bà, Trong một đêm thu, nghe người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương đánh đàn và kể chuyện cuộc đời chìm nổi của mình đã một thời phú quý và nổi danh Ông cảm thấy cuộc đời ấy có khác chi cuộc đời mình, đường quan lộ cũng gặp nhiều trắc trở, đang bị giáng cấp quan, tài năng bị chôn vùi ở xứ giang Châu này.                                                            
             Bài Tỳ Bà Hành của BCD mạch lạc, sinh động, theo lối “ thuật hoài”, miêu tả cảnh ngộ, để gửi gắm tâm sự riêng tư. Tác giả cũng là một người mà đường công danh không mấy thuận lợi, bị đồng liêu gian ác, hãm hại, nên ông dễ thông cảm, xót thương người kỷ nữ đánh đàn cũng có cuộc đời  “ba chìm bảy nổi”. Vì thế khi đọc, bài thơ ngân vang trong lòng người thưởng thức một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía.
              Tiếng đàn cũng được diễn tả rất tài tình, tâm trạng ưu tư của kỷ nữ đã tuôn trào ra theo tếng đàn Tỳ bà , lúc thì mang âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng oanh ríu rít, tiếng nước tuôn róc rách, tiếng đao sàn sạt, tiếng lụa xé kêu vang .. với các múc độ lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Đặc biệt có những giây phút tiếng đàn đột nhiên ngừng lại, im bặt như sự sụp đổ không ngờ của một số phận, rôi sau đó lại rung lên bằng  những tiếng tơ lạnh ngắt run rẫy, như tiếc nuối một dĩ vãng vàng son. Sự diễn tả tiếng đàn như thế thật tuyệt vời . …… 
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt, 
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
 
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu,
Trong hoa oanh ríu rít nhau,

 Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt 
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ 
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ, 
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay 
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước, 
Ngựa sắt giong, san sát tiếng đao; 
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây
.
 IV/ TIẾNG ĐÀN THÚY KIỀU [của Nguyễn Du]
 Tôi không có ý định so sánh tài năng của Bạch Cư Dị và thi hào Nguyễn Du qua thi phẩm tuyệt tác của hai đại thi hào, dù Nguyễn Du đã được vinh danh là ‘danh nhân văn hóa thế giới”. Bất cứ sự so sánh nào cũng không công bằng và chính xác. Thi hào Nguyễn Du cũng có một bài thơ “Long Thành Cẩm giả ca”có nội dung và hình thức hơi giống với “Tỳ bà hành của B.C.D”. Thi văn VN qu Tôi không có ý định so sánh tài năng của Bạch Cư Dị và thi hào Nguyễn Du qua thi phẩm tuyệt tác của hai đại thi hào, dù Nguyễn Du đã được vinh danh là ‘danh nhân văn hóa thế giới”. Bất cứ sự so sánh nào cũng không công bằng và chính xác. Thi hào Nguyễn Du cũng có một bài thơ “Long Thành Cẩm gia mấy ngàn năm bắc thuộc nên ít nhiều chịu ảnh hưởng của T.Q. Riêng truyện thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du cũng thế, mặc dầu có những nét mới lạ, độc đáo, xuất sắc riêng biệt
                  Bạch Cư Dị [772-846] là một đại thi hào nổi danh trong nhóm Đường thi, được mọi thê hệ yêu mến, chỉ xếp sau Thái Bạch và Đổ Phủ. Bài thơ nổi tiếng Tỳ bà Hành làm năm 815, với 616 câu, 7 chữ tả lại cuộc gặp gở của nhà thơ với người kỷ nữ đánh đàn Tỳ bà vào một đêm trăng mùa thu trên bến sông Tầm Dương. Chỉ có vỏn vẹn gặp nhau trong một đêm ngắn ngủi, làm sao với 616 câu thơ BCD kể hết những tình tiết  của cuộc đời nàng.
                   Trong khi đó Thi hào Nguyễn Du [1765-1820] đã có thuận lợi khi kể lại cuộc đời của nàng Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc giang hồ qua truyên dài 3.254 câu thơ lục bát chữ Nôm. Người kỷ nữ của Bạch Cư Dị có cuộc đời long đong, nhưng chắc chắn không bạc mệnh và rơi nhiều nước mắt như số phận của nàng Kiều của Nguyễn Du. Thúy Kiều cũng là một người đánh đàn tuyệt kỷ, nhưng nhạc khí là hồ cầm..Tiếng đàn của nàng cũng đã được Nguyễn Du miêu tả không thua gì thi hào tiền bối Bạch Cư Dị
                Trong truyện Kiều, suốt 15 năm lưulạc, Nguyễn Du miêu tả 5 lần tiếng đàn hồ cầm của Thúy Kiều, trong những hoàn cảnh đặc biệt khác nhau.    Lần thứ nhất, Kiều gảy đàn cho Kim Trọng nghe, lần thứ hai cho riêng Hoạn Thư, lần thứ ba cho vợ chồng Thúc Sinh trong bữa tiệc "đánh ghen", lần thứ tư cho Hồ Tôn Hiến trong tiệc "Mừng chiến thắng" và lần cuối cùng nàng lại đàn cho Kim Trọng nghe trong đêm tái hồi. Trừ lần cuối cùng, tiếng đàn của nàng bao giờ cũng đau xót, :ngậm đắng nuốt cay”, khiến người nghe phải xúc cảm. lệ rơi
                 *Lần thứ nhất, khi vừa cắt tóc thề thốt với Kim Trọng, theo lời yêu cầu của người yêu, Kiều đã đàn cho chàng nghe. Tiếng đàn được mô tả như sau:     
Trong như tiếng hạc bay qua 
Đục như nước suối mới sa nửa vời 
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài 
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa 
Tiếng đàn ấy khiến người nghe phải xốn xang cảm xúc: 
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
                 *
Lần thư hai khi đã trở thành con hầu của nhà Hoạn Thư, nàng đàn cho Hoạn Thư nghe. Tiếng đàn nỉ non của Kiều chỉ nhằm mục đích trỗ tài, lấy cảm tình Hoạn Thư:
            
Phải đê mê mả chiều trời.
Trúc tơ hỏi đền nghề chơi mọi ngày,
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thanh thót dễ say lòng người
* Lần thứ ba, tưởng Kiều đã chết, Thúc Sinh đành trở về Vô Tích với vợ lớn. Hoạn Thư cho bày tiệc rượu "tẩy trần",  rồi bắt Thúy Kiều đánh đàn giúp vui. Tiếng đàn trong tiệc“đánh ghen” này thật là mĩa mai,
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Người cười nụ là Hoạn Thư mà kẻ khóc thầm là chàng Thúc :
                    *Lần thứ tư, khi đã âm mưu và giết được Từ Hải,  Hồ Tôn Hiến mở tiệc khao quân và ép nàng Kiều đánh đàn. Tiếng đàn trong hoàn cảnh này thật xót xa, đau đớn vì Kiều đang chịu tang chồng [Từ Hải]
  * Lần thứ năm, cũng là lần cuối cùng sau 15 năm chia cách, khi sum họp với Kim Trọng, Kiều lại gảy đàn cho Kim Trọng nghe. Tiếng đàn của nàng lần này khác hẳn tiếng đàn bạc mệnh của những lần trước, vui vẻ nhờ tâm lý an lạc, sum họp với người xưa, khiến Kim Trọng ngạc nhiên:
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve kêu vượn hót nào tày
Lọt tai Hồ cũng chau mày rơi châu
Chàng rằng :'Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy ?
Tẻ vui bởi tại lòng này,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai “?
        Tài tả tiếng đàn của Bạch Cư Dị và của Nguyễn Du sỡ dĩ xuất sắc là nhờ vào hai yếu tố: tâm cảnh nhất như của người đánh đàn và sự đồng điệu, đồng cảnh ngộ giữa người nghe và người đàn.
Qua phân tích 2 bài thơ, nguyên tác của Bạch Cư Dị và bài dịch của Phan Huy Thực, cũng như qua viện dẫn tiếng đàn của Thúy Kiều; chúng ta đều đồng ý với nhau rằng ở vào thời điểm nào mà người nghệ sĩ có sự hòa hợp giữa cảnh và tình [nhà Phật gọi là “tâm cảnh nhất như”] thì tác phẩm ra đời  trở nên tuyệt tác. Người nghệ sĩ phân biệt các tình huống sau đây:
*Đối cảnh sinh tình có nghĩa đứng trước cảnh thì tình cảm và tư duy mới phát sinh
*Nội tâm ảnh hưởng tới ngoại cảnh , mà trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du có nói: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
*Tâm cảnh nhất như là cảnh [ngoại giới] và tâm [nội giới] hòa hợp làm một. Người nghệ sĩ không còn cái tâm phân biệt, tâm và cảnh trong nhau là một thực thể. Trường họp tiếng đàn của nữ ca kỷ trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và tiếng đàn của Thúy Kiều trong Đọan trường tân thanh của Nguyễn Du là thí dụ điển hình., sau khi đã trãi qua hai tình huống tâm lý khác nhau
                  Yếu tố thứ hai là sự đồng cảm giữa người nghe và người đàn khiến cho hai bên hiểu nhau dễ dàng và thắm thía từng nốt, từng cung điệu. Dĩ nhiên không bắt buộc hai tâm trạng phải hoàn toàn giống nhau, mà chỉ cần có cùng một tình cảm nào đó như nhau là đủ gây nên hiện tượng đồng cảm. Kỷ nữ đánh đàn trong Tỳ Bà Hành kẻ lại cuộc đời mình qua những thăng trầm, giai đoạn hưng thịnh: ngựa xe đưa đón của các vương tôn công tử, danh vọng và sự ngưỡng mộ lên tột đỉnh.Bản thân nàng lo mải mê hưởng thụ hạnh phúc , phú quý mà chẳng để ý là thời gian trôi qua nhanh. Sau đó tuổi già đến, gia đình gặp nhiều bất hạnh, khách ái mộ  không còn tìm đến “dập dìu như xưa”, khiến nàng phải sống trong nghèo nàn nên cuối cùng đành lấy chồng là khách thương [buôn trà]. Người chồng lại mãi lo buôn bán, hay đi xa để vợ cô tịch một mình trong chiếc thuyền
Buồn em trảy, lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dong;
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách
thương
   Khách trọng lợi khinh đường ly cách,
M
i buôn chè sớm tếch nguồn khơi;
Thuyền không, đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng…
P.H.T
 n nhà thơ Bạch Cư Dị từng là vị quan uy thế trong triều nhưng vì đồng liêu ganh ghét và vua giáng cấp xuống làm quan Tư Mã ở địa phương, tài năng bị vùi lấp giống như ở chốn “cát lầm”. Tâm trạng của quan bị thất sủng buồn bực, chán nãn…đi du ngoạn đó đây,  nay được nghe tiếng đàn của người cùng cảnh ngộ long đong, cùng ”buồn cho nhân tình thế thái” nên rất dễ hiểu nhau và cảm nhận được tiếng đàn. Nếu BCD không bị gíáng chức về Giang Châu thì nếu có cuộc gặp gở này tại bến Tầm Dương, chắc gì hậu thế có được những câu thơ đầy cảm xúc.
“Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau,
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,

Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.”.
Nhà thơ Vương Hải Đà cho rằng “ bài thơ nguyên bản chữ Nho và bản dịch tiếng Việt đều có những giao động của nhịp điệu, cái trữ tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ BCD tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống. Tỳ Bà Hành đã tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thúy bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố: tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩ”.  
V/KẾT LUẬN: 
     Câu chuyện gặp gở giữa một đại thi hào đời Đường và một kỷ nữ đánh đàn Tỳ Bà ở bến sông Tầm Dương cách nay hơn mười thế kỷ đã để lại cho hậu thế 616 câu thơ tuyệt tác. Nguyên tác “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị và bản dịch thơ của Phan Huy Thực là nguồn cảm hứng qua nhiều thế hệ cho những nhà văn, nhà thơnhững người yêu thơ Đường tại nước ta. Tiếng đàn Tỳ bà với trăng , nước Tầm Dương được đưa vào tác phẩm văn, thơ, ca nhạc kịch, ca trù tại VN. Đánh giá bản dịch tiếng Việt của Phan Huy Thưc, tất cả đều cho rằng đó là một kiệt tác. Cho đến nay chưa có ai có môt bản dịch nào hay hơn, rung đông hơn. Một nhà thơ tiền chiến đã cho rằng: “Ai đã đọc bản dịch ‘Tỳ bà hành’ quên những đoạn nào thì quên, thậm chí nếu quên cả bài, nhưng bốn câu mở đầu cũng không quên được”.
Bốn câu mở đầu đó là:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
           Bạch Cư Dị
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
 Người xuống ngựa khách dừng chèo
 Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty
 Phan Huy Thực
VY KÍNH [tháng 3/2012]