Hình bóng mẹ tôi
Suốt một đời mẹ âm thầm lặng lẽ,
Dưỡng nuôi con , mẹ bảo bọc chở che...
Ấm mùa đông, dịu mát giữa đêm hè,
Tuy mạnh mẽ nhưng ân cần, giản dị !
Theo con trẻ từ quê lên phố thị,
Mẹ không rời chiếc nón của quê hương...
Chiếc áo bà ba, hình ảnh thân thương,
Mẹ tôi vẫn đôi dép lào cố hữu.
Tình yêu mẹ, biết bao giờ cho đủ ?
Như quê hương trẻ mãi đến muôn đời....
Vòng tay mẹ gầy chẳng chút buông lơi,
Luôn nâng dậy những khi con vấp ngã !
Tấm lòng mẹ bao la dường biển cả,
Nhưng giản đơn, dung dị đến muôn đời...
Nhớ thương sao hình bóng của mẹ tôi,
Với nón lá, áo bà ba muôn thuở
NM
Suốt một đời mẹ âm thầm lặng lẽ,
Dưỡng nuôi con , mẹ bảo bọc chở che...
Ấm mùa đông, dịu mát giữa đêm hè,
Tuy mạnh mẽ nhưng ân cần, giản dị !
Theo con trẻ từ quê lên phố thị,
Mẹ không rời chiếc nón của quê hương...
Chiếc áo bà ba, hình ảnh thân thương,
Mẹ tôi vẫn đôi dép lào cố hữu.
Tình yêu mẹ, biết bao giờ cho đủ ?
Như quê hương trẻ mãi đến muôn đời....
Vòng tay mẹ gầy chẳng chút buông lơi,
Luôn nâng dậy những khi con vấp ngã !
Tấm lòng mẹ bao la dường biển cả,
Nhưng giản đơn, dung dị đến muôn đời...
Nhớ thương sao hình bóng của mẹ tôi,
Với nón lá, áo bà ba muôn thuở
NM
Biển đời và chiếc nón lá
"Cha con đánh mẹ mấy cái? Mẹ con có đánh lại không?" - "Cha đánh mẹ một cái, mẹ đánh lại ba, bốn cái luôn"
***
Mười mấy năm trời đến lớp cũng là mười mấy năm mẹ lặng lẽ bên tôi.
Ngày đầu tiên được đến trường cảm giác vui mừng khôn xiết, vì đó là lần
đầu tiên tôi có được nhiều bạn bè đến như vậy. Trên con đường lất phất
lá me bay, mẹ dắt tay tôi cười nói luyên huyên, căn dặn đủ điều, nào là
vào lớp phải cố gắng học hành, không được ham chơi, nghe lời thầy cô
giảng bài, không được đánh nhau,...
Những lời dặn dò với lời lẽ mộc mạc, ngắn củn của một người phụ nữ
nông thôn miền Tây nhưng chứa đựng biết bao nhiêu kỳ vọng của bậc sinh
thành, nó bao la, rộng mở và dạt dào như dòng sông êm ả, như chiếc nón
lá quê mùa, chất phát.
Không biết dùng lời nào để nói chính xác về sự khắn khít của mẹ với
chiếc nón lá, đi đâu mẹ cũng tự tin với cái nón lá cùng chiếc áo bà ba,
mẹ nói "đó là người bạn đường sẻ nắng che mưa với mẹ từ lúc mẹ còn con
gái, dù có xuống biển hay lên rừng mẹ cũng mang theo".
Không phải riêng mẹ, mà tất cả bà con miền Tây đều quen thuộc với nón
lá, không có nó người ta như thấy thiếu vắng một cái gì đó thân thương
nhất. Riêng mẹ, mẹ khắn khít đến nỗi chỉ cần vừa đội lên đầu là chú cún
trong nhà liền vẫy đuôi liên tục vì nó biết mẹ sắp chuẩn bị đi đâu đó
để nó có cơ hội đi theo.
Bao nhiêu năm trôi qua, dù có đứng tận đằng xa, hay cuối con đường
mòn nơi có rặng trâm bầu quanh năm xanh lá, tôi cũng nhận ra được bóng
mẹ lom khom, nhấp nhô ngoài đồng với cái nón quen thuộc, cũ kỹ. Những
đêm mưa lạnh lẽo, trong nhà có những chỗ nhỏ nước, mẹ xoắn cái quần đen
ống rộng, đội lên đầu cái nón lá bưng từng cái thau hứng nước, sợ mưa
dột lên chỗ con nằm, mẹ dùng bao nylon phủ cẩn thận lên nốc mùng, chốc
lát lại đi tuần tra.
Những ngày vào mùa thi, chị em tôi phải thức khuya học bài, mẹ cũng
mắc cái võng nằm kế bên không chịu đi ngủ, mắt cứ lim dim, thỉnh thoảng
lại mở ra như để kiểm tra, ba tôi có nói mấy đi nữa mẹ cũng nằm đó đung
đưa cái võng do chính tay mẹ kết bằng dây chuối, mặc cho những con muỗi
hút máu, mẹ vẫn điềm nhiên đập bộp bộp lên người, gãi xồn xột vì ngứa,
thỉnh thoảng nhắc nhở chị em tôi tranh thủ ngủ sớm với cái giọng khàn
khàn.
"Cha mẹ thương con như biển trời lai láng", trên đời này tôi chưa
từng thấy người mẹ nào thương con "kỳ cục" như mẹ tôi, những ngày đi học
thêm về trễ, mẹ bưng chiếc đèn dầu loe loé sáng ngồi đợi ở góc đường,
hoặc khi nghe loáng thoáng đứa nào đó thèm ăn món gì, dù có làm cực khổ
đến đâu mẹ cũng âm thầm chuẩn bị.
Những ngày không có nắng, sợ quần áo không kịp khô để sáng mai đến
trường, mẹ đứng ngồi không yên, hết treo chỗ này lại treo chỗ nọ, chỗ
nào có gió là mẹ tranh thủ ngay, vì chị em tôi không có nhiều quần áo
nên lắm lúc cũng phải mặc quần áo còn ẩm ướt mà đến trường, thằng út hôm
qua bất cẩn, té vào bờ rào rách cái cặp, mẹ lại thức khuya, cắt cái bao
nylon may cặp mới cho nó, nó vui mừng ngủ gục bên cạnh mẹ mà chờ đợi.
Đôi mắt mẹ nheo nheo, vầng trán mẹ xuất hiện nhiều nếp nhăn hơn trước.
Mẹ hay trách móc bà nội vội vàng, gắt gỏng, nhưng hình như trời đã
sắp đặt mẹ về làm vợ ba, làm dâu bà nội để thừa hưởng cái tính nóng nảy
đó. Nghe tin thằng Tèo đánh nhau với thằng Bi xóm trên, mẹ thằng Bi bênh
vực con mắng thằng Tèo vài câu, mẹ ngoe nguẩy nón lá trên tay, vừa đi
vừa lầm bầm "dám ăn hiếp con tao, dù có lên trời tao cũng đến".
Tôi chỉ biết nhún vai và thầm nhủ "giá như có bậc thang lên trời chắc mẹ cũng leo, huống chi lên rừng hay xuống biển".
Ngày tiễn chị tôi lên Sài Gòn học, mẹ cũng quảy cái nón lá, ôm theo
giỏ gạo và mấy con cá khô vào tận ký túc xá, đôi dép lào cứng ngắt trên
đôi chân nhuộm màu phèn, màu bùn cùng mẹ đi khắp thành đô. Đôi dép đó mẹ
mua hôm gả chị Hai lấy chồng, tính đến nay cũng được hai năm, hết tiễn
đứa này đi lấy chồng đến đứa kia đi học, hễ đứa nào về nhà rồi đi, mẹ
cũng tiễn chân đến tận cuối đường và đứng nhìn cho đến khi nào khuất
dạng.
Thằng út năm nay lên lớp tám, tôi chuẩn bị lên Sài Gòn thi Đại Học,
mẹ cũng khăn gói đòi đi theo, tôi trấn an mẹ "có chị ba trên đó, chỉ đưa
con đi thi, mẹ lên đó làm gì cho mất công".
Không cho mẹ đi mẹ giận hờn, trách móc, tôi viện cớ đường xá xa xôi
để ngăn mẹ lại, mẹ liền trích dẫn chứng "hồi ba mày còn đi lính, mẹ ẵm
chị hai mày mới mấy tháng tuổi đến tận chỗ tìm ba, đường xá còn xa vạn
lần, xe cộ sang tới sang lui chứ đâu phải đi một mạch như bây giờ, ba
mày dời đi đâu mẹ cũng đi đến tận đó".
Thấy ba cười lắc đầu, tôi cũng đành bó tay, thế là bao nhiêu ngày tôi
thi trường học cũng là bấy nhiêu ngày mẹ dặm thêm trường đời, hậu
phương thì vững chắc mà tiền tuyến như tôi chưa biết ra sao! Một lần nữa
cái nón lá và đôi dép Lào theo mẹ đến đất Sài thành.
Mẹ khẳng định khi nào mẹ chết thì thôi, chứ nếu còn sống thì dù con
cái có lập gia đình, thậm chí có con, có cháu thì đối với mẹ chị em tôi
lúc nào cũng còn nhỏ lắm.
Một lần, nghe thằng cháu ngoại 5 tuổi (con của chị Hai) vô tư kể lại
"hôm qua cha con đánh mẹ", tính Trương Phi nổi dậy trong lòng mẹ và
muốn đi đến tận nhà để hỏi lý do, ba và cả nhà thuyết phục mãi mẹ mới
chịu thôi, cũng chẳng phải mẹ dễ dàng bỏ qua như vậy đâu mà khi hỏi cặn
kẽ thằng cháu mới biết : "Cha con đánh mẹ mấy cái? Mẹ con có đánh lại
không?". "Cha đánh mẹ một cái, mẹ đánh lại ba, bốn cái luôn"
Đối diện với mẹ, tôi thấy mình nhỏ dại vô cùng, không biết sau này,
trong cuộc đời của mình, tôi có thể làm tròn bổn phận như mẹ bây giờ hay
không!
Mẹ tôi là như vậy đấy, dù có đi đâu mẹ cũng tình nguyện đi theo, dù
có làm gì mẹ cũng tình nguyện làm thay, cho dù đường đi có gập ghềnh,
chông chênh, dẫu mẹ chỉ là hòn sỏi giữa non cao hay chỉ là giọt nước
giữa đại dương muôn trùng, mẹ vẫn có thể làm tất cả vì con, chỉ với một
chiếc nón lá.
Alex Chu
Nét đặc trưng trong trang phục của người phụ nữ miền sông nước Cửu
Long giang ngoài chiếc áo bà ba, chiếc khăn rằn choàng cổ, người ta
không thể không nhắc đến chiếc nón lá.
Dân gian có câu ca ví von rằng:
"Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng".
Khác với xứ Huế có chiếc nón Bài thơ bằng lá buông và dây thao, người
dân ở miền Tây Nam bộ này chọn loại lá mật cật và cây trúc làm nguyên
liệu chính để làm nón. Lá mật cật là loại cây có lá xòe rộng như lá cọ,
mọc nhiều ở Tây Ninh, Phú Quốc, Cà Mau,… Thân cây nhỏ và thấp, mọc thành
từng đám hoặc bụi, hai bên cọng của tàu lá đầy gai nhọn.
Mỗi cây mật cật chỉ có một lá non và
được người ta chọn để làm nón. Muốn làm nón, người ta cần có cái khung
chằm hình chóp có kích thước bằng chiếc nón lá mà dân gian miệt đất Chín
Rồng thường gọi là cái mô (khuôn). Trước đây mô có 15 vành. Sau thập
niên 80 của thế kỷ XX, thị hiếu của người đồng bằng thay đổi. Họ bắt đầu
chuộng nón lá kiểu xứ Huế có 16 vành.
Vật liệu để làm ra chiếc nón lá ngoài lá
mật cật còn phải dùng kim may tay có mũi lớn, chỉ màu, dây gân, giấy
báo dùng để lót nón và các nan nón được vót từ trúc. Khác với cách làm
nón lá ở Tây Ninh là vừa chằm vừa gác nan tre lên khuôn để làm sườn nón
lá. Ở Cần Thơ, Cà Mau, người thợ sẽ kiềng vành lên mô nón trước rồi kế
đến là kết lá. Bước kế tiếp là xoay lá trên khuôn. Công đoạn này, đòi
hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới xoay lá đều, đẹp: Đầu tiên là xoay
lớp lá bên trong trước, rồi đến lớp giấy báo, cuối cùng là xoay lớp lá
bên ngoài. Sau khi xoay đầu nón xong, người thợ sẽ dùng một cái vành,
chụp lên bên ngoài mô để giữ cho lá nằm cố định, giúp người chằm được dễ
dàng.
Chằm nón là dùng các kim may cho đều là
được. Cuối cùng là nức vành, người làm nón sẽ vót một cọng nan có thân
dẹp gọi là cây tiến, cặp vào vành nón phía dưới cùng rồi dùng dây gân
nứt lại cho cứng. Làm vậy cho vành nón được tròn và chắc chắn, nón sử
dụng được lâu bền. Ngoài ra, người thợ còn trang trí bên trong của chóp
nón bằng chỉ thêu màu đỏ, xanh, hồng,... hình ngôi sao hay hình cái bông
để tăng thêm nét đẹp cho sản phẩm của mình.
Người phụ nữ miền sông nước với chiếc nón lá che nắng, che mưa (Ảnh: Minh Thương)
Với chiếc nón lá trên đầu, ngoài chức
năng che mưa che nắng, nhiều khi trời nóng nực, đi giữa đường kiếm gốc
cây ngồi nghỉ chân thì chiếc nón lại thay cây quạt đem lại cho người
luồng gió mát rượi. Cấy cày ngoài đồng trở về, tranh thủ hái thêm mớ rau
để làm bữa ăn, chiếc nón lại trở thành vật đựng thay cho rổ, rá hết sức
tiện lợi.
Chiếc nón lá tình tự đã đi vào ca dao ngỏ lời vừa có duyên vừa tế nhị khi người ta để ý làm quen:
"Ớ này cô mặc áo nâu
Đầu đội nón lá, đi đâu vội vàng?"
Và cũng từ đây biết bao trai gái đã nên duyên chồng vợ mặn nồng tình nghĩa và thủy chung như chiếc nón quê mùa.
Chiếc nón lá cũng đi vào nghệ thuật
xếp hình đặc biệt là làn điệu múa nón khiến lòng người xem ngất ngây như
thấy tái hiện đâu đây bóng hình của tiền nhân ngày mở cõi.
Hai miệt vườn
Ký ức miền Tây Nón lá hồn quê
Làng Nghề Chằm Nón Lá
Ngoài vẻ đẹp trù phú mà thiên nhiên ban tặng, Cần Thơ còn là nơi được mọi người biết đến bởi sự đa dạng phong phú về các làng nghề truyền thống được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Một trong những làng nghề đó là Làng nghề chằm nón lá... Nghề chằm nón lá ở ấp Thới Tân A không ai nhớ rõ xuất hiện từ năm nào và tổ nghề là ai. Tuy nhiên, theo những người làm nghề lớn tuổi ở đây cho biết, nghề này có khoảng trên 70 năm, hiện nay đã thành lập được Nghiệp đoàn chằm nón lá với trên 36 hộ sống với nghề.
Tuy
nhiên, theo những người làm nghề lớn tuổi ở đây cho biết, nghề này có
khoảng trên 70 năm, hiện nay đã thành lập được Nghiệp đoàn chằm nón lá
với trên 36 hộ sống với nghề.
Gia đình bà Diện đã 3 đời theo nghề chằm nón.
Khác với miền Trung làm nón Bài thơ bằng lá buông và dây thao, người dân
ở ấp Thới Tân A cũng như các vùng khác ở Nam bộ chọn loại lá mật cật và
cây trúc làm nguyên liệu chính để làm nón. Lá mật cật là lọai cây có lá
xòe rộng như lá cọ, mọc nhiều ở Tây Ninh, Phú Quốc, Cà Mau,…Thân cây
nhỏ và thấp, mọc thành từng đám hoặc bụi, hai bên cọng của tàu lá đầy
gai nhọn. Mỗi cây mật cật chỉ có 01 lá non và được người ta chọn để làm
nón.
Muốn làm nón đòi hỏi người thợ phải có cái khung chằm hình chóp có kích
thước bằng chiếc nón lá mà người dân vùng này thường gọi là cái Mô được
bày bán ở chợ. Vào những thập niên 80 trở về trước, nón lá được làm từ
Mô có 15 vành. Sau thập niên 80, thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi,
người Nam bộ nói chung bắt đầu chuộng nón lá kiểu xứ Huế có 16 vành hay
còn gọi là nón Bài thơ .
Cần Thơ hay có thời còn được gọi là
Tây Đô, nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Trước đây biển còn phủ hết Đồng Bằng Sông Cửu Long, mãi đến cách đây
2500, nước mới rút hết và hình thành vùng châu thổ như ngày nay. Cần Thơ
được khai mở và có mặt trên bản đồ Việt Nam từ năm 1739 với tên gọi
Trấn Giang.
Đến với Cần Thơ lênh đênh trên xuồng khám phá hệ thống kênh rạch và
chiêm ngưỡng cảnh đẹp nên thơ, bình dị được ví như vẻ đẹp thướt tha, đằm
thắm của cô gái Tây Đô. Nơi đây không những mang nét trù phú của những
làng xóm nép mình dưới rặng dừa mà còn mang dáng dấp xa hoa, lộng lẫy
của đô hội sầm uất, chẳng thế mà ở đây lại nổi danh với câu ca:
"Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân".
Ngoài
vẻ đẹp trù phú mà thiên nhiên ban tặng, Cần Thơ còn là nơi được mọi
người biết đến bởi sự đa dạng phong phú về các làng nghề truyền thống
được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Một trong những làng nghề đó là Làng
nghề chằm nón lá...
Nghề chằm nón lá ở ấp Thới Tân A không ai nhớ rõ xuất hiện từ năm nào và
tổ nghề là ai
Vì lẽ đó, người thợ ở Thới Tân A cũng
nhanh chóng thay đổi cách làm, họ bắt đầu sử dụng Mô nón của xứ Huế để
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Vật liệu để làm ra chiếc nón lá gồm: kim may tay số 10, chỉ màu, dây gân
số 04, giấy báo dùng để lót nón, nan (được làm từ trúc) và lá mật
cật.Khác với cách làm nón lá ở Tây Ninh là vừa chằm vừa gác nan tre lên
khuôn để làm sườn nón lá. Ở ấp Thới Tân A, người thợ sẽ kiềng vành lên
khuôn (mô) nón trước rồi kế đến là kết lá.
Bước kế tiếp là họ bắt đầu xoay lá trên khuôn. Công đoạn này rất quan
trọng, đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới xoay lá đều, đẹp: đầu
tiên là xoay lớp lá bên trong trước, rồi đến lớp giấy báo, cuối cùng là
xoay lớp lá bên ngoài.
Sau khi xoay đầu nón xong, người thợ sẽ dùng một cái vành, chụp lên bên
ngoài khuôn nón để giữ cho lá nằm cố định, giúp người thợ chằm được dễ
dàng.
Tiếp đến là thao tác chằm nón, công đoạn này tương đối dễ so với các
công đoạn khác khi làm nón. Chỉ cần mũi kim đều, khoảng cách giữa các
mũi kim vừa phải, không xa quá là đã đạt yêu cầu. Cuối cùng là nức vành,
đây là công đoạn khá quan trọng, người thợ sẽ vót 01 cọng nan có thân
dẹp gọi là cây tiến, cặp vào vành nón số 16 để khi nức, vành nón được
tròn và chắc chắn, nón sử dụng được lâu bền.
Ngoài ra, người thợ còn trang trí bên trong của chóp nón bằng chỉ thêu
màu đỏ, xanh, hồng,... hình ngôi sao hay hình cái bông để tăng thêm nét
đẹp cho sản phẩm của mình
Được
biết giá một kg lá mật cật trên thị trường hiện nay giao động từ 80.000
đồng đến 90.000 đồng, chằm được 20 cái nón thường. Khi thành phẩm,
thương lái mua vào một cái nón lá khoảng 15.000 đồng. Nếu tính sơ, mỗi
cái nón người thợ có thể thu lãi khoảng 8.000 đồng, trung bình một
người, ngoài công việc chính trong ngày, có thể làm thêm được từ 2 đến 3
chiếc nón, phần nào phụ giúp được gia đình có thêm nguồn thu nhập.
Sản phẩm của Nghiệp đoàn chằm nón lá ở ấp Thới Tân A chủ yếu bán ở chợ
Thới Lai và một số nơi khác như ở chợ Vĩnh Thuận, Vĩnh Tuy ... Mặc dù
nghề chằm nón lá ở đây không mang lại sự giàu có cho các hộ gia đình
nhưng nhờ có đầu ra nên đã tạo được nguồn thu nhập ổn định cho người dân
địa phương và đặc biệt cũng thu hút sự chú ý của Du khách từ mọi miền
về thăm làng nghề truyền thống này!
ST
ST
DUYEN DANG NON LA VIET
Cùng trải nghiệm: Nón Lá
Chiếc nón quê hương
Nón nầy che nắng che mưa
Nón nầy để đội cho vừa đôi ta
Ca dao
Nón nầy để đội cho vừa đôi ta
Ca dao
Nón
lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất
hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng
mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc,
áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam, chắc chắn không ai
chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp
riêng.
Nón
dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc
Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500-3000 năm. Nón lá gần với
đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực
tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ
tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam
có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:
-Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
-Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
-Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng
-Nón quai thao: người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
-Nón cời : nón rách
-Nón Gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
-Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp
-Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
-Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
-Nón chảo: thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng
-Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang
-Nón bài thơ: ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.v.
Người
Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý
nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản
dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón
không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình
cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón.
Với
cây mác sắc, người làm nón chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một
cách công phu ; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người
phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non
vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ũi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và
lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên
nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản
xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các
tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón ?
Vật
liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những
vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Quy Diệp
là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá
nầy làm cái tơi để mùa đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Quy Diệp
là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.
Ngày
nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài
Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng,
giống như con công đang xòe cánh.
Người
ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá đơn
chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những
vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn
bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón
lá nhiều loại.
Lá
non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho
lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối
cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ,
dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón
thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ,
lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình
giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống
nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung
nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón
xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật
vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen
hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần
trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông
người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa
nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta
phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các
lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu,
từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt
lá, nức vành, cắt chỉ...
Thời
gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm)
tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng
bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác.
Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có
đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam:
Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Nón
quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường
dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên
đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu,
đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn
văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc
nón quai thao ( hình trên trong Văn Miếu).
Thưở
xưa, con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú
trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng
những vẻ đẹp bề ngoài..
Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai…
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai…
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:
Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong
Dáng
dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng
vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp,
rạo rực vì những bâng khuâng...
Mỗi
thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu
trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao
truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày
cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt
Còn ta mắt anh..
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp.
Thu Nhất Phương
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt
Còn ta mắt anh..
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp.
Thu Nhất Phương
Ở
Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như:
Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân
Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ
mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh
Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương... và đặc biệt nhất là vài
câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế:
Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Ca dao
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Ca dao
Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nguyễn Khoa Điềm
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nguyễn Khoa Điềm
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Bích Lan
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Bích Lan
Những
chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu
nữ. Lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công
đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi
tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả
bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề:
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
Nón
bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen
trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng
xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều.
Anh về Bình Định ba ngày
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua
Nón
bài thơ đặc sản Huế, nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm
bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên
ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều
đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ
long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và
đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công
nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang
quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu
của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn,
nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay
bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày
cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn
những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi
trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:
Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn
Ngày
nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón
ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của
chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài.
Để làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá,
chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu
năm.
Nghề
nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có một chợ
nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30
chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật
liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000
chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng
giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ
người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các
miệt vườn miền Nam:
Nhớ nón Gò Găng
Vầng trăng đập đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai..
Vầng trăng đập đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai..
Đời
sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫn thuần túy nguyên
hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng
mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời
không đổi thay…
Nguyễn Quý Đại
Nón Lá Hồn Quê
Ngôi trường đã thay tên từ cái thuở thiên hạ đổi đời, sau cái ngày hai miền thống nhất để “miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận..hàng”, nên không còn cái cảm giác thân quen, mặc dù bây giờ chúng tôi vẫn đang trở lại bằng những con đường xưa lối cũ.
Chúng
tôi đến vào đúng lúc tan trường. Nhìn các em học trò từng nhóm bước ra
khỏi cổng mà lòng dạ cứ bồi hồi, nhớ da diết một thời xa xưa cũ. Những
em học sinh bây giờ dường như có ít nhiều khác với bọn chúng tôi xưa.
Đặc biệt trong đám nữ sinh, có thiếu đi cái điều gì đó. Mãi đến khi về
nhà, ngồi bàn bạc lại chuyện xưa- nay, chúng tôi mới khám phá ra cái
điều thiếu vắng ấy chính là: Cái Nón Lá.
Không
hiểu từ lúc nào, Cái Nón Lá đã biến mất trong những cô học trò, những
cô con gái dễ thương ở quê tôi. Cái Nón Lá với những chiếc quai hồng,
quai đỏ, quai tím, quai xanh,… đã một thời làm khổ biết bao nhiêu thằng
con trai và cũng đã từng làm giàu thêm cho kho tàng văn chương thi phú.
Bây giờ làm sao tìm lại được cái cảnh “nghiêng nghiêng vành nón che làn
tóc.. “, ” mùa hè Ninh Hòa nắng mờ con mắt, tôi đứng nhìn em đội nón qua
cầu ” và tôi không hiểu nếu ” Ninh Hòa, những ngày trời trở gió ” thì
các nàng sẽ lấy cái gì để che…cái áo. Hèn gì ông nhà thơ Lê Hân ở tận
bên Canada, đã biết dùng cái cặp táp để thay cho Cái Nón Lá… trong bài
thơ Nữ Sinh thật dễ thương:
Cặp ôm che.. ngực xuân thì
Em đi hoa cỏ thầm thì trông theo
Áo dài tay đỡ vòng eo
Hai bên hông hở thơ trèo vào thăm
Em đi hoa cỏ thầm thì trông theo
Áo dài tay đỡ vòng eo
Hai bên hông hở thơ trèo vào thăm
Tôi
dám chắc như đinh đóng cột là chàng trai Ninh Hòa đa tình nào trạc tuổi
tôi ngày ấy, cũng đã từng có thời chạy theo hoặc chết lên chết xuống vì
những cái quai nón hồng, đỏ, tím, xanh…buớc ra từ các cổng trường Trần
Bình Trọng, Bán Công, Đức Linh.. hay xa hơn nữa là Võ Tánh, Huyền Trân,
Lê Quí Đôn, Tương Lai, Kim Yến.. ở Nha Trang. Nhưng đẹp và dễ thương hơn
vẫn là những mối tình học trò trường huyện. Ngày đó, có nhiều chàng (và
nàng) thuộc lòng bài thơ..khi không có nón.. của ông Nguyễn Bính. Nhiều
cô cậu đã nắn nót chép bài thơ “Bươm Bướm Ngày Xưa” dấu kỹ trong ngăn
cặp táp..và cả trong ngăn nào đó của trái tim mới bắt đầu đập..lạc nhịp
của mình. Bây giờ, nếu có dịp trở lại Ninh Hòa, đứng trước cổng ngôi
trường cũ, chắc chắn từ một nơi thật sâu trong ký ức, bài thơ xưa sẽ ”
đột xuất”trở về:
Học trò trường huyện ngày xưa ấy
Em tuổi bằng anh, lớp tuổi thơ
Những buổi học về không có nón
Đội đầu chung một lá sen tơ
Lá sen vương phấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cổng mới tan mơ
Em đi phố huyện tiêu điều lắm
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới nhớ
Tình anh như chuyện bướm xưa thôi…
Em tuổi bằng anh, lớp tuổi thơ
Những buổi học về không có nón
Đội đầu chung một lá sen tơ
Lá sen vương phấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cổng mới tan mơ
Em đi phố huyện tiêu điều lắm
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới nhớ
Tình anh như chuyện bướm xưa thôi…
Cuộc
đời vốn đã là những hố bờ ngăn cách. Vậy mà chiến tranh (và đau đớn
thay cả đến lúc có hòa bình nữa) thì cái thế hệ của những ” ngày xưa
thân ái ” đó lại chia lìa tứ tán. Kẻ chân mây người góc bể. Kẻ ở người
đi ai cũng ..đoạn trường. Vậy mà trong trời đất bao la lại có những con
đường chạy theo kiểu vòng tròn khép kín, để bao nhiêu năm sau, ở một
thành phố có cái tên lạ hoắc nào đó trên xứ người, nhiều chàng bất ngờ
“đụng đầu” tái ngộ với “cái quai nón” ngày xưa, hoặc đã từng đội chung
“lá sen tơ” của một ngày nàng quên mang theo nón lá. Tôi đã từng nghe
được khá nhiều tâm sự của các chàng Ninh Hòa, bây giờ tóc đã hoa râm:
Nửa đời mới gặp lại nhau
Ngước nhìn mái tóc ngả màu thời gian
Cái ngày cùng học trường làng
Chép thơ Nguyễn Bính gởi sang cho mình
Đêm nằm nhớ nụ cười xinh
Lá sen tơ ấy chúng mình cầm tay
Thế mà nay.. đau lòng thay
Cái con bướm trắng đã bay xa rồi
Mỗi người ở một phương trời
Vẫn không quên được cái thời xưa xa
Cho dù nay đã ông bà…
Lá sen tơ ấy vẫn là sen tơ
Ước gì trở lại tuổi thơ
Để… cùng đội lá sen tơ với mình…
Ngước nhìn mái tóc ngả màu thời gian
Cái ngày cùng học trường làng
Chép thơ Nguyễn Bính gởi sang cho mình
Đêm nằm nhớ nụ cười xinh
Lá sen tơ ấy chúng mình cầm tay
Thế mà nay.. đau lòng thay
Cái con bướm trắng đã bay xa rồi
Mỗi người ở một phương trời
Vẫn không quên được cái thời xưa xa
Cho dù nay đã ông bà…
Lá sen tơ ấy vẫn là sen tơ
Ước gì trở lại tuổi thơ
Để… cùng đội lá sen tơ với mình…
Riêng
tôi, một thằng lính lang thang dọc đường số 1, vậy mà trời xui đất
khiến thế nào cũng đã từng lỡ dại yêu một cái quai nón tím Ninh-Hòa.
Ngày ấy mỗi lần lái xe qua trường Trần Bình Trọng mà không tìm ra cái
quai nón tím là tôi buồn đến..tím gan tím ruột. Mà cũng lạ, trường Trần
Bình Trọng ngày ấy có biết bao quai nón đủ màu, đủ sắc, cớ sao tôi lại
phải lòng cái quai màu tím. Hay tại tôi là lính chiến, nên cứ tưởng cái
quai nón màu tím là.. “rừng tím hoa sim, tím những chiều hoang biền
biệt”. May quá, có một nhà thơ gốc Khánh Hòa viết giùm tôi cái “thiên
tình sử “đó:
O con gái tóc dài - quai nón tím
Chiều ni về - O có nhớ ai không
Guốc khua chi - cho đây nhói cả lòng
Áo trắng quá - khiến hồn đây khờ khạo
O cười duyên - khoe dăm ba hạt gạo
Cho đây vay một hạt - để no lòng
Sợ nửa khuya về bên ngọn đèn chong
O dẫm lấm những tờ thư đây viết
Cứ nguýt háy đi - cứ lườm cứ liếc…
Miễn O đừng biền biệt tháng năm xanh
Miễn sáng - trưa - chiều O cứ quẩn quanh
Sau cửa lớp - ngập ngừng như bụi phấn
Ngày hai buổi tan trường ngang mấy bận
Đứng bên đường đây cứ mãi ngó mong
Quai nón tím ơi - khói thuốc thả vòng
Không dám gọi - dù chỉ lời thăm hỏi
O cứ đi qua - chẳng chờ - chẳng đợi
Chẳng đoái hoài đến một gã khờ si
Những ngả đường cũng năm bảy lối đi
Sao lòng đây chỉ O quai nón tím…!
Chiều ni về - O có nhớ ai không
Guốc khua chi - cho đây nhói cả lòng
Áo trắng quá - khiến hồn đây khờ khạo
O cười duyên - khoe dăm ba hạt gạo
Cho đây vay một hạt - để no lòng
Sợ nửa khuya về bên ngọn đèn chong
O dẫm lấm những tờ thư đây viết
Cứ nguýt háy đi - cứ lườm cứ liếc…
Miễn O đừng biền biệt tháng năm xanh
Miễn sáng - trưa - chiều O cứ quẩn quanh
Sau cửa lớp - ngập ngừng như bụi phấn
Ngày hai buổi tan trường ngang mấy bận
Đứng bên đường đây cứ mãi ngó mong
Quai nón tím ơi - khói thuốc thả vòng
Không dám gọi - dù chỉ lời thăm hỏi
O cứ đi qua - chẳng chờ - chẳng đợi
Chẳng đoái hoài đến một gã khờ si
Những ngả đường cũng năm bảy lối đi
Sao lòng đây chỉ O quai nón tím…!
(Phan Thị Ngôn Ngữ)
Nhưng mà tội nghiệp cho cô nàng có quai nón tím, bởi “đời một người con gái - ước mơ rất nhiều song trời cho không được mấy- đến khi đi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo“,
mà khốn khổ thay thằng chồng ấy lại chính là tôi. Bởi vì sau đó nàng
đành phải bỏ cái quai nón tím để khốn khổ mà làm vợ..lính. Và từ ngày
thằng lính ấy chui vô cái ” trại cải tạo khoan hồng” của người anh em,
thì cho dù nàng có mở mắt hay nhắm mắt gì thì cũng chỉ thấy có một… chân
trời tím ngắt. Câu ca dao quen thuộc ở cái xứ thơ Ninh Hòa “Trời mưa thì mặc trời mưa, tôi không có..nón trời chừa tôi ra “đã
không còn linh ứng với riêng nàng. Trong những người vợ lính ở cái xứ
Ninh-Hòa hiền khô, trời đã không chừa nàng ra, nên phải làm thân con cò
lặn lội bờ sông.. với đủ thứ trăm cay nghìn đắng. Nhưng cuối cùng ”
người hại người, chứ ông Trời lại thương người vô tội “, nên bây giờ
những cái quai nón.. ấy lại trở thành những “khúc ruột ngàn dặm của quê
hương” nơi có “chùm khế ngọt, mà em… không được quyền trèo hái bao giờ”
!!
Tưởng
đâu chạy sang xứ người ta làm Việt kiều yêu…tự do, là thoát được bao
điều hệ lụy bởi ông chồng gốc lính. Nào ngờ cái ông chồng ấy bây giờ
cũng vẫn vô tích sự. Mấy lần nhớ con gái ở xa, nàng định khăn gói một
mình sang thăm, nhưng thấy tội nghiệp ông chồng, nên đành phải trả vé
máy bay. Nàng đã oán trách lầm Kách Mệnh. Nàng bảo là hơn tám năm cải
tạo mà ông chồng vẫn không chịu tiến bộ. Kách Mệnh dạy: ” Có sức người
thì sỏi đá cũng thành cơm”, còn khổ thay ông chồng tôi thì “gạo đổ vô
nồi (điện) rồi mà vẫn không chín nổi thành cơm”.
Nhưng có một Chiếc Nón Lá khác, quai không màu không sắc, lại làm tôi xúc động mỗi lần nhớ tới.
Năm
1976, tôi bị chuyển tù từ Nam ra Bắc, mà lại tới một nơi xa tít mịt
nùng: Lào Cai. Ba năm sau, ông anh bá quyền Trung quốc quên lời hẹn ước
“môi hở răng lạnh”, dở trò muốn dạy người đồng chí Việt Nam anh hùng một
bài học, bèn xua quân tràn qua biên giới, đám tù tụi tôi bèn làm một
cuộc “hành quân” thần tốc xuống Yên Bái, rồi sau đó chạy một mạch vào
tận Nghệ Tĩnh. Trại tù nằm sát biên giới Lào. Vào mùa hè gió Lào thổi
sang nóng đến cháy gan cháy ruột.
Một
hôm bọn tù tôi đuợc đi lao động để tìm “vinh quang”, nhưng trời nóng
quá, nên cứ đi vài chục mét thì tất cả tự động chui vào mấy bụi cây ven
đường. Đám tù có nhiệm vụ san mặt bằng trên một cái đồi trọc để chính
quyền đưa dân dưới thấp lên, vừa “ổn định” đời sống vừa làm một cứ điểm
chống quân “bành trướng Bắc Kinh”. Trời nóng hơn lửa đốt, mà cái đồi thì
không còn một bóng cây, nên đám tù bọn tôi chỉ còn có ” đầu đội trời,
chân đạp đất” như ông Từ Hải của nàng Kiều.
May
mắn là tôi vừa qua một cơn kiết lỵ, nên được phân công nấu nước cho anh
em. Phải xuống duới chân đồi mới có nước. “Đồng chí” quản giáo “đe”
trước là phía dưới có khu nông trường mà đa số là đàn bà con gái. Chớ có
bén mãn tới để “quan hệ” với nhân dân chân chính là bị cùm trong hầm
núi. Tôi vốn nhát gan nên rất sợ mấy cái hầm tối trong hốc núi. Một lần
có nhiệm vụ mang xác người bạn tù bị chết trong hầm núi ra, tôi mới biết
cái địa ngục có thật này. Là một cái hang được moi ra từ chân núi đá,
vừa đủ chỗ cho một thân người nằm. Khi kéo xác anh bạn tù ra, bọn tôi
lạnh toát cả người. Không phải vì sợ thây ma, (vì chính những thằng tù
còn sống cũng có khác cái thây ma là bao), nhưng vì bọn tôi nhìn thấy
mấy con rắn, không biết có tội tình gì với Kách Mệnh mà đã tự giác chui
vào để cùng “học tập cải tạo” với mấy anh tù khốn khổ nhất trên hành
tinh này!
Trong
lúc nấu nước, vừa cái nóng của trời, cái nóng trong gió lào thổi tới,
cộng với cái nóng của lửa bốc lên, tôi bị choáng váng vì say nóng, bèn
chui đại vào một lùm cây “cứt chồn” nằm. Chợp mắt vài phút, nghe có
tiếng sột soạt, tôi giật mình tỉnh giấc. Ngồi dậy định chui ra thì bất
ngờ thấy phía trước mặt có cái Nón Lá. Tôi dụi mắt tưởng nằm mơ, chứ tôi
đâu có cây đèn thần để đọc ra ba điều ước bao giờ. Lúc này mà có cái
Nón Lá, còn hơn cả mấy vị “cứu tinh của dân tộc”, nhưng nghĩ đến mấy con
rắn trong cái hầm núi là tôi đành “bỏ của chạy lấy người”. Nhìn Chiếc
Nón Lá nằm trong gang tấc mà với tôi sao xa thật ngàn trùng. Vừa bước
đi, tôi nghe từ một bụi cây trước mặt, tiếng thỏ thẻ như chim:
-
“Anh gì ơi ! Anh gì ơi ! Tôi cho anh chiếc nón, trong đó có mấy củ
khoai luộc, anh cứ khẩn trương cầm lấy. Tôi đã cảnh giác kỹ rồi, chẳng
có ai phát hiện đâu!
Bỗng dưng tôi trở thành một thằng tù vừa được no lại vừa lãng mạn: Thằng tù có nón !
Sau
này khi được chuyển vào Nam rồi ra trại, tôi bàn giao Chiếc Nón ân tình
này cùng cả câu chuyện cô gái nông trường cho người bạn tù trẻ hơn tôi
bốn tuổi mà hai thằng đã từng kết nghĩa anh em. Sau ngày vượt biên, tôi
tìm cách liên lạc với gia đình anh. Tôi nghiệp người bạn trẻ dễ thương
đã chết sau gần một năm tôi chuyển trại.
Ở
miền Bắc, người ta xem thường con gái nông trường nên ví von ” con gái
nông trường như chiếc giường bệnh viện”. Sau này, mỗi lần nghe ai nhắc
tới câu nói đó, tôi cảm thấy như chính mình bị xúc phạm. Tôi chỉ nghe
tiếng nói, nhưng chưa thấy mặt người con gái ấy bao giờ. Nhưng Chiếc Nón
Lá với cái quai chỉ bằng một sợi giây, có cái màu ướt đẫm mồ hôi, tôi
không bao giờ quên. Cầu mong cho người con gái nông trường Thanh Chương
ngày đó, giờ đây được sống yên lành, không phải bán mình sang Đài Loan,
Hàn Quốc để nuôi cả một gia đình khốn khó.
Hôm
rời Việt Nam, khi bước vào phi trường Tân Sơn Nhất, bất ngờ tôi nhìn
thấy một lô Nón Lá. Nhưng mà tôi còn buồn hơn là “những ngày không tìm
thấy.. nón”, Vì những chiếc Nón Lá này đang lắc lư trên đầu những bà đầm
già đen, trắng. Có lẽ các công ty du lịch Việt Nam, ” những mũi nhọn
xung kích của thiên niên kỷ mới”, giới thiệu Cái Nón Lá với khách bốn
phương như là một giá trị văn hoá quê nhà, nhưng họ có biết là cái giá
trị đó đang ngày mai một ngay trên chính quê hương của Nón ??
Tôi
nhớ tới cái cảnh mấy ông nghị viên, dân biểu bên Mỹ, bên Tây trong
những mùa tranh cử ở những vùng có nhiều cử tri gốc Việt, thường mặc áo
dài, có khi đội cả khăn đống.. để vận động kiếm phiếu. Không biết bà con
thì sao, có vui vì thấy thiên hạ “yêu” văn hóa ta hay không, chứ riêng
một thằng có thói xấu bảo thủ như tôi thì không thấy đẹp chút nào mà còn
hơi ngượng.. vì có cảm giác chiếc áo dài, khăn đống của mình bị người
ta.. lợi dụng.
Về
tới Nauy, tôi đem câu chuyện Cái Nón Lá bây giờ tự dưng biến mất ở các
cổng trường.. bên quê nhà, kể cho mấy ông bạn già như là “món quà của
một kẻ đi xa về”, thì lại nghe thêm được một chuyện buồn cũng về cái
Nón:
Có
một ông già Việt kiều gốc nhà quê yêu nước, được con cháu bảo lãnh sang
đoàn tụ. Sống trên cái xứ Bắc Âu nhỏ bé nhưng vốn có đời sống cao hàng
nhất nhì trên trái đất, ông già được nuôi nấng kỹ quá, bơ sửa thừa mứa,
mỗi năm lại được cấp tiền đi du lịch vòng vòng, nên đâm ra.. rững mở nhờ
thần dược Viagra.
Ông
về Việt Nam liên tục, hết nói cất nhà từ đường, rồi xây mộ gia tộc. Hết
chuyện tư ông lại mở tấm lòng bác ái.. làm chuyện công: xây đình xây
miểu chưa xong lại sửa sang trường học,, giúp viện mồ côi..Kỳ thực thì
ông đem tiền về xây nhà giữ trẻ, mà chỉ nuôi có mỗi một em. Đó chính
là.. cô bồ nhí, tuổi đáng cháu nội của ông. Khốn thay cho những tên Việt
kiều già mất nết. Cái tin này đến tai bà vợ già.. vốn mê đọc truyện
Kiều nên có máu Hoạn Thư.. Bà huy động một đám con dâu, con gái đã từng
có nhiều huy chuơng trong những cuộc chiến “đánh.. ghen cứu nước”, cùng
về Việt Nam với bà chiến đấu. Ông già sợ quá, bèn đi tìm thầy bùa gốc
Chàm còn sót lại từ lúc công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu cho vua
Chế Mân của xứ Chiêm Thành. Theo lời dạy của ông thầy bùa, ông già Việt
kiều đi tìm mua Cái Nón Lá có bài thơ tình.. xứ Huế, để ông thầy yếm bùa
” khờ ” vào Cái Nón.
Không
ngờ bà vợ lại có tài “tình báo” còn hơn cả đám CIA của Mỹ chống khủng
bố al Qaeda, nên nhất cử nhất động gì của ông chồng già.. dịch bà đều
“nắm bắt” kịp thời !
Bà
kéo đám quân thiện chiến về đúng vào mùa hè đỏ lửa. Ông chồng biết bà
vợ rất sợ ông Trịnh Công Sơn xúi người ta ” Gọi Nắng…”, bèn mang Cái Nón
Lá vào tận phi trưòng đón nữ tướng quân. Khi bà vợ vừa bước ra khỏi phi
trường, ông chạy tới xum xoe, đưa Cái Nón lên âu yếm che đầu bà. Bà
vung tay giật ngay Cái Nón vất xuống đất đạp tan tành. “Thừa thắng xông
lên” bà cắt mái tóc mới nhuộm của ông già, rồi định cắt thêm…một cái gì
nữa đó. Cả phi trường náo lọan, công an bảo vệ phải xông vào cứu ông già
thoát nạn, trước sư hò reo của tất cả mọi người vừa chứng kiến một tấn
tuồng hay..
Tôi
nghĩ, nếu lỡ xui, hôm ấy có tôi, chắc tôi không thể nào mở miệng ra
cười đuợc, mà có khi tôi còn khóc. Không chỉ khóc vì trong đám Việt
kiều, có những gã già mất nết, mà khóc vì đau lòng và tội nghiệp cho..
cái Nón Lá. Vì nó có tội tình gì ?
Trong
lúc ở quê nhà, cùng “tiến nhanh tiến mạnh” lên một nền “kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, các em nữ sinh, các cô con gái
dần dần bỏ rơi Cái Nón Lá, thì một ông già vừa mới xa quê mấy năm, vốn
coi trọng truyền thống cha ông, lại sớm bán linh hồn cho quỷ, và dùng
Cái Nón Lá vào một việc “cực kỳ″ kém văn hóa. Thử hỏi một thằng gốc nhà
quê như tôi làm sao mà không buồn cho được.
Viết
tới đây tự dưng tôi liên tường tới một điều, mà cứ mỗi lần nghĩ tới là
lòng thấy nhói đau. Nói theo kiểu mấy ông nhà văn thì “dường như đang có
những nhát chém hư vô” nào đó ở trong lòng.
Cũng
kể từ lúc những nữ sinh, những cô con gái Việt Nam dần dần bỏ rơi cái
Nón Lá, thì cũng là lúc số phận của những người phụ nữ một thời ” anh
hùng bất khuất trung hậu đảm đang” vốn là con cháu của các “chị ba dũng
sĩ quê ở Trà Vinh, chị hai năm tấn quê ở Thái Bình”đi đến chỗ cùng tận
của nỗi…thê lương.
Trong
lịch sử dân tộc ta, dường như chưa có thời kỳ nào mà số phận của nhiều
người con gái, phụ nữ Việt Nam lại bi thương rẻ rúng như bây giờ.
Hơn
một trăm ngàn ( xin nhắc lại: một trăm ngàn) các cô gái, mà trong đó có
hơn 60% các em ở tuổi vị thành niên đã phải sang Campuchia và Thái Lan
làm gái điếm. Hơn sáu chục ngàn cô gái bị lừa (và bị bán) sang Đài Loan,
Hàn Quốc, nói là để làm vợ, nhưng thực ra chỉ làm nô lệ và nô lệ tình
dục cho bọn lưu manh. Một số đông bị hiếp tập thể hay hiếp luân phiên
bởi những gã đàn ông bệnh hoạn trong một đại gia đình, vốn cũng chẳng
khấm khá gì. Rồi sau khi tả tơi, bị bán rẻ lại cho những ổ mại dâm mạt
hạng. Oái ăm và đau đớn thay, bọn đàn ông khốn kiếp này lại là đám con
cháu của ” bọn phản động Tưởng Giới Thạch và bọn Pác Chung Hy từng sang
Việt Nam đánh thuê cho “đế quốc Mỹ″năm nào ! Hàng vạn cô gái vị thành
niên sang hành nghề gái điếm bên Nga. Cái nôi của một chế độ mà đã có
thời được đàn em cúc cung tung hô “vạn tuế “, nơi mà đã có một nhà thơ
lớn viết một bài thơ để đời: “thương cha thì thương một mà thương ông
(Stalin) thì thương đến mười”, để cho một ông nhà thơ đàn em hùa theo ca
ngợi ” đồng hồ Liên Xô đẹp hơn đồng hồ Thụy Sĩ”, ” trăng nước Nga tròn
hơn trăng nước Mỹ″ ! Bây giờ thì cái thành quả ” Kách Mệnh tháng 10 ” đó
đang bày bán khắp các chợ trời ở biên giới các nước bắc Âu: từ huy
chương, phù hiệu, cờ xí.. cho đến những cô con gái, mà cha mẹ ông bà vốn
một thời là đồng chí của Stalin !)
Chưa
bao giờ người con gái Việt nam lại đem bày hàng rao bán ở bên
Singapore, Hàn Quốc, như là những cộng rau héo úa của buổi chợ chiều.
Từng nhóm những cô gái quê, trần truồng như nhộng, sắp hàng đi tới đi
lui, quay trước quay sau, để cho những gã Tàu già, nghiện hút, tàn tật
tha hồ chọn lựa.
Trong
nước, thì từ thành phô, đến thôn quê, từ vùng xuôi đến “vùng sâu vùng
xa”, nơi nào cũng dẫy đầy gái điếm ! Điếm bây giờ có đủ hạng bậc, chẳng
khác gì một đội quân gái với đầy đủ các cấp quân hàm: từ ca sĩ, diễn
viên điện ảnh, người mẫu, hoa khôi, á hậu,,đến những cô sinh viên, đang
còn theo học hoặc vừa mới ra trường. Bi thảm và thương tâm nhất là các
em gái học trò nghèo, tuổi mới mười ba, mười bốn cũng phải bán dâm. Mà
khốn nạn thay những kẻ mua dâm lại là những ông thầy và đám quan lại
quyền thế của triều đình.
Từ
vụ ông tiến sĩ TCP/TCTDTT Lương quốc Dũng hiếp dâm một bé gái 13, đến
ông TGĐ/PMU18 Bùi tiến Dũng, cứ mỗi lần cùng bọn tham quan đánh bạc là
có các cô xinh đẹp trần truồng ngồi sẵn một bên để các ngài xả xui ngay
tại chỗ. Rồi đến ngài thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến rửa ghế với mấy cô
người mẫu trần truồng ngồi trong những chậu sứ, rượu ngoại được thay
nhau đổ từ trên đầu xuống khắp châu thân, chảy qua đủ ngõ ngách của các
nàng kiều nữ, để đám nịnh thần cụng ly chúc mừng quan lớn ! Mới nghe,
tôi cứ mơ hồ như chuyện chỉ có trong phim tàu của cái thời có nhiều bạo
chúa.
Mấy
năm trước, hơn mười em học trò nghèo, tuổi mới 14, 15 ở cái huyện Hòa
An hẻo lánh trên tận Cao Bằng heo hút gió mưa bị ép bán dâm cho một ông
thầy đang làm quan trong Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh. Rồi một ngài Trung
tá Phó Trưởng Công An Thị Xã Cao Bằng cưởng bức mua dâm một em gái mồ
côi tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Tỉnh Cao Bằng chưa đến tuổi 15.
Và
mới đây, tại tỉnh Hà Giang, hơn 15 em nữ sinh tuổi từ 13 đến 17 bị
chính ông hiệu trưởng Sầm Đức Xương dụ dỗ, cưỡng ép, khống chế buộc phải
quan hệ tình dục với ông và sau đó còn dâng lên làm quà cho ngài chủ
tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và một đám quan lớn khác. Điều đặc biệt là
sau khi thỏa mản thú tính, ngài chủ tịch đốn mạt còn nằm trần truồng cho
các em “vô tư” chụp hình, quay phim thoải mái, bởi ngài nghĩ đã có bao
cái lọng trên đầu!
Hèn
gì một cô nghệ sĩ ưu tú Hát Chèo, bộ môn văn hóa cổ truyền đang được cổ
võ hồi sinh, lại bỏ chèo để làm “má mì” chuyên cung cấp những cô gái
loại “hàng xịn”. Một cô sinh viên của một trường đại học danh giá ngay
giữa lòng thủ đô, ” Hà Nội.. niềm tin yêu và hy vọng của núi sông hôm
nay và mai sau”, lại trở thành tú bà, chuyên cung cấp nữ sinh viên cho
các ngài đại gia mà phần lớn là đám hôn quan lớn bé của triều đình thời
mở cửa. Trong khi ấy thì các quan lớn dùng tiền nhà nước đánh bạc, cá độ
cả tiền tỷ, cả đến gần ba triêu đô la! Đã vậy các qúy tử, công nương
dốt nát của quí ngài còn được đi du học “ăn chơi ” đó đây bằng tiền của
E-Việt Nam Giao Chỉ !
(
Tôi cũng xin nói rõ: tất cả những tin tức này đã được đăng tải công
khai trên các báo Công An, Thanh Niên, Tuổi Trẻ của nhà nước, chứ không
phải từ những tên phản động, hoặc những phần tử ” diển biến hòa bình”
nào đâu nhé ).
Trong
một bài thơ khá dài và thật cảm động gởi cho một em bé nghèo phải sang
bán mình cho các nhà chứa ở Bangkok, nhà thơ Trần Trung Đạo (một người
trẻ có trọn tấm lòng với quê hương, đất nước, hiện tị nạn tại Hoa Kỳ) có
một đoạn:
Lịch sử Việt Nam
Vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận
Nhưng chưa bao giờ đen tối như hôm nay
Ông cha ta có khi phải xuống biển tìm ngọc trai
Lên non tìm ngà voi trầm hương châu báu
Có những lúc cả dòng sông thắm máu
Có nhiều khi xương trắng gởi rừng sâu
Nhưng chưa một lần trong bốn ngàn năm
Có những cô gái Việt nam
Phải sang xứ người bán thân nuôi miệng
Tủi nhục này không bao giờ rửa
Nỗi đau này không phải của riêng em
Mà của mọi người còn một chút lương tâm
Và còn biết như thế nào là quốc nhục
Nhưng chưa bao giờ đen tối như hôm nay
Ông cha ta có khi phải xuống biển tìm ngọc trai
Lên non tìm ngà voi trầm hương châu báu
Có những lúc cả dòng sông thắm máu
Có nhiều khi xương trắng gởi rừng sâu
Nhưng chưa một lần trong bốn ngàn năm
Có những cô gái Việt nam
Phải sang xứ người bán thân nuôi miệng
Tủi nhục này không bao giờ rửa
Nỗi đau này không phải của riêng em
Mà của mọi người còn một chút lương tâm
Và còn biết như thế nào là quốc nhục
……
Trách
nhiệm này xin hỏi thuôc về ai ? Câu trả lời thuộc quyền “sở hữu trí
tuệ” của các bạn. Tuy nhiên nếu có bạn nào bảo trách nhiệm này thuộc về
Nhà Nước là tôi cực lực phản đối.
Bởi cái thằng vốn “duy tâm biện chứng” tôi xin lý luận một cách rất “lô gíc” theo kiểu tam đoạn luận như sau:
Đây
nhất định không phải là trách nhiệm của nhà nước ( hay là chính quyền
), mà đích thực là của nhân dân. Vì trong xã hội xhcn, nhà nước chỉ quản
lý, chính quyền chỉ là“công bộc”, còn nhân dân mới làm chủ (chắc các
bạn ai cũng cũng thấy ở Việt Nam ta, trừ duy nhất cái Kho Bạc Nhà Nước,
còn tất tần tật cái gì cũng của nhân dân: Chính quyền Nhân Dân, Quân Đội
Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Tòa Án Nhân Dân,…..) mà đã là làm chủ (nhất
là làm chủ tập thể) là đích thị trách nhiệm phải thuộc về nhân dân rồi.
Tôi xin đề nghị là: đưa nhân dân ra Tòa án Nhân Dân xét xử. Và nếu tôi
vinh dự được làm bồi thẩm Nhân Dân (lại..nhân dân), tôi xin các đồng chí
nhân dân nhất trí:-
- chiếu theo điều 1/HV của bộ luật dân sự thời vua Hùng dựng nước
- thi hành lời di chúc của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ
- xét rằng, Chiếc Nón Lá là biểu tương cho phụ nữ Việt Nam, anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang
- xét rằng Chiếc Nón Lá là chứng tích của bao cuộc tình học trò dưới cành hoa phượng đỏ
- xét rằng Chiếc Nón Lá đã góp phần làm giàu cho thi ca và làm đẹp cho quê hương có bốn ngàn năm văn hiến
- xét rằng Chiếc Nón Lá đang có thành tích trong kế hoạch kinh tế vĩ mô: góp sức to lớn cho ngành Du Lịch nước nhà.
-
Xét rằng chính các cô gái Việt nam đã phản bội, dần dần bỏ rơi Chiếc
Nón Lá, nên đã đưa người con gái nước ta vào bao cảnh lầm than, khốn
khổ, đoạn trường như hiện nay.
- Đề nghị hình thức kỷ luật:
-
Em nữ sinh nào bỏ Nón Lá, khi vào phòng thi sẽ không được mua trước đề
thi như ở Hà Tây và Cai Lậy (Tiền Giang), nơi có đến 536 bài thi giống
nhau như đúc!
- Người đẹp nào bỏ Nón Lá sẽ không được mua chỗ vào học tiếp viên hàng không Giao Chỉ với giá rẻ 20.000 đô la Mỹ.
- Bà nào bỏ Nón Lá, sẽ không được làm bồ nhí cho các ông quan trong Pờ Mu 18.
Dù
sao, tôi cũng xin cám ơn Cái Nón Lá, đã cho thế hệ chúng tôi thật nhiều
kỷ niệm, để mỗi lần hồi tưởng về một quá khứ xa xăm, lại thấy trong
lòng lâng lâng nỗi nhớ. Không chỉ nhớ những Cái Nón Lá có quai hồng,
quai tím… hay mấy mối tình học trò vụng dại, mà nhớ một thời mà cả…đất
trời và ai nấy cũng dễ thương. Thôi thì, xin mượn đỡ mấy câu thơ của ông
Khoa Hữu mà thay cho lời tạ từ cùng Cái Nón Lá ngàn đời yêu dấu:
Trăm năm hạt cát vô cùng
Trăm năm ta vẫn một lòng nhớ em…
Trăm năm ta vẫn một lòng nhớ em…
Bắc Âu,một ngày không có mặt trời.
phạmtínanninh
phạmtínanninh
Tác giả là cư dân
khu Little Saigon. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô kể
về một hình ảnh rất quen tại các khu chợ Việt. Lời mở đầu
là ý muốn chia xẻ...
***
(... chỉ là một
trong muôn vạn cảnh đời thật mà tôi đã từng gặp sau năm
1975... Có thể chuyện sau đây, mức độ bi thương không đáng
để kể. Nhưng hình ảnh bà cụ, chiếc nón lá trên tấm lưng
còng vẫn đọng lại trong tâm trí tôi. Đẹp thanh cao. Xin được
chia xẻ...)
*
Vừa bước chân
ra khỏi cánh cửa của sở, tôi phải kéo vội mũ trùm đầu.
Không kịp rồi! Cơn gió đã xộc tới. Lạnh buốt. Tôi lúng túng.
Gió thổi tung tóc tôi, rối bời. Gió đuổi những chiếc lá khô
lăn dài trên đường, xao xác. Gió hát thao thiết bài ca mùa đông,
bài ca muôn đời của riêng gió.
Tám giờ tối. Trên
vòm trời xanh xao thăm thẳm, nửa vầng trăng nghiêng nghiêng,
treo chênh vênh. Mấy vì sao lung linh, run nhè nhẹ. Vài cụm mây
không rõ hình thù điểm xuyết vào. Sự cố ý hay vô tình của
nhát cọ trong bàn tay vị họa sĩ tài hoa?
Giữa mênh mông đất
trời, chợt thấp thoáng hình ảnh chiếc nón lá trên tấm lưng
còng... Những nếp gấp trên khuôn mặt hiền từ... Đôi mắt
già hơi mờ đục như đang nhìn tôi, lặng lẽ và buồn rầu...
Linh cảm không lành khiến lòng tôi bất an.Tôi lắc đầu cố
xua tan nhưng hình ảnh kia vẫn cứ luẩn quẩn, chập chờn
nhập nhòa! Thật kỳ lạ! Linh ảnh? Hay ảo giác? Không thể
giải thích được!
Tôi chui vội vào
xe, đóng cửa, mở máy, mở nhạc. Bản Moonlight Sonate của
Beethoven dịu êm vang lên nhè nhẹ. Hình như không thích hợp
với tâm trạng tôi lúc nầy.Tôi thay đĩa. “Vườn rau, vườn
rau xanh ngắt một màu. Có đàn, có đàn gà con nương náu. Mẹ
quê, mẹ quê vất vả trăm chiều. Nuôi đàn, nuôi một đàn con
chắt chiu. Bà bà mẹ quê....” Đó là lời bài hát "Bà
mẹ quê" của Phạm Duy.
Đáng lẽ về
thẳng nhà nhưng không hiểu sao tôi lại vòng qua Westminster, vào
khu Bolsa, ghé cái chợ mà tôi đã gặp bà cụ. Vừa lái vòng vòng
tìm chỗ đậu xe, vừa dõi mắt kiếm tìm. Không thấy bóng dáng
ấy. Có thể bà cụ không đi bán vì rau trái chưa tới độ?
Hoặc vì bà ốm?
Thôi thì, đã đến
đây rồi, tiện vào chợ gặp món gì sale thì mua. Để dành.
Ngang qua chỗ bà
cụ vẫn đứng bán rau, tôi hỏi thăm.
- Bà ấy mới
mất tối hôm qua.
Tôi lặng người.
Thẫn thờ. Mắt bỗng cay xè.
Đâu rồi?
Đâu rồi tấm lưng
còng xuống bởi hành trang vô hình nặng trĩu và chiếc nón lá
trắng lấp loáng đau đáu nỗi niềm dưới ánh đèn sáng trưng
của phiên chợ trần gian? Vẫn biết đời người vô thường.
Vẫn biết lẽ tử sinh là chuyện tất nhiên. Kiếp nhân sinh
sống gửi thác về. Nay còn mai mất. Mà bà cụ kia chắc phải
gần tám chục, không bà con ruột thịt với tôi, sao tim tôi
thắt lại. Nhói đau?
Dãy xe shopping cart
được xếp khít vào nhau, ngay ngắn gọn gàng trước chợ.
Thỉnh thoảng có người lại đẩy tới chiếc xe trống không,
áp khít vào. Biết đâu sáng nay, nhân viên vệ sinh thành phố
vừa gom một chiếc xe đẩy về đây. Chiếc xe mà bà cụ đã
để lại đâu đó trong thành phố nầy trước khi bà đi về nơi
xa lắc, hóa thân vào cõi hư vô.
*
Đậu bắp, rau
muống, rau lang, cà tím, chanh, ớt... Cả thảy chừng hơn chục
pound, trong chiếc shopping cart. Cạnh đó, một bà cụ đội nón
lá đang đứng bán.
Bà cụ người
Việt, tôi nghĩ vậy, bởi chiếc nón lá thân thuộc, dáng dấp
thanh mảnh nhỏ nhắn và tấm lưng còng. Chỉ khác chút xíu là
cái áo khoác màu đen dày cộm lùng bùng tới gối thay vì áo bà
ba. Mấy người xúm xít lại mua. Tôi đoán, có lẽ món nào cũng
tươi hơn, rẻ hơn trong chợ.
Ngồi nhâm nhi ly
capuchino trước thương xá, tôi dõi mắt theo bóng hình bà cụ,
lòng chợt chùng xuống. Nhức nhối thương dáng mẹ, dáng bà. Rưng
rưng nhớ bờ tre, bông lúa, cọng rơm... nhớ bóng núi chạy
dọc theo dặm dài quê cũ, nhớ con sông nho nhỏ nước trong xanh
êm đềm chảy ngang qua trước ngõ nhà.
Bỗng bà cụ lúp
xúp đẩy xe chạy ra chỗ parking. Khách mua bỏ đi. À, thì ra bà
sợ cảnh sát! Chừng mươi lăm phút sau, bà lại xuất hiện, trông
khá lếch thếch, luộm thuộm với chiếc xe đẩy. Vài người
lại xúm xít mua. Rau muống, rau lang, đậu bắp... Cảnh diễn ra
trước một chợ Việt Nam, giữa lòng thành phố rộng lớn,
nguy nga, tráng lệ, lộng lẫy của nước Mỹ văn minh! Trông
thật kỳ cục! Bây giờ tôi mới để ý tới điều nầy.
Cảm giác lợn
cợn khó chịu bỗng nhấn chìm xuống tất cả nỗi niềm xúc
động trong lành ban nãy trong tôi, tựa như đĩa nhạc đang hay
bỗng léo nhéo, lạch cạch do bị trầy xước. Một tiểu cảnh
phi nghệ thuật, không hợp lý đem đặt vào tổng thể không
gian vốn được thiết kế hợp lý và đậm chất nghệ thuật.
Gam màu pha vụng về do lỡ tay trong một bức tranh sơn dầu.
Nốt nhạc lạc điệu trong bản tình ca...
Cảm giác bực
bội, khó chịu vây bủa tôi. Tôi đứng dậy, nóng nảy đi
tới đi lui. Tại sao bà ấy phải làm vậy? Tôi thừa biết, ít
nhất hàng tháng bà được hưởng welfare, được ở housing,
được medicare... Người Việt Nam, lại là phụ nữ, lại
chừng đó tuổi, sống ở xứ sở nầy, chắc chắn không rơi vào
tình trạng homeless. Lý do nào? Bà ấy đang làm xấu đi vẻ mỹ
quan chung của cộng đồng. Thêm nữa, bà còn bêu rếu hình
ảnh con người Việt Nam ở xứ sở nầy! Thật quá đáng! Vậy
cần phải nhắc nhở bà cụ về nếp sống nơi đất nước văn
minh mới được!
Đợi bà cụ đẩy
xe ra ngoài, tôi chạy theo, cố dùng ái ngữ:
- Bà ơi! Cháu đẩy
xe giúp bà nhé!
- Cô cần mua gì
không?
Tôi ráng kìm nén,
ráng giữ lễ phép:
- Không ạ. Cháu
chỉ muốn hỏi tại sao bà phải vất vả như thế này?
- Vì tôi thương
con cháu tôi đang ở Việt Nam.
- Nếu không
phiền, bà có thể kể cháu nghe về gia đình bà. Được không
ạ?
- Cám ơn cô. Gia
đình tôi qua đây diện HO... Thời điểm chúng tôi đi, con cái
trên hăm mốt tuổi, dù độc thân, vẫn phải ở lại. Cho nên
bốn đứa con lớn của tôi phải ở lại. Sau đó có luật con
trên hăm mốt tuổi nếu chưa lập gia đình thì được đi theo,
nhưng khổ nỗi, chúng đã lấy vợ lấy chồng cả rồi! Khổ
thân chúng! Tôi già cả lẩm cẩm, nói năng vậy cô có hiểu không?
- Dạ... cháu
hiểu ạ.
Bà cụ quay sang tôi.
Gật gù. Khuôn mặt già nua, hao gầy trong chiếc khăn nhung đen
trùm đầu.
Tôi thoáng giật mình.
- Rồi khi có
quốc tịch, ông nhà tôi liền làm hồ sơ bảo lãnh chúng. Bảy
năm đợi chờ ròng rã... Ủa, hình như hơn bảy năm thì
phải... Nhưng lúc hồ sơ vừa được mở thì ông ấy mất...
Thế là hồ sơ bị hủy! Cô biết không, người ta nói chỉ còn
chừng một năm... một năm nữa thôi... chúng sẽ qua đây... đoàn
tụ... Vậy mà... Tôi già cả lẩm cẩm, nói năng vậy cô
có hiểu không?
- Dạ... cháu
hiểu ạ.
Bà cụ chép
miệng, cay đắng:
- Giờ bốn
đứa nó vẫn ở bển... Cộng với bầy cháu lít chít. Chúng đều
nghèo... nghèo lắm cô ạ!
Im lặng khá lâu.
Hỡi ôi! Tôi đã
chạm vào nỗi đau muôn thuở của phận người. Tôi nhận ra mình
thật tồi tệ.
Bây giờ thì không
cần phải cố gắng kìm nén gì nữa, tôi cúi đầu, thở dài,
nhỏ nhẹ:
- Dạ... cháu
hiểu ạ.
Giọt nước mắt
lăn xuống đôi má nhăn nheo, có lẽ chảy ra từ nơi sâu thẳm
trong tâm can bà. Đôi mắt hơi mờ đục, xa vắng bỗng ánh lên
niềm xót xa và ăm ắp thương yêu:
- Tội nghiệp
bầy cháu lít chít ở bển. Tôi chắt bóp tiền già, gửi về.
Tôi cố trồng những gì có thể trồng được trên chút đất
sau nhà, bán kiếm ít tiền, gửi về. Chừng một tháng nữa
tới giáng sinh, rồi tới tết, phải không cô?
Cổ tôi dường như
bị vướng. Nghèn nghẹn.
- Dạ...
Những nếp gấp
của thời gian thoáng giãn ra. Giọng bà cụ trầm xuống, đôi
mắt già hơi mờ đục, buồn rầu:
- Sau năm bảy lăm,
gia đình tôi đi kinh tế mới, sống bằng nghề trồng rau củ.
Giờ mấy đứa bển cũng tiếp tục trồng rau củ. Nghèo lắm cô
ạ!
- Dạ...
- Cô ở đâu?
- Dạ... Anaheim.
- Thôi, tôi phải
về ngay cho kịp trước khi con tôi đi làm về, kẻo nó không
bằng lòng. Rất mong được gặp lại cô, tôi sẽ nói chuyện
với cô nhiều hơn.
- Dạ... Cháu...
muốn mua tất cả các món còn lại...
Bà cụ lắc đầu:
- Xin lỗi! Những
gì còn lại đều bị bầm dập rồi. Cám ơn tấm lòng của cô.
À, tôi biếu cô vài trái ớt nè. Giống ớt nầy ở Việt Nam
mang qua, cay và thơm dữ lắm.
- Cháu cám ơn...
Nhưng... thưa bà... cháu muốn mua...
- Tôi hiểu! Cô thương
cho thân già nầy. Cô thật tốt bụng. Nhưng tôi không thích
thế!
Tôi bối rối:
- Cháu... cháu xin
lỗi bà. Cháu không có ý gì hết. Cháu chỉ muốn mua đem về
ăn.
- Vậy chừng
tuần lễ, mươi ngày nữa cô ra đây mua nhé! Chào cô.
- Dạ... Cháu chào
bà.
Bà cụ đẩy
chiếc xe đi. Nói chính xác hơn, bà vịn vào chiếc xe mà đi, như
người già vẫn thường làm vậy để tránh bị té ngã. Tôi có
thể hình dung bên trong đôi găng tay màu xám là đôi bàn tay già
cỗi, nhăn nheo, khô héo, trổ chi chít những đốm đồi mồi.
Bà cụ đẩy
chiếc xe đi. Chậm chạp, liêu xiêu, đơn độc.
Tôi đứng mãi, nhìn
theo cho đến khi tấm lưng còng trĩu nặng yêu thương và chiếc
nón lá lấp loáng nỗi niềm mất hút sau làn xe ken dày chỗ ngã
tư đèn xanh đèn đỏ. Chiếc nón lá trên tấm lưng còng của
người già quê tôi mới đẹp làm sao! Những nếp gấp của
thời gian trên khuôn mặt hiền từ, buồn rầu mới thanh cao làm
sao!
*
Sau đó, những hôm
đi làm về cần ghé chợ, tôi được gặp lại bà cụ mấy
lần. Vẫn chiếc xe đẩy của supermaket, vẫn rau muống rau
lang.... Và vẫn chiếc nón lá trên tấm lưng còng. Trong những lúc
mua hàng của bà, tôi được bà thổ lộ tâm tình thầm kín. Bà
tâm sự rất nhiều. Rất nhiều. Như thể chưa bao giờ bà được
tâm sự. Chuyện của bà buồn lắm. Tôi không biết làm gì hơn
là lắng nghe, chia xẻ và nói vài lời an ủi bà. Dường như có
sợi dây vô hình nào đó khiến tôi cảm thấy rất gần gũi,
đồng cảm với bà, thấu hiểu nỗi đau câm lặng của bà.
Tiểu cảnh không
hợp lý giữa không gian hợp lý? Một tiểu cảnh phi nghệ
thuật? ... Trời ơi! Tôi ghét tôi. Tôi ghét cái tật cầu toàn
của tôi. Tôi chán cái thói rởm đời, vẽ vời, sĩ diện hão
của tôi, cái tính tự ái dân tộc một cách nông cạn hời
hợt của tôi. Trời ơi! Mọi sự chẳng nghĩa lý gì hết trước
hình ảnh chiếc nón lá trên tấm lưng còng. Trước những bất
hạnh. Trước cái chết, trước ánh sáng bí ẩn cuối đường
hầm.
*
Tôi trở ra xe,
lục tìm cuốn phone book. Dò đường tới nhà bà cụ.
"Cô giúp tôi
việc nầy nhé! Chuyện là, mỗi lần tôi mới vừa nhắc tới,
con tôi gạt phăng ngay, cứ phàn nàn là tôi toàn nói toàn điềm
gở. Tại nó quá thương mẹ đấy thôi. Nhưng già thì phải
chết. Đúng không cô? Nên tôi cậy cô... lỡ tôi mất đi... cô
nói hộ với nó là tôi muốn được hỏa táng rồi gửi bình
tro về quê nhà... Tôi già cả lẩm cẩm, nói năng vậy cô có
hiểu không?..." Bà cụ đã tha thiết nhờ tôi như vậy.
Bà ơi, cháu đang
tìm nhà bà đây nè. Dẫn đường cho cháu bà nhé! Cháu tin
rằng bà sẽ rất thanh thản với hai tấm vé khứ hồi- Một
tấm vé phải mua bằng tiền và một tấm vé ai cũng được
biếu không khi bước đến cuộc đời nầy- Cháu tin bà sẽ an
lạc nơi có vườn rau, có bầy con cháu lít chít khó nghèo mà bà
hết lòng lo lắng thương yêu. Bà sẽ tha hồ chiều chuộng, ôm
hôn, nựng nịu chúng. Cháu tin bà sẽ hạnh phúc như đã từng
hạnh phúc khi tỉ mẩn chăm chút từng cọng rau muống, rau lang,
vun xới cây chanh, cây đậu bắp ở chốn quê người....
Nửa vầng trăng
vẫn đang chơi vơi giữa trời. Vài ngày nữa trăng sẽ tròn
trịa. Rồi sẽ hao khuyết. Sẽ lặn. Và sẽ mọc. Cái chu kỳ
miên viễn. Bầu trời vẫn bao la vời vợi. Và những vì sao
vẫn lấp lánh như những viên ngọc... Vũ trụ huyền nhiệm. Trường
cửu.
Tôi lái xe về nhà.
Không lên freeway mà thong thả chạy trong local. Chọn lane phải.
Chăm chú, thận trọng tiếp tục cuộc hành trình của đời người.
Cuộc hành trình có cỏ hoa và gai góc, có niềm vui và nỗi
buồn, có nhọc nhằn và sung sướng, có hạnh phúc và khổ đau,
có nụ cười và nước mắt....
Xe đã chui gọn vào
garage nhưng tôi chưa muốn vào nhà ngay. Tôi tắt máy, ngồi im.
Suy nghĩ miên man về cái vĩnh hằng vô cùng vô tận ở trên cao
và cái hữu hạn chông chênh dâu bể dưới cõi trần.
Tôi biết, ngày
mai tôi sẽ chúi mũi vào công việc, vào những lo toan cố hữu
thường nhật... Tôi sẽ tất bật chạy theo dòng đời. Những
ám ảnh hôm nay rồi sẽ dần lắng xuống...
Nhưng tôi cũng biết, thỉnh thoảng tôi sẽ dừng lại... Ngoái
nhìn... Sẽ khắc khoải. Xúc động: Hình ảnh cái lưng còng và
chiếc nón lá của bà mẹ Việt Nam.