Hiển thị các bài đăng có nhãn Chim. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chim. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Những cánh chim bay

Những cánh chim bay,
Cánh chim bay vút lên cao,
Cánh tiên thiên quyết trút bao bệnh tình...
Thương cho số phận sinh linh,
Đem ân đức đến phóng sinh cứu đời.
Lòng nhân lay động lòng trời,
Biết bao chim đến giúp người khổ đau.
Chim trời bay vút lên cao,
Mang theo tật bệnh khổ đau dương trần !
Tạ người mang đến hồng ân,
Xoá tan khổ nạn muôn phần an vui
  
Bà cụ Cần và bầy chim sẻ
“Những cánh chim sẻ quạt gió, như đang quyết trút bỏ tất cả khổ nạn nhọc nhằn của cõi trần gian. Như đang quyết rũ bỏ ốm đau bệnh tật rủi ro đeo bám rắp tâm hủy hoại sinh mệnh mỗi nhân quần. Những cánh chim nhỏ bé đại diện của sức sống tiên thiên. Những cánh chim hiện thân của những sinh linh bất tử, biểu trưng cho một trạng thái cao đẳng của công cuộc sinh tồn. Những cánh chim, hình ảnh của thiên sứ mang thông điệp thiên định về một hy vọng kỳ diệu và thật sự lớn lao…”.
Thực tình là thoạt đầu, trong lũ sinh vật có cánh biết bay, bà cụ Cần đâu để ý đến những con chim sẻ.
Bà cụ Cần, một người đàn bà nhà quê, tính tình hóm hỉnh, thực tình chỉ quan tâm đến con quạ, gã lang thang ranh mãnh, chuyên ăn trộm trứng gà; và sau nữa là con diều hâu, tên biệt kích mặc áo nâu, cao thủ trong nghề bay liệng, chuyện bắt cóc gà con. Diều hâu mày lượn cho tròn. Đến mai ta gả gà con cho mày. Nhưng đó là thời gian bà sống ở làng quê. Một làng quê Việt điển hình. Nơi có đồng ruộng làm ra hạt lúa. Có lũy tre xanh. Nơi trầm tích một nếp sống văn hóa cổ xưa. Nơi có nhiều đình chùa miếu mạo, sầm uất một đời sống tâm linh. Ngày xuân có lễ tịch điền, tháng năm giã bánh dày ăn Tết Đoan Ngọ, tháng bảy mở lễ Vu Lan, có tục cúng cháo thí, đốt vàng mã và lễ phóng sinh thả chim cứu khổ cứu nạn mỗi khi con người bệnh tật ốm đau. Còn các bà già khi mất thì được các con cháu làm lễ triệu vong đưa lên chùa để thành vãi làng và vãi nhà chùa.

Còn bây giờ thì bà cụ Cần lên thành phố ở với anh con trai tên Thuận, một bác sĩ, một tín đồ của chủ nghĩa thực nghiệm và duy lý triệt để. Mẹ bỏ ngay cái túm lá hương nhu gài trên khăn đi. Đau ở đâu thì bảo con cho đi chụp chiếu xét nghiệm và cấp đơn. Thuốc âu Mỹ thiếu gì mà cứ chườm ướp ba cái lá lẩu hương nhu với ngải cứu xằng xịt là thế nào! Lý do anh con trai quyết đưa bà mẹ nâu sồng lên thành phố là để cho mẹ được hưởng thụ trọn vẹn một đời sống thật sự văn minh sung sướng. Còn động cơ bà cụ lên ở với con trai là để đỡ đần anh. Bốn mươi tuổi rồi mà anh vẫn còn mải mê lặn lội trong nghề cứu người, vợ con chưa hề nghĩ tới.

Ở thành phố tất nhiên là không còn thấy bóng dáng quạ và diều hâu, hai tên đạo tặc dạn dày quỷ quyệt ấy nữa. Nhưng các giống chim thì không thiếu. Thành phố vẫn không xa rời gốc gác thiên nhiên của mình. Nhà nhà, nếu không nuôi yểng, họa mi, thì cũng sáo, bạch yến. Còn khi mùa xuân về thì đầy trời đan dệt đường bay của những con én cánh nhọn. Chưa kể bồ câu thì lúc nào cũng nghe thấy tiếng gù ấm áp của các cặp uyên ương và tiếng vỗ cánh rộn ràng của chúng.

Chim sẻ là giống chim bà lão Cần biết chậm nhất. Cũng là một sự tình cờ. Thuận, bác sĩ đi chống dịch sốt rét ở Tây Bắc về, đem theo một túi gạo đồng bào Thái tặng. Gạo nương giã dối. Vẫn là cái thói quen từ ngày ở làng, bà cụ Cần đi chợ mua một cái giần, một cái sàng và một cái mẹt về. Từng nắm gạo được bốc ra. Việc sàng sảy bắt đầu. Nắm gạo xoay tròn trên cái giần cái sàng rồi tiếp đó nẩy rào rào trên cái mẹt. Để rồi cuối cùng, các hạt thóc lép, các vẩy trấu cùng bụi cám và các hạt tấm li ti lần lượt dồn hết ra bờ rìa; và sau một cái hất tay nhẹ nhàng của bà cụ, đồng loạt rơi xuống và phủ lên khoảng sân một lớp bụi ưng ửng sắc vàng.

Chính lúc ấy bà cụ nghe thấy những tiếng vỗ cánh mềm mại và sau đó là tiếng kêu lích rích rất vui tai của những con chim bé xíu, lông nâu điểm những sọc đen. Những con chim sẻ quen thuộc từ ngày bà còn ở làng quê.

* * *
Những con chim sẻ bé nhỏ quen thuộc từ hốc nhà bay xuống khi bà cụ Cần sàng sảy gạo. Những con chim sẻ hằng ngày ríu ran trong các mảnh vườn ổi, vườn cam, vườn nhãn. Những con chim có bộ lông nâu pha xám treo mình như những quả chuông trên những cọng lúa đang chín vàng. Những con chim mỏ sừng đen nhánh túc tích trong những chân rạ ải tìm bắt sâu bọ. Những con chim tụ họp cả bầy, đông như một nắm bụi bay tung tóe lên từ những vườn hoa thành phố, từ những thảm cỏ xanh trên dải phân cách giữa đại lộ mỗi khi có một chiếc ô tô rú còi inh ỏi chạy qua. Những con chim sẻ từ các khu đồng sau vụ gặt ở ngoại thành bay về, đậu cả loạt làm thành một hình tượng trang trí trên các mái nhà cao tầng, yên bình rỉa lông cánh, để lộ lớp lông tơ trắng mờ ở phần bụng. Những con chim sẻ tắm cát, một dấu hiệu của cơn bão lũ sắp về. Những con chim sẻ đã giúp cô Tấm nhặt thóc ra thóc gạo ra gạo để cô kịp đi dự lễ hội vua mở trong cổ tích Tấm Cám. Những con chim sẻ hiền lành tốt bụng.

Ôi, những con chim thân thuộc, đông đảo và tầm thường như đại đa số chúng sinh. Nhìn chúng mải mê nhặt những hạt tấm hạt cám, phần lương thực loại bỏ mà bà cụ Cần bỗng chạnh lòng. Đồng ruộng trong xu thế đô thị hóa đang thu hẹp dần, nhường chỗ cho đường sá và các khu công nghiệp. Thóc gạo hiển nhiên sẽ chẳng còn dư dật. Và như vậy là từ hôm ấy, trong khi thực hiện một công việc hữu ích là chăm chỉ sàng sảy phần gạo ăn hằng ngày của hai mẹ con và tiếp đó, khi tình thương mến đã thành một nếp sống, lại đóng thêm vai kẻ chăm lo việc sàng sảy cho các gia đình láng giềng, bà cụ vẫn thầm lặng đóng thêm vai: kẻ cung đốn lương thực cho bầy chim. Chà! Lương thực cho bầy chim! Thì tấm cám sàng sảy ra đấy. Và cả những hạt cơm nguội ăn chẳng hết của mình, của hàng xóm, phơi khô để dành nữa đấy còn gì! Người đi châu âu về thường ca ngợi cảnh bọn bồ câu, chim sẻ bên đó dạn người đến mức có thể sán đến mổ hạt kê hạt lúa mạch hay bỏng ngô trên tay du khách. Thì ở đây, bồng lai tiên cảnh nọ hằng ngày chẳng vẫn diễn ra trên mảnh sân nhà bà cụ Cần đó sao!

Cho đến một hôm. Đang cho lũ chim ăn, bà Cần bỗng nghe thấy một tiếng quất rất đanh trong gió. Đàn chim nhận ngay ra tiếng động cùng mối hiểm nguy, đồng loạt vụt bay. Giật thót mình, quay lại bà cụ nhận ra một gã đàn ông cao lớn râu ria xồm xoàm như người nguyên thủy, mặc đồ rằn ri, tay cắp một khẩu súng hơi Tiệp Khắc đang đủng đỉnh đi vào vuông sân nhà mình.

– Chào bà cụ có tấm lòng thơm thảo.

– Không dám, chào ông. Ông nói kháy gì tôi vậy, hả ông chuyên nghề sát sinh?

– Hừ, đàn bà lanh lảnh tiếng đồng. Một, hẳn chiều chồng, hai, thật quý con. Tôi tin, bà là người như thế!

– Vậy tôi hỏi ông…

Không để bà cụ nói hết, gã săn chim đã ngả cái mũ cát két da, xoa cái đầu hói, cười hà hà đầy vẻ tự tin:

– Nói ngay không cần chỉnh đây. Bà lão ơi, bà nuôi bầy chim sẻ, bà có biết như thế là bà đang nối giáo cho giặc không? Người xưa gọi chim sẻ là một lũ tiểu nhân để phân biệt với người quân tử. Chúng là một lũ bất trị. Người Nhật Bổn có câu thành ngữ: Chim sẻ biết chọi nhau là lũ chim chẳng biết sợ ai. Ưu điểm duy nhất của chúng là khi chúng lên đĩa, lúc ấy chúng có tác dụng bổ thận tráng dương, bà ạ.

Lui lại một bước, hai con mắt bà cụ Cần nghiêng nghiêng nhó nháy:

– Ông nói gì mà nghe ghê răng thế! Nhưng ông đi săn chim ơi, ông có biết ông đang ở cái thế nguy cấp không?

– Thế gì mà nguy cấp vậy, hả thơm thảo bà lão ăn thừa?

– Thế thì ông không biết chuyện cổ này rồi. Con ve sầu đang bị con bọ ngựa rình ăn thịt. Nhưng con bọ ngựa đâu có biết nó đang bị con chim sẻ sắp bắt làm mồi. Trong khi đó, con chim sẻ đâu có biết một gã đi săn đang giơ súng ngắm nó. Nhưng cuối cùng, ác hại chưa, gã đi săn ngu đần quá vì không biết có con cọp đang sắp vồ mình.

– Ha ha… Xem ra bà lão quê mùa cũng là con người ứng biến khôn ngoan đây. Vậy thì hôm nay tôi chịu thua bà. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng có trách nhiệm nói cho bà biết. Rằng lũ chim sẻ hoang dã này chính là giống chim phá hoại mùa màng khủng khiếp nhất. Thành ra, có nơi cả nước người ta hơn một tỷ dân đã đồng loạt mở chiến dịch tiêu diệt chúng. Cả tỷ tỷ con đã bị người ta giết chết đấy, bà ạ. Mà chúng đâu phải là loài chim đẹp đẽ mỹ miều gì cho cam. Tổ tiên chúng cách đây một trăm tám mươi triệu năm chỉ là loài bò sát gớm guốc như con cá sấu, con thằn lằn ấy, bà có biết không?

Trút một hơi ra mấy câu nọ, gã săn chim quay đi, nhưng được vài bước đã quay lại, trề môi:

– Mà nói cho bà biết, liệu bà có chống nổi những kẻ bẫy chim đang bán cả lồng chim mấy chục con ở đầu phố nhà bà không? Đó, ở ngay đầu phố bà ở đấy. Ra mà xem!

* * *
Tất nhiên là bà cụ Cần có lạ gì những con chim sẻ. Nhưng làm sao bà biết được tất cả những điều mà gã đi săn chim nói về giống loài chim này. Có được học hành nhiều nhặn gì đâu mà bà biết rằng cách đây một trăm tám mươi triệu năm, để thích nghi với sự biến đổi của hoàn cảnh sống, loài bò sát trên trái đất này đã dần dần biến hóa thành loài chim hiện nay. Khi đó, những chiếc vảy của chúng biến thành lớp lông vũ và các chi trước thì biến thành đôi cánh. Còn để bay được xa, toàn thân của chúng phải trở nên một khối gọn nhẹ. Và như vậy, chúng cần có một bộ xương rỗng, trong khi đôi cánh sẽ được nối liền với bộ xương nơi bả vai bằng những đường gân chắc khỏe.

Bà cụ Cần xấp xỉ bảy mươi, người nhà quê cũng làm sao mà biết được những con chim sẻ này thuộc bộ sẻ, theo sự phân loại của các nhà điểu học. Bộ này gồm rất nhiều loài sống phổ biến ở nước Anh. Rằng sẻ là giống chim ăn tạp, cả thóc lúa lẫn sâu bọ. Chúng là loài sinh vật khá thông minh. Bắt bảy con sẻ, cho đi xa 650km, thế mà có đến năm con tìm được về tổ cũ. Các nhà khoa học đã làm thí nghiệm như thế! Chưa hết! Sẻ là loài chim bay đường trường rất giỏi. Khi mùa xuân về, hàng vạn hàng ức con bằng đôi cánh nhỏ bé của mình đã làm cuộc lữ hành từ Nam Phi về tận Anh, và kỳ lạ là chúng về đúng nơi chúng đã làm tổ năm trước.

Tất nhiên là từ hồi còn trẻ bà cụ Cần có nghe người ta nói tới một thảm họa rất kỳ quái đã xảy ra với bầy chim sẻ ở một đất nước phương bắc nọ. Nhưng chuyện cũng đã lâu rồi. Và bây giờ thì bà đâu có biết, chính là nhờ tập tính bay xa mà trong lũ chim đến ăn ở sân nhà bà có nhiều con là hậu duệ của những con chim đã thoát chết sau chiến dịch tiêu diệt chim sẻ ở đất nước nọ. Chính xác là bầy chim sẻ thoát chết này đã làm cuộc tháo chạy có một không hai trong hành trình lịch sử giống loài, một cuộc thiên di ai oán chưa từng có. Chúng đã vượt hàng ngàn cây số. Trời ạ! Là bởi vì đó là những ngày náo loạn ở thế gian. Từ đâu không biết tung ra cái thông tin rằng chúng là đầu sỏ của mọi sự thất bát mùa màng. Và thế là khắp mặt đất liên tùng tục như có sấm giật chớp rung. Trống chiêng, thanh la, não bạt cho đến nồi niêu xoong chảo, tất cả những gì có thể phát ra âm thanh đe dọa đều lên tiếng. Hoảng loạn và trên thực tế là không còn nơi cư trú neo đậu, hàng tỷ tỷ con chim sẻ đã chết. Chết vì sợ hãi, vì đói khát, vì không có một hốc cây bụi rậm nào để trú ẩn, để nương thân. Chao ôi, trận tàn sát kinh thiên động địa kinh khủng đâu có thua cuộc đại hồng thủy tiêu diệt hoàn toàn lũ khủng long khổng lồ, hiển nhiên là sẽ dẫn đến họa diệt chủng, tuyệt diệt hết giống nòi, nếu không có những con chim hiểu ra sứ mệnh duy trì nòi giống của mình, đã vượt qua cuộc vây ráp sát hại bạo tàn của đế chế, thực hiện một cuộc viễn du quả cảm bằng đôi cánh, bay qua những ngọn núi băng tuyết, những sa mạc nắng cháy, về được tới phương nam này; và bây giờ con cháu chúng đang được hưởng ân huệ từ tấm lòng hiền thảo, nhân từ của bà cụ Cần.
Không hay biết những điều rắc rối của khoa học và lịch sử, bà cụ Cần chỉ biết lũ chim sẻ là những con vật bé bỏng, yếu đuối, hiền lành, vui vẻ, rất đáng yêu đáng thương vì chúng thường xuyên bị đói. Bà là một phụ nữ giàu lòng thương yêu. Chồng là liệt sĩ. Bà một mình nuôi con trong tình yêu thương nọ. Và Thuận con trai bà, học hết trung học, chọn nghề y lập nghiệp cũng là thực hiện ý nguyện chia sẻ tình thương, cứu nhân độ thế của bà. Cuối cùng, trong những điều gã thợ săn nói, bà chỉ quan tâm tới một chi tiết: có những kẻ chuyên nghề bẫy chim đang bán cả chục con chim sẻ ở đầu phố của bà. Và bà tức tốc đi ngay tới đó.

* * *
Không ngờ là có một ông lão bẫy chim sẻ rồi đem bán làm mồi nhắm cho những quán ăn thật! Cũng không ngờ công việc bẫy chim lại đơn giản như thế. Công cụ chỉ là một tấm lưới giăng trên hai chiếc cọc bất thình lình ụp xuống lũ chim háu đói đang ham ăn. Hừ, hóa ra để hủy diệt một sự sống cũng chẳng khó khăn gì thật. Nhưng cũng thật không ngờ, cuộc gặp gỡ giữa bà cụ Cần và ông lão bẫy chim lại chuyển đổi, tạo nên một tình thế thật bất ngờ. Bất ngờ, đến nỗi, gã thợ săn chim lần này đến sân nhà bà Cần để quyết hạ thủ mấy con sẻ làm thức nhắm, liền há hốc mồm và đứng như trời trồng. Góc sân nhà bà Cần đang giăng một tấm lưới ni lông mảnh như tơ và trong cái lồng để ở hiên đã lúc rúc cả mấy chục con bị bắt làm tù binh rồi.

– Ha ha… Trăm cái hay xoay cả vào lòng là thế đấy! Có phải không, hỡi mụ đàn bà đạo đức giả, miệng nam mô bụng một bồ dao găm kia!

Không một lời đáp trả, bà cụ Cần cứ lẳng lặng với công việc đang làm của mình, như không hề nghe thấy những lời giễu nhại của gã thợ săn. Mặc gã, việc cần làm thì sá gì những kẻ đã vụ lợi lại quen nghề đâm bị thóc chọc bị gạo. Công việc giăng lưới bắt những con chim sẻ của ông lão chuyên nghề bẫy chim từ hôm ấy được sự trợ giúp của bà cụ Cần ở ngay trên mảnh sân bà cụ vẫn sàng sảy, rải thóc gạo và cơm nguội nuôi lũ sẻ ăn hằng ngày.

* * *
Đó là những ngày thật nặng nề. Bác sĩ Thuận đến bệnh viện từ sớm bửng đến tối mịt mới trở về. Một căn bệnh lạ, thật nguy hiểm vừa xuất hiện ở trẻ em. Trong vòng một tuần lễ đã cướp đi sinh mạng của hai đứa trẻ. Cả ngành y lao vào cuộc nghiên cứu mà chưa tìm ra nguyên nhân và thuốc đặc trị.

– Thuận à. Con ăn cơm đi. Trông con hốc hác quá. Mẹ biết rồi. Con đang lo. Mẹ có thể giúp gì được con lúc này?

Bác sĩ Thuận bơ phờ trong công cuộc chống trả căn bệnh lạ nọ quay lại, sửng sốt khi nhìn thấy trên tay người mẹ già hiền hậu của mình là những chiếc lồng chim sẻ nho nhỏ, trong đó mỗi chiếc nhốt chừng chục con một.

Cuối cùng thì không chỉ là sửng sốt mà còn là vô cùng kinh ngạc, khi thấy bà mẹ xách mấy cái lồng chim đó đến bệnh viện. Và sau khi hỏi han các cô y tá, bà cụ liền đi đến nơi ba đứa trẻ bị bệnh nặng nhất đang nằm thoi thóp trước tử thần trong lo sợ vô phương cứu chữa của cha mẹ chúng. Tất cả ba đứa trẻ đều mới chỉ tám chín tuổi.

– Bà! Bà làm gì thế, bà?

Các cô y tá cùng kinh ngạc và đồng thanh cất tiếng hỏi khi thấy bà cụ Cần bế từng đứa trẻ ra ban công. Và sau khi làm điểm tựa cho chúng ngồi thì bà cụ lần lượt bảo từng em mở cửa từng chiếc lồng, thả ra tám con chim sẻ đúng độ tuổi của mình, cho chúng bay lên trời.

– Mẹ làm cái trò vớ vẩn gì thế! – Anh con trai bà cụ, bác sĩ Thuận, là người cuối cùng trong bệnh viện biết sự việc này. Chạy đến, khi bà mẹ quê mùa vừa cho đứa trẻ cuối cùng mở cửa chiếc lồng thứ ba và từ đó những con chim sẻ vụt bay ra như những ánh chớp, định trách cứ bà mẹ bằng một câu nói cửa miệng quen thuộc đại loại như thế, nhưng may mắn anh đã kịp thời ngậm miệng.

Lễ phóng sinh, cứu khổ cứu nạn của tấm lòng mẹ từ bi nhân ái khiến anh ngây người, nín lặng. Ngây người nín lặng trước hết vì đang đối diện với một hiện thực siêu tầm, sau nữa là cảnh tượng vỗ cánh bay lên của bầy chim.

Bay lên, bay lên nhẹ nhàng mà khỏe khoắn, những cánh chim sẻ quạt gió, như đang quyết trút bỏ tất cả khổ nạn nhọc nhằn của cõi trần gian. Như đang quyết rũ bỏ ốm đau bệnh tật rủi ro đeo bám rắp tâm hủy hoại sinh mệnh mỗi nhân quần. Những cánh chim nhỏ bé đại diện của sức sống tiên thiên. Những cánh chim hiện thân của những sinh linh bất tử, biểu trưng cho một trạng thái cao đẳng của công cuộc sinh tồn. Những cánh chim, hình ảnh của thiên sứ mang thông điệp thiên định về một hy vọng kỳ diệu và thật sự lớn lao. Hy vọng, sự tròn đầy của cuộc sống, không có nó sao có được sự trọn vẹn nơi cõi đời.

Từ ban công căn phòng bệnh nhân nhìn ra bầu trời, cảnh tượng càng lúc xem càng trở nên huyền hoặc và kỳ vĩ. Vì lúc này không chỉ là những cánh chim sẻ hiền lành, thậm chí tầm thường đã mắc vòng oan nghiệt, đang trong cuộc cởi thoát, biến hóa thành những ảo thể ảo hình. Hòa vào khúc hoan ca của bầy chim sẻ đang thay bà cụ Cần thể hiện tấm lòng nhân ái bao la còn là những con chim thuộc giống loài khác. Đan dệt ngang trời là những sải cánh dài và nhọn như hai mũi tên của bầy chim én. Vi vút những đường bay kỷ hà học là những con nhạn cánh đen ức trắng. Còn những con sáo mỏ vàng, cánh in vệt vôi trắng và lũ chào mào chóp lông nhỏm cao trên chỏm đầu. Và không thể thiếu bồ câu với đôi cánh dày nặng nhưng êm ái và tiếng gù ấm áp thân thương. Những con chim, những sinh vật có cánh đẹp nhất thế gian, các ca sĩ chuyên nghiệp bẩm sinh, đem lại niềm vui, hy vọng và tình yêu cuộc đời cho con người.

Ma Văn Kháng

Út Quyên và Tôi

Trứng chim sẻ
-Nghi ơi! Nghi à!
Nghi vừa bỏ mấy trứng chim sẻ vào túi áo, định leo xuống, bỗng giật thót người khi nghe tiếng dì Miên . Vừa nhỏm dậy, nó đã vội dán người xuống mái ngói, im thít .
- Nghi ơi, mày nấp ở đâu đấy ? Có chịu chui ra ngay đi không! - Tiếng dì Miên lại vang lên, lần này tiếng nói đã ra tới ngoài hiên .
Nghi vẫn nằm im, không động cựa . Không phải nó sợ gì dì Miên . Dì Miên hiền nhất nhà, chẳng bao giờ đánh nó . Ngay cả khi dì cố làm ra vẻ hung dữ, Nghi vẫn cười khì, thậm chí nó còn nghịch ngợm nháy mắt trêu dì . Nhưng kẹt một nỗi, lúc này nó đang ở trên mái nhà .
Bố bảo: Con không được leo trèo . Không được leo lên lan can, bệ cửa sổ và cây cối trong vườn . Bố sợ nó té ngã . Té ngã thì u đầu, sứt trán, có khi còn gãy cổ . Bố định mức phạt: hễ trèo cửa sổ lãnh ba roi, đu người trên lan can lãnh năm roi, còn trèo cây là mười roi . Bố không bảo leo lên mái nhà là bao nhiêu roi .Không phải bố quên, chỉ tại bố không nghĩ Nghi lại dám làm chuyện động trời đó . Nếu bố biết, hẳn mình lãnh hai mươi roi là ít, Nghi hồi hộp nhủ bụng và lại cố ép mình xuống .
Dì Miên bây giờ đã ra tới giữa sân . Một tay cầm cuộn len, tay kia vung vẩy cây que đan, dì vừa lê dép lẹp xẹp vừa dòm dáo dác:
- Nghi ới ời! Mày ở đâu về trông nhà cho dì đi chợ này!
Suýt chút nữa Nghi đã phì cười . Nó phải đưa tay bụm miệng lại . Nghi biết thừa là dì chỉ bịa . Sáng nay, nó đã thấy dì xách giỏ đi chợ . Dì giả vờ nói thế để Nghi ló mặt ra đó thôi . Nhưng Nghi nhất định không mắc bẫy . Nó tiếp tục dán người xuống mái ngói .
Nhưng Nghi đã vội nhỏm người lên ngay . Nó sực nhớ đến những quả trứng trong túi áo và sợ chúng sẽ vở nát nếu bị ép chặt .
Nếuthế, nó sẽ chắng biết ăn nói làm sao với nhỏ Trang hàng xóm. 
             
 
Cách đây một tháng nhỏ Trang bảo Nghi:                                                                                                 
- Mấy hôm nay em thấy chim sẽ về làm tổ trên mái ngói nhà anh.
Nghi "ừ". Nhỏ Trang lại nói:
- Hôm nào anh trèo lên lấy trứng chim xuống cho em xem với!
- Không được! - Nghi hừ mũi - Như vậy thì ác lắm!
Nhỏ Trang chớp mắt:
- Em chỉ xem thôi chứ bộ! Xem xong mình trả lại!
Nghi lại "ừ". Nhưng rồi nó quên bẫng đi mất. Chỉ đến hôm qua, thấy nhỏ Trang sốt nằm thu lu trên giường, chăn quấn tận cằm, Nghi thấy tội tội, bèn nói:
- Trưa mai tao sẽ lấy trứng chim xuống cho mày chơi! BIết đâu nhờ vậy mày sẽ chóng hết bệnh!
Nhớ đến cặp mắt long lanh đầy vẻ biết ơn của nhỏ Trang, Nghi khẽ mỉm cười và nhướng cổ liếc xuống sân.
Dì Miên đang lò dò đi về phía cổng, đầu nghiêng nghiêng ngó ngó. Chắc dì nghĩ Nghi đang nấp đâu đó sau bờ rào. Chốc chốc dì lại kêu:
- Nghi ơi! Nghi à!
Rồi vẫn không thấy thằng cháu yêu quý đâu, dì thở dài, đe dọa một cách bất lực:
- Mày cứ trốn kỹ đi! Phen này dì mà tóm được, mày chết với dì!
Nghi vẫn ngậm tăm, đợi cho dì đi xa. Đến khi thấy dì mãi lúi húi vạch vạch tím tìm bên bờ rào, nó nín thở và thận trọng tụt xuống.
Bỗng một tiếng "cạch" đột ngột vang lên khiến Nghi tái mặt. Âm thanh rõ to làm dì Miên quay phắt lại. Nghi biết mình vừa dẫm phải một viên ngói vỡ nhưng nó chưa kịp hụp đầu xuống, dì Miên đã trông thấy.
- Ối giời ơi! - Dì tròn mắt sửng sốt - Mày làm gì trên ấy thế hở thằng ôn dịch?
- Cháu lấy trứng chim! - Nghi ấp úng đáp và đảo mắt tìm chỗ đặt chân.
Dì Miên nắm chặt hai tay, giận dữ và lo sợ. DÌ tính quát thằng cháu nghịch ngợm thêm vài câu cho hả nhưng thấy Nghi đang loay hoay tìm cách tụt xuống khỏi mái ngói cao nghều, dì đành tặc lưỡi hạ giọng:
- Này, cháu từ từ mà xuống nhé! Coi chừng ngã đấy!
Rồi dường như thấy cách xưng hô chuyển từ "mày" qua "cháu" vẫn chưa có tác dụng thiết thực lắm, dì chớp chớp mắt cố nghĩ ra một câu thật ngọt ngào để trấn an Nghi:
- Con trai là phải biết leo trèo cháu ạ! - Dì ngừng lại, khẽ nhăn mặt vì lời nói trái ý muốn của mình - Bố cháu hồi bé cũng leo trèo giỏi lắm! - Bố cháu còn leo cao hơn cháu nhiều! Nhưng bao giờ bố cháu cũng bình tĩnh!
Nghi hơi ngạc nhiên về những lời dì Miên nói. Nhưng bận dọ dẫm trên mái ngói, nó chẳng có thì giờ đễ nghĩ ngợi sâu xa. Nếu không, Nghi đã phát hiện ra hàng đống sơ hở của dì. Dì Miên chẳng thể nào biết bố khi bố còn bé. Mãi khi bố đã cưới mẹ, dì mới biết bố là ai.
- Bố cháu hồi bé cũng thích trèo lên tổ chim lấy trứng như cháu vậy! - Dì Miên tiếp tục đòn tâm lí - Trứng chim luộc lên, ngon ngon là! Lát nữa cháu đưa trứng cho dì, dì sẽ luộc cho cháu ăn!
Lúc này Nghi đã chạm được chân vào đầu cầu thang áp sát mái ngói phía sau vườn . Ở phía dưới, dì Miên đang ghì chặt chân thang . Nhưng vừa đặt chân xuống nấc thang thứ nhì, nghe dì Miên nói vậy, Nghi bỗng rụt chân lên .
- Cứ xuống đi cháu! - Dì Miên nói - Đừng sợ, đã có dì giữ chắc đây rồi!
Nghi lưỡng lự, không biết có nên nghe lời dì hay không . Thực ra Nghi đâu có sợ ngã . Lúc nãy ở trên mái nhà cao chót vót Nghi còn không sợ, huống hồ bây giờ đã xuống tới đầu cầu thang, Nghi chỉ sợ dì Miên giành lấy những quả trứng và đem luộc chín . Như vậy thì những quả trứng xinh xinh kia sẽ chẳng bao giờ nở ra những chú chim con được nữa . Nghi bần thần nhớ đến những tiếng ríu rít của lũ chim sẽ nơi đầu hồi mỗi buổi sáng vẫn đánh thức Nghi dậy, bỗng thấy nhói nơi ngực .
- Sao cháu cứ đứng ì mãi trên đó vậy ? Xuống đi chứ - Dì Miên lại giục .
Chẳng còn cách nào khác, Nghi lưỡng lự một hồi rồi tặc lưỡi rón rén leo xuống . Dì Miên vừa giữ chân chân vừa dán mắt vào từng cử động của thằng cháu, chờ đợi .
Nhưng dì chỉ hoài công . Khi còn cách mặt đất khoảng ba nấc thang, bất thần Nghi bắn vọt người ra xa và rơi huỵch một cái xuống đất .
 Này, này! - Dì Miên hét lên sau một thoáng sững sờ - Mày làm gì thế, thằng ôn dịch ?
Vẫn một tay túm chặt những quả trứng nơi túi áo, tay kia chỏi đất lồm cồm bò dậy, Nghi quay về phía dì Miên thè lưỡi một cái rồi lật đật chạy biến qua nhà nhỏ Trang .
Ra tới bờ rào, Nghi vẫn còn nghe tiếng dì Miên hốt hoảng đuổi theo:
- Này, này, đưa mấy cái trứng cho dì để dì trả lại cho lũ chim! Lúc nãy dì nói đùa đấy! Trứng chim sẻ ăn dở lắm, chả ngon lành gì đâu!
"Hóa ra dì muốn cứu lũ chim con!", Nghi hơi khựng lại vì bất ngờ . Nó thở ra một hơi dài nhẹ nhõm rồi co giò chạy tiếp . Lần này nó vừa chạy vừa cười . 
Nguyễn Nhật Ánh 1994 
Phóng sinh
Hai lần thân được phóng sinh,
Hai lần thoát khỏi, một mình bay xa...
Không ngờ đến lúc thứ ba,
Thân đành xa chốn ta bà thế gian !
Bây giờ mới thật thiên đàng,
Mấy ai hiểu cõi vĩnh hằng là đây...
NM

Con chim nhỏ hai lần được phóng sinh

Lần đầu tiên trong đời được sung sướng bay lên bầu trời bao la, nó muốn bay đến các đám mây..., rũ tung những chiếc lông bẩn thỉu và rác rưởi...
Con chim nhỏ xíu bằng ngón tay cái, mắt to màu nâu nhạt, cứ thích nhìn phía xa xăm lúc ngừng nhảy nhót trong lồng chim. Mỏ màu đen rất to so với cơ thể của nó, toàn thể lông màu mun đã ngả màu, chỉ có ở cổ và quanh mắt ngoài màu mun còn viền những lông nhỏ mịn màu vàng xanh, trông giống như những chiếc cườm vòng quanh cổ và mắt. Suốt ngày, suốt tháng nó được nhốt trong chiếc lồng nhỏ làm bằng tre và mây xinh xắn với cả chục con khác cùng loài, chúng được ăn uống no đủ... 
Nó được sinh ra từ lò ấp và lớn lên chẳng có một tí gì khái niệm về mẹ. Cứ sáng sớm tinh mơ và chiều muộn, nó thi nhau hót líu cha, líu chíu, rồi lại tập bay trong khoảng không chật hẹp, làm lông cánh và lông đuôi bị xơ ra tua tủa. lúc nào cũng mơ ước được bay cao, bay xa trên bầu trời bao la dưới ánh sáng chói chang của Mặt trời.
          Một mùa thu sắp sửa ra đi, những quả sấu cuối cùng còn lại đã ngả sang màu vàng sẫm, lá sấu rơi nhẹ nhàng trên các ngã phố. Những hàng cây sữa vẫn xanh rì, những quả sữa dài buông thõng, gió mát rượi làm những lông chim nhỏ bay nhẹ nhàng không một chút âm thanh. Hôm nay, chúng đã tròn bốn tháng, chủ lò chim chở những lồng chim nhỏ ra chợ  bán. Những con chim cứ nhốn nha, nhốn nháo, bồn chồn không muốn ăn, muốn hót ngỡ ngàng nhìn dòng người đông nghịt ngoài phố, trong chợ, giật mình nghe tiếng nổ bình bịch, tiếng còi xe máy, ô tô, tàu hỏa...  
        Có một nhà văn nổi tiếng nhưng rất nghèo, chẳng có vợ con suốt cả đời cặm cụi viết chỉ mong có cái để ăn hàng ngày, thỉnh thoảng mong có vài ba xị rượu quê uống, để nhâm nhi cho đến lúc say ngủ lúc nào chẳng biết, khi tàn canh tỉnh dậy mong được có những phút thăng hoa, để sáng tạo, để viết. Cả cuộc đời chưa biết làm hại ai bao giờ nhưng trước khi mất, nhà văn có nguyện vọng là họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp…, đến viếng hãy đừng mang hoa mà đưa những con chim, con cá sẽ được phóng sinh lúc làm lễ truy điệu để may ra rửa hết tội lỗi của mình khi còn sống trên cõi đời. 
        Lồng chim được bán cho một người bạn của nhà văn, lúc tiễn bạn về cõi vĩnh hằng con chim nhỏ cùng cả đàn được phóng sinh, được bay về Trời. Lần đầu tiên trong đời được sung sướng bay lên bầu trời bao la, nó muốn bay đến các đám mây, sau đám mây có ông mặt Trời sáng chói để hít không khí trong lành, rũ tung những chiếc lông bẩn thỉu và rác rưởi… 
         Mới bay chưa cao được trăm mét nhưng không thể bay cao hơn nữa, với đôi cánh bé nhỏ và yếu đuối của nó lại mới tập bay  xa, cao lần đầu trong đời không thể thắng nổi sức hút của Trái đất đành phải xà xuống, nó nhìn thấy phố xá ở đâu cũng đầy người đông nghịt, nhà cửa chen chúc nhau, cây cối thưa thớt... Nó muốn bay về rừng nhưng rừng ở quá xa, đành bay ra phía sông Hồng, thấy dòng sông cuộn đỏ phù sa, nó chao mình trên mặt nước vài phút rồi xà xuống nương ngô xanh mướt, đang mùa trổ đòng, phấn hoa bay lả tả. Nó sung sướng hạnh phúc tràn trề, từ nay được tự do muốn bay đi đâu cũng được, thả sức hót cả sáng, cả chiều. Nhưng cái ăn, cái uống phải tự tìm lấy. Nó nhảy từ cây nọ sang cây kia, gần hết cả luống ngô, rồi cả vườn rau bên cạnh vẫn không tìm thấy một con sâu nào. Bởi con người đã phun thuốc trừ sâu từ lúc ngô và rau hãy còn non. Đói quá nó đành ăn phấn ngô và uống nước sông vậy.
         Đêm đến lại tìm đến những cây cao ven sông để ngủ. Có đêm đang ngủ, nghe tiếng động, gặt mình tỉnh dạy thấy một con chuột to lù lù đang đi về phía nó, nhưng chuột vẫn chưa nhìn thấy nó vì bé tẹo nằm sau chiếc lá, với phản xạ sinh tồn nó liền bay vút lên cao trong đêm tối làm chuột gặt mình ngơ ngẩn nhìn theo.
          Một buổi chiều đang say mê tìm kiếm thức ăn bổng cơn dông ập đến, những đám mây mộng nước màu chì, gió thổi ào ào cây cối ngã nghiêng, bụi với lá bay mù mịt, nó vội vàng bay đến một cành cây gần nhất không kịp tìm chỗ trú mưa thì những hạt mưa đã rơi xối xả, gió lại càng hung dữ hơn làm nó không thể bám được vào cành cây rơi xuống đất, nó vội vàng chui vào bụi gai gần đó. Mưa lại càng to hơn làm toàn bộ lông ướt sũng, lông cánh tả tơi không thể bay được nữa, thân mình nó run lên bần bặt. Lớn lên trong lồng không có mẹ nên chẳng biết rỉa lông. 
          Sau cơn mưa lần đầu tiên trong đời mới tập rỉa lông bằng  chiếc mỏ yếu ớt lấy phấn từ phao câu ở đuôi của nó. Sau mấy giờ bộ lông vẫn không khô, không bay được đành nhảy vào bụi gai chờ hết đêm để lông khô. Suốt cả tuần nay nó cảm thấy vắng bạn, thiếu đàn. Ngủ trên cành to ở thấp thì sợ những con mèo hoang đi ăn đêm, sợ chuột. Ở những cành cao thì sợ mưa to, sợ gió lớn, sợ cú mèo, sợ những các loài chim to… Cái chết luôn rình rập nó. 
          Bây giờ nó thật sự buồn và nhớ đàn da diết, ít hót, ít chao lượn trên bầu trời, suốt ngày cần mẫn tìm kiếm thức ăn, khát lại bay ra sông uống nước và quyết tâm đi tìm đàn, tìm bạn. Nhưng suốt cả tuần bay nhiều nơi luôn hót tiếng hót gọi đàn, nhưng không hề gặp một con chim nào cùng loài đành nhập vào đoàn chim sẻ. Những con chim sẻ to hơn bay nhanh hơn, lại không thích tìm mồi ở trên cây mà chỉ thích sà xuống đất, ăn những thức ăn mà nó không thích, được mấy hôm con chim sẽ đầu đã đuổi đánh nó đi. 
         Nó lại bơ vơ một mình, mong ước được gặp lại những bạn ở trong lồng trước đây với nó, đành bỏ bãi bồi sông Hồng bay về phố xá. May lại tìm được khu chợ bán chim ngày nào, nó mừng quá, quên cả sợ người, liền xà đến lồng chim cùng loài với nó. Đương nhiên người bán chim vui lòng bắt lấy nó và cho vào lồng cùng với các bạn mới. Nó lại tha hồ ăn uống, vui đùa, nhảy nhót cùng các bạn… Cũng ngày hôm đó, lồng chim có nó lại được bán cho gia đình có con vừa chết đuối chưa tìm được xác ở miền quê xa lắm, nơi những dòng suối lớn đổ về thành một dòng sông.
         Người mới chết là cậu bé lên mười tuổi, khỏe mạnh, đẹp trai lại học rất giỏi và ngoan ngoãn. Cách đây ba hôm tan học theo các bạn cùng lớp ra bơi ở dòng sông. Bình thường cậu bé bơi giỏi lắm, nhưng hôm ấy bị chuột rút, nước sông lại chảy xiết. Làm lễ cầu hồn vào buổi sáng, nơi khúc sông bên lở, nước chảy xiết, đục ngầu, tiếng than khóc của người nhà thảm thiết buồn đến não lòng, hương khói nghi ngút, những cánh hoa huệ trắng bị cuốn theo dòng nước lúc nổi, lúc chìm. Nó và cùng cả đàn lại được phóng sinh. 
         Lần này nó không muốn bay theo đàn mà muốn ở lại trong lồng chim, đôi chân nhỏ cố bám chặt lấy lồng, nhưng người ta vẫn cứ đuổi và bắt nó phải bay ra. Cũng như nó lần đầu, những con chim vừa được thả tự do cứ bay tán loạn, mạnh con nào con nấy bay, bay vút lên cao. Rồi cuối cùng nó cũng phải bay ra khỏi lồng, bám theo một con có vẻ bay yếu nhất trong đàn. Bay được một lúc, may cả hai con tìm được một cánh rừng bạt ngàn, xanh ngát, nơi mờ xa là những dãy núi trùng điệp, thỉnh thoảng lại có những đồng cỏ mênh mông đầy các loại bướm to có, nhỏ có, đủ các màu sắc sặc sỡ. Phản xạ tự nhiên của nó cho biết ở đây có nhiều loại sâu bọ, tha hồ thức ăn. Nó sung sướng được về lại với thiên nhiên, với rừng, nơi tổ tiên nó được sinh ra. Lúc mới nhập đàn nó to nhất đàn, màu lông sặc sỡ đẹp khác thường, bởi người ta lai tạo, nuôi trong lồng, cho nó ăn những thức ăn tăng trọng, nên tính thích nghi và nhanh nhẹn lại kém nhất đàn.
        Có một hôm buổi chiều, trời trong xanh rất đẹp, không một gợn mây, gió thổi làm xào xạc lá rừng, uốn cong ngọn cỏ non. Cùng các bạn ăn uống no say, chúng nó liền bay lên cao vút, vừa bay vừa hót những âm điệu quen thuộc nhất, hay nhất của loài nó. Bỗng một con chim cắt xuất hiện từ trên cao, các bạn nó thét lên vội vã lao vào những đám cây rậm rạp. Linh cảm điều nguy hiểm đang đến, nó cố bay thật nhanh theo cùng các bạn, phát ra những tiếng kêu chiêm chiếp cầu cứu, nhưng không kịp nữa rồi. Con chim cắt nhanh như chớp, cái mỏ sắc nhọn như một mũi tên đâm thẳng vào mình nó, hai móng vuốt sắc nhọn ghì chặt lấy nó trong giây lát rồi bay đến một gò đất cao. Chưa đầy vài phút, con chim cắt xé xác con mồi ăn ngon lành, những lông chim nhỏ nhẹ tả tơi bay theo gió.
Rừng vẫn xanh rì, nắng vẫn ngập tràn, gió vẫn thổi, tiếng xào xạc lá rừng, tiếng của chim, tiếng của côn trùng... tạo nên bản nhạc thiên nhiên hùng vĩ không bao giờ dứt, nhưng từ nay trên cõi đời không còn con chim nhỏ. Hình như mỗi cá thể sinh vật đều có một số phận riêng, nhưng tất cả đều có một cái chung: Được sinh ra từ vô hư, cát bụi lại trở về với cát bụi, hư vô. Sống chỉ là khoảnh khắc vô cùng nhỏ bé, chết là vĩnh hằng- đó là thời gian, không gian và vũ trụ, điều mà chưa sinh vật nào trên Trái đất hiểu được và mãi mãi chẳng bao giờ biết được!
Budapest, mùa Thu 2015./.
Nguyễn Lam Thủy
 
Chim sẻ là loài tiểu nhân? 
        Trong một lần đi làm phóng sự về cây nhãn da bò, một đồng nghiệp đã chộp được những tấm ảnh nói lên tấm lòng cha, mẹ của gia đình chim sẻ. 
        Cậu con trai đang tuổi thiếu niên của chủ vườn nhãn đã bắt một con chim sẻ chưa biết bay về nuôi, nhốt trong lồng. Chiếc lồng treo dưới gốc xoài ở mé sân. Đôi chim bố mẹ ngày nào cũng bay đến mớm mồi cho con, bất chấp mọi hiểm nguy. 
         Con chim mẹ nhỏ hơn chim bố, miệng ngậm mồi, nó bay cuống quýt chung quanh nơi nhốt con chim non. Có lúc, nó nhào xuống chiếc lồng một cách liều lĩnh nhưng chỉ liệng xuống rồi vút lên ngay tức thì như một mũi tên xé khoảng không. Nó chưa mớm được mồi cho con chim nhỏ. Nhiệm vụ của nó chưa hoàn thành. Nó bay rối rít đâu đó rất gần trên vòm lá, miệng không ngớt kêu những tiếng kêu xé lòng chứa đựng cả sợ hãi lẫn âu lo.  
         Con chim bố lớn hơn chim mẹ tí chút. Có lẽ, cái lớn hơn của con chim bố là lá gan liều mạng cứu con. Nó sà bên chiếc lồng, hót lanh lảnh như an ủi, như vỗ về đứa con rằng mọi chuyện rồi sẽ qua nhanh thôi… 
         Trời vẫn xanh. Mây trắng vẫn la đà bay trong buổi sáng đôi chim nỗ lực vượt bật làm cuộc thăm viếng đứa con nhỏ....Một ngày nhiều nắng đẹp cách đây ít lâu, tôi ngồi trong quán cà phê tại khuôn viên Dinh Độc Lập. Trước mặt tôi là bãi cỏ xanh ngọt lịm trải rộng và mát rười rượi nhờ bóng lá dày của những cây dầu đại thụ đứng rải rác khắp vườn. Bỗng từ đâu đó trong vòm cây, mà cũng có thể  từ giữa không gian  bắn xuống mặt cỏ một đôi chim sẻ. Chúng cuộn tròn, cuộn tròn  xoắn xít yêu thương, lăn vòng trên cỏ vài giây rồi hân hoan cùng một nhịp bay lao vút vào không trung, tiếng ríu rít hân hoan của chúng vang lên không ngừng.  
        Ban đêm, nếu bạn có cơ hội bạn có thể ngắm đôi chim sẻ ngủ trong tình yêu của chúng dành cho nhau, vì khi ấy, hai chú chim nhỏ đầu áp vào nhau vô cùng dịu dàng, đầm ấm dù cành cây bên dưới chân chúng gió không ngừng đong đưa.Trong luyến ái, loài chim dành cho bạn tình những cử chỉ trìu mến, nồng nàn khiến con người phải ngưỡng mộ. 
        Cũng tại Sài Gòn tôi lại gặp bầy sẻ đông hàng trăm con nơi sân hoa của nhà thờ Đức Bà. Chúng sà xuống kiếm ăn, nhảy tưng tửng trên mặt sân. Chúng nô đùa cùng nhau và cùng tung mình lên cao như đám mây khi có người đến gần. Mà không hề thấy con nào mổ hay cắn xé nhau để giành ăn dù chúng đông mà thức ăn ít. Mỗi con đều cố  gắng siêng năng từ kiếm hạt, đến nhặt cọng cỏ, cọng cây làm tổ…Vậy mà người ta từng nói, chim sẻ là loài tiểu nhân? 
         Quân tử, chắc chắn là người tử tế. Mà tử tế thì trong lòng chứa nhiều yêu thương. Sống lương thiện và chăm chỉ.Chim sẻ rất chăm chỉ, thân thiện và vui vẻ. Tôi chưa từng thấy chim sẻ làm hại ai, hay làm hại đồng loại của nó.Nó tiểu nhân chỉ vì nó có hình dáng nhỏ bé thôi sao? Loài chim hay bất kỳ loài nào khác, đang đối mặt với nạn diệt chủng, nhất là ở đó là nỗi lo sợ của muôn loài. Còn lại, chúng không buồn để ý loài người nói gì về chúng. Kể cả đôi chim đang bị loài người bắt mất đứa con yêu kia. Chúng chỉ bận tâm làm sao cho đứa con được yên lòng, được ăn no chứ không màng có được gọi là quân tử hay không...
Minh Đăng
 


Thứ Ba, 28 tháng 11, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Bìm bịp tiếng kêu thương

Hình ảnh có liên quan
Hình ảnh có liên quan
Bìm bịp kêu !
Bìm bịp kêu nước lớn nước ròng,
Như than số phận, kiếp long đong...
Có ai hiểu được, đời gian khổ ?!
Khắc khoải ngày đêm trên bến sông ?

Bìm bịp kêu nước lớn nước ròng,
Tiễn người trên bến sắp sang sông.
Ngắm thu vàng lá chờ đông lạnh,
Chạnh lòng lữ khách nhớ mênh mông !

Bìm bịp kêu nước lớn nước ròng,
Tiếng như thanh thản giữa thinh không...
Nước lên gọi bạn chiều hoang vắng,
Tha thiết tìm nhau trong nhớ mong !

Bìm bịp kêu nước lớn nước ròng,
Yêu làng yêu tổ yêu bến sông...
Một đời son sắt tình chung thuỷ,
Sưỡi ấm cùng nhau mặc gió Đông
NM

Bìm bịp tiếng kêu thương!
1. Mấy ai sinh ra và lớn lên mà không có quê hương? Quê hương đó, có thể là phố phường, là nông thôn đồng bái! Mỗi nơi ở mỗi người, đều có một kỷ niệm đầu đời chẳng thể quên.
Thời gian cõng tuổi thơ vào cuộc đời và cuộc đời thì, vốn đã buồn vui trăm mối! Nhà nội nghèo nên má con tôi thối về ngoại. Thức ngủ mười năm theo tiếng bịp...b...ị...p...” kêu con nước lớn trên sông Tiền miền châu thổ Cửu Long.
Tôi nhớ tiếng kêu thương của bìm bịp vì, nó chẳng vô tình bạc nghĩa xứ sở. Nó hoàn toàn đối nghịch với chim cu đất. Bởi, chim cu đất sẵn sàng bỏ ổ, bỏ con, bỏ lãnh địa, một khi nó ngửi mùi bất an đến bản thân!
Hồi nhỏ được ngoại nuông chìu, tôi thường nghịch phá nhất là rình chim bìm bịp tìm ổ để lấy trứng bắt con. Thiệt ra không dễ, bìm bịp tha mồi nuôi con không bao giờ bay thẳng đến ổ. Nó bay lủi vô bụi cây ngụy trang phía trước và nó lặng lẽ bay ngõ sau bụi cây nhằm đánh lừa đối phương.Đôi ba chập bay lủi như vậy, bìm bịp mới về ổ nuôi con.
Bìm bịp màu lông giống nhau ở trống và mái. Màu nâu chấm đen khi còn nhỏ. Lúc đủ lông đủ cánh, rời ổ ra riêng, đôi mắt đỏ au; đầu mỏ, cổ ngực và đuôi có màu đen lợt, thân và đôi cánh lông màu nâu sòng như chiếc áo nhà sư. Có lẽ vì vậy, người đời gọi bìm bịp là chim Thầy Chùa (?). Hình như có một sự tích về màu lông, về thân phận của nó do thiên hạ truyền miệng nhau. Tôi nhớ hoài lời ngoại nói:
- Bìm bịp, một loài chim cam chịu sống bìm, đồng nghĩa với bầm mà, bầm ở quê mình được hiểu ngầm là bầm dập! Dù vậy, nhưng chưa bịp ai, kể cả người bạn đời của nó!
Rồi những trưa hè buồn miệng, ngoại kiến giải:
- Người nhà quê hiểu nôm na, bìm có nghĩa sống “ăn nhờ ở đậu” an phận thủ thường, nhút nhát và không ác với đồng loại, không nham hiểm với láng giềng. Trời cho đôi cánh để bay xa, bay vào trời rộng như muôn loài chim khác, nó ngại ngùng quên sử dụng. Chỉ là, bay ngắn nếu không muốn nói, chuyền cây. Suốt đời sống bụi bờ, làm ổ bằng rơm cỏ trên cao và hỏng mặt đất. Đi đâu cũng có đôi có bạn, không đi lẻ vợ chồng. Nước lớn vợ gọi, chồng kêu!
Con mái lớn hơn trống, đuôi ngắn và lông màu lợt; trống đuôi dài và lông màu đậm. Bàn chân bốn ngón, mỗi ngón có móng và vuốt. Chân cặp ngắn cặp dài và trước sau đối xứng. Dẫu nó thuộc loại bìm bịp lớn hay nhỏ, thảy đều sống thủy chung với bạn tình mà nó đã ăn nằm, sinh con đẻ cái. Mỗi con trống hoặc mái, nó có riêng mùi đặc trưng. Và, mùi đặc trưng đó, giúp nó nhớ thương, ân ái, không phản bội nhau. Mùa xuân, dù bìm bịp sống chốn gò cao hay nơi bưng biền, mương rạch, nó rững mỡ qua tiếng kêu ‘Cu-ra-ua... Cua- ra-ua... vang vọng miền quê, ai nghe mà chẳng động lòng? Đầu hạ, bìm bịp đẻ. Đầu thu, cả vợ lẫn chồng cùng gánh vác việc nuôi con, nó chẳng ly thân ly dị bao giờ. Mái nhường miếng mồi ngon cho chồng cho con, nó nhịn ăn trong niềm vui của sự nhường. Tôi đã rình coi bữa ăn chiều sum hợp của “gia đình bìm bịp” ở đám biền thí thời bom đạn. Tôi nhớ mẹ, nhớ nhà và thèm về, ngay bây giờ nhưng, không thể. Bất chợt, tôi thốt lên câu hò ở quê nhà:
Phần thịt thì để cho chồng
Phần xương em gặm, phần lòng cho con 
2. Nhà ngoại có khu vườn chạy ra bến sông, có cầu ao nằm dưới giàn mướp hoa vàng rực mỗi sớm mai. Chốn ấy là, giang sơn của bìm bịp. Nó yêu giang sơn của nó chẳng khác người yêu đất nước của mình. Mảnh đất nó đang sống là lãnh địa bất khả xâm phạm. Nó trở nên hung tợn và chiến đấu bảo vệ lãnh địa không sợ chết đối với kẻ xâm lấn.
Ngày xưa, ngoại nói đó là tập tính thuộc căn tính bìm bịp; đồng thời với phản xạ có điều kiện. Tôi hỏi, điều kiện gì hở ngoại? Ngoại rằng, sau mỗi lần đánh đuổi và chiến thắng kẻ thù, nó thích khen thưởng bằng thức ăn ngon. Vì vậy, con mái lúc nào cũng trữ mồi ngon tặng trống sau trận chiến.
Bìm bịp khắc tinh lũ rắn, kể cả rắn cực độc. Lãnh địa của bìm bịp, rắn không thể sống, kể cả sống sót! Mùi da thịt, mùi lông và phân của bìm bịp khiến rắn khớp đèn, mất hoàn toàn khả năng chiến đấu... thúc thủ quy hàng, nằm chờ bìm bịp đến gắp mang về ổ làm thức ăn dự trữ nuôi con!
Con tạo lá lay, bày trò: Bìm bịp diệt rắn. Rắn diệt chuột. Thế nên, chuột ngày đêm ngóng đợi bìm bịp lởn vởn gần hang ổ của mình như nắng hạn đợi mưa rào. Có mùi bìm bịp, rắn cụp đuôi không dám ho he, hó hé! Rắn sinh ra và lớn lên lột da sống đời nhưng, không có hang ổ! Hang ổ rắn, chính là hang ổ chuột bị rắn cưỡng chiếm với phương châm: Diệt chuột đoạt hang ổ!
Tôi trở về khu vườn nhà ngoại sau bao năm đi xa. Những đóa mai vàng bung nụ khoe cánh dưới nắng xuân, không gian im ắng như chờ tiếng gọi bạn tình: Cu-ra-ua... C...u...r...a...u...a.. của bìm bịp tự thuở nào. Tôi chỉ nghe tiếng lá rơi trên thềm nhà cũ. Cầu ao, bến nước, bãi biền... còn nằm trơ đó, bìm bịp thì “tuyệt chủng” rồi!
Chỉ một lời đồn thổi bá vơ, người săn đuổi và tận tuyệt giống nòi bìm bịp, ngâm rượu tráng dương bổ thận cho mình. Họ biết đâu rằng, chính họ đã giết chết tiếng kêu thương của một loài chim đáng sống!
TRẦN BẢO ĐỊNH
(SHSDB21/06-2016)

Về quê nghe bìm bịp kêu

Do hồi chiến tranh lang thang nhiều ở Nam Bộ, có thời gian ở cạnh sông Vàm Cỏ Đông, nên tôi không hề xa lạ với tiếng bìm bịp kêu. “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê/”(ca dao).
Cái tiếng kêu của con chim bìm bịp thật đặc trưng, nói là buồn thì nghe ra rất buồn, nhưng nói thanh thản thì nghe cũng thanh thản lắm. Mà lại tình cảm. Chỉ có điều nó không vui, không hớn hở. Nó trầm trầm, đều đều, và rất vang. Cũng do được nghe bìm bịp kêu ở miền sông nước Nam Bộ, nên tôi cứ ngỡ chỉ ở sông nước đất Chín Rồng mới có bìm bịp.
Tôi đã nhầm. Sau hòa bình nhiều năm, về lại quê mình ở Mộ Đức-Quảng Ngãi, tôi mới biết: Hóa ra, ở quê mình, ở ngay trước nhà mình cũng không thiếu… bìm bịp. Và không thiếu những âm thanh đặc trưng của giọng trầm bìm bịp mỗi sáng hay mỗi chiều. Do là ngay trước nhà tôi có một dòng sông nhỏ. Sông nhỏ nhưng trên bờ vẫn có những lùm tre rậm. Tôi không nghĩ con sông nhỏ trước nhà mình có nước lớn nước ròng như các con sông ở Nam Bộ, do con sông này bị lấp nghẽn dòng đã nhiều năm.
Nhưng bìm bịp kêu có lẽ cũng không đơn giản vì nước lớn. Bìm bịp kêu như một nhu cầu tự thân của loài chim sống bên sông nước, vậy thôi. Người ta nói thức ăn khoái khẩu của bìm bịp là… rắn. Tôi thì chưa thấy cảnh con bìm bịp bắt con rắn cho bữa trưa, nhưng nếu như thế thật, thì may cho quê tôi quá.
Dạo này không biết nảy nói từ đâu ra, kẻ thì bảo do biến đổi khí hậu, người thì nghi do bọn “người lạ”  thuê người mình thả rắn cắn dân mình… chơi, mà rắn lục đuôi đỏ-một loại rắn cực độc và hay tấn công người  khắp nơi. Bệnh viện Quảng Ngãi trong thời gian ngắn đã phải tiếp nhận ba chục ca cấp cứu người dân bị rắn lục đuôi đỏ cắn. Nếu bây giờ mà có thật nhiều con bìm bịp bắt rắn lục đuôi đỏ, chắc dân quê tôi sẽ được nhờ.
Nhưng hỡi ôi, từ nhiều năm nay, bìm bịp đã nằm trong “sách vàng” săn bắt của những người ham mê “rượu ngâm bìm bịp” chữa bá bệnh. Chưa kịp bắt rắn cứu người thì đã bị người bắt cho vào hũ rượu ngâm. Có cầu thì có cung. Người ta đổ đi “truy sát” từng con bìm bịp, khiến loài chim lành hiền và rất có ích này rơi vào nguy cơ  tuyệt chủng.
Nói vậy, chứ vườn nhà tôi cây cối rậm rà, “thợ săn” cũng khó vào, nên mỗi khi tôi về quê, ngồi ngay trong nhà mình vẫn nghe được bìm bịp kêu. Vẫn giọng trầm thanh thản, như không hề biết nguy cơ đang chờ chực mình.
Nghe bìm bịp kêu ở vườn nhà mình, có cảm giác thật khó tả. Cứ như cây vườn nhà mình cũng góp phần che chở cho loài chim cực dễ thương này. Cứ như con bìm bịp chọn vườn nhà mình là chọn sự an toàn nào đó, còn chọn mình là chọn bạn, nó kêu mình nghe, như hát cho một người bạn. Và cho cả nó nữa. Bởi bìm bịp đích thực là một nghệ sĩ. Một nghệ sĩ của làng quê, sông nước.
Thanh Thảo

Bìm bịp kêu chiều 1

Hồi nhỏ tôi hay theo ba đi giăng lưới, cắm câu, đặt lờ. Chiều, ba bơi xuồng chở nào câu, lưới, lờ ra cánh đồng mênh mông nước. Lúc này bìm bịp kêu vang, tôi rất thích âm thanh được lặp đi lặp lại như điệp khúc dài. Tôi hỏi ba, con bìm bịp đứng đâu mà con không thấy? Ba tôi cố gắng giải thích nhưng tôi không hiểu nhiều, chỉ nhớ câu “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/ Mua bán không lời, chèo chống mỏi mê” mà má tôi hay hát đưa em, nghe buồn xa xăm. 
Khi mặt trời sắp lặn, tiếng bìm bịp càng rõ mồn một, như xoáy vào lòng tôi cảm giác vời vợi, miên man. Mái dầm ba cứ đều đều, đến vạt đất có nhiều năn và ngang dọc mương phèn, ba cắm giềng giăng lưới. Xong công đoạn này là ba bơi xuồng đến gò đất giữa đồng cắm nốt số câu rồi mới tìm chỗ đặt lờ. Tôi nhảy ùm xuống ruộng mang từng chiếc lờ đặt những nơi ba chỉ và làm đúng hướng dẫn của ba, tôi vui và tự hào lắm.
 Cứ đến chiều không cần nhìn đồng hồ chỉ nghe tiếp bìm bịp âm vang là ba tôi đem lưới, đem câu xuống chiếc xuồng ba lá. Ba khoan thai đẩy mái dầm lướt trên đám năn mới mọc. Tiếng bìm bịp mỗi lúc dồn dập gần hơn, tôi căng mắt nhìn để tìm chỗ con bìm bịp, khi xuồng đến gần bụi rậm thì một vết xám vụt bay lên. Ba tôi chỉ: “Bìm bịp đó con!”. Không chỉ chiều hôm ấy mà tiếng bìm bịp kêu đã theo tôi suốt những buổi chiều tuổi thơ nơi đồng chua.
 Con nít thường hay ngủ nướng, nhưng tôi lại siêng dậy sớm để theo ba đi thăm câu. “Ba! Cho con giở lờ trước nghen!”, tôi nói. Mũi xuồng vừa tới họng đìa là tôi nhảy ùm xuống nước lội băng băng rồi nhấc bổng chiếc lờ. Một tiếng “rào” của đàn cá sặc trắng phếu rộ lên, trong lòng tôi cũng rộ lên niềm vui khôn tả. “Nhiều quá ba ơi!”, tôi hí hửng. Rồi cái thứ hai, thứ ba… còn mấy tay lưới và câu cắm của ba nữa. Ôi thôi, cá là cá…
Thời gian trôi, kinh tế khấm khá lên, nhưng môi trường cũng bị ảnh hưởng, các nhà khoa học đã nói nhiều đến việc xâm nhập mặn, mất cân bằng sinh thái, đất bạc màu… Còn tôi, với tình cảm của người gắn bó tuổi thơ cùng đồng ruộng, tiếng bìm bịp kêu chiều và tiếng rộ lên của đàn cá sặc trong chiếc lờ bánh ú làm tôi không khỏi nuối tiếc cái yên ả của ngày xưa.
Bây giờ, những đứa trẻ ít được nghe mẹ ru “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi…”, thay vào đó là những bài hát thu sẵn trong điện thoại, chỉ cần “quẹt” một cái thì bài gì cũng có. Quê tôi cũng thưa thớt tiếng bìm bịp vọng vang trên cánh đồng loang loáng nước, những điệp khúc muôn thuở của loài chim mà tiếng kêu của nó khiến người ta buồn khôn nguôi.
LÊ NGỌC
Bìm bịp kêu chiều 2
Ba Rái đã bước vào tuổi trung niên, mái tóc đã có những sợi bạc. Thời gian đã đi rất mau qua sự chuyển đổi màu tóc mà nhiều khi con người ta không nhận ra cho đến khi vô tình đứng trước tấm gương nhìn thấy những sợi tóc ấy, nó làm vướng mắt và đưa tay nhổ. Ba Rái chỉ còn lại cánh tay phải, cánh tay trái chỉ còn một nửa, đến khuỹu thôi, nửa cánh tay còn lại đã được bác sĩ cắt bỏ khi anh bị mảnh đạn pháo găm trúng xương vào chính buổi trưa ngày 30 – 4 – 1975 lúc Ba Rái theo một cánh quân tiến về Sài Gòn.
Hình ảnh có liên quan
Chỉ còn một cánh tay, là thương binh. Nhưng dạo ấy Ba Rái là một chàng trai, rất khỏe, với cánh tay còn lại anh có thể làm bất cứ việc gì mà một thanh niên còn nguyên vẹn hai tay chưa chắc đã theo kịp. Ba Rái đập lúa, giựt dừa, chèo ghe, cầm cày…chỉ với một cánh tay và bốn mùa vận độc nhất bộ quần áo màu cỏ bộ đội bạc thếch, sờn vai, rách gối. Ở xã biển này hồi đó bộ đội giải ngũ về làng nhiều lắm, nhưng trụ lại chẳng bao nhiêu, phần lớn đi ngược trên lên những vùng quê khác sinh sống. Riêng Ba Rái được xã cấp năm công vườn, năm công ruộng từ quỹ đất tịch thu của địa chủ bỏ đi vượt biên. Anh dễ dàng lấy vợ, một cô gái xinh đẹp con nhà khá giả trong xã tên Hai Nỉ. Vợ chồng cất nhà trên mảnh vườn được sở hữu, lần lượt sinh hai đứa con, một trai, một gái hiện chúng đã vào cấp hai. Gia đình Ba Rái tuy không giàu có, nhưng với khoản lương hưu cán bộ, chế độ thương binh và năm công vườn, năm công ruộng cũng có thể gọi là một gia đình có kinh tế ổn định, bậc trung so với phần đông những hộ nghèo khác.
Sáng nay, như thường lệ, Ba Rái cũng vận bộ đồ màu cỏ bạc thếch, tay cầm chỉa đi rảo qua những bờ vườn để chĩa những trái dừa khô, dừa chuột khoét rụng từ dưới mương lên, gom thành đống. Dừa khô thì bán ngay, vì dừa đang được giá, còn dừa chuột khoét bỏ phơi trự nhiên, chỉ một vài nắng Ba Rái dùng rựa bổ ra từng mảnh cho vợ làm củi chụm. Trong các thứ củi ở vườn, củi dừa chuột khóet cho lửa than rất tốt, nóng dai, không chỉ nấu cơm, đun nước mà nướng cá, nướng khô cũng rất nhanh, ít khói. Đã qua rồi thời trai trẻ, nên chỉ đi rảo được ba bờ vườn Ba Rái đã thấm mệt, đứng lại thở, kẹp nách cây chỉa bên cánh tay cụt, tay còn lại Ba Rái móc túi áo lấy gói thuốc rê quấn một điếu to, bật cái quẹt lạch xạch đốt thuốc và rít khói. Vừa nhả ra những ngụm khói khét lẹt, Ba Rái vừa nhìn những bông dừa theo gió sớm rụng xuống lộp bộp quanh đám cỏ đã mọc chen lên những vết nứt đường chân chim của thảm bùn non bồi vườn cách đây chưa đầy tháng vào tầm con nước kiệt. Những bông dừa tỏa mùi thơm nhẹ, tan loãng vào mùi bùn đất, xương lá mục dậy lên từ chỗ đứng của Ba Rái trong buổi sớm mai.
Không hiểu sao, bỗng dưng Ba Rái lại thở dài. Bên kia ranh vườn nhà Chín Ơn đã mở cửa, có tiếng tằng hắng quen thuộc của Chín Ơn chứng tỏ ông bạn hàng xóm bị vợ bỏ, thui thủi trong căn nhà giữa vườn đã nấu nước pha trà uống cử sớm. Ba Rái cắp chỉa theo bờ ranh, đi về hướng nhà Chín Ơn. Bởi vì, nếu không thấy Ba Rái qua uống trà với mình, chút nữa thế nào Chín Ơn cũng lớn giọng gọi í ới, đây là một cái lệ bất thành văn.
Chín Ơn người cao lòng lòng, đầu bạc trắng, lớn hơn Ba Rái vài tuổi đã ở một mình, cu ky với mảnh vườn mua lại trên đất Sáu Nhật, từ trước khi Sáu Nhật vượt biên.Và tất nhiên trước khi Ba Rái về đây cất nhà. Nhưng từ khi hai nhà ở sát ranh đất, Ba Rái và Chín Ơn thân thiết nhau lạ lùng, còn hơn anh em ruột. Uống trà cũng hai người, nhậu cũng hai người, rủ rỉ tâm sự đầu hôm sớm mai, chiều mưa trưa nắng cũng chỉ hai người. Chín Ơn có cô vợ rất trẻ, cưới sau giải phóng một thời gian, bỗng một ngày đẹp trời khi Chín Ơn từ ruộng về thấy nhà trống hoác, cô vợ đã bỏ theo một anh ghe cào vượt biên. Không con nên Chín Ơn ở một mình trong căn nhà vắng với con chó cò đã quen hơi Ba Rái như quen hơi chủ. Trước đây Chín Ơn có ngón đàn kìm tuyệt kỹ, nghe Chín Oûn rao đàn kìm và chơi một lúc sáu câu vọng cổ gọi là đàn “ độc chiếc” khi ngà ngà say con gái, đàn bà giá cũng…muốn bỏ nhà theo anh ta. Nhưng không hiểu sao với ngón đàn tuyệt kỹ này Chín Ơn lại không giữ được nổi cô vợ trẻ, để anh ghe cào chẳng tài cán gì, chỉ có thân hình vạm vỡ, da đen như bồ hóng quyến rũ dẫn đi mất. Từ đó ngón đàn của Chín Ơn như càng buồn hơn, thê thiết hơn, nghe như có nước mắt.
Ba Rái dựng cây chỉa sát mép cửa nhà Chín Ơn, quăng cái tàn thuốc như con sâu róm xuống rảnh nước trước nhà, bước vào. Chín Ơn như đã ngồi chờ sẵn, thấy Ba Rái ngồi xuống chiếc ghế đối diện liền rót ly trà nóng, bốc khói đẩy tới trước mặt, giọng hào hứng:
– Hôm nay đặc biệt, uống trà với khô đuối, mà là loại “ hắc cáy” nghe chú mày.
– Ở đâu ông có thứ đặc sản này thế?- Ba Rái nhón một sợi khô, nhấm nháp hỏi.
– Của thằng đệ tử học đàn nó cho.
Ở vùng này người ta không uống trà khơi khơi, mà uống trà có “ mồi”, là đường tán hoặc khô, mà khô đuối loại “ hắc cáy” thì quả là cự kỳ sang. Mới đầu về đây Ba Rái chưa quen uống trà theo gu kèm “mồi” mà lại là “mồi” khô. Nhưng khi gặp Chín Ơn, được cho uống trà với khô, Ba Rái cũng đâm ghiền vì uống trà với khô có hương vị rất đậm đà, khó diễn tả.
– Nghe nói xã đã có chủ trương xây nhà tình thương cho dì Bảy?- Chín Ơn hỏi với vẻ quan tâm.
– Ờ…thì…hôm nay xã mời tôi ra bàn chuyện đó đây. Chắc vụ cái nền.
– Nền thì khó gì, năm công vườn của ông đó, bờ mương nào mà không làm nền cất nhà cho mẹ ông được?
Ba Rái lúng túng, thở dài:
– Đúng là như thế, nhưng phải chi tôi quyết định được chuyện này thì đâu còn gì để phải bàn tới bàn lui.
– Đất nhà nước cấp cho ông, dì Bảy là mẹ ông, nay ở nhờ nhà người này, mai ở nhờ nhà người kia, sống lang thang cả xã này ai cũng biết, cũng kêu rêu. Ông không quyết định được chứ ai?
Chín Ơn chợt khựng lại trước cái giọng chất vấn hơi gay gắt của mình. Đúng là một câu hỏi khó cho Ba Rái vì hàng xóm quanh đây ai cũng biết dì Bảy Tố đã từng ở chung với vợ chồng Ba Rái nhưng Hai Nỉ, vợ Ba Rái đã xem mẹ chồng không ra gì, cảnh cơm không lành canh không ngọt giữa nàng dâu với mẹ chồng xảy ra như cơm bữa từng là đề tài đàm tếu cho cả xóm. Bị con dâu đối đãi như người ăn, kẻ ở mà con trai không dám can thiệp, dì Bảy Tố đã xách cái túi đệm đựng mấy bộ quần áo bỏ đi. Ba Rái có mấy người em, trai gái đủ cả, có người làm ăn xa giàu có, người có chồng ở xã kề bên nhưng không ai nuôi được mẹ. Bây giờ đến lượt Chín Ơn thở dài.
***
Ở xã về, bên cánh tay cụt Ba Rái cắp chai rượu đế, tay còn lại cầm một xâu khô hố. Vợ và đứa con gái kế không thấy đâu, chỉ có đứa con trai lớn là thằng Đức đang ngồi học bài. Ba Rái lên giọng ra lệnh:
– Đức, đốt dừa chuột khoét nướng mấy con khô cho cha.
– Ông tự nướng đi, tui mắc học bài không thấy sao?- Đức gân cổ nói.
– Mẹ mày và con Hạnh đâu?
– Ngoài chợ.
– Sao chưa về nấu cơm, bếp núc lạnh tanh vậy?
– Chà, bữa nay có chuyện gì mà ông nhậu một mình vậy?- Đức ngạc nhiên hỏi.
– Ừ, tao buồn, tao nhậu một mình.
Ba Rái lui cui bật quẹt nhóm lửa, nướng khô. Hì hụi thổi lửa vã mồ hôi, quạt than một lúc mấy con khô chín. Ba Rái rót rượu uống tì tì mấy ly, khi đã ngà say Ba Rái nhướn nhướn cặp mắt đỏ ngầu, lờ đờ nhìn Hai Nỉ và đứa con gái bước vào. Thấy Ba Rái say, Hai Nỉ tru tréo:
– Chà, cha của tụi bây bữa nay ngon, dám…lên đời, ngồi nhậu thảnh thơi trong khi vợ con đầu tắt mặt tối ngoài chợ. Ông nhậu được sao không nấu cơm được?
– Tôi chờ bà về nói chuyện- Giọng Ba Rái lè nhè.
– Chuyện gì?
– Chuyện cái nền cất nhà cho bà già.
Hai Nỉ nhảy dựng lên, the thé:
– Không có nền nhà, nền miễu gì cả. Tôi không đồng ý. Đất của tôi, vườn của tôi, không có xã, huyện gì can thiệp được hết. Tôi với mẹ ông không hợp thì không thể ở chung được.
– Không ở chung, nhà ai nấy ở. Bà già cất nhà ngoài bờ ranh, gần với nhà Chín Ơn.
– Tôi nói không, bà già về đây mẹ con tôi bỏ nhà đi, cho ông ở với mẹ ông, tha hồ làm mưa làm gió cái xóm này.
– Bà không thấy cả xóm này, cả xã này người ta kêu rêu bà là con dâu độc ác, chửi tôi là…cán bộ mà bỏ mẹ sống lang thang à? Tôi hết chịu nổi rồi, thà chết quách đi cho xong chuyện.
Hai Nỉ vừa khóc vừa tru tréo, giọng rít lên từng hồi:
– Ừ, ông muốn chết mẹ con tôi sẽ cho ông chết theo nguyện vọng chứ đừng đem cái chết ra hù dọa, áp lực mẹ con tôi nhé?
Thế là cuộc hỗn chiến xảy ra. Tiếng đập vỡ đồ đạc trong nhà, tiếng la hét nhừa nhựa của Ba Rái, tiếng tru tréo chửi rủa hổn láo của Hai Nỉ. Tiếng đánh nhau thình thịch (mà Hai Nỉ đánh Ba Rái nhiều hơn). Tiếng anh em thằng Đức góp phần làm cho sự việc thêm nhốn nháo, căng thẳng thêm, nhưng chẳng biết chúng nó bênh cha hay hùa theo mẹ. Mãi một lúc sau cái âm thanh nhốn nháo hoảng loạn từ nhà Ba Rái mới lụi dần. Chín Ơn ngồi bên nhà mình suy đoán, rồi buông miệng thở dài.
Bất chợt cơn mưa đổ ập xuống, cơn mưa chỉ báo trước bằng một trận gió thổi thốc qua vườn dừa, mang theo hơi lạnh và tiếng sấm động trong bầu trời. Chín Ơn ngồi trên bộ ván nhìn ra mưa, những giọt mưa trắng nhợt nhạt đan kín ngọn dừa, buông xuống khoảng không nhờ nhờ. Chín Ơn với tay lấy cây đàn kìm treo trên đầu cột, vặn trục lên dây nghe kẹt kẹt… Cứ hễ trời mưa hoặc những đêm trăng sáng trong vườn dừa là Chín Ơn với lấy cây đàn, lên dây và chìm đắm trong ngón đàn sầu não, réo rắt đầy tâm trạng của một người sống cô độc. Những lúc ấy Chín Ơn nhớ cô vợ trẻ đã bỏ đi. Phải chi trời đừng có những cơn mưa bất chợt và không có những đêm trăng sáng.
Xen lẫn trong mưa là tiếng bìm bịp kêu. Con bìm bịp này lẻ bạn nên cứ kêu một mình vang con rạch xẻo lá, tiếng kêu bồi hồi, đổ nhịp và buồn rười rượi lúc nước lên. Chín Ơn sực nhớ tới những cái rập cua, vội buông cây đàn, quàng cái giỏ đựng cua lên vai rồi tất tả dầm mưa đi về hướng rạch. Ngoài ngón đàn kìm tuyệt kỹ, Chín Ơn còn có tài rập cua, dọc con rạch xẻo lá Chín Ơn thường đặt rập cua mỗi tháng theo hai con nước. Và khi nước bắt đầu lớn, từ sông cái đổ vào rạch là giờ cua đánh hơi mồi bò vào rập. Mỗi con nước Chín Ơn bắt được hơn chục ký cua, mang ra chợ bán, trừ vài con để lại cùng nhậu với Ba Rái.
Nhưng chiều nay khi vừa bước tới bờ rạch, chỗ bến gánh nước có cây cầu dừa bắc qua xẻo lá, Chín Ơn sững người suýt kêu lên vì chợt nhận ra Ba Rái đang lóp ngóp dưới rạch trong tư thế bị trói cả tay chân, nước đã dâng lên tới mặt, Ba Rái cố ngửng mặt lên, miệng thở phì phì như hụt hơi. Chỉ một chút nữa thôi, con nước lớn đầy Ba Rái sẽ bị chết chìm. Chín Ơn vội quăng cái giỏ, nhảy xuống nước kéo Ba Rái lên.
Ba Rái nằm dài trên bờ rạch, hơi thở dồn dập, mặt mũi tái xanh như người sắp chết. Một lúc sau Ba rái cố gượng, giải thích:
– Hai Nỉ lệnh cho hai đứa nhỏ…trói tôi quăng xuống rạch. May…ông ra kịp.
Dì Bảy Tố tóc bạc trắng, bước đi chậm chạp vì với cái tuổi trên 80 có muốn dì cũng không thể đi nhanh được. Ngang qua nhà Chín Ơn, dì dừng lại, ngước cặp mắt đã không còn nhìn rõ người đối điện, mệt nhọc hỏi:
– Chú Chín vớt thằng Rái dưới rạch lên phải không?
Chín Ơn ngập ngừng:
– Dạ, con đi giở rập cua, phát hiện Ba Rái bị trói, ngồi thoi thóp dưới rạch…
– Nó sao rồi?
– Con vớt lên kịp, giờ đang ở bên nhà.
– Cái thằng…quá ngu. Số nó không chết trong chiến tranh, chắc chết vì vợ, mà bị trói dìm dưới rạch cho chết chìm thì tức thật.
Nói xong dì Bảy Tố quay lưng đi thẳng về hướng nhà Ba Rái. Ít phút sau giọng bà cụ gay gắt cất lên: Con Hai Nỉ mày giỏi ra đây trói bà già này dìm xuống rạch nè, trói chồng mày làm gì. Nó cụt tay, tật nguyền, là thương binh, nó không hy sinh ngoài chiến trường thì thôi, sao lại có thể chết vì con đàn bà ác độc như mày chứ?
Giọng Hai Nỉ cũng gay gắt không kém:
– Bà thương con lắm hả? May mà nó chưa tới số nên có người cứu. Bà về đi, không ai hơi sức đâu nói chuyện với bà.
– Mày là con quỷ cái…thằng Ba Rái có mệnh hệ nào thì mày cũng ở tù rụt xương nghe con…
Nói tới đó dì bảy Tố chợt khụyu xuống. Chín Ơn thấy vậy vội chạy sang đỡ bà cụ tội nghiệp lên, hai tay bế chạy riết về nhà. Khi mấy bà hàng xóm chạy sang xoa dầu, đốt lửa lên hơ ấm hai bàn chân dì Bảy cho dì dần dần hồi tỉnh thì Chín Ơn không dằn được cơn tức giận đi vội qua nhà Ba Rái định làm dữ với Hai Nỉ một trận. Nhưng mới bước vào sân Chín Ơn chợt nghe tiếng bìm bịp kêu, tiếng kêu của con bìm bịp lẻ bạn lại vang lên trong chiều nước lớn nghe khắc khoải, bồi hồi thì lòng Chín Ơn chùng xuống, bước chân khựng lại…
Từ Kế Tường
Hình ảnh có liên quan
 Con chim bìm bịp
GN - Được nghỉ học buổi chiều, thằng Khang bày dụng cụ ra hàng ba ngồi làm nạng giàn thun. Một cây kéo, một khúc ruột xe đạp, một miếng vải kaki cũ, một chùm dây thun khoanh, một nhánh cây cỡ ngón tay cái, hình chữ Y, được cắt ngắn gọn và lột vỏ sạch sẽ.
Nhìn thằng cháu ngoại cặm cụi cắt buộc, tôi chợt mỉm cười. Hình ảnh của nó là bản sao của tôi hơn năm mươi năm trước. Hình ảnh của nó đã đưa tôi trở về với những cảm xúc và kỷ niệm vui buồn thời thiếu niên
Năm 1958, tôi mười hai tuổi, học lớp Nhứt (lớp 5 bây giờ). Nói đến bắn chim bằng nạng giàn thun, không phải khoe chứ tôi là tay thiện xạ. Bạn bè trang lứa và kể cả người lớn trong xóm ấp cũng không có ai là đối thủ của tôi. Hồi mới tập bắn, tôi cũng bằng tuổi thằng Khang bây giờ (mười tuổi) và cũng xài cái nạng nhánh cây như nó nhưng cặp giàn bằng giây thun khoanh kết lại, chớ hồi đó ruột xe đạp cũ rất hiếm.
Sau khi bắn rành, tôi thay cái nạng nhánh cây bằng hai ngón tay trỏ và giữa của bàn tay mặt. Bắn kiểu này chính xác hơn kiểu trước nhưng đôi khi đường bắn cũng bị lệch, trật mục tiêu do hai ngón tay bị so le dưới sức kéo mạnh của cặp giàn. Anh Năm tôi bèn cắt một khúc cây tròn, mày mò đục đẽo, bào gọt cho tôi một cái nạng rất đẹp, cặp giàn bằng giây thun bản. Nhờ nó tôi mới trở thành tay thiện xạ nổi tiếng.
Đạn vò cũng ảnh hưỏng đến đường bắn. Đạn càng tròn càng láng, đường bắn càng ngay, càng hiệu quả. Đạn méo mó như sỏi đá, trái ổi non… bắn mười cục trật hết bảy tám. Đạn vò bằng đất thông thường rất bở, bắn trúng mục tiêu dễ bể cho nên tôi chỉ vò đạn bằng đất sét vàng, vò rất kỹ, tròn vo, láng lứt, cứng như cục đạn keo. Thấy tôi phơi đạn ngoài sân, ai đi ngang cũng trầm trồ khen tôi khéo tay, chịu khó. Vài người còn hỏi xin ít cục về cho con họ bắn cu-li, tôi vui vẻ cho họ để quảng cáo tài thiện xạ và sự khéo tay của mình.
Hồi đó, ở nông thôn lúa thóc vàng đồng, vườn cây trĩu quả, tôm cá đầy sông, là môi trường lý tưởng cho vô số chim chóc sinh sống. Nhỏ có chim sâu, chim sắc, chim sẻ, lớn có trau trảu, sáo sậu, cu gáy, cò trắng, cúm núm, tu hú, quạ diều… Trong vườn, ngoài ruộng, ven sông rạch, kinh mương nơi nào cũng có. Hồi đó bắn chim cũng thoải mái lắm, không ai ngăn cấm, không ai bảo vệ, không ai cho là phá hoại môi trường, không ai cảnh báo loài này loài kia đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, được đưa vào Sách đỏ cần phải bảo tồn. Tôi xách nạng giàn thun đi chừng vài tiếng đồng hồ là có chim rô-ti cho cả nhà ăn thoải mái.
Một hôm, anh Sáu Đẻn đến nhà tôi chơi đúng lúc cả nhà đang ăn cơm. Ba tôi mời anh Sáu theo kiểu xã giao:
- Gặp bữa ăn cơm với chú, Sáu ơi!
Anh Sáu lắc đầu, bước đến gần bàn ăn, nhìn dĩa chim khìa nước dừa vàng tươi, giòn rụm, chép miệng, nói:
- Chim khìa nước dừa mà để ăn cơm thiệt uổng!?
Má tôi cười, nói:
- Nhà tui đâu có ai biết nhậu.
Anh Sáu bước đến vịn vai tôi, nói:
- Mơi mầy bắn cho tao vài con nhậu chơi nghen Út, anh cho tiền đi học?
Được anh Sáu “đặt hàng” tôi vô cùng hãnh diện với gia đình. Hôm sau, tôi bắn cả chục con trau trảu, sáo sậu, cu đất, tu hú, cò ma, hí hửng đem đến cho anh Sáu. Anh Sáu mừng rỡ trả tiền công cho tôi rồi hú anh hai Lạc qua phụ nhổ lông chim làm mồi nhậu. Dượng Tư Lâu khen tôi:
- Thằng nhỏ bắn giỏi như Dưỡng Do Cơ bách phát xuyên dương.
Tôi không biết Dưỡng Do Cơ là ai, bách phát xuyên dương là gì nhưng trong bụng rất vui trước lời khen của dượng Tư và nhất là trước những đồng bạc do tôi kiếm được lần đầu tiên trong đời.
Anh Hai Lạc vừa nhổ lông chim vừa nói với tôi:
- Mầy ráng kiếm cho tao vài con bìm bịp coi, Út Nho?
- Bìm bịp khó kiếm lắm anh Hai ơi! Tôi đáp.
- Kiếm bìm bịp chi vậy? Chim gì nhậu cũng được chớ cần gì bìm bịp? Có của mà còn đèo bồng? Anh Sáu trách anh Hai Lạc.
- Hổng phải! Đặng ngâm rượu. Anh Hai Lạc phân bua. Bìm bịp ngâm rượu trị bịnh đau nhức gân cốt, phong tê bại xuội đại tài.
Dượng Tư Lâu xua tay nói:
- Mầy lầm rồi Lạc ơi! Thịt bìm bịp lớn cũng như thịt gà chớ có thuốc men gì ở trỏng mà ngâm rượu? Muốn ngâm phải ngâm chim con còn trong ổ chưa biết bay và làm như vầy nè…
Theo kinh nghiệm dân gian thì chim bìm bịp biết kiếm bài thuốc trị gãy xương rất hay. Để lấy được bài thuốc đó, người ta tìm ổ của nó, bẻ gãy xương ống, xương đùi, xương cánh chim con. Chim cha mẹ sẽ tha thuốc về xức đắp cho con, trong ba ngày những chỗ xương gãy sẽ liền lại như cũ. Người ta tiếp tục bẻ lần hai, lần ba cho được nhiều thuốc mới bắt chim con về ngâm rượu.
Học được cách làm bài thuốc hay, tôi ráo riết săn lùng ổ chim bìm bịp, bắt chim con về ngâm rượu cho ba má tôi uống. Bìm bịp thường sống và làm ổ ven sông rạch nên tôi càn lùm lướt bụi, lội sình, dang nắng dầm nước, bất chấp vất vả hiểm nguy, rình rập tìm kiếm gần nửa tháng mới gặp được một ổ trong đám bần và ô rô cóc kèn rậm rạp. Lòng hiếu thảo của tôi được đền đáp xứng đáng. Để món quà cho ba má có thêm ý nghĩa, tôi chưa vội ra tay mà ngồi núp trong lùm đợi chim cha mẹ tha mồi về cho con ăn bắn luôn một thể. Nhưng… nếu bắn chết chim cha mẹ thì con nào tha mồi tha thuốc về nuôi nấng chữa trị vết thương cho lũ chim non?
Nếu không có mồi ăn, không có thuốc chữa trị lũ chim non sẽ chết đói, mình sẽ không lấy được thuốc chẳng phải hoài công vô ích sao? Nghĩ vậy nên tôi không chờ bắn chim cha mẹ, leo lên nhánh bần có ổ chim. Trong ổ có ba con chim non chưa mọc lông vũ đang nằm ngủ vô tư hồn nhiên. Nghe tiếng động, ba con chim non tưởng cha mẹ tha mồi về, vui mừng ríu rít, nghểnh cổ lên, hả hoác miệng chờ miếng mồi tươi ngon chứ chúng đâu có ngờ đó lại là tên hung thần ác sát sắp giáng họa lên đầu chúng!
Tôi bắt một con cầm gọn trong lòng bàn tay. Hồi nãy nó vui mừng bao nhiêu, bây giờ hoảng loạn bấy nhiêu. Nó vùng vẫy, chòi đạp thoát thân một cách yếu ớt, miệng kêu lên chíp chíp liên tục như báo cho cha mẹ nó nghe biết, đến bảo vệ cứu giúp nó. Tôi dừng tay ngẫm nghĩ. Mình sơ ý bị trặc khớp, bong gân còn đau nhức thấu trời huống gì nó bị bẻ một lượt đến sáu khúc xương! Nếu có ai đó bẻ chân bẻ tay mình như vậy liệu mình chịu nổi không? Ba má mình sẽ nghĩ gì? Nếu bài thuốc không hiệu quả thì có phải mình đã giết oan ba sinh linh bé nhỏ không đủ sức kháng cự hoặc chạy trốn! Tôi đặt con chim trở lại ổ, cả ba con đều nằm im thin thít trông thật tội nghiệp, đáng thương.
Tôi rời ổ chim bìm bịp với nhiều ý nghĩ lung tung. Loài vật cũng có gia đình, cha mẹ, con cái, anh chị em và thương yêu, đùm bọc, chia sẻ mọi thứ với nhau như loài người. Chúng cũng biết sung sướng khi được sống bình yên, cũng biết khổ đau khi bị săn bắt, giết hại. Báo hiếu cho cha mẹ là chuyện nên làm bằng nhiều cách khác nhau nhưng không thể lấy khổ đau bất hạnh của chúng để mưu cầu sung sướng hạnh phúc cho mình. Để có những món ăn thơm ngon khoái khẩu cho gia đình, thời gian qua tôi đã bắn chết nhiều loài chim, trong số đó chắc chắn có không ít chim cha hoặc chim mẹ đang nuôi con và có thể cả hai, gián tiếp giết chết lũ chim non chưa đủ sức tự lực cánh sinh vì thiếu mồi. Tôi đã phạm phải sai lầm đáng trách, sung sướng trên sự đau khổ của các loài chim. Từ đó tôi đốt bỏ cái nạng giàn thun và thề sẽ không bắn chim nữa.
*
Ngày nay, tiến độ thành thị hóa nông thôn khá nhanh khiến ruộng đồng vườn tược bị thu hẹp dần, môi trường sinh thái bị hủy hoại, ô nhiễm nên chim chóc không còn nhiều như xưa. Thằng Khang cũng không phải tay sử dụng nạng giàn thun chuyên nghiệp, không phải tay thiện xạ nhưng tôi vẫn không cho nó chơi nạng giàn thun, không cho nó có điều kiện tập nhiễm tính sát sinh hại vật rồi phạm phải sai lầm như ông ngoại nó hơn năm mươi năm trước. Hơn nữa, cái nạng giàn thun của nó cũng có thể gây phiền toái cho xóm giềng và bạn bè trang lứa bởi tính khí nghịch ngợm, hiếu thắng của trẻ con.
Trương Hoàng Minh 

Hoa Tím Đợi Chờ

Đợi chờ
Em đứng mình em,
Bên đây sông !
Bìm bịp kêu xa,
Suốt cánh đồng...
Xuân qua, hè đến, thu vàng đợi....!
Em vẫn ngóng chờ mặc gió Đông !!
Thôi nhé chia tay,
Người viễn xứ...
Bìm bịp kêu chiều,
Hoa tím bay....
Anh đi có nhớ nơi nầy,?
Dòng sông bến cũ khi đầy khi vơi 
Em về em nhớ cánh đồng,
Thương con bìm bịp bến sông gọi buồn !
NM
Nỗi buồn bìm bịp
Truyện ngắn này em viết để tặng Thầy Gerard Sasges, một người Thầy em luôn yêu quý và kính trọng. Với một trái tim chứa chan tình cảm dành cho con người và đất nước Việt Nam, Thầy đã dạy cho em hiểu thêm rất nhiều điều về quê hương của em.
Lớp học ở nhà quê. (Nguồn: Google)
Cô gái quê trong truyện là một hình ảnh đất nước Việt Nam tuy mộc mạc, nghèo nàn, nhưng chân thật và tràn đầy tình cảm. Em biết đây chính là một Việt Nam trong mắt Thầy. Chỉ còn vài tuần ngắn ngủi nữa thì Thầy sẽ rời xa hình ảnh thân thương này, nơi mà Thầy từ lâu đã coi như nhà. Em mong Thầy sẽ luôn nhớ về nơi này và những con người ở đây. Và hy vọng một ngày nào đó em lại được gặp Thầy ở ngôi nhà Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Cũng mùa Hè năm ngoái, cả cái xóm Trại Cưa này rộn lên khi nghe tin có một thầy giáo nước ngoài đến đây để dạy cho con nít xóm tôi tiếng Anh. Nghe đâu anh chỉ khoảng ngoài ba mươi, có thân hình cao to, và một đôi mắt xanh rất đẹp. Anh được xã cho ở nhà bà Mai, có lẽ vì nhà bà khá tiện nghi so với những căn nhà khác ở cái xóm này. Hôm đầu tiên anh đến, con nít ở xóm ùn ùn kéo đến nhà Bà Mai để “coi mắt” anh. Hôm sau tôi nghe đám con nít cứ xít xoa nào là anh thầy giáo Tây đẹp trai y chang tài tử điện ảnh, anh thầy giáo Tây nói tiếng Việt giỏi như người Việt Nam mà anh còn tốt bụng cho tụi nó kẹo sô cô la quá trời. Thằng Tèo nhà tôi thì kể về anh như là thần tượng, còn say mê hơn lúc nó nói về anh Hai Lam Trường của nó. Vậy là “thầy giáo Tây” được cả xóm bàn tán rất sôi nổi suốt cả tuần. Sau này khi quen với anh rồi thì tôi mới biết thì ra anh là người Ca-na-đa (mà tôi cũng đâu biết Ca-na-đa là cái xứ gì đâu).
Ðang cùng thằng Tèo thẫn thờ dước gốc cây mận để tìm trái chín thì nghe tía kêu, “con Hồng mày nướng miếng khô cá lóc đem qua cho ông thầy giáo Tây ăn, từ hồi ổng về xóm mình tới giờ mình hổng có quà gì cho người ta hết.”
Tôi ậm ừ gật đầu, lật đật đi nướng khô, không quên bỏ vào bao ni lông một chút nước mắm me do tía làm sẵn đem qua nhà bà Mai. Vào bên trong thì thấy anh đang ngồi đong đưa trên cái võng đọc sách một cách rất chăm chú, tôi rụt rè đưa khô cho anh.
“Cái này tía em biểu đem qua cho anh ăn. Tía em là chú Tư Thẳng, nhà ở cuối xóm. Nhà em có thằng Tèo cũng học trong lớp tiếng Anh của anh.”
Anh vừa ăn vừa không ngừng tấm tắc khen khô ăn lạ quá. Anh hỏi tôi làm gì, sao không vào lớp anh học cho vui.
Tôi thì học tiếng anh với tiếng u gì, tôi học được hết lớp 7 ở trường xã thì theo tía đi chăn vịt rồi. Ðược dịp nói chuyện với anh, tôi không ngừng khoe về đàn vịt bầu mập mạp mà tôi nuôi mỗi năm từ hồi nước chưa lên. Lúc ruộng còn khô, ngày nào tôi cũng lùa tụi vịt từ đồng này qua đồng nọ để chúng kiếm ăn. Có khi tụi nó ăn trụi lúa vừa chín của người ta, làm tôi phải hớt ha hớt hải đuổi chúng đi, sợ chủ ruộng biết được sẽ bắt đền tía. Mà nuôi vịt vui lắm đó nghen. Tôi nhớ hồi tụi nó còn nhỏ, có chút xíu, lông vàng óng ánh, đi còn chưa vững, cái dáng đi thì khập khiễng rất dễ thương. Khi mà tụi nó đã cứng cáp, đủ lông đủ cánh, thì ngày nào tôi cũng đi lang thang với chúng khắp nơi. Vậy mà bây giờ tôi lại sắp xa tụi nó rồi.                                                                  
Cũng hổng biết cái chuyện chăn vịt của tôi nó hấp dẫn đến cỡ nào mà thấy anh vừa nghe kể chuyện vừa nhìn tôi đăm đăm.
Bắt đầu từ hôm đó tôi hay qua nhà bà Mai, lúc thì đem theo một vài củ khoai lang lùi, lúc thì một miếng khô cá lóc hay vài ba trái mận. Mỗi lần qua như vậy tôi hay líu lo kể cho anh nghe những câu chuyện của xóm tôi: Từ chuyện thằng Hưng bị té sông nhưng nó hên ôm được trái dừa khô để bì bõm bơi lên bờ, cho tới chuyện con vện nhà ông Hai A đi đâu mất tiêu hổm rày, ông Hai già khập khựng đi khắp xóm tìm hoài mà hông thấy.
Ngược lại, anh kể cho tôi nghe những câu chuyện về nơi anh ở, một cái chỗ nghe rất văn minh, giàu có, với hằng hà xa số xe ô tô và các ngôi nhà lầu (có nằm mơ chắc tôi cũng không bao giờ mơ ra được một nơi như vậy). Nhưng má anh nói ở quê anh tuy giàu có nhưng ít ai nói chuyện hay quan tâm đến ai như ở cái xóm này. Tôi nghe anh kể mà thấy chỗ đó sao buồn da buồn diết.
Có lần ngồi ở bờ sông, tôi hỏi anh ở bên Ca-na-đa sướng vậy sao anh hông ở mà về cái vùng nghèo xơ xác này của tôi làm gì (tôi nghĩ là rất nghèo so với lời anh kể về quê anh). Anh nhìn mơ màng ra sông, nói hông hiểu sao anh rất thương Việt Nam, thương những con người Việt Nam, đặc biệt là mấy đứa con nít như thằng Tèo em tôi. Anh nói người Việt Nam rất thông minh, nhưng tụi tôi lại không có cơ hội để vươn lên và phát huy cái thông minh của mình.
Tôi nghe anh nói mà thấy sống mũi mình cay cay. Tự nhiên cảm thấy thương mấy đứa con nít ở xóm quá trời quá đất luôn.
***
Ðang định cùng anh ra vườn nhà bà Mai để coi mít chín chưa thì thằng Tèo ở đâu lù lù xuất hiện với một bọc trứng kiến để rủ anh đi câu tép. Thấy cái môi nó đen y chang như kẹo sô cô la anh tặng làm tôi ôm bụng cười ngặt nghẽo. Cái thằng này lớn đầu rồi mà còn thích ăn ô môi như hồi còn con nít. Cười xong chúng tôi dẫn nhau đi tìm lá dừa để làm cần câu. Thằng Tèo nhí nha nhí nhảnh chỉ anh cách dùng cọng kẽm để làm lưỡi câu. Còn anh cũng hào hứng búng vào nước nhè nhẹ theo cách tôi chỉ để dụ tép đến ăn mồi. Mỗi lần câu tép là tôi và thằng Tèo chỉ thì thào với nhau, vì sợ tép bỏ mồi. Nhưng hôm nay tụi tôi cứ nói chuyện oang oảng, chắc vì được làm thầy anh một bữa. Vừa ngồi câu tép với anh và thằng Tèo vừa nghe gió chiều thổi hiu hiu, không hiều sao lòng tôi lại thấy nao nao.
Thấy tôi chơi với anh thân quá mấy bà trong xóm thường hay rù rì với nhau, “con Hồng xóm mình sắp được đi Tây rồi bây ơi.”
Tía tôi nghe được chỉ cười cười không nói gì. Tôi thì bực mình quá trời luôn. Tôi có ham đi tây đi ta gì đâu. Nghe kể nhiều về quê anh nhưng sao tôi vẫn thích cái xóm Trại Cưa của tôi hơn. Có rất nhiều các chị trong xóm đã bỏ ra đi. Tía nói tại mấy chỉ đẹp quá, ở lại đây thì uổng.
Trong xóm này hông ai khen tôi đẹp bao giờ, nhưng mọi người hay nói tôi có duyên giống như má tôi hồi còn sống. Tôi thấy tự hào lắm. Ðẹp làm chi như chị Hoa hay chị Lén rồi cũng bỏ xóm lên thành phố. Cũng không biết cái thành phố kia có cái gì hay ho mà các cô gái xóm tôi ai cũng lần lượt vì nó mà ra đi. Tôi thì cứ muốn ở hoài chỗ này, hàng ngày dẫn đám vịt bầu của tôi đi từ ruộng này qua ruộng kia. Rảnh rỗi thì đi bắt ốc hay hái mận với thằng Tèo.
***
Có một buổi tối đang ngồi thổi bếp ở ngoài sau nhà thì nghe tía nói là có thầy giáo Tây đến chơi. Tôi bỏ nồi cơm đang nấu dỡ chạy đi tìm rơm để lùi khoai, món mà anh thích ăn nhất. Vừa lên nhà thì thấy anh ngồi ở cái đi văng để lại từ hồi cố tôi còn sống. Mỗi lần động đậy thì nó kêu ken két, nghe riết tôi cũng thấy tiếng kêu này hay hay. Tía thấy anh qua thăm nên vui ra mặt, liền chạy qua nhà bác Hai kế bên xin một con cá rô để nướng làm mồi nhậu với anh. Lâu rồi không thấy tía vui như vậy. Ông kể chuyện không ngừng, kể một hồi kể ra luôn chuyện má tôi bị nước cuốn trôi ra làm sao…
Năm đó đúng vào mùa nước lớn, tôi chỉ mới tám tuổi, thằng Tèo thì còn ẵm trên tay. Nước ngập lênh láng ở ngoài ruộng vào tới trong nhà. Vì thiếu thức ăn nên tía và má đem tụi tôi qua nhà bác Hai gởi rồi chèo xuồng ra ruộng bắt cá. Không ngờ chiều hôm đó mưa tầm tã, sóng lớn thì nổi lên cuồn cuộn. Tía cố chèo về nhà nhưng không may giữa đường thì xuồng bị lật. Má tôi chới với trong dòng nước lớn. Lúc đó tía gắng sức kéo tay má để bơi đến một căn nhà sàn nằm ở mé sông. Nhưng má biết ông trời hông thương mình. Sợ tía sẽ cầm cự hông nổi với dòng nước dữ, má đã cắn tía một cái nhớ đời để ông buông tay má ra. Vậy là má gieo mình vào dòng nước trong cái nhìn đau như cắt của tía. Tía hay nói với tụi tôi, “má bây mà hông hy sinh thì giờ chưa chắc tao còn ngồi đây với bây.”
Kể tới đây thì tía tôi rưng rưng nước mắt. Tôi biết ông đã say nên đi lấy tấm chiếu trải ra cho ông nằm ngủ.
Trời càng về chiều tự nhiên tiếng bìm bịp trầm trầm ở đâu cứ kêu “bịp bịp bịp…” Anh hỏi là tiếng con gì kêu mà nghe bồi hồi quá. Tôi kể cho anh nghe về con bìm bịp. Loại chim này dựa vào thủy triều để kiếm ăn, cho nên mỗi lần nghe tiếng bìm bịp là biết nước lại sắp dâng lên. Bìm bịp thường đi có đôi. Nghe người ta nói bìm bịp kêu khoắc khoải như vậy vì nó đang lẻ bạn tình. Anh không nói gì nhưng tôi cảm giác được một nỗi buồn man mác trên mặt anh.
“Em đã từng yêu ai chưa?” Anh bất chợt hỏi tôi.
Tự nhiên bị anh hỏi ngang xương tôi đâm ra lúng túng. Tôi chợt nghĩ mang máng đến mấy thằng con trai mà tôi chơi thân trong xóm từ hồi còn học tiểu học. Hồi còn đi học ngày nào chúng tôi cũng ra đồng đá banh với nhau rồi dẫn nhau đến mấy con rạch bắt ốc. Nhưng cũng đâu có ai là người yêu tôi đâu. Mà tụi nó bây giờ đã lấy vợ hết ráo.
“Em chưa có người yêu. Tía nói mai mốt gặp ai coi được thì tía sẽ gả em cho người đó, không cần yêu đương chi cho mệt.”
“Còn anh thì sao?”
Anh uống cạn chén rượu trên tay, với một nỗi buồn lìm lịm trong giọng nói, “anh đã có vị hôn thê rồi, cô ta hiện vẫn đang sống bên Ca-na-đa.”
“Sao chỉ hông về đây cùng với anh cho vui?”
“Cô ấy không thích Việt Nam em à.”
Tôi hông hỏi thêm gì nữa, tự nhiên cầm chén rượu của tía để lại mà uống hết. Không biết bình đế hôm nay tía pha là bình thứ mấy mà sao tôi thấy cổ họng mình nghèn nghẹn một cách kỳ lạ.
***
Ðêm nay nhà bà Mai làm tiệc để từ giã anh. Ba tháng vậy mà qua cũng lẹ thiệt. Mọi người ai cũng vui vẻ cụng tới cụng lui trăm phần trăm. Tôi thì cứ chạy lăng xăng để múc thức ăn cho mọi người.
Ðang rửa chén ở sau nhà thì bất thình lình ở đâu anh đi xuống.
“Sao Hồng không lên ăn cùng mọi người?”
“Em phải rửa xong đống chén này trước cái đã.”
“Anh ngồi chơi với em nha?”
Tôi dạ nhẹ.
Tôi hỏi anh, “Ngày mai anh về rồi có còn quay lại đây hông?”
Anh trầm ngâm một hồi nhưng không trả lời tôi liền.
“Hồng có muốn anh quay lại không?”
Tôi cười nhẹ nhưng tự nhiên cảm thấy như có cái gì đó đang chận ngay cổ họng mình.
“Thôi anh lên nhà trên. Em rửa chén lẹ rồi lên ăn cùng mọi người cho vui.”
“Mai mốt đi rồi anh sẽ nhớ Hồng nhất đó.” Anh vừa nói vừa đứng dậy bỏ đi rất lẹ.
Tôi gật đầu, muốn nói thêm vài câu nữa nhưng anh đã quay lưng đi.
Nếu anh không đi, không biết tôi có dám nói với anh là “anh nhớ trở lại nghen, nếu anh về đây em có thể lùi khoai hay nướng cá cho anh ăn mỗi ngày, em có thể dẫn anh đi bắt tép về rồi xào hẹ…”
Tự nhiên ở đâu mấy con bìm bịp lại kêu lên những tiếng rất thê lương.
* Hồng Thuận
Tri Tôn (An Giang), 19 tháng 11, 2009