Hiển thị các bài đăng có nhãn Lòng Mẹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lòng Mẹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Tiếng chổi tre

Kỷ niệm lễ Vu Lan 2018

Mẹ Tôi

Tuyển Tập Các Ca Khúc Về Mẹ 

Mẹ ơi,
Canh khuya mẹ lặng lẽ,
Chiếc bóng với chổi tre...
Nuôi con bằng tuổi trẻ,
Nuôi con bao sắt se !

Mẹ kìm nén nỗi đau,
Vượt qua những u sầu.
Mong con ngày khôn lớn,
Thoả ước vọng mai sau...

Phương trời miên viễn xa xôi,
Mẹ còn tôi mất, trong đời chỉ tôi !
Canh khuya thanh vắng đâu rồi, 
Mẹ tôi vất vả nuôi tôi nên người..
NM
 
Tiếng chổi tre
Mặc cho mẹ quỳ lạy, van xin bố ở lại với mẹ con tôi. Bố cầm tay mẹ giật mạnh, mẹ ngã ngửa ra đằng sau. Bố quay lại liếc nhìn tôi một cái rồi xách vali đi một mạch ra ngõ. Cuối cùng mọi cố gắng của hai mẹ con đều vô vọng, bố vẫn quyết định đi theo người đàn bà mà bố đã qua lại mấy tháng qua...
***
Mấy tháng sau mẹ nhận được giấy gọi của tòa án đến giải quyết việc ly hôn do bố gửi đơn. Trời mùa đông lạnh giá, trước hôm mẹ và bố ra tòa mẹ cả đêm không ngủ. Dù biết trước sẽ không níu giữ được bố vậy mà mẹ vẫn khóc rất nhiều. Nằm bên cạnh giả vờ nhắm mắt nghe tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ lòng tôi đau như thắt. Lúc đó tôi rất muốn vùng dậy tìm đến người đàn ông mà tôi gọi bằng bố để níu kéo về với mẹ nhưng tôi lại không thể làm vậy vì mẹ. Mẹ đã dặn bố đã không còn yêu mẹ thì có sống với mẹ bố mẹ cũng sẽ không hạnh phúc, mẹ đã dặn dù bố có như thế nào thì cũng là người sinh ra con...Đèo tôi đến tòa án trên con đường đá gập ghềnh, ngược gió trong cái rét đầu đông. Mẹ gật đầu khi tòa hỏi mẹ lần cuối có đồng ý để bố mẹ ly hôn, mẹ không cần khoản trợ cấp nào của bố dành cho tôi, không nhận một tài sản chung nào của bố mẹ mà mấy năm qua mẹ vun đắp. Bước ra khỏi cánh cửa kia bố và mẹ sẽ là hai người xa lạ không còn ràng buộc nhau. Nhớ lại lúc bước qua tôi trong tòa án. Tôi đã nắm lấy tay bố kéo lại, bố quay lại nhìn tôi một lúc, rút tay ra và đi thẳng theo hướng người đàn bà đang chờ bên ngoài...
Mẹ về xin một mảnh đất nhỏ của ông bà ngoại dựng tạm mái nhà tranh để ở. Tôi dần lớn lên cần bao khoản chi phí cho học hành. Một mình mẹ làm công nhân lương không đủ cho tôi ăn học. Mẹ xin làm thêm buổi tối việc quét dọn đường phố. Hàng ngày sáng dậy sớm lo cho tôi ăn, đèo tôi đi học và đến công ty đi làm. Tối về mẹ lo cơm nước dặn dò tôi ở nhà cẩn thận rồi lại vội vàng trên chiếc xe đạp cũ kỹ đi đến để kịp giao ca công việc lao công. Nhìn người mẹ càng ngày càng héo hắt lòng tôi như ngàn vạn lưỡi dao đâm. Tôi xin mẹ cho đi phụ mẹ vào cuối tuần được nghỉ học, ban đầu mẹ không đồng ý nhưng tôi cứ nì nèo nên mẹ đồng ý cho đôi đẩy xe phụ mẹ vào thứ 7 hàng tuần.
Đẩy xe rác đi đằng sau mẹ tôi mới ngộ ra nhiều điều đằng sau công việc của mẹ mà tôi chưa biết. Mọi người đi đường có vẻ khinh thường những người quét rác như mẹ. Khi đang lúi húi mấy anh thanh niên rú còi trêu mẹ làm mẹ giật thốt mình, có khi chỗ mẹ vừa dọn xong mấy người ngồi trong nhà quăng vù bịch rác ra. Nhiều lúc những người trên xe ô tô cầm những túi bẩn ném vào người mẹ...Mẹ vẫn bỏ qua tất cả để cố gắng kiếm tiền vì tôi. Chiếc xe dần nặng bánh như chính gánh nặng cuộc đời mẹ con tôi đang chầm chầm trôi qua mỗi ngày. Cứ cuối tuần tôi lại được nhìn hình bóng mẹ trong đêm với tiếng chổi nghe nặng nề trên đường phố. Ánh đèn điện hắt xuống khiến mẹ càng hiện rõ trong đêm. Cái rét mùa đông hay cái nắng nóng mùa hè cũng không làm mẹ nản chí. Cuộc sống hai mẹ con đỡ cơ cực hơn, nhưng bù lại mẹ nhìn gầy gò, xanh xao hơn trước.
Đợt này được nghỉ hè nên ngày nào tôi cũng được đẩy xe cùng mẹ. Đi qua công viên chợt thấy mẹ đứng khựng lại nhìn gì đó từ phía bên kia đường. Chạy lại gần mẹ tôi thấy bố cùng người đàn bà ấy đang cầm tay cho bé trai tập đi. Nhìn thấy nước mắt mẹ rơi còn sống mũi tôi cay cay. Không hiểu tại sao lúc đó tôi đã chạy sang bên đường, đứng trước mặt bố. Hai bố con tôi nhìn nhau như người xa lạ. Cuối xuống nhìn bé trai đang cầm tay bố lôi đi. Nhìn nó rồi nhìn tôi như hai người ở hai thế giới khác nhau. Nó được ăn mặc đẹp còn tôi đang khoác trên mình bộ quần áo lao động cũ kỹ, bẩn thỉu. Tôi chợt nhận ra vì sao bố bỏ mẹ con tôi đi theo người phụ nữ đó. Không nói câu nào tôi lùi dần, lùi dần và chạy sang nơi mẹ đang đợi. Mẹ ôm lấy tôi vuốt mái tóc dài rối bù của tôi trong bóng tối. Mẹ tiếp tục quét còn tôi quay lại đẩy chiếc xe đi. Tôi không biết bên kia đường bố có nhìn thấy mẹ con tôi không nhưng tôi nhận ta tiếng chổi của mẹ nghe không còn nhanh nhẹn như ban đầu mà nằng nặng. Nhận ra nỗi đau mà mẹ đang kìm nén để ngăn không cho dòng nước mắt chảy ra.
Hôm sau bố tìm đến mẹ con tôi. Bố đưa cho mẹ một chiếc phong bì không biết đựng bao nhiêu tiền trong đó nhưng tôi nghe bố nói với mẹ "cầm lấy mà lo cho con bé, đừng đi làm việc quét dọn nữa người khác nhìn thấy sẽ không hay...". Mẹ nói lại "Làm sao mà không hay, công việc đó có gì bất chính à. Hay anh xấu hổ khi biết mẹ con tôi làm nghề này...". Bố hung dữ ném phong bì xuống bàn định đi. Tôi chạy lại cầm chiếc phong bì chạy theo bố "ông cầm lấy đi, mấy năm qua không có ông mẹ con tôi vẫn sống tốt. Nếu ông cảm thấy xấu hổ vì có đứa con quét rác như tôi thì không cần nhận tôi là con. Từ bây giờ tôi cũng không nhận ông là bố là được rồi đúng không?". Bố tát tôi một cái rất mạnh cùng câu nói "con mất nết". Mẹ chạy ra ôm tôi vào lòng và đuổi bố về. Tay tôi vẫn nắm chặt chiếc phong bì tiền của bố, nước mắt tôi chảy dài và lòng tôi tan nát...
Dần dần cuộc sống của hai mẹ con ổn định hơn. Từ ngày đó mẹ không còn nhắc về bố trước mặt tôi. Tôi chỉ biết cố gắng học thật giỏi để làm mẹ vui, cũng từ ngày có cái tát đó bố không còn quay lại tìm mẹ con tôi. Mười năm sau tôi đậu đại học. Mẹ vẫn cùng chiếc chổi tre mỗi đêm cho tôi ăn học. Chọn một trường trong tỉnh để được gần mẹ. Mỗi lần ai hỏi tôi về mẹ tôi rất tự hào trả lời mẹ làm công nhân và lao công quét rác. Trên các con đường hình bóng mẹ con tôi vẫn in hằn trong đêm tối. Mẹ bây giờ không còn như trước. Khuôn mặt mẹ đã có nhiều nếp nhăn, làn da đen sạm, mái tóc đã điểm màu hoa râm. Nhưng với tôi mẹ vẫn là cả một tài sản quý báu mà tôi không thể đánh đổi lại bất kỳ tài sản quý giá nào?
Đã lâu vậy mà đôi khi thức giấc vẫn nghe tiếng nấc của mẹ trong đêm. Tôi đã rất hận bố vì đã phụ bạc lại tình yêu chung thủy mẹ dành cho bố. Hận bố chạy theo giàu sang mà bỏ rơi mẹ con tôi, hận bố vì trong suốt mười mấy năm qua bố không một lần đến thăm mẹ. Cuộc sống đã lâu tôi không còn quan niệm rằng mình có bố, tôi chỉ cần bàn tay mẹ nắm chặt tôi mỗi lúc ốm đau, mỗi kỳ thi khó khăn mà tôi gặp phải. Hôm nay tôi nhận học bổng toàn phần, mẹ mừng mà xin nghỉ hẳn một ngày dành cho tôi. Tôi chọn mua cho hai mẹ con bồ đồ thật đẹp, cầm tay mẹ đi qua những con đường dài mà công việc lao công của mẹ con tôi mỗi tối vẫn đi qua. Mẹ nắm chặt tay tôi như tôi vẫn còn non trẻ. Mẹ bảo mẹ hạnh phúc vì có tôi, mẹ tự hào về tôi, mẹ chỉ cần tôi bên cạnh là đủ. Ôm mẹ vào lòng tôi nhận ra thân hình của mẹ ngày càng nhỏ bé, da thịt mẹ đã vì tôi mà hao tổn quá nhiều. Đã nhiều lần tôi bảo mẹ nghỉ công việc lao công nhưng mẹ không đồng ý. Mẹ bảo cần tiền lo cho tương lai của tôi, rồi lúc tôi lấy chồng, lúc mẹ già nua không còn làm được gì nữa. Những lúc như vậy tôi chỉ biết ôm lấy mẹ mà khóc. Mẹ bảo bây giờ mẹ mà thiếu tiếng chổi tre mẹ sẽ rất buồn. Nó đã trở thành người bạn thân quen của mẹ...
Ngày tôi ra trường mẹ cầm bó hoa đến tận trường tặng tôi. Bạn bè ai cũng lại hỏi thăm mẹ, họ cảm phục mẹ cả đời con gái của mẹ đã hy sinh cho tôi. Đã có nhiều người đến với mẹ nhưng mẹ đều từ chối, mẹ bảo mẹ chỉ cần tôi là đủ. Xin vào một doanh nghiệp nước ngoài công việc cũng ổn định. Đã đến lúc mẹ cần nghỉ ngơi nhưng tính mẹ lo xa nên vẫn hàng đêm với chiếc chổi tre. Hôm đó là một ngày rét mướt mẹ bảo tôi ở nhà mẹ làm nốt hôm nay rồi nghỉ nên tôi không cần phụ mẹ. Tiếng điện thoại reo giọng một người đàn ông lạ nói mẹ bị tai nạn phải nhập viện. Không còn nghe thấy gì tôi lao như bay đến bệnh viện, trên người mẹ máu đỏ thấm ướt bộ quần áo lao công. Bác sĩ thấy tôi lắc đầu bảo tôi vào nói lời cuối với mẹ. Trời đất như sụp đổ. Tôi lao đến ôm mẹ mà khóc thảm thiết. Mẹ nặng nề lấy trong túi áo chùm chìa khóa tủ mẹ luôn mang bên mình. Giọng mẹ thì thào "Con hãy giữ lấy phòng thân, giao lại cái phong bì cho bố con và nói với ông ấy mẹ chưa bao giờ hận ông ấy cả...". Tiếng la của tôi dù có đến tận trời xanh thì mẹ vẫn rời xa tôi vĩnh viễn.
Đã một tuần mẹ bỏ tôi ra đi. Căn nhà nhỏ bây giờ mình tôi lẻ loi với cuộc sống. Mở chiếc hộp gỗ của mẹ đựng trong chiếc va li bằng sắt đã cũ. Phong bì cách đây gần mười lăm năm bố đưa cho mẹ con tôi chưa có vết bóc cùng chiếc sổ tiết kiệm của mẹ để lại cho tôi. Ôm những thứ đó vào lòng tôi như người chết lặng giữa dòng đời. Thì ra mẹ không hề sử dụng số tiền bố đưa cho hai mẹ con tôi. Mẹ đã cố gắng dùng tiền bằng mồ hôi xương máu của mẹ để nuôi lớn tôi ăn học thành người. Nước mắt thay nhau rơi xuống, chạy đến trước bàn thờ mẹ, tôi quỵ xuống chỉ biết khóc mà gọi hai tiếng "mẹ ơi...". Đêm khuya tĩnh lặng chỉ mình tôi với bóng tối, đêm nào tôi cũng mơ thấy hình bóng mẹ về bên cạnh. Mơ thấy mẹ hát đưa đôi vào giấc ngủ...
Hôm đó tròn một trăm ngày cho mẹ. Bố tôi đến thắp hương. Cũng đã gần mười lăm năm tôi chưa gặp bố. Tôi thấy bố đứng nhìn ảnh thờ mẹ hồi lâu rồi quay sang tôi "Con định thế nào? Con định sống một mình như thế này sao?". Tôi chỉ im lặng nhìn bố như một kẻ thù, tôi hận bố đã đẩy mẹ con tôi đến tình cảnh ngày hôm nay. Tôi im lặng trước bố. Cả buổi chiều đó bố ở lại cùng tôi nhưng một lời tôi cũng không thể nói ra với bố. Lúc bố ra về tôi đã gọi lại "khoan đã mẹ nhờ tôi gửi lại cái này cho ông. Mười lăm năm qua mẹ chưa hề bóc nó. Lúc đó mẹ cầm vì chỉ sợ có lúc mẹ cần đến để lo cho tôi, nhưng rất may tôi vẫn khỏe mạnh đến bây giờ. Số tiền này xin gửi lại cho ông...". Lúc đó tôi thấy bàn tay run run từ bố đưa ra nhận phong bì từ tôi. Bố muốn nói gì đó nhưng không thể nói nên lời. Bố quay đi. "Mẹ còn dặn tôi nói lại với ông rằng mẹ chưa bao giờ hận ông. Mẹ thật ngốc ngếch. Mẹ không hận ông, mẹ rất yêu ông. Tôi vẫn thường nghe thấy tiếng mẹ khóc nghẹn trong đêm vì ông. Còn tôi, tôi hận ông đến tận xương tủy. Tôi không thể tha thứ cho ông. Nhưng dù sao cũng cảm ơn ông vì đã đẩy mẹ con tôi vào tình cảnh này. Đẩy tôi thành đứa con gái không cha, không mẹ. Cảm ơn ông đã cho mẹ con tôi nghị lực sống đến ngày hôm nay..." Chẳng hiểu sao lúc đó tôi hét lên với bố dù rất muốn được chạy lại ôm bố làm điểm tựa cho nỗi đau lớn tôi vừa trải qua. Bố không quay lại, bố cúi đầu im lặng và bước đi loạng choạng trong bóng chiều tà.
Hôm nay là sinh nhật tôi. Mọi năm mẹ đều nghỉ một ngày làm dành cho tôi nhân ngày sinh nhật. Dù không có quà nhưng những bữa ăn ngon trong ngày tôi sinh ra làm tôi ấm áp. Một mình lang thang dọc con đường tôi nghe thấy tiếng chổi đêm của cô lao công đang dọn dẹp đường phố trước mặt. Hình ảnh mẹ cùng tiếng chổi tre vang vọng trong đêm hiện về trong tôi, nước mắt không thể kiềm chế mà rơi dọc con đường. Từ ngày mẹ mất đêm nào tôi cũng đi dọc những con phố để tìm lại hình bóng mẹ. Nỗi đau quá lớn làm tôi mất đi phương hướng trong cuộc sống. Bạn bè, đồng nghiệp động viên tôi nên kìm nén lại để lo cho tương lai phía trước. Nhưng tôi hàng đêm vẫn theo đuổi tiếng chổi đêm để được tìm lại hình dáng người mẹ mà cả đời tôi yêu mến, cảm phục...
Năm năm sau tôi có gia đình riêng với chồng và con gái gần một tuổi. Người chồng yêu thương hết mực và con gái ngoan hiền có lẽ chính là món quà mẹ ban tặng cho tôi. Hàng năm vào ngày sinh nhật tôi. Tôi không cần bánh sinh nhật, không cần thổi nến mà chỉ cần cùng nắm tay chồng và con đi dạo trên những con phố nơi tuổi thơ tôi từng gắn bó với tiếng chổi của mẹ....
Tiểu Mẫn
Sau mùa gặt
Chiều. Cánh đồng sau mùa gặt nồng nàn mùi rạ chín, thứ hương thơm dung dị của đất trời hay níu người ta nhớ về ký ức và nó đưa chị trở về những tháng ngày đã cũ. Những ngày tháng chộn rộn vui buồn mà giờ đây sẽ làm cho chị chợt cười, chợt khóc. Cảnh này đã trở thành quen thuộc, cứ sau một vụ mùa, người xóm Chùa lại thấy thấp thoáng dáng người đàn bà liêu xiêu vừa đi, vừa khóc, vừa dang tay hứng từng giọt nắng sót lại của một ngày. Tiếng hát đứt quãng từng hồi, vọng vào trong gió nghe như tiếng nấc của người đàn bà chịu nhiều nghịch cảnh.
Năm nay chị Hiền đã hơn 40 tuổi, thần trí lẩn thẩn, khi tỉnh khi điên. Chị thích người ta gọi mình bằng “chị”, con nít 5 - 6 tuổi thưa bằng “cô”, chị rầy liền: “Tao còn trẻ khô hà, chưa lấy chồng nữa mà gọi bằng cô gì?”, nhưng có khi chị đi theo đám nhỏ năn nỉ hoài xin chúng gọi mình một tiếng “má”. Đám con nít trong xóm, đứa nhỏ chưa biết thì sợ chị, đứa lớn thì thân với chị. Nhưng thân với chị nhất là sư Hạnh. Chị hay lại chùa tâm sự với sư Hạnh, lần nào nói chuyện với sư Hạnh chị cũng khóc. Còn nhớ, lần chị khóc với sư Hạnh nhiều nhất là lúc chị vừa bị người ta cướp đi đời con gái, rồi chàng trai chị yêu thương cũng vì chuyện ấy mà đem chuyện cưới xinh tính với người con gái khác ở thị thành.
Bữa nhà anh Thanh rộn ràng cười nói, hai họ rôm rả chúc mừng nhau mà lòng chị đau như ai cắt. Hôm ấy cũng là một ngày tháng Giêng tươi đẹp, từng vạt nắng trải vàng trên gốc rạ, cánh đồng sau mùa gặt bỗng vàng óng ánh. Sau mùa gặt, cánh đồng chợt rộng lớn mênh mông, làm chị giật mình thấy mình bé nhỏ, mỗi bước chân đi sao bỗng chơi vơi và lạc lõng. Cảnh chiều vẫn điềm nhiên như hôm qua anh Thanh còn nắm tay chị đi trong chiều nắng tắt. Vậy mà hôm nay, người con trai ấy lại bỏ chị trong lúc đời ngập tràn dâu bể.
Giọt nước mắt ròng ròng chảy miết rồi một ngày khô cạn. Chị về nhà trông lại vườn rau, rảnh rỗi thì lên chùa tưới vườn thuốc nam, quét sân, chăm mấy luống hoa hồng, hoa cúc... Có bữa chán quá không muốn làm gì, chị thui thủi ngồi lau tượng Phật. Nhưng tánh người cũng bắt đầu thay đổi, chị trở nên ít nói, ít cười. Nếu có cười thì cũng cười nhàn nhạt không rõ vui buồn. Thời gian chẳng biết là bao lâu, nhưng cũng chắc đủ làm người ta nguôi ngoai niềm thương nhớ. Còn anh Thanh, từ độ cưới vợ rồi về thành phố ở đến nay cũng đủ trở thành xa lạ với xóm Chùa. Nên bữa đó anh như khách lãng du đến chùa sư Hạnh thắp nhang cúng viếng và để có cái gọi là “tình cờ gặp lại người xưa”. Nhưng gặp làm gì khi đôi mắt năm xưa đâu còn men sóng sánh mà có chăng chỉ là một miền khô khan, ráo hoảnh. Chị đứng trước sân chùa ngay vạt cúc hoe vàng nhìn anh bằng ánh nhìn nửa thương, nửa trách. Trách anh sao lại bỏ chị khi giông bão cuộc đời xô chị ngã, lúc ấy chị cần lắm vòng tay nâng đỡ từ anh. Nhưng rồi chị nhận ra, có trách thì cũng nên trách số phận của mình, chớ trách người ta chi tội nghiệp. Rồi chị xách nón lá vô thưa: “Sư Hạnh, con về nghen!”. Chị quay lưng bỏ lại khoảng sân chùa đầy nắng và một người đàn ông lặng nhìn theo bóng chị khuất vào những rặng cây già. Một ánh nhìn gởi theo ngàn lời xin lỗi mà anh cho rằng mình nợ chị suốt đời. Đã có lúc anh hối hận bởi mình yếu đuối không vượt qua được những dư luận thấp hèn. Và khi nhìn lại đôi mắt người xưa, mới hay sâu thẳm lòng mình vẫn còn một niềm thương lắng đọng...
Người ta nói cuộc đời công bằng lắm, nếu lấy của mình đi thứ này sẽ trả lại cho mình một thứ khác. Rồi một ngày hạnh phúc lại mỉm cười với chị. Gần 40 tuổi, chị vỡ òa trong niềm vui làm mẹ khi sư Hạnh nhặt được thằng bé bị ai bỏ trước cổng chùa. Chị tíu tít xin sư Hạnh đem thằng nhỏ về nuôi. Chị thầm nghĩ, không biết ai một lần lầm lỡ hay có người bị hại đời con gái để rồi có một hình hài giữa cuộc đời mà không dám thừa nhận. Chị bồng thằng bé lên tay, lúc đó sư Hạnh thấy chị cười, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi lâu ngày ít cười, ít nói.
Chị đặt thằng bé tên Khôi, người ta cười “cái thằng con lượm mà đặt chi cái tên đẹp, cũng đâu thay đổi được số phận nó. Sao không đặt thằng Lượm hay thằng Nhặt… cho rồi”, chị bảo “đặt mấy tên đó lớn lên con em buồn”. Khôi càng lớn càng có nhiều lời đồn đại khi nhìn thằng bé người ta chợt nhớ ra gương mặt hiền lành của chàng trai năm cũ nỡ bỏ người con gái giữa cuộc đời nhiều nghiệt ngã. Người ta bảo, người ta thấy một phụ nữ ăn mặc sang trọng, tay bế theo thằng bé đỏ hỏn hỏi thăm đường về chùa sư Hạnh. Khi người phụ nữ ấy trở ra và bước lên xe, người ta không nhìn thấy đứa bé đâu… Rồi người ta mới chực nhớ ra người phụ nữ đó là vợ anh Thanh. Nghe nói vợ chồng anh tan vỡ lâu rồi, anh buồn bỏ nhà đi làm ăn ở đâu biền biệt. Vợ anh cũng chẳng nghĩ tình, nên về xóm Chùa trả lại một đứa con để dễ bề thong dong cuộc sống mới.
Ai nói gì chị cũng lặng im nuôi thằng Khôi khôn lớn. 12 tuổi, bé Khôi lớn rồi nên cũng biết chuyện đời mình, đời má. Nhưng làm sao em biết hết nỗi quặn thắt suốt 12 năm má gạt bỏ bên tai bao lời đồn đại. Không cần biết ai đã bỏ rơi em, chỉ cần giữa cuộc đời mênh mông này, em có vòng tay che chở của má là đủ. Nhưng có lẽ, ở cái tuổi ngây ngô ấy, em luôn cần một thứ rõ ràng để hãnh diện rằng em có đủ đầy ba má, để xóa bỏ mặc cảm “em không phải đứa con lượm ở chùa”!.
Rồi một ngày, người dân xóm Chùa không ai nhìn thấy thằng Khôi nữa, chỉ thấy một bà mẹ hoang hoải tìm con. Nước mắt bà rơi vãi khắp vạt đồng. Lại một buổi chiều tháng Giêng sau mùa gặt, xóm Chùa nghe một tiếng khóc lúc thét gào, lúc kiệt cạn, tỉ tê vọng sau mái chùa sư Hạnh rồi chết lịm trong đêm. Tiếng gõ mõ của sư Hạnh đêm đêm buồn tao tác, mấy chiếc lá lìa cành chạm nhẹ lên mái ngói rong rêu tìm về với cội. Sương phủ trên mái chùa, rơi thành những giọt dài như nước mắt. Trách sao số phận vô tình để hạnh phúc đến rồi đi, chập chờn, mong manh, hư ảo…
CẨM THI
 Mẹ là Phật
Một đời dầu dãi gió mưa,
Một mình thân mẹ sớm trưa xế chiều,
Cuộc đời mẹ quá cô liêu,
Thân cò lặn lội sớm chiều nuôi con,
Dẫu rằng thân mẹ héo hon,
Suốt đời mẹ vẫn vì con, thương chồng
Tuổi già phận bạc long đong,
Đắng cay thân mẹ theo dòng đời trôi.
Mẹ là vị Phật trên đời,
Con nào có biết mẹ thời vẫn vui
NM

"Người mẹ"

        Đau đáu nhìn con lần nữa, bà quay ra. Lụi cụi bước được mấy bước, bà dừng ngoái lại. Cánh cửa nhà bà người con đã đóng sập. Bà chả thấy đứa con trai đâu, chỉ còn hằn hiện cánh tay nó chỉ thẳng ra cửa và vang bên tai bà tiếng gầm của nó... Người con trai sừng sộ sấn sổ bước tới trước mặt mẹ, chỉ thẳng tay ra cửa: -Tôi không chịu được bà nữa rồi. Bà cút ngay khỏi cái nhà này, cút ngay khỏi cái nhà này! C...ú...t !Bà mẹ lặng nhìn đứa con. Cái nhà này... cái nhà này... có phải của nó đâu? Của nó trong cái nhà này có chăng là cái nhau thai nó, đặt trong chiếc nồi đất chôn ở góc sân sau, bên gốc cây hồng xiêm kia, buổi tối bà đẻ ra nó cách đây đã 28 năm...
       Đêm đông năm ấy, bụng nhâm nhẩm đau, bà cảm thấy có lẽ đã chuyển dạ đẻ nhưng nghĩ nó báo động vậy thôi, dần dà rồi cũng phải đến sáng mai, nên bà còn cố bóc nốt rổ lạc bóc thuê để kịp trả gọn cho người ta trước ngày sinh nở. Bà sắp vượt cạn chỉ có một thân một mình. Khi bà có mang ba tháng, chồng bà bị một cơn đột quị qua đời. Càng thương nhớ chồng, bà càng ráng sức làm lụng, chăm chút cái thai, ngong ngóng đứa con. Cái nhà tranh vách đất rộng rãi mà tuềnh toàng lúc này, chỉ có mỗi thân bà và đứa con đang cựa mình trong bụng. Dưới ngọn đèn dầu leo lét, trong lúc bụng dạ mỗi lúc một quặn đau hơn, bàn tay bà vẫn gắng xiết bóp cái kẹp tre cho những củ lạc khô cứng vỡ ra những nhân lạc... Đâu ngờ, đột nhiên bụng bà đau dữ dội như đang rách từng khúc ruột. Bà oằn oại bò quanh nhà rên la. Bác hàng xóm nghe động chạy sang, cập rập sửa soạn thu xếp giúp đưa bà đi nhà hộ sinh, nhưng không kịp. Bác đã tháo vát thay nhà hộ sinh làm tất cả mọi việc để thằng bé được cất tiếng chào đời.
        Từ ngày có thằng con, bà mau nguôi ngoai nỗi đau góa bụa. Niềm vui và hy vọng đời bà cứ lớn dần lên theo sự lớn lên của đứa con trai kháu khỉnh. Bà tần tảo quần quật làm lụng, hết phụ hồ lại trông trẻ, hết dọn lau nhà cửa cho các gia đình lại buôn thúng bán bưng, đêm đêm còn nhận làm thuê gia công vót mây, bóc lạc, dán hộp để nuôi con. Trọn mười năm, bà chắt bóp dành dụm mua được cái nhà của chính người chủ nhà cho vợ chồng bà thuê, rồi sau đấy lại xây được lên ba gian nhà cấp 4. Cái nhà cấp 4 mặt phố trên mảnh đất sáu chục mét vuông này bây giờ đáng bạc tỉ, lúc bà mua, nó chỉ là cái nhà tranh vách đất sơ sài xiêu vẹo nơi heo hút. Dưới mái nhà này bà đã tần tảo nuôi thằng con lớn khôn, trưởng thành, lo cưới vợ cho nó chu tất, đàng hoàng. Mấy năm rồi vợ chồng nó làm ăn sinh sống yên ổn trong cái nhà này. Tất cả, tất cả do bàn tay bà gây dựng. Cái nhà này... cái nhà này... có phải của nó đâu... Của nó trong cái nhà này có chăng là cái nhau thai nó, đặt trong chiếc nồi đất chôn ở góc sân sau, bên gốc cây hồng xiêm kia, buổi tối bà đẻ ra nó cách đây đã 28 năm rồi...
        Mặc dầu bà biết thằng con trai độc nhất của bà còn lắm dại dột nhưng suốt bấy nay nó luôn là niềm an ủi, niềm vui, niềm hy vọng và lẽ sống đời bà. Tiếng quát đuổi của nó sáng nay, bà không bất ngờ lắm mà bà vẫn đứng sựng như trời trồng, đôi mắt đờ dại nhìn con... Người con trai thấy bà chần chừ, lại một lần nữa trừng mắt, chỉ thẳng tay ra cửa gầm lên:- Bà cút ngay khỏi cái nhà này, cút ngay khỏi cái nhà này! C...ú..t !Bà mẹ biết, đến nước này thì không thể nấn ná được nữa rồi. Đăm đăm đau đáu ngước nhìn con, bao nhiêu nước mắt bà chảy cả vào trong, dồn tụ nơi trái tim bà:- Thôi thì mẹ đi...
        Đau đáu nhìn con lần nữa, bà quay ra. Lụi cụi bước được mấy bước, bà dừng ngoái lại. Cánh cửa nhà bà người con đã đóng sập. Bà chả thấy đứa con trai đâu, chỉ còn hằn hiện cánh tay nó chỉ thẳng ra cửa và vang bên tai bà tiếng gầm của nó... Chính cánh tay này đây, hồi nó hai ba tuổi cũng chỉ thẳng ra đường như thế đòi bà bế đi mua kem, bế ra xem rước đèn Trung thu, xem bắn pháo hoa đêm hội...
        Bà lụi cụi gầm mặt bước, bước... vô cảm, không biết đi đâu biết về đâu. Bà cứ đi, cứ đi, đến một lúc bà thấy xung quanh vắng vẻ, ngẩng lên bà nhận ra bên bà là một vườn hoa. Bà rẽ vào, rón rén ngồi xuống chiếc ghế đá, tựa lưng vào thành ghế nhìn trời nhìn đất, đầu óc luơ quơ trống rỗng.        
        Chiều xuống, bà định thần lại, thấy loáng thoáng những cặp vợ chồng đưa con dạo vườn hoa. Đứa được bế ẵm, đứa được công kênh, đứa thì dắt díu.
        Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, đêm khuya bỗng sốt cao co giật, bà đã ôm nó trong lòng hốt hoảng chạy như ngựa vía đến bệnh viện cấp cứu...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, bà may cho nó chiếc quần kaki xanh, chiếc áo pôpơlin trắng, sắm cho nó cái cặp mới dán hình con thỏ để nó đi khai giảng năm học tiểu học đầu tiên. Nó mặc quần áo mới, đeo cặp sách hớn hở, tung tăng chạy ra chạy vào, gọi mẹ rối rít. Bà cho nó chiếc bánh dẻo, nó ăn ngon lành quá, miệng bà đến bây giờ vẫn còn thấy ngọt lừ...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, nô đùa bị ngã sai khớp, cổ chân sưng húp, ngày lại ngày bà cõng nó đến xin thầy lang nắn bóp, dán cao. Đôi bàn tay nó ôm cổ bà, cái má nó ấp bên má bà, đến bây giờ bà còn thấy mềm mại, ấm nóng...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này...
         Bao nhiêu cặp bố mẹ bồng bế dắt díu con đi qua là bấy nhiêu lần bà nhớ về thằng con bà từ độ nó còn bé bỏng cho đến lúc nó lớn khôn.
        Đêm xuống. Vườn hoa vắng lạnh. Bà vẫn cứ ngồi như tượng hoài niệm về đứa con bà. Bỗng bà hoảng hồn, toát mồ hôi khi bà nhớ lại lời Phật dạy, tội lớn nhất đối với một con người là tội bất hiếu. Thằng con yêu thương nhất mực của bà rõ là mắc tội này rồi. Bà lại nghe nói, những đứa con can tội bất hiếu sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Kiếp này bị trừng phạt, kiếp sau vẫn còn bị trừng phạt nữa, có thể bị cả voi giày ngựa xé... Thằng con bà chắc chắn bị trừng phạt rồi. Trời ơi, bà trút hết tâm sức cho nó, những mong đời nó sung sướng thì rồi chả nhẽ nó chịu khốn khổ như thế a? Bà hãi hùng lo cho thằng con của bà quá! Nước mắt bà tuôn chảy xuống miệng chát mặn... Giờ này chắc nó ngủ rồi, hẳn nó chả biết mà lo cho cái thân nó sao bớt đi nỗi khốn khổ bị trừng phạt đâu. Mà đêm nay, không biết nó có nhớ vào giường ngủ không hay lại nằm xem truyền hình trên cái ghế xếp, rồi ngủ quên đi để cho muỗi nó bu đốt mẩn đỏ khắp người...
          Bà ngước nhìn bầu trời. Bầu trời đầy sao lung linh. Bà nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đầy sao nhấp nhánh. Thần Phật có ở chốn này không? Thần Phật linh thiêng có ở chốn này không? Bà chắp tay vái lạy các vì sao trên trời, dưới đất, khấn cầu... Bà khấn cầu Thần Phật hãy tha thứ cho đứa con bà, nó nông nổi dại dột, quá nghe vợ mà cư xử tệ với bà. Đúng là nó tệ thật, nhưng bà cầu xin Thần Phật nhẹ tay trừng phạt, cho đời nó bớt khốn nạn, thân nó bớt khốn khổ. Cái thân bà đau khổ bà chịu được chứ thân nó mà đau đớn, khốn khổ thì lòng bà không thể nào yên.
         Bà cứ ngồi lẩm bẩm cầu nguyện như thế cho đến lúc vòm sao đã thưa dần, mặt hồ đen sẫm, trời chuyển lạnh. Xung quanh bà chỉ còn âm i tiếng côn trùng như cùng hòa với lời bà khẩn cầu. Mỏi mệt quá, bà ngả lưng trên ghế đá. Sương khuya thấm ướt mái đầu hoa râm khổ nạn. Bà thiếp đi, lời nguyện cầu của bà vẫn thầm ngân trong sâu thẳm cõi hồn...Cho đến trưa hôm sau bà vẫn ngồi nguyên trên chiếc ghế đá ấy. Hơn một ngày đêm không hạt cơm, giọt nước. Bà không thấy đói, thấy khát. Lặng ngồi, đầu óc bà vẫn chỉ vấn vít những ý nghĩ đêm qua. 
          Bà bạn phụ hồ hồi nào tình cờ đi ngang qua nhận ra bà ngồi thất thần tiều tụy, ghé hỏi han. Bà bạn quá rõ nỗi niềm, sự tình, gia cảnh của bà, khuyên mách bà thôi thì nên xin vào nương nhờ cửa Phật. Bà lắng nghe, nét mặt tỉnh khô mà nước mắt bà cứ tuôn dòng. Bà thấy thế cũng phải, nhưng e sợ nhà chùa chẳng nhận cho. Bà bạn phụ hồ vốn là chỗ thân quen sư cụ trụ trì chùa An Nhiên hứa sẽ có lời xin thưa nhờ cậy giùm. Bà bạn phụ hồ nắm tay bà kéo bà đứng dậy, đưa về nhà mình nghỉ qua đêm.Sáng hôm sau bà theo chân bà bạn tới chùa An Nhiên gặp sư cụ trụ trì bày tỏ gia cảnh, nguyện vọng của người mẹ bất hạnh. Lắng nghe, hỏi han mọi nhẽ, sư cụ vui vẻ tiếp nhận cho bà nương cửa Phật.
         Từ đấy, bà âm thầm lầm lũi chăm chỉ lo việc hương khói, quét dọn, chăm nom vườn tược nhà chùa. Đêm đêm, không bỏ một đêm nào, xong mọi công việc, bà quỳ phục trước Phật đài thầm thì cầu nguyện. Bà cầu nguyện cho đứa con tội lỗi của bà được Trời Phật rủ lòng nhẹ tay trừng phạt.- Con cắn rơm cắn cỏ lạy Trời, lạy Phật hãy rộng lòng nhẹ tay trừng phạt thằng con của con. Nó nông nổi dại dột quá, nó nông nổi dại dột quá... Con cắn rơm cắn cỏ lạy Trời, lạy Phật... Con cắn rơm cắn cỏ..
         .Không biết bao nhiêu lần, qua bao nhiêu đêm bà quỳ phục lầm rầm tụng niệm trước Phật đài chỉ một lời cầu nguyện ấy... Tâm nguyện da diết của bà có thấu đến Trời Phật chăng? 
Nguyễn Trung Thu

 Phố của người già…
Tôi sống dưới thành phố đã trên mười năm, không nhớ nổi những lần chuyển nhà của phận ở trọ lang thang. Mỗi lần chuyển nhà là mỗi lần cực, gọi xe ba gác mà không đủ chỗ tha lôi tất cả mọi thứ đi. Nên lần nào cũng bỏ lại một vài thứ cho đến khi chuyển về con phố toàn người già này thì tôi chẳng có gì ngoài ba lô quần áo và vài quyển sách thuộc dạng gối đầu giường. Bà cụ chủ nhà tóc đã bạc bê sang cho tôi ly nước đá mát lạnh rồi nhìn cái phòng trống trơ treo lọt thỏm vài bộ quần áo thì cười bảo: 
- Thanh niên có khác, lúc nào cũng gọn nhẹ. 
Tối đó, ông chủ mang cái quạt điện cơ cũ ra lau chùi, giằng níu cẩn thận rồi mang sang cho tôi. Bà chủ ra ngõ ới hàng bán chiếu mang đến một cái chiếu trúc, một cái màn đôi dặn tôi nhớ mắc màn không nhiều muỗi. Xóm trọ cũ, phòng trọ đã có phần xập xệ, những con người trụ lại ở đây nghe nói cũng ngót ngét chục năm. Tôi nghe mà thất kinh. Những nơi tôi từng ở chỗ thì nóng quá, chỗ thì mưa dột. Chỗ thì chủ nhà khó tính chuyên xét nét săm soi, chỗ thì trộm cắp như ranh mặc dù với một thằng tứ cố vô thân như tôi vốn chẳng có gì nhiều để mất. Thành phố không mặt người như một bức tranh phác họa giản đơn. Mà kỳ thực thì trên mặt người thượng đế chỉ vẽ một đôi mắt to, một chiếc mũi thính, một đôi tai rộng nhưng chiếc miệng thì chỉ là chấm mực nhỏ xíu. Nên con người ta không quen nói với nhau, ngôn từ nín lặng trong môi, bị cắn vụn bởi hai hàm răng và trôi tuột xuống dạ dày. Tôi thèm tiếng người và sợ cuộc sống đơn độc nên cứ đi và đi.
Nơi tôi chuyển đến là phố của người già. Đầu đường cuối ngõ độc chỉ thấy người già ra đường, người tóc bạc, người lưng còng, người xe lăn, người móm mém. Ra chợ thấy người già chọn rau, trả giá rồi còng lưng xách nặng. Về nhà thấy người già lẽo đẽo chạy theo đứa cháu đang tuổi hiếu động để đút từng muỗng cơm. Đêm đến nghe thấy tiếng người già khục khặc ho khan trong gió. Sáng ra thấy người già đứng trước cửa ngóng xa xôi. Vài tờ cáo phó được dán lên cũng thấy người già lụi cụi hương khói khóc nhau. Tôi cứ thắc mắc hoài những người trẻ ở đâu? 
Thực ra thì người trẻ vẫn lấp đầy từng ấy ngôi nhà. Tôi nhận ra điều ấy nhờ quần áo công sở phơi ngoài ban công, nhờ những đôi giày nhiều kiểu dáng vứt chỏng chơ ngoài cửa, nhờ tiếng nói chuyện điện thoại ngọt xớt. Thỉnh thoảng cũng thấy bóng họ lấp ló ở cửa sổ, ngoài ban công hay đứng lừng khừng chờ mở cổng. Nhưng rồi rất nhanh thôi họ sẽ mất hút, sẽ bốc hơi, sẽ biến mất sau cánh cửa, trong xe hơi, tút hút nơi ngõ nhỏ như thể họ không tồn tại ở nơi này. Như thể họ bỏ mặc xứ này cho người già cai quản rồi họ chìm nghỉm ở một thế giới nào đó hấp dẫn hơn. Tôi có hỏi bà chủ về những người trẻ. Bà chủ cười bảo:
- Khi bà còn trẻ bà cũng vậy. Ngôi nhà giống như hang ổ của chúa sơn lâm. Mà ở đó người ta không muốn kẻ khác xâm phạm dù chỉ bằng ý nghĩ. Người ta cũng sợ người khác hiểu về mình, nhìn thấu những bi kịch của gia đình mình nên cứ thu hẹp đời mình lại.
- Bà ơi. Thế còn bây giờ thì sao?
- Thì thấy tiếc cả quãng đời tuổi trẻ chớ sao. Tim ai rồi cũng teo lại chỉ còn nhỏ bằng hạt đậu. Những trái tim thoi thóp trong phận sự làm người. Phải đến lúc già rồi, lúc chẳng còn mấy sức lực mà đề phòng mà hằn học. Khi giọt sống trong người đã cạn thì mới lại tha thiết được mở rộng lòng mình.
Hà Nội mùa nóng, nhiệt độ ngoài trời có lúc đỉnh điểm là 450C, thành phần ở trọ chật hẹp như chúng tôi miệng lúc nào cũng há ra thở như cá đớp oxy. Giữa ngõ tự nhiên có hàng trà đá mới mở của một cụ ông, hình như chỉ để đợi những người lao động chân tay ngoài trời và những người thuê trọ ghé ngồi. Mà lần nào đi qua tôi cũng được cụ dúi cho một khay đá bảo về để trước quạt cho đỡ nóng. Vườn nhà bà chủ tôi rất rộng và nhiều cây cối, cảm tưởng như một viên ngọc xanh giữa một vùng toàn nhà cửa san sát bí rịt. Nên nhà bà lúc nào cũng mở cửa đón bạn già hoặc những người gánh hàng rong dừng lại nghỉ chân. Tôi từng mắc võng nằm dài suốt những trưa hè oi bức, tỉnh dậy hoa khế phủ đầy, mát lịm bởi tiếng cười các cụ. Những người trẻ đi qua thở dài nhắc bà sao để cháu ngoài trời lâu vậy, mùa lạnh thì lo bị ho, mùa nóng thì lo bị cảm. Cũng có lúc nghe thấy người trẻ càu nhàu khi vỏ hạt bí vương khắp vườn, than thở sao ở phố mà lại có cụ nào nhai trầu nhả bã tung tóe dưới gốc cây.
Tôi trọ ở đây tròn bốn mùa mưa nắng thì bắt đầu thấy lòng hiu quạnh, chân lại muốn đi. Vì những người già cứ thưa vắng dần nơi đầu ngõ, trong hẻm chợ hay trước cửa mỗi ngôi nhà. Thỉnh thoảng đi làm về lại giật mình nhìn thấy tờ cáo phó dán đầu ngõ, leo lắt bóng già tiễn đưa nhau. Quán trà đá bị người trẻ dẹp ngay, mấy cái bàn cho cô thu mua sắt vụn chẻ ra xin về làm củi. Người trẻ bảo để làm gì thêm chật chội, mà cũng có ai rảnh mà ngồi thu mấy đồng tiền lẻ. Sẽ có nhiều người mỗi lần đi qua đó đều thấy trống vắng như tôi. Ông chủ xóm trọ tôi mất không bao lâu thì bà cũng theo đi. Hòn ngọc xanh của nhà chủ luôn đóng kín cửa. Cây khế cơm trong vườn bỗng nhiên vàng ngọn rồi chết. Người trẻ gọi thợ đến cưa đi, cả mấy cây rậm rịt cũng mang cưa hết. Một vài cụ già còn lại thì mắt đã mờ, chân đã chậm đành ở rịt trong nhà. Thỉnh thoảng tôi giật mình bắt gặp ánh mắt họ dõi theo tôi sau song cửa sắt. Những người trẻ vẫn lấp đầy những ngôi nhà..
Tôi cứ tự hỏi đến bao giờ chúng ta mới già để sống tử tế với nhau hơn ?
Huyền Vũ

Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Một khi còn Má


blank
Nhớ mẹ
Con ngồi ngắt cọng rau xưa,
Nhớ thời mẹ chịu nắng mưa cuộc đời...
Xa rồi mẹ đã xa tôi,
Ngày đi mây trắng về nơi an lành !
Nơi đây cũng có mây xanh,
Có rau ngày cũ mọc quanh bờ rào...
Vị chua sao thấy ngọt ngào ?
Khác chi tình mẹ dạt dào trong con !!
NM

Má nói, “ở đây cũng yên lắm”. Má nói, giọng rất chắc chắn, nhưng một hồi sau, má lại chậc lưỡi, “ờ, mà thỉnh thoảng buổi chiều thì có pháo kích”. 
Má ngó bâng quơ ra ngoài lộ, “nên chiều, đừng lên đây làm gì. Cứ ở dưới hầm cho chắc ăn nghe con”. 
Má nói “thỉnh thoảng”, nhưng chiều nào má cũng bắt ăn cơm sớm, quần áo chuẩn bị để tản cư phải sẵn sàng để bên cạnh, và muốn hay không, cũng phải chui xuống hầm. “Cho chắc ăn”. Má nói mình bắn canon bên này, tụi nó pháo từ phía bên kia. 
Cái quận má đang làm việc, má khen “yên tĩnh” vì má kể chung quanh đó có nhiều binh chủng khác nhau đang đóng quân và nhiều binh chủng khác ở xa hơn nhưng lúc nào sẵn sàng yểm trợ. Rồi má kể ra những binh chủng nào đóng ngay tại quận và binh chủng nào ở xa. Đì đùng là có tiếp trợ à con. Má nói vậy. 
Nhưng nghe má nói, chứ trong trí đám con nít ngồi bên cạnh má hồi đó, có hình dung cách gì đi chăng nữa, thì tất cả các binh chủng cũng đều... giống nhau. Họa chăng chỉ trừ một vài binh chủng có trang phục đặc biệt như hải quân mặc màu trắng, hay phi công mặc loại áo liền quần, chẳng hạn. Còn lại, biệt động quân, thủy quân lục chiến, biệt kích hay nhảy dù..., hình như binh chủng nào cũng quần áo vải hoa, đội nón béret, và đi... giày. Thì phải! Hoặc như bộ binh, pháo binh, địa phương quân có lẽ đều tương tự nhau trong quân phục màu xanh lá! 
Má đổi về cái quận lỵ xa xôi này cũng lâu lắm rồi. Hồi trước ba với má sống với nhau không có con, má cưới vợ cho ba, rồi má thôi ở với ba. Má theo đạo công giáo, đi làm công chức. Lâu lâu má về thị xã lãnh lương, ở lại nhà. Hàng xóm và người quen vẫn kêu má là chị Năm, vợ ông thầy. Má lãnh lương ở Hội An, sáng má đi chiều má về. Mua cao lầu cho ba và mì Quảng cho mẹ. Ngày hôm sau má dắt một bầy ra phố, sắm sửa, đi ciné và ăn quán ăn hàng. 
Gia đình má ngày xưa ở Vientanne. Má qua Việt Nam một mình, học làm nữ hộ sinh ở Nghệ An. Hôn nhân má trắc trở, má bỏ đi. Trên chuyến tàu từ Vinh ra Hà Nội, má gặp ba. Rồi má ở lại Việt Nam, nhận Việt Nam làm quê hương. Má nói tiếng Việt rất sõi, giọng Quảng Nam pha Nghệ An. Lâu lâu má bị chọc quê chữ ích đọc thành ít, mục đít, tìn địt, chim chít chòe. Ở nhà có chuyện gì quan trọng, ba, má và mẹ nói với nhau bằng tiếng Lào. Đám con trong nhà nghe được “bò mi ngân”, không có tiền, “kinh khầu”, ăn cơm...; và nghêu ngao hát “mè thầu ơi, lục khơi ma lèo...” mà không hiểu gì hết.Má không bao giờ kể chuyện quê hương thật của má. Mà nói, “má đi lâu rồi, quên hết chuyện cũ”. Nhưng có lần gặp một người Lào trước nhà, má đứng nói chuyện rất lâu, mặt má rạng rỡ, giọng nói giọng cười hân hoan như đang trẫy hội. Lớn lên, xa quê hương rồi, mấy chị em mới biết làm sao mà má quên được quê cũ, làm sao mà má không nhớ nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ba có kể thuở má rời Vientainne, má sắp sửa hai mươi tuổi. 
Mùa hè năm đó, má thuyết phục, hiệp định Ba Lê ký rồi, ngưng bắn rồi, nên chỗ làm việc của má “cũng yên lắm”, rồi má năn nỉ cho mấy chị em lên chơi cho biết. Mẹ lo, hỏi có gì ở đó. Má không biết trả lời sao. Nhưng mấy chị em lao nhao đòi đi nên cuối cùng mẹ cũng phải đành đồng ý. Nhưng hình như phải mất cả hơn tuần sau, mấy chị em mới được xếp quần áo vào giỏ xách theo má rời khỏi thị xã. 
Từ thị xã, đón chuyến xe sớm, lắc lư trên chuyến xe đò chật cứng người, đến xế chiều mới tới nơi. Dọc đường, xe phải ngừng lại nhiều lần ở những trạm kiểm soát, và phải chờ xe rà mìn chạy trước. Nhiều đoạn, chừng như hai bên đường chỉ có cỏ khô và đồng ruộng hoang vu cằn cỗi, không thấy bóng dáng người. 
Lên đến chỗ má ở. Cái quận lỵ buồn hiu hắt, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe đò chạy qua trước con đường đầy bụi. Xa xa cách trạm xá má làm việc, đìu hiu một vài căn nhà gỗ lợp tôle. Và hầu hết những người ở đó đều làm việc cho phòng hành chánh của quận. Má nói ngày xưa có mấy người biết chơi dominos, sau này họ đổi đi nơi khác, má không còn biết giải trí bằng thứ gì. 
Mấy chị em lên chỗ má cũng không biết giải trí bằng thứ gì. Má ở phía bên trái trạm xá, phía bên phải dành cho sản phụ. Lúc không có sản phụ, các căn phòng chỉ những chiếc giường trải drap trắng, vắng ngắt đến lạnh cả người. Mấy chị em không đứa nào đủ can đám léo hánh qua đến đó. Má có bàn cờ tướng và mấy bộ bài. Chơi tam cúc, chơi qua cạc tê chán, cả đám ngồi ngó nhau. 
Qua được vài ngày, má lùa xuống hầm sau giờ cơm chiều, hai con nhóc vớ được mấy cuốn truyện Tuổi Hoa không biết của ai để quên, và hai cuốn của Mai Thảo vẫn còn mới tinh. Nói truyện... ông kẹ này để cho “bả” đọc. Nhà ở thành phố nhiều truyện “ông kẹ”, ba và các anh không cho rớ tới. Sợ tiêm nhiễm thói lãng mạn. Lên ở với má, thích gì má cũng chiều, nên nói với má ngày mai tụi con ăn cơm dưới hầm luôn. Mười ba tuổi, đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, “Sống Chỉ Một Lần”, mấy mươi năm sau mới hiểu tại sao thuở đó ba chưa cho đọc truyện người lớn. Má thấy, hỏi truyện này có lớn quá không con. Đáp con đọc chơi thôi mà. Má im lặng, rồi cười, leo lên mấy bậc thang. 
Đi chơi với má, thăm chỗ làm của má, suốt ngày nằm dưới hầm đọc truyện, lâu lâu má chạy xuống hỏi thích ăn gì. Những thứ ba không cho ăn ở thành phố, sợ độc, đòi gì má cũng mua, cũng làm. 
Kỷ niệm với má, có lẽ vui nhất là lần đi thăm má ở cái quận lỵ xa xôi và khá mất an toàn kia. Câu má hỏi nhiều nhất trong ngày là “ở đây buồn quá hả con?”. Đáp không. Má lại hỏi “không có truyền hình để coi con có buồn không?”. Trả lời không, má yên tâm đi làm việc, nhưng năm bảy lát sau lại trở về câu hỏi đầu tiên. 
Ở phía sau bịnh xá má làm việc có khoảng đất trống, má nói đất đai cằn cỗi quá chỉ trồng được mấy bụi khoai mì và mấy luống rau muống khô. Mà thật ra cây ăn trái lâu năm ở đây không ai dám trồng, sợ “tụi nó pháo vào”. Hỏi má chỗ nào có cây trái là nhà dân mà má. Má cười, nhà dân tụi nó mới pháo. Mười ba tuổi, con gái thành thị, làm sao mà hiểu nổi trên đời lại có loại người “nhà dân tụi nó mới pháo”. 
Một xế chiều, nghe má băn khoăn hoài câu “tụi con có buồn không”, mấy chị em kéo nhau ra sau bịnh xá ngắm mấy đọt khoai mì mỏng mảnh, ngó đám rau muống ốm nhách đang cố rướn mình lên khỏi đám đất cằn khô. Má nói không có thứ gì cho tụi con ăn chơi cho vui. Hôm qua má lùi khoai lang và nấu xôi bằng ống tre, loại xôi đặc biệt của người Lào. Má nướng cả con gà gói trong lá chuối, bên ngoài bọc đất sét. Con gà lúc mở ra thơm phưng phức và ngọt lịm. Không lẽ đòi má làm cái món phức tạp hoài, nên trả lời tụi con đâu có cần gì. Má ngồi nghĩ tới nghĩ lui một hồi rồi nói tối má gói bánh nậm và làm bánh bột lọc cho ăn. Xong má đuổi trở vô nhà, nói sợ tụi nó pháo vào. 
Tới bữa cơm, má kho thịt gà. Nồi thịt kho sệt, bóng nước màu và thơm mùi tiêu làm khi không chợt nhớ đến đám rau dền mọc dại ngoài vườn sau của má. Nói con thèm ăn rau dền luộc chung với rau sam. Má chậc lưỡi, rau dền thì dễ, mà rau sam ở đây đất khô quá không biết có hay không. Con nhóc em nói con thấy giữa đám rau muống có rau sam. Nghe, má lật đật chạy ra vườn. Trời chiều sắp sập tối, nắng còn nhiều lắm một vài giọt rớt trên hàng rào kẽm gai phía trước nhà. Vài tiếng cắc bụp bắt đầu nghe loáng thoáng ở đâu đó vọng về, và tiếng muỗi bắt đầu vo ve. Vậy mà ra ngoài, hồi lâu má trở vô với mớ rau dền và một mớ rau sam. Má dặn hai con em, luộc chung, nhưng phải để dành riêng cho chị. 
Má làm việc ở đó cho đến năm má bị thương. Bị pháo kích. Đức Dục mất, Thường Đức mất, má về thị xã dưỡng thương. Con đường từ thị xã đến chỗ má ở bằng phẳng, không trạm kiểm soát, không đì đùng canon, không trọng pháo, không cả M16, K54 tạch đùng bắn lẻ, nhưng chẳng mấy đứa đi thăm má thường. 
Má dưỡng thương, rồi vết thương má lành, má làm việc trở lại. Cuộc đời trôi đó đây, thời cuộc đẩy con người trôi đó đây. Mấy mươi năm sau, má đi xa hơn, xa tít xa. Về ngàn. Chỗ má ở nương rẫy xanh cây trái. Lần cuối cùng đi thăm má đã có xoài, có mít ăn cho vui. Nhưng hình như đã tới lúc không còn muốn ăn cho vui. Đứa con xa nhà sợ mập. Sợ đủ thứ. Má đuổi bắt con vịt. Lúc ăn thịt vịt luộc chấm nước mắm gừng, không phải cho vui mà cho má vui, nhắc chuyện ngày xưa đi thăm má. Nhắc xôi nướng ống tre. Và gà nướng đất sét. Má nói má làm hết nổi rồi. Và má cười, bảo lần này gặp con chắc rồi thôi. Chậc lưỡi với má, đáp thôi sao được. Nói, con ở bên kia một mình, hiểu má đã cô đơn ra sao. Má cười. Hàm răng rụng gần hết. Móm mém.
***
Cuối cùng má đi xa hơn. Về tận bên kia cõi người. Ngày má đi, nghe kể lại má bình yên. Ngày má đi có mây trắng bay. Có trời xanh biếc. Và không có súng đạn. Má nằm một chỗ rất an lành, ở vùng đất đỏ. 
Bao nhiêu năm lưu lạc phương trời, những lần trở lại, chẳng bao giờ nghĩ má xa xôi đến vậy. Lúc đi viếng má, không thấy má vào ra ở ngôi nhà gỗ lim, cứ tưởng như má đang lui cui hái rau ngoài vườn. Rau sam. Dẫu dường như chỉ được ăn bữa rau ấy là lần cuối cùng. Ở quê hương. 
Má đi bao nhiêu năm. Buổi chiều ở thành phố miền trung bắc Mỹ, nơi chỉ vài ba tháng nắng còn suốt năm trường giá lạnh, những ngọn rau màu hồng tia tía tím vươn mình ra cuối chân rào đã làm sững người đứa con lưu lạc chân trời. Thật không thể nào tưởng tượng cái thứ cây chỉ mọc dại bên kia chân trời lại có mặt, lại hiện diện ở vùng trời này. Như huyền thoại. Như cổ tích. 
Thật không thể nào tưởng tượng được những ngọn rau với thân mập mạp lòa xòa đám lá nhỏ, dày, và căng đầy nhựa sống dường chỉ sống ở miền nhiệt đới lại có thể tồn tại sau nhiều tháng giá tuyết lạnh lùng. 
Cũng thật chẳng thể nào tưởng tượng bao nhiêu năm ký ức về má lại rõ nét, lại ngọt ngào hiện ra như một giòng suối mát, như một áng mây xanh tươi giữa trời như vậy. 
Đã có rất nhiều năm đứa con xa nhà đan chiếc áo, móc chiếc khăn quàng, nhớ đến má đã dày công chỉ vẽ. Khi nấu miếng cơm nếp mềm mại không đong nước mà không cần dùng chõ xôi, khi kho miếng thịt tươm màu nâu bóng loáng mà không cần thêm dầu ăn, cũng chỉ nhớ đến má đã ân cần dạy dỗ... 
Nhưng buổi chiều nay khi hái ngọn rau sam vào luộc, nghe vị chua chua trên đầu lưỡi, và nghe giọt nước mắt tràn ra thật nóng trên vành mi, lòng hỏi lòng, thật xót xa, không hiểu bây giờ má có biết con đang nhớ má

 HOÀNG NGA  
Mẹ ơi !
Suốt một đời mẹ luôn tận tụy,
Lo cho chồng chăm sóc cho con...
Dẫu rằng thân mẹ héo hon,
Nhưng tình thương mẹ sắt son biển trời !
NM
Một khi còn má 
Má 70 tuổi, lâu lâu lên thành phố thăm con. Vừa giở chiếc nón lá nhà quê úp lên giàn bếp là má quay sang cầm vội cái chổi lông gà dựng ở mé nhà quét khoảng hành lang chung. 
“Bây không quét bụi tấp vô nhà con cái bây ngửi chớ ai”, vừa quét má vừa càm ràm vậy. Nói thôi thôi má, má lâu lên chơi cứ nằm nghỉ đi nha má, xe cộ đã mệt, má mắc khó chịu chi với mấy cọng rác, lát có lao công họ dọn rồi. Đồ ăn con đã mua sẵn, má ăn sáng rồi nằm chơi. Đồ ăn trưa con bỏ sẵn tủ lạnh, má lấy ra hâm nóng, con đi làm chiều về chơi với má. 
Má ừ ừ, biểu để đó cho má, lo đi làm để trễ người ta phiền chết. Con cười rần, ai mà phiền đến chết được vì chuyện con đi trễ đâu má. 
Vậy đó mà chiều về nhà sạch như lau li, bếp núc bóng loáng. Quần áo ngoài sào thấy xếp sẵn để ngay ngắn đó, kệ sách không miếng bụi, quyển sách tối qua đọc dở để đại trên đầu giường cũng gọn vào góc. Ngay cả mấy cái cây ngoài ban công cũng ướt rượt nước. Cơm canh sẵn sàng. Má chẳng chịu chờ con về nấu cả bữa cơm. 
Vậy là con chỉ biết ngửa mặt kêu trời trời, sao má không chịu nghỉ cho khỏe, vất vả chi, con về làm chừng vài chút đã xong thôi mà. Má nói má quen tay rồi, má làm chút ít cho con đỡ cực lúc chiều về, chớ bây đi làm gì cả ngày, má đâu đành lòng nằm nghỉ con. 
Sự không đành lòng của má làm má cực từ thuở còn son. Mười chín tuổi nhà bắt lấy chồng, hơn hai mươi một nách hai con, rồi ba, rồi bốn. Những đứa con lần lượt ra đời, má gánh một mình chuyện nuôi con để ba yên lòng lo những công chuyện gì đó mà trong dự tính của ba không hề có má, có đám con nheo nhóc. Má không đành lòng để đám con khổ sở thiếu ăn thiếu học. Má nói má khổ quen rồi, bị quen rồi nên má nhìn mọi sự đơn giản, lúc nào lòng cũng bao dung. Kiểu như ba sai đường đi lâu quá, bữa nhớ ra quay về bên má, đám con đứng xớ rớ ngó lơ, má nói kệ đi tụi con, nhà của ba thì ba quay về, lo gì đâu. 
Và đám con lớn lên cũng tha hồ xa má. Các con đứa nào cũng có khoảng trời riêng, mà khoảng trời riêng của chúng dường như quá rộng, nên có đứa đi miết đi miết mấy năm chưa thấy quay về ngôi nhà xưa nơi chúng lớn. 
Không đành lòng nên ban đầu má thắt thẻo đợi, đợi miết. Đâu phải chỉ mình má ngồi đợi, từ quày chuối xiêm bữa nay vừa căng tròn, trái mít vừa giãn gai, chùm nhãn mây mẩy thơm, mấy trái xoài thanh ca giấu trong đám lá cũng bắt đầu thò ra đánh gió. 
Trái đợi đến chín dần, rũ ra. Má đợi đến tiếng thở ngày càng dài. Sau rốt má khăn gói đùm túm bắt xe lên với đám con. Lũ con đứa đằng đông đứa đằng tây, má đi hết giáp vòng, phân phát đủ số quà mọn quê nhà, hun đứa cháu này một cái, phát đít đứa cháu nọ một cái, mắng yêu ba má chúng nó chẳng chịu dắt bây về chơi với bà. Vậy đó rồi quày quả về. 
Không đành lòng nên hồi đứa con dâu này đẻ, đứa con gái kia sinh, má bỏ đất bỏ quê ở lại chăm nom con cháu, bó chân trong những căn nhà bí rị, tối ngày chỉ biết mở cái tivi cho có tiếng người. Má chịu cực cho từng đứa con đề huề gia cảnh, xếp đặt đâu vào đấy từng chuyện từng chuyện trong căn nhà của chúng rồi má mới an tâm về. 
Má 70 tuổi, sau mấy tiếng đồng hồ ngồi xe hỏi má mệt hông má. Má nói mệt mồ tổ cha bây, không lên thăm bây, biết chừng nào bây mới về thăm tao.  
Nghe má mắng mà sướng. Sướng mà mắc khóc. Ừ thì nay còn má, con có bôn ba chi nữa, gót vẫn cứ còn son.
 Minh Phúc
Kết quả hình ảnh cho Lòng mẹ

Lòng Mẹ 2

trong lòng mẹ 
Mẹ ngủ trên chiếc ghế sa-lon 
Người ta nói rằng gả con ở nơi gần còn có bát canh mà ăn, ai nói không đúng chứ với bà Mỹ thì điều đó chắc chắn như là hạt bắp khô. Con gái mà, Thùy lấy chồng tận Sài Gòn, còn bà thì ở tận Hà Nội.
Khoảng cách để đi thăm con là 1.145,94km - tính theo đường chim bay, đó không phải là một khoảng cách gần. Bà nhủ, tại sao trai Hà Nội, trai Hà Nam hay trai Phú Thọ, Thái Bình… nói chung là trai gần không lấy mà lấy một anh chàng Sài Gòn? Muốn thăm con đi nhanh thì đi máy bay, cũng mất một giờ rưỡi bay, nhưng chưa kể chuyện phải ra sân bay sớm cả tiếng, chưa kể chuyện trục trặc thời tiết, máy bay không đúng hẹn. Đi rẻ thì đi xe lửa, phải mất cả mấy chục tiếng đồng hồ cho cuộc hành trình. Nói chung là xa quá.
Thùy gọi điện cho bà vào buổi tối, rất hồn nhiên, vì dù sao con nhỏ cũng là con gái rượu. 
- Mẹ à, con mua máy bay giá rẻ cho mẹ rồi, tuần sau mẹ vào Sài Gòn chăm con giúp con nhé. Mẹ chăm cháu chừng một tháng giúp con mẹ nhé. 
Nó không cần bà trả lời là bà có đồng ý không? Gác cái máy kêu một cái “cụp” sau khi đã chuyển tải đủ nội dung cần tìm. 
Bà hưu cách đây năm tháng. Ngôi trường bà dạy không phải là ngôi trường lớn, nhưng lại là ngôi trường nằm ngay trong lòng phố. Đó là cái chỗ mà ai cũng muốn có một chân để dạy, cho nên việc bà về hưu khiến cho nhiều người vui. Cũng một buổi tiệc chia tay bình thường, sau đó là còn một mình bà với ngôi nhà rộng 40m2, đó là ngôi nhà được cấp nhờ thuở chồng bà còn sống được phân chia. Căn nhà này đầy ắp kỷ niệm của bà với gia đình hai vợ chồng và hai đứa con. Nhưng thời gian cứ như con sóng biển, phả lấp mãi những dấu chân người vội qua trên thềm cát, khiến cho tất cả đều thay đổi. May mà chồng bà chết khi hai đứa con đã xong đại học, chứ nếu lương giáo viên của bà thì bà không biết xoay xở làm sao. Thằng con trai lớn đi lao động ở Hàn Quốc rồi ở biệt bên đó luôn, bà còn mỗi cô con gái. 
Rồi khi Thùy bảo rằng Thùy đã nhận việc ở Sài Gòn, bà chợt trống vắng. Bà cũng thầm mong là có một chàng trai Hà Nội nào đó đang làm việc ở Sài Gòn làm gục ngã trái tim nó, để kéo nó về lại gần bà. Nhưng điều hy vọng đó đã không xảy ra. 
Thùy đưa Hân từ Sài Gòn ra Hà Nội gặp bà. Chàng trai cao ráo, nói giọng miền Nam rặt ấy dễ thương, dịu dàng. Hai đứa lấy xe chở nhau ra chợ, mua đồ ăn về nấu bữa cơm gia đình, bà buồn. Hai đứa ríu rít trong căn nhà, bà buồn. Bà buồn vì bà biết những vui tươi đó chỉ diễn ra thoáng chốc, nhưng bà giấu kín trong lòng.
Bà Mỹ không có nhiều bạn bè, sau khi hưu bạn bè lại càng ít hơn. Bà cũng không có nhiều quan hệ gia đình theo truyền thống. Bà sống theo một thời gian quy định của mình. Đó là nếu tiết trời không lạnh, bà sẽ thức dậy sớm, đi bộ một vòng phố, ra hồ Thuyền Quang, ngang ngay con đường Quang Trung có những cây hoa sữa cổ thụ cao vòi, rồi về nhà thu xếp chuyện gia đình, bà dành thời gian để viết một số bài viết cho tờ báo giáo dục mà bà yêu thích. Buổi tối bà thường xem ti-vi hoặc đọc sách. Bà sợ bóng tối nên hay bật đèn phòng khách sáng choang. Rồi cũng từ ngày con gái lấy chồng, bà có thói quen ngủ trên chiếc salon, ở đó như giấc ngủ của bà trọn vẹn hơn, như bà được che chắn hơn.
Vợ chồng Thùy làm ăn thành đạt. Chỉ mới ở Sài Gòn chưa tới chục năm, hai vợ chồng đã mua được nhà, căn nhà của con bé rộng trên trăm mét, dẫu là nhà ở chung cư nhưng rất đầy đủ tiện nghi. Thùy thiết kế sẵn một căn phòng cho mẹ, căn phòng có hành lang nhỏ nhìn ra bầu trời rộng của thành phố, để nhìn thấy bên dưới những con đường, những mái nhà, và để ngắm những cơn mưa bất chợt đến bất chợt đi. Rồi lần lượt hai đứa cháu ra đời: Susu và Suchi. Susu là con gái và Suchi là con trai. Hai đứa cháu kháu khỉnh ấy lấy hết tâm trí của bà.
Mấy lần Thùy thúc giục bà bán căn nhà 40 mét vuông ở Hà Nội vào Sài Gòn. Bà lắc đầu: “Mẹ quen rồi”. Nhưng mỗi lần con gọi điện, bà lại lên máy bay vào với nó mới được, có khi bà lại leo lên một chuyến xe lửa, làm cuộc hành trình dài dằng dặc để thăm con… Mà đi thăm con đâu phải để thăm vườn bách thú, thăm Dinh Thống Nhất hay đi Suối Tiên, Đầm Sen? Bao nhiêu bận đi Sài Gòn gần như bà chỉ biết bấm nút từ tầng 15 của tòa nhà, xuống siêu thị đi chợ, hoặc bà đi bộ thong dong ra khu chợ nhỏ gần đó để mua đồ. Một ngày của bà ở Sài Gòn là một ngày chăn dắt hai đứa cháu, bà giống như một oshin hạng sang, vì Thùy nói: “Mẹ lo cháu giùm con đi. Có mẹ con mới tin. Oshin bây giờ lương cao, nhưng không tin tưởng được”. Bà thương hai đứa cháu của bà, dẫu bận rộn, nhưng lòng bà vui vì bà được cận kề bên cháu.
Nhưng giờ thì bà giận con gái thật sự rồi. Bao nhiêu năm bà chắt chiu nuôi nó khôn lớn, bao nhiêu năm bà che chở cho nó, từng nửa đêm thức trắng cùng nó khi nó trở trời khó chịu. Bao nhiêu năm ấy đã qua, còn bây giờ thì bà lại trở thành một người làm công không lương phụ việc. Sáng bà đi chợ, bà nấu ăn, cả hai vợ chồng chỉ gọi một cuộc điện thoại về: “Tụi con không ăn cơm”. Thế là công sức làm bếp của bà vứt xuống sông xuống biển. Buổi sáng, hai vợ chồng ngủ dậy trễ, bà cặm cụi lau nhà. Con gái thức dậy, nhăn mẹ: “Lần sau mẹ đừng dùng mùi hương này lau nhà nữa”. Bà giận đến muốn khóc.
Bà thương hai đứa cháu, cái tuổi thơ sống trong nhung lụa khác với tuổi thơ trên những cánh đồng. Thùy dặn mẹ không cho cháu ăn kem, mà con nít thì thích ăn kem. Bà dắt cháu xuống siêu thị, mua cây kem cho cháu ăn lén, hai đứa ăn ngon lành. Buổi tối hai đứa nhỏ bỏ bữa, con gái bà truy hỏi: “Chiều mẹ cho cháu ăn gì?”. Susu hồn nhiên kể với mẹ: “Bà ngoại cho con ăn kem. Kem sữa ngon lắm mẹ ơi”. Thế là Thùy nhăn mẹ: “Con đã nói với mẹ rồi, nó bỏ cơm đó mẹ thấy chưa?”. Bà bỏ ra ngoài, bà bấm nút thang máy, bà xuống dưới phố. Nhưng bà chẳng biết đi đâu trong Sài Gòn rộng này. Bà ra công viên gần đó, ngồi ở ghế đá nhìn người ta tập thể dục.
Tình yêu của một người mẹ, giờ là một người bà làm cho bà bỏ qua tất cả. Thật ra thì bà đâu có phải là người đàn bà nhà quê, nhưng con của bà đã sống ở một môi trường mới, cách sống của nó đã khác. Nó cần bà, bà cũng cần niềm vui bên cạnh hai đứa cháu kháu khỉnh. Vì thế mà bà vào Sài Gòn để tối ngày trở thành một người làm không lương, mà mấy bà bạn già của bà mỗi lần khăn gói đến nhà con gái hay nói vui: Tụi mình là oshin thứ thiệt. 
Bà đón chiếc xe thồ ra ga xe lửa. Bà phải về Hà Nội, bà thích nằm ngủ trên chiếc salon trong phòng khách nhà của bà. Nhưng lạ cho bà, thỉnh thoảng bà lại lấy chiếc điện thoại ra xem thử có cuộc gọi nhỡ nào không? 
Bà đứng đợi tới lượt mình mua vé thì điện thoại reo, đó là điện thoại của Thùy. Tiếng bên kia máy là cháu gái lẫn cháu trai: “Bà ngoại ơi, mẹ nói mẹ xin lỗi bà ngoại. Con nhớ bà ngoại lắm”. Bà tần ngần trước phòng vé một chút, rồi bà bước ra khỏi sân ga. Bà đã thấy con gái bà đứng đó với hai đứa cháu ngoại. Vậy là bà vẫn chưa thể về Hà Nội, để ngủ trên chiếc salon quen...
 Nhược Quân

Mẹ Tôi

Mơ Giấc Mơ Xưa

Tôi ít khi nằm mơ. Những giấc mơ còn sót lại trong trí nhớ, tôi thường thấy má tôi ngồi bên thềm nhà cũ chờ các con. Thềm nhà là ba bậc thang tiếp nối khoảng sân rộng vào nhà. Thềm nhà là nơi tôi hay ngồi hóng gió mỗi chiều. Thềm nhà là nơi chị em tôi tụ tập ríu rít quây quần bên má. Tôi chợt nhớ má tôi vô cùng. Nhớ cái bậc thềm xa xưa vô tri vô giác. Nhớ cánh cửa lá sách sơn xanh bạc màu. Nhớ tia nắng cuối ngày vướng vít trên những tàng lá. Nhớ ánh trăng vàng vọt hiu hắt bên song. Nhớ lối nhỏ vào nhà hai hàng mai vàng rực rỡ. Nỗi nhớ khắc khoải, mênh mông. Đến tuổi này, tôi nhớ má da diết. Nỗi nhớ đằm thắm, dịu ngọt
“Mẹ ơi con đã già rồi, con ngồi nhớ mẹ khóc như trẻ con. Mẹ ơi, con đã già rồi, con ngồi ngơ ngẩn nhớ ngôi nhà xưa.”
Má và ngôi nhà xưa chất chứa đầy kỷ niệm của tuổi thơ tôi. Thời gian tôi sống ở đó có thể chỉ hơn hai mươi năm. Ôi chao, 20 năm ít ỏi so với chuỗi ngày lê thê phiêu bạt nhưng vẫn để lại trong tôi yêu dấu khó phai. Má và ngôi nhà xưa của tôi đã mất dần theo năm tháng nhạt nhòa. Tôi mơ ngày nào đó có một thửa đất nhỏ, tôi sẽ dựng lại ngôi nhà thơ ấu, cũ kỹ. Ở đó có hàng hiên ngập tràn hoa nắng. Ở đó có ngày mưa lướt thướt kéo lê nỗi buồn triền miên, xa vắng. Ở đó có má, có khoảng trời riêng rực rỡ trong tôi. Ở đó là hồi ức, là hoài niệm đủ ru tôi an yên trong tuổi già.
“Thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình. Tuổi thơ như chiếc gối êm, êm cho tuổi già úp mặt.” 
Tôi tiếc cho những ngôi nhà cũ của thời thơ bé bị rào chắn, tranh giành chờ đổi chủ. Tôi tiếc cho chút tình thân còn sót lại rách toạc dửng dưng bởi nhát chém của tiền bạc. Đôi khi tôi tự hỏi người ta xây dựng gia đình chẳng lẽ cuối cùng chỉ để chờ ngày xâu xé, tranh nhau từng thước đất, từng đồng bạc thừa kế?
Thanh Thủy Võ