Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý tình cảm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý tình cảm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2018

Nhạc - Thơ - Văn TRONG NỖI NIỀM CỦA HẠ

Hoa Khế

Chùm Bông Hoa Khế 

 

Lưu luyến

Em lưu luyến kỷ niệm rồi sẽ mất,
Gió biển về đêm, hoa khế bay bay...
Nhớ ngày qua sao thương tiếc lắt lay,
Và nơi ấy biết bao giờ trở lại !?
NM

TRONG NỖI NIỀM CỦA HẠ

 Đó là ngôi nhà gần biển tới mức lúc nào ở đó cũng nghe thấy tiếng sóng, lúc thì ì ầm giận dữ lấn lướt xô đẩy nhau, lúc lại nhẹ nhàng mơn man như hơi thở trẻ thơ... Nhà có khoảng vườn nhỏ. Chính giữa sân, ông lão chủ nhà đã trồng một cây khế cành lá nom sum suê. Không biết cây khế đầy những quả ngọt kia có từ khi nào, lúc Hạ quen Thuyên, cô đã thấy nó đứng ở đó vươn dài những cành lá xanh đung đưa cơ man nào là những chùm trái tròn căng mọng. Người ta hay bảo khế ngọt thường ít nõn nà hơn khế chua, thế nhưng cây khế nhà Thuyên thì ngược lại: Nó vừa mướt mát mà vừa ngọt thanh dễ chịu. Thủa còn đi học, mỗi bận Hạ đến nhà chơi, Thuyên thường làm quà và lấy lòng Hạ bằng những trái cây vườn nhà Thuyên trồng. Vườn cây ấy nhỏ thôi, song cha Thuyên đã trồng khá nhiều cây ăn trái: Những quả ổi xanh cắn vào giòn rụm, lựu thì ngọt lịm hạt lại đỏ hồng trông thật hấp dẫn. Có cả những quả mảng cầu to tướng nên Hạ khó lòng mà...từ chối. Thế nhưng chẳng hiểu sao cho đến khi Hạ và Thuyên đã cưới nhau rồi cô vẫn còn mê mãi với cây khế nhà Thuyên.
 Hồi bé Mi còn nhỏ xíu, những buổi chiều mùa hè có gió nồm mát rượi, Hạ thường treo võng, hai mẹ con nằm ru nhau dưới tán cây tỏa bóng xanh dịu, che khuất hẳn cái nắng chói chang. Một cơn gió thoảng qua cũng làm hoa khế rụng tím trùm lấp cả mặt sân. Rồi những đêm rằm, trăng sáng phả màu vàng lấp lánh xuống mặt biển. Phía sau nhà Thuyên, từ trên gác qua cửa sổ, cô mới thật sự tận hưởng vẻ đẹp của biển về đêm. Tiếng gió lùa xào xạc vào những nhánh lá thoáng qua tóc Hạ, càng làm tăng thêm hương vị đặc biệt của đêm trăng ở ven biển. Mùi tanh nồng pha vị mặn chừng như hòa quyện với hương hoa khế thơm dìu dịu làm cho Hạ như ngây ngất lâng lâng...
Thời gian Thuyên còn dạy học ở Mỹ Thắng, nhờ hương biển, hương cây giúp Hạ cảm giác lúc nào cũng có Thuyên bên mẹ con Hạ. Ngôi nhà đó, sân vườn đó đối với Hạ khắc đậm biết bao là kỉ niệm. Thế rồi sau khi bé Đa ra đời được ba hôm thì ba Thuyên mất. Ông lão chăm sóc vườn cây tận tình không còn nữa. Hạ nghe má Hạ nói rằng người chủ cây chết mà không cho cây để tang thì trước sau gì cây đó cũng sẽ chết theo! Không hiểu má Hạ nói đúng hay do thiếu bàn tay chăm bón của cha chồng Hạ mà dần theo thời gian: cây ổi tàn héo, cây lựu trụi lá, rồi cây mảng cầu đang độ sung sức cũng biến mất khỏi khu vườn nhỏ nhà Thuyên. Tuy nhiên điều Hạ lo lắng nhất cho số phận cây khế đã không xảy ra. Cô xiết bao vui mừng khi từng ngày trôi đi, cây vẫn xanh tốt, không có biểu hiện gì chứng tỏ nó sẽ rời xa nơi nó đã từng đâm chồi nãy những nhành lá đầu tiên.
Hai đứa con gái lớn của Hạ đã bao lần đùa chơi dưới bóng cây thân quen ấy. Những ngày nhà Thuyên có đám giỗ, xong đám, cánh đàn ông ung dung ngồi uống trà trong ánh nắng nhảy nhót xuyên qua bóng lá, mấy người phụ nữ cùng quây quần ngồi núp dưới gốc cây tránh nắng vừa trò chuyện vừa rửa chén bát.
Hạ nhớ như in có một đêm khu vực nhà Thuyên bị cúp điện, bầu trời hôm ấy không có trăng, ngay cả chút ánh sao nhấp nháy cũng chẳng thấy. Mấy đứa cháu gọi Thuyên bằng chú, tụi nhỏ nhát gan có tiếng, cùng cả nhà xúm xít lại bên nhau. Chính giữa là rổ khế đầy nhóc, bên cạnh còn có một chén muối ớt đâm nhừ- mới nhìn đã muốn chảy nước miếng! Ngoài sân trời tối đen, cây khế với cành lá bỗng trở nên xám xịt và mờ ảo, chừng như rờn rợn...tất cả như bao trùm lên những con người bé nhỏ đang cố thu mình lại. Gương mặt chị Giao, chị ruột của Thuyên, phảng phất khi tỏ khi mờ qua ánh sáng leo lét của cây nến nhỏ, càng làm tăng vẻ ghê sợ: Chị đang kể chuyện... ma! Những hình người máu me, những chiếc răng nanh nhọn hoắt, những cái đầu lâu treo lơ lửng đầy kinh sợ. Câu chuyện kết thúc đã lâu thế nhưng mấy đứa cháu và Hạ vẫn không sao chợp mắt. Cành lá đu đưa nhập nhoạng trong đêm làm mọi người cứ tưởng tượng đến gương mặt méo mó đẫm máu của con ma trong câu chuyện chị Giao kể. Đêm cứ thế trôi dần chậm chạp, tưởng như có tiếng bước chân ai đang lướt nhẹ ngoài sân. Ngoài xa những con sóng nhỏ xô nhau vào bờ nhẹ nhàng liếm cát.
Tất cả và tất cả những hình ảnh xung quanh cây khế: Bao lần vợ chồng Hạ và gia đình ngồi ăn cơm, bao lần mấy đứa con Hạ chạy đuổi nhau dưới vuông sân ấy đã trở nên quá thân quen đến sâu đậm. Khi đứa con út ra đời, nhóc này lúc nhỏ nghịch và quậy hết biết! Nó từng một mình leo lên gác nhà để vươn tay ra ban công hái khế, công việc mà trước đây chỉ có mình Thuyên thường làm. Đến tuổi đi học, có chút thời gian rảnh rỗi, mấy đứa nhỏ còn rủ bạn về nhà nội để ăn khế. Theo suy nghĩ của tụi nhỏ, chắc không nơi nào có khế ngọt như nhà nội. Những điều đã diễn ra, Hạ tưởng như sẽ và vẫn còn tiếp tục. Cho đến một ngày... Chiếc xe hai vợ chồng Hạ vừa dừng trước cổng, chị Giao từ trong nhà đã lên tiếng trước:
- Nhà mình ở trong diện giải tỏa, có giấy ở phường mời đi họp kìa!
Rồi tiếp theo đó là ở ngay đầu ngõ xuất hiện một cột ghi rõ ranh giới phần đất nằm trong khu vực giải tỏa. Cái cột vôi nhỏ màu trắng chữ đỏ lạnh lùng và dửng dưng trước những ánh mắt của bao người qua lại, soi mói vào nó. Con đường Nguyễn Lạc chắc chắn nằm ngoài ranh giới bị san phẳng, đột nhiên được nới rộng. Những ngôi nhà sửa sang lại, xây cao thêm. Từng ngày Hạ về lại mỗi đổi thay. Từng lớp nhà nhỏ nằm sát biển trước đây lần lượt biến mất. Hạ, cho tới bây giờ khi mà thằng em Thuyên đã chuẩn bị nhận đất nhận tiền đền bù, cô vẫn khó có thể hình dung trên vùng đất quá quen thuộc này lại chẳng có sự hiện hữu ngôi nhà của gia đình Thuyên, càng không tưởng tượng nỗi nơi đây về sau, cô sẽ mãi mãi mất đi hình ảnh cây khế mà bao lâu nay nó vốn đã in đậm trong tâm trí cô.
Con Phai cháu Thuyên đã nhận tiền đền bù và giấy tờ nhà. Nghe chừng nó sẽ đi lên xóm Tiêu. Hạ nghe em Thuyên nói nhà mình chắc sẽ chuyển tới vùng đất mới trên đường Võ Thị Sáu. Nơi này rồi sẽ như thế nào? Chắc chắn sẽ được thay vào đó là một cảnh quan đẹp hơn, thoáng đảng hơn phù hợp với du lịch biển hơn. Thẳng đường tới nhà Thuyên có trường tiểu học- trước kia là Trần Phú giờ là Ngô Văn Sở- trường có vẻ như được giữ lại. Hạ thấy sau thông báo qui hoạch, trường vẫn giữ nguyên thậm chí còn xây lầu cao thêm, khang trang và đẹp hơn nhiều. Mai này khi đến đoạn đường Nguyễn Huệ, đoạn có nhà thờ Hòa Ninh, nếu có ai hỏi thăm nhà, câu trả lời sẽ như thế nào? Có còn cái điệp khúc quen thuộc: đi thẳng đến trường Trần Phú, rẽ trái thấy nhà có cây khế đích thị là nhà Thuyên...Và cái giếng nước lâu nay cả xóm vẫn dùng chung, mỗi năm cứ cận Tết lại có một ngày cảo giếng. Những cánh tay vung lên rồi hạ xuống. Những cái gầu được sử dụng hết lực, tiếng gầu va đạp xen với tiếng đùa ghẹo của mấy anh chàng miền biển cứ oang oang...Cây khế hiền lành dễ tính, cứ thế che chắn bóng râm cho bao con người dưới cơ thể khỏe mạnh lực lưỡng của mình, cho cả cái giếng nước ngọt ở sát bờ biển mặn ấy.
Hạ không sao hiểu được cô có thể thản nhiên nói với mọi người rằng: Hôm nay là lần giỗ cuối cùng của ông nội các cháu ở trong chính ngôi nhà này. Ngôi nhà cũ với sân vườn bé xinh đã lưu giữ trong cô bao điều ấm áp. Mai rồi Hạ sẽ tìm ở đâu được chứ? Hết thảy: ngôi nhà ngói nhỏ cũ kỹ và cây khế dịu dàng ấy, nơi Thuyên và Hạ đã từng sống qua thời son trẻ đẹp đẽ nhất.
Mọi thứ chỉ còn lại qua vài tấm ảnh hiếm hoi và trong trí tưởng của Hạ mà thôi. Hạ thoáng một tiếng thở dài...
Đào Thanh Hoà (Bình Định)

Thuyền rời bến ra khơi theo sóng vỗ,
Mang bên mình ước vọng của tình yêu....
Vượt qua bao trở ngại vẫn cô liêu,
Trong thoáng chốc chợt tiếc thời hoa mộng !

Bạn thoả sức vẫy vùng trong biển rộng,
Ta ngồi đây thương nhớ khoảng trời xưa..
Hội ngộ nhau ấm áp buổi chiều mưa,
Cà phê đắng nhưng mang bao vị ngọt ?!

Quay tìm lại thuở bình minh chim hót,
Thật giản đơn, thanh thản lẫn vô tư...
Luôn bên nhau như muôn thuở bấy chừ,
Tâm trong sáng ta cùng vui bến đỗ
NM
Kết quả hình ảnh cho Miền ký ức
 
 

Tôi là một đứa nhà quê đúng nghĩa, được chuyển lên thành phố học khi bước vào cấp phổ thông trung học. Vào lớp với bao bỡ ngỡ vì lạ bạn, lạ trường, cái cảm giác lạc lõng trong đám bạn thành phố vừa xinh đẹp, vừa sành điệu làm tôi thấy mình muốn bật khóc. Bổng “rầm”…một vật thể nhỏ nhắn xinh đẹp va vào tôi và hắn ngã nhào.
Dù thấy hắn lần đầu nhưng sao cảm giác thân quen đến lạ, trông hắn giống tôi nhiều thứ, cũng vóc dáng nhỏ bé, cũng điệu bộ quê mùa và hình như hắn cũng lạc lõng (tôi đọc được trong mắt hắn). Tôi như mở cờ trong bụng vì giống như tình yêu sét đánh, tôi nhận ra đây là người tôi có thể chọn để làm bạn, để chia sẻ trong suốt thời phổ thông nhàm chán và dài đằng đẵng này (lúc đó tôi nghĩ vậy).
Tôi và hắn như có duyên trời định, đều là những đứa sống nội tâm và có chút lãng mạn, đặc biệt lại thuộc tuýp người không chịu thay đổi. Với hắn dù là người thành phố, nhưng gia đình hắn cũng là gia đình công nhân viên chức nên hắn cũng giản dị như tôi và hắn cũng không quá đề cao đến vẽ bề ngoài của mình. Tôi thì khỏi phải nói, một buổi học, một buổi chạy hàng cho mẹ. Nhà tôi cách trường gần 20km, mà cứ học xong là tôi phi thẳng ra chợ với chiếc xe đạp cà tàng, mua tất cả các thứ hàng hóa mà mẹ cần nào nước mắm, miến, tép khô và thậm chí cả mắm tôm. Có hôm đi học thêm tôi còn buộc nguyên cả một can nước mắm loại 20l để kịp chở về vì sợ nếu để sau khi học mới lấy hàng thì sẽ về muộn (mà về muộn thì trời tối, tôi sợ nhất phải đi khi trời tối vì tính tôi sợ ma chứ không sợ xấu hổ).
Rồi có lần giờ học kéo dài, trời đã về chiều, mặt trời đã bắt đầu tắt dần, nhìn mặt tôi lúc đó chắc lo lắng lắm nên hình như hắn thương tôi, hắn bảo tôi về nhà hắn để xin phép bố mẹ cho hắn về quê cùng tôi. Hai đứa đánh liều về nhà hắn, tôi nhớ mãi gương mặt nghiêm khắc của bố mẹ hắn, nhưng tôi cũng hiểu ẩn sau trong đó là tấm lòng nhân hậu…và tôi nhớ, đó là lần đầu tiên tôi khóc trước những người không phải là bố mẹ mình vì tôi cảm nhận được tình yêu thương từ họ.
Đó cũng là lần đầu hắn về quê tôi, và tôi biết cái tâm hồn lãng mạn của hắn được thỏa lòng khi cùng tôi rong ruổi đạp xe trên triền đê bên dòng sông Lam xanh trong, thơ mộng. Hắn và tôi mang theo tập vở về để làm bài, nhưng khổ nỗi hắn không ngăn được cái cảm xúc đang dâng trào trong hắn khi hắn được ngắm trăng lên trên dãy tre xanh ven bờ sông, trăng lấp ló sau khóm tre rọi xuống in hình những chiếc lá xinh xinh lên mặt sông gợn sóng. Quê tôi ở một vùng eo rất đặc trưng là vừa gần sông lại vừa gần núi, nên vào những đêm trăng thì tuyệt đẹp, mà tôi biết bọn bạn thành phố của tôi hơn tôi tất cả nhưng lại thua tôi ở điểm đó. Nhiều khi không có gì để so sánh, tôi tự an ủi mình bằng hạnh phúc được sinh ra ở một làng quê thanh bình và mộng mơ đến thế. Hai đứa tôi đã hầu như không ngủ vì mãi chuyện trò và cùng nhau đọc những bài thơ tình. Tôi yêu thơ tình và truyện ngắn từ hồi cấp 2 nhưng nhóm bạn thân của tôi chẳng đứa nào giống tôi nên một mình tôi đọc thơ đến thuộc lòng, một mình tôi ngâm nga cho đến khi hắn xuất hiện, hắn khiến tôi được thể trãi lòng mình, hắn lắng nghe tôi và tôi cũng bị hấp dẫn bởi nhiều bài thơ hắn thuộc, những bài thơ tôi chưa từng biết đến. Ghen tỵ hơn là hắn biết rất nhiều bài thơ tình của các tác giả nước ngoài. Hắn đọc tôi nghe bài “Mùa hè rớt” của Olga Berggoltz, lòng tôi se lại khi hắn đọc đoạn
Ôi cái mùa độ lượng rất thân thương
Ta tiếp nhận vì người sâu sắc quá
Nhưng ta nhớ, trời ơi, ta vẫn nhớ
Tình yêu đầu. Rừng lặng… bóng sao im
Sao ơi sao, sao sắp rụng vào đêm
Ta biết lắm thời gian đang tiễn biệt
Nhưng mãi đến bây giờ ta mới biết
Yêu thương – giận hờn – tha thứ – chia li…
Cứ như thế rồi hai đứa chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay…
Sáng hôm sau chị tôi gọi dậy, mơ màng như vẫn còn đang đàm đạo về thơ, tôi quay sang thì hắn đã không còn đó nữa. Chị bảo hắn đã dậy từ sớm, từ khi mẹ dậy chuẩn bị hàng ra chợ, trời ạ! Mẹ bao giờ chả dậy từ 5h sáng kia chứ, thế là hắn gần như không ngủ? Tôi hỏi chị, chị bảo hắn đi ra bờ sông từ lâu rồi. Sau nay tôi mới biết, hóa ra đó là thói quen của hắn, dậy sớm và lang thang một mình đâu đó. Tôi ra bờ sông thấy hắn ngồi bên khóm lau trắng, hắn đi hái bông lau vì hắn bảo hắn mê nét uyển chuyển dịu dàng và màu trắng tinh khiết của loài hoa đồng nội này. Sao hắn giống tôi đến thế, càng ngày tôi càng thấy hắn giống như chị em sinh đôi với tôi vậy. Cảnh sông thanh vắng êm đềm, hai đứa bắt đầu thấy hứng chí như trẻ lên 5, chạy đuổi nhau trong các khóm lau và cười khúc khích cho đến khi tiếng chị tôi réo gọi. Đã đến giờ phải đi rồi, còn phải ăn cơm và đạp xe 20 cây số để kịp giờ học buổi chiều. Hai chiếc xe đạp chạy song song cùng nhau, thỉnh thoảng tôi liếc nhìn hắn và tôi thấy hình như hắn không nhìn đường mà mãi nhìn những hàng rào có dàn hoa tím trãi dài dọc đường đi. Người quê tôi rất cầu kỳ trong việc chăm tỉa hàng rào, nhà ai cũng trồng hàng rào bằng cây có hoa và cắt ngang tầm mắt trông rất gọn và đẹp. Tôi biết hắn đang ước ao điều gì đó, rồi bất chợt hắn lại cất tiếng ngâm nga :
“Những đàn sếu bay qua. Sương mù và khói toả.
Matxcơva lại đã thu rồi!
Bao khu vườn như lửa chói ngời,
Vòm lá sẫm ánh vàng lên rực rỡ
Những tấm biển treo dọc trên đại lộ
Nhắc ai đi ngang dù đầy đủ lứa đôi
Nhắc cả những ai cô độc trong đời:
“Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng”
Tôi cười và hỏi hắn “Bà yêu rồi à?” Hắn không trả lời mà im bặt từ đó, đôi mắt hắn không nhìn ngang nhìn dọc nữa, tôi thấy hắn chú ý nhìn đường đi. Cảm giác hơi lạ, nhưng lúc đó với tôi thế lại hóa tốt, dù sao cũng phải kéo hắn về với thực tại để tránh tai nạn rủi ro…
Rồi cái vụ yêu đương của hắn bị lộ tẩy vào năm lớp 11, khi một lần gã bạn cùng lớp của tôi dại dột đốt pháo trong sân trường. Đoàn trường phát hiện người thực hiện vụ đốt pháo là từ lớp tôi, họ tập trung vào lớp để khám xét, tôi chợt thấy gã bạn thò tay xuống gầm bàn và đưa cho hắn cái gì đó, mặt hắn biến sắc, tái nhợt nhưng cũng nhanh như cắt hắn ném nó ra ngoài cửa sổ, vụ đó gã bạn tôi thoát thân. Hết giờ học tôi bắt hắn khai và hắn đã không thể nào dấu tôi, rằng hắn đã có cảm tình với gã bạn đó từ lâu, còn cái vật mà hắn ném ra là cái bật lửa gây ra vụ nổ pháo. Bây giờ thì tôi đã hiểu lý do vì sao hắn buồn cả tuần vào tháng trước khi mà gã bạn tôi ốm nằm viện, tôi cũng hiểu lý do vì sao có lần hắn đã đòi chuyển lớp, tôi hiểu vì sao hắn cần mẫn chép bài lên cả hai quyển vở…Vậy mà tôi đã không mấy nhạy cảm trong chuyện của hắn, thay vì nhận lỗi về mình, tôi quay qua giận hắn, tôi giận vì hắn đã giấu tôi, giận vì cho rằng hắn đã không coi tôi là bạn thân, cứ như thế tôi giữ gương mặt lạnh tanh khi gặp hắn. Hơn nữa, lúc này tôi cũng đã có thêm vài ba người bạn thân khác trong lớp, tôi cười đùa và chơi với các bạn đó nhiều hơn. Tôi chỉ trả lời nhanh gọn khi hắn hỏi, chứ không nhiều lời như trước kia. Rồi một ngày hắn nhận ra, hắn gửi cho tôi một lá thư đầy cảm xúc kèm trong đó là một đoạn thơ hắn sáng tác, hình như hắn cũng đang ghen tuông, hay là tiếc nuối nhỉ?
“Trâm có còn là của riêng tôi
Để tan học có chung con đường nắng
Để đôi lúc nhìn nhau và nín lặng
Một khoảng trời mây trắng ngủ quên trôi”
Nước mắt tôi chợt chảy dài trên má khi đọc thư hắn, hắn chạy đến bên tôi ôm lấy tôi thật chặt như thể xa nhau lâu ngày gặp lại. Từ đó tôi và hắn càng gắn kết nhau hơn. Mà cũng như định mệnh, vào thời điểm này bố tôi được cơ quan cấp đất và gia đình tôi xây một ngôi nhà nhỏ ở ngay gần trường. Bố mẹ hắn về quê có việc nên lên nhà tôi gửi hắn để đảm bảo việc học hành được liên tục. Tôi và hắn như mở cờ trong bụng, còn gì bằng khi hai đứa bạn thân được học hành cùng nhau, ăn ngủ cùng nhau trong suốt một tháng trời. Bao nhiêu kỷ niệm đếm sao cho xuể, kỷ niệm cũng như cuốn tiểu thuyết, như những bài học để rồi khi buồn ta giở ra xem, xem những trang vui để cười, những trang buồn để khóc, nuối tiếc cho một thời đã qua. Ngày đó bọn học trò chúng tôi không như bây giờ, dù rất tinh nghịch nhưng không có nhiều tệ nạn xã hội để bố mẹ phải lo lắng. Hai đứa tôi dù cũng đủ trò để phá, nhưng đến giờ học vẫn mỗi đứa một góc rất cần mẫn, hoàn thành bài tập rồi mới bắt đầu vẽ ra chuyện để mà trêu chọc nhau.
Nhớ những ngày cuối tuần bố tôi về quê (vì mẹ và anh chị tôi vẫn chưa chuyển lên thành phố) hai đứa bắc thang leo lên sân thượng ngủ và hàn huyên. Hắn nghe đâu ra câu chuyện về một người ngủ trên sân thượng bị ngã chết vì có bệnh mộng du, vậy là hắn bắt tôi tìm dây cột chân tôi với chân hắn lại với nhau. Có lần đến nửa đêm, muỗi tấn công tôi và hắn, tôi đỗ lỗi cho hắn ở bẩn, vậy là hắn giận tôi ôm gối leo xuống nhà. Hắn biết tôi sợ ma chẳng dám ngủ một mình nên hắn làm vậy, mà tôi cũng không đủ gan nên đành lẳng lặng đi theo hắn. Hắn vào giường nằm quay lưng lại với tôi, tự dưng tôi ghét hắn kinh khủng. Người đâu mà hâm hâm, lúc nào cũng giận, không phân biệt đùa hay thật. Tôi quyết không xuống nước lần này, tôi cũng nằm quay lưng lại với hắn và ngủ luôn. Sáng ra tôi tỉnh bơ khi nhìn thấy hắn dưới bếp đi lên, tôi quyết tâm giận hắn lâu dài. Thế mà hắn lại cười toe toét, ghét thế không biết! Thấy bộ dạng tôi lạ lắm hay sao mà hắn cười ra tiếng rồi nắm lấy tay tôi lôi xồng xộc xuống bếp. Hóa ra, hắn dậy sớm nấu cơm nếp để làm lành với tôi, nhưng khổ thân hắn chưa bao giờ làm việc đó nên cơm nếp hắn nấu nữa trên thì như cháo mà nữa dưới lại khê. Tôi không nhịn được cười vì sự vụng về của hắn, vì hắn chúng tôi đành gặm tạm bánh mì đi học.
Thời gian hắn ở với tôi có lẽ là thời gian để hắn – một đứa con gái thành phố hiểu được sự vất vả của một đứa bạn nhà quê, kể ra thì nhà tôi cũng quê nữa vời thôi vì bố tôi là giáo viên dạy trong trường, còn mẹ là công nhân nhà máy nghỉ hưu. Nhưng môi trường sống đã tạo nên chất quê và tính ham thích lao động thấm đậm trong con người tôi. Đất thành phố dù không rộng, nhưng tôi vẫn cố trồng rau để có cái ăn, hơn thế nữa là để bán kiếm tiền. Có thời gian, quả mướp đắng đang còn hiếm và đắt đỏ, tôi trồng và cho leo bất cứ chỗ nào có thể. Tôi chăm chút tưới nước, bắt sâu cho cây những khi không phải học bài. Đến khi quả lớn, tôi thu hoạch và mang ra chợ bán từ tờ mờ sáng. Tôi kiếm được kha khá nhờ vào vườn rau. Hắn thấy tôi làm, hắn cũng muốn làm, có lần hắn theo tôi vãi hành tăm. Nhưng tội nghiệp, thời tiết đã không ủng hộ hắn, hành mới nhú mầm thì một trận mưa kéo đến, sáng ra hắn nhìn hành trồi hết lên mặt đất mà buồn rười rượi. Hắn thất bại, nhưng hắn kiêu hãnh rằng hắn không sinh ra để làm nông dân, đời hắn sẽ mãi gắn với bảng đen phấn trắng. Ôi, cái ước mơ giản dị đó của hắn cũng giống tôi luôn.
Quay lại chuyện tình yêu của hắn, tôi biết hắn thích gã bạn cùng lớp kia vì gã học khá và lại có vẻ ngoài điển trai. Tình yêu thuở học trò thật đẹp và trong sáng, chỉ những cử chỉ nhỏ thể hiện sự quan tâm đến nhau cũng có thể giúp nhau học tốt hơn. Bây giờ nghĩ lại tôi nuối tiếc cho mình, vì tôi đã không có được những phút giây như vậy, tôi già ngay từ khi còn trẻ đó chăng? Nhưng dù sao tôi cũng đã có những giây phút hạnh phúc cùng hắn, khi hắn vui tôi cũng vui lây. Tôi còn nhớ cái lần đoàn trường tổ chức thi đá bóng nữ, hắn đăng ký tham gia chỉ vì hắn biết gã là một trong những người hướng dẫn. Có lần, một cậu bạn trong lớp vô tình đá mạnh vào tay hắn trong giờ tập bóng làm tay hắn bong gân, tôi biết hắn đau điếng nhưng vẫn hạnh phúc vì thấy gã bạn luýnh quýnh chạy đi tìm lá ngãi tướng quân về cho hắn, và nhìn mặt gã hậm hực với cậu bạn kia mà hắn đã bật cười dù nước mắt đang giàn giụa.
Cứ như thế mà ba năm học cũng trôi qua, ra đi một cách nhanh chóng khiến chúng tôi ngỡ ngàng tiếc nuối. Tôi những tưởng thời trung học sẽ dài đằng đẵng và chán ngắt, vậy mà giờ đây đứng trước thời khắc chia tay tôi như người mất thăng bằng, tôi tự chất vấn mình vì sao không dành thời gian để kết bạn nhiều hơn, vì sao không sống thật vô tư cho đúng tuổi học trò và hình như có chút luyến tiếc về một mối tình đầu tự mình đang thêu dệt. Như tất cả các bạn bè mình, tôi và hắn bắt đầu làm sổ lưu niệm, chúng tôi muốn lưu lại những kỷ niệm về từng thành viên trong lớp A2 thân yêu này. Tôi trang trí sổ của mình bằng chữ màu tím, học trò mà, ai chẳng yêu mực tím. Tựa đề sổ lưu bút của tôi là hai câu thơ :
“Tuổi 19 phượng hồng chừng sắp tắt
Tiếng ve đầu như xé nát lòng ai”
Tôi cần mẫn ép cánh phượng thành hình con bướm và ghi thêm phía dưới một dòng chữ “Sắp qua rồi thời để nhớ, để thương”
Người đầu tiên tôi đưa sổ lưu bút là hắn. Vẫn cái tính khác người, hắn không viết đầu sổ mà hắn chọn giữa sổ để viết, những dòng lưu bút đầy tình cảm, hắn viết đến phút cuối cùng hắn vẫn không tin là sẽ phải chia tay, rằng với hắn tôi là người đã khắc dấu ấn trong tim hắn sâu sắc nhất chứ không phải gã bạn kia. Tôi biết thừa hắn nói dối, nhưng tôi đã khóc thật to ngay giữa lớp, tôi không ngờ rằng tiếng khóc của tôi lại mở đầu cho dàn hợp xướng. Tất cả bạn bè ai cũng cố kiềm chế trong lòng cho đến khi nhìn tôi và hiểu rằng thời khắc chia tay thực sự đã đến, ai cũng muốn níu giữ nó cho riêng mình và ai cũng luyến tiếc những điều chưa làm được. Một số bạn khóc vì rồi đây sẽ phải xa người đã đánh thức trái tim mình, dạy cho nó biết rung động. Có bạn khóc vì phải xa người bạn thân yêu nhất của mình, có bạn khóc vì lo lắng về hành trang mang theo vào đời chưa đầy đủ, có bạn ân hận vì đã lỡ có những trò tinh nghịch thái quá khiến thầy cô buồn lòng….tất cả cảm xúc ấy trộn lẫn vào nhau, nhưng ai cũng có chung một nỗi buồn khi biết rằng mình phải chia tay với tuổi thơ, chia tay với thời cắp sách đầy mộng mơ.
Ngoài sân trường những cành phượng hồng nở rộ, cánh bằng lăng tím ngắt một khoảng trời, tiếng ve kêu hòa cùng với những tiếng sụt sùi khiến lòng người càng xao xuyến lạ. Mắt tôi sưng húp, hắn cũng thế, hai đứa đang cố dấu đi những giọt lệ cuối cùng thì bất chợt tôi thấy một cành phượng tuyệt đẹp nằm nguyên vẹn trên bàn hắn, gã bạn vừa đi hái về tặng hắn, mắt hắn đỏ hoe mà vẫn kèm chút long lanh của niềm hạnh phúc, nhưng hỡi ôi, hắn chưa kịp nói lời cảm ơn với gã bạn thì một đám con trai xông tới, hái từng cánh hoa ăn một cách ngon lành. Hắn nhìn cành phượng trơ lại còn mỗi một bông với vẻ mặt đau khổ, đành ngậm ngùi ngắt nốt cánh hoa dấu vội vào cặp. Tôi biết hắn buồn lắm, vì thường khi hắn buồn đôi mắt luôn hướng về phía cửa sổ với ánh nhìn xa xăm.
Buổi học cuối cùng đầy ắp kỷ niệm, ai cũng muốn hưởng trọn những giây phút này với tất cả tấm chân tình, những dòng lưu bút ghi vội thật ý nghĩa, các bạn đã cho tôi hiểu rằng tập thể này đã thực sự gắn bó với nhau dù đã có lúc tôi nghĩ mình lạc lõng. Lưu bút của những đứa bạn thân thì nhắc nhiều đến kỷ niệm đã có với nhau, nhắc về những buổi trốn tiết ra ngoài ăn quà vặt, về những hôm đến nhà tôi nấu chè, làm bánh, hay những buổi lừa mẹ đi học nhóm chỉ để đến nhà ngủ cùng tôi. Còn một số bạn bè khác chỉ ghi lại những gì chúng nghĩ về tôi, một cô bạn hiền lành, thùy mị nhưng hơi nhút nhát. Khác hơn cả là vài dòng lưu bút viết vội của cậu bạn cùng tổ, tôi đọc mà thấy sao giọng văn của cậu ta già dặn đến thế, rất triết lý. Cậu ấy gọi tôi là “Trâm hâm”
"Trâm hâm à!
Năm kỉa năm kia đọc sổ lưu bút của chị, mình còn cười mấy ông bà này lắm chuyện. Nay cầm sổ Trâm mới giật mình ngoảnh lại hay rằng mình đối diện với mình rồi.
Xem nào, ba năm học là cái gì?
Năm thứ nhất đứa nào cũng ngơ ngác, mắt trong veo (nói rứa chơi hồi nớ ai dám nhìn)
Năm thứ hai đứa nào cũng ngây ngây thơ thơ
Năm thứ ba ai cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mắt quầng như trăng tháng 6.
Mới hay, càng nhỏ càng thích Trâm nhỉ?
……còn ngày mai???

Ai chắc thắng thì đã thắng một nửa cộng với một nửa ở mình là hai. Gom hai nữa đó vào những cửa ải sắp qua để mãi mãi giữ màu trong Trâm nhé"
Tất cả những dòng lưu bút đó đến nay tôi vẫn còn lưu giữ như một kỷ vật của đời người bằng tất cả tình cảm tôi dành cho bạn bè mình.
Chia tay rồi mỗi đứa một nơi, mỗi đứa một lựa chọn. Tôi và hắn đi đúng con đường mà hai đứa từng mong ước, hắn sinh viên khoa toán còn tôi học ngoại ngữ. Hai đứa ở hai trường khác nhau nhưng vẫn trong cùng một thành phố, tuy vậy chúng tôi khó có cơ hội gặp nhau thường xuyên như trước vì lịch học ngày một dày, hắn và tôi chỉ còn cách trao đổi bằng thư, những bức thư hắn viết cho tôi da diết như thư tình. Hắn kể với tôi về trường, về lớp, về những người bạn mới của hắn và đặc biệt lá thư nào cũng có bóng dáng của gã bạn kia. Thỉnh thoảng khi lịch nghỉ của hai đứa trùng nhau hắn rủ tôi xuống biển không kể hè hay đông, đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu được vì sao hắn yêu biển đến kỳ lạ, chỉ nhớ có lần hắn nói hắn thích nghe tiếng sóng vỗ bờ và thích nhìn chân trời nơi mây và nước gặp nhau. Trong hắn có điều gì đó thuộc về một miền ký ức tôi không chạm tới được nhưng tôi không giận hắn như trước mà giờ đây tôi cảm nhận ở hắn một thứ tình cảm lớn lao hơn, sâu sắc hơn.
Hắn ra trường khi tôi học năm thứ 3, rồi quyết định cưới chồng khi mới 21 tuổi. Tất nhiên là tôi mừng cho hắn vì hắn lấy được một người chồng tốt bụng, chững chạc đủ để lo cho cuộc đời hắn. Thế nhưng đôi khi tôi tự hỏi chuyện gì đã xẩy ra giữa hắn và gã bạn? Có lẽ tình yêu đầu khó ai giữ được giống như bài thơ “Hoa Sữa”
“Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa tan trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan theo sương gió mong manh
Tại vầng trăng ,tại em hay tại anh
Hay tại mùa đông không còn hoa sữa
Tại siêu hình , tại gì không biết nữa
Tại con bướm vàng có cánh nó bay”
Giống như tình yêu đầu của hắn, tôi và hắn đã lạc mất nhau vì cuộc sống, vì gia đình, vì nhiệm vụ làm vợ làm mẹ. Đến một ngày như bao ngày bình thường khác, gặp lại hắn trong quán café, ngồi một mình với đôi mắt xa xăm ấy. Hắn vẫn vậy, khi buồn hắn vẫn thích một mình trầm tĩnh…và tôi, stress trong công việc cộng với chút chênh vênh trong cuộc đời đã dẫn tôi đến đây – cũng một mình.
Chúng tôi quay lại với nhau như ngày đầu, trong sáng và giản dị. Dù hơn nữa đời người đã trôi qua nhưng lúc ta gặp lại tình bạn thuở học trò thì lòng ta trở nên thanh thản và vô tư đến lạ. Tôi và hắn tìm về với nhau để lúc vui buồn có thể neo bến đỗ trong nhau.
Sưu tầm
Kết quả hình ảnh cho tiếng rao đêm

 Tiếng rao đêm
Thương thay những tiếng rao đêm,
Cô đơn lạnh lẻo qua thềm trong mưa...
Dẫu khi trăng lặn sao thưa,
Một mình một bóng vẫn chưa quay về...
Đôi vai quang gánh nặng nề,
Quản gì mệt nhọc ê chề một thân....
Đôi khi ao ước một lần,
Giờ nầy ấm áp quây quần bên con !
NM

Một tiếng rao đêm canh cánh một nỗi lòng

Ai biết được đằng sau xe hàng rong ấy là cả một gánh nặng trên vai, có thể là những đứa con đang học hành dang dở, có thể là người nhà bệnh tật, có thể là nỗi lo cơm áo, gạo tiền hằng ngày. Thế nên
mới có những tiếng rao đêm.
- Ai xôi lạc, bánh khúc đây?
- Chắc tiếng rao này là đặc sản của Hà Nội chị nhỉ? – Con bé cùng phòng với tôi cất tiếng hỏi.
- Ừ, tiếng rao đêm...
Đã 12h30 đêm rồi, tiếng rao quen thuộc của các cô chú lại vang lên đều đặn. Chúng tôi nghe nhiều đến mức như cái gì đó quen thuộc. Có những đêm thức đến tận hơn 1h sáng vẫn nghe xuất hiện tiếng rao ấy. Ban đầu tôi còn thắc mắc với đứa bạn cùng phòng là:
- Ê mày! Ở Hà Nội có kiểu rao hàng đặc biệt thế? Mày có nghe người ta rao “Tôi là bánh khúc đây không?
Nhỏ bạn nhìn tôi phì cười:
- Xôi lạc, bánh khúc đây, con ngố ạ! - Rồi hai đứa bật cười.
Thấm thoắt gắn bó với Hà Nội 4 năm, đó là những ngày tháng nuôi dưỡng tâm hồn tôi không còn ngây dại, bâng quơ như hồi mới từ quê ra. Tôi chứng kiến nhịp sống nơi đây tấp nập, hối hả, bon chen,… Nhưng giờ thì tôi thấm thía hơn nữa cái nhịp sống về đêm ở Hà Nội – im lặng, yên ắng và cực nhọc mưu sinh.
Rồi một ngày tôi bắt gặp câu hỏi: “Thế nào là miền đất đáng sống?”. Tôi chợt nghĩ ngay đến những tiếng rao đêm của Hà Nội – tiếng rao mà theo bé cùng phòng tôi bảo là đặc sản của Hà Nội.
Tôi chưa vội nói thế nào là một miền đất đáng sống, tôi ngẫm một chút về tiếng rao đêm, ngẫm một chút về những người bán hàng rong nơi phố phường tấp nập, nơi thủ đô phồn hoa này.
Về đêm, con người ta dường như ước muốn được về nhà, ăn bữa cơm với gia đình, được ngả lưng vào chiếc giường nghỉ ngơi sau ngày dài mệt nhọc. Thế nhưng những con người ngoài kia vẫn lặng lẽ với chiếc xe chở xôi, bánh khúc, ngô luộc, bánh rán đi khắp mọi ngõ ngách phố phường Hà Nội.
Về đêm, con người ta nhà nhà ấm cúng, chốt cửa cài then như thể đoàn viên. Vậy mà những người bán hàng rong vẫn lặng lẽ, âm thầm đạp chiếc xe 
trên con đường tĩnh lặng.
 
Ai biết được đằng sau xe hàng rong ấy là cả một gánh nặng trên vai, có thể là những đứa con đang học hành dang dở, có thể là người nhà bệnh tật, có thể là nỗi lo cơm áo, gạo tiền hằng ngày. Thế nên mới có những tiếng rao đêm.
Những đêm đi dạy thêm về, ngồi đợi xe bus, có cô lại mời gọi:
- Cháu ơi! Mua giúp cô mấy cái bánh với để cô còn về”.
Nhìn hình ảnh cô ấy gầy guộc, giản dị, ăn mặc chân phương và khuôn mặc khắc khổ, lòng đột nhiên se lại. Trộm nghĩ: “Làm thế nào để không còn những con người khắc khổ như này nữa đây?”
Rồi ngày lễ 8/3, con đường tràn ngập sắc hoa và quà. Đó là ngày mà tất cả phụ nữ trên thế giới được tôn vinh, được nhận những món quà tuyệt vời. Tôi cũng xúng xính váy áo đi chơi, đang mải miết phấn khởi với cuộc vui, đột nhiên nhìn qua lớp kính xe bus, thấy bóng dáng người phụ nữ tầm 40 tuổi gì đấy đang cầm chiếc xẻng xúc từng xẻng đất bồi vào đường. Có gì đó nhói trong lòng, thiết nghĩ: “Cái quan tâm của người phụ nữ ấy đâu phải là hoa, là quà, mà đó là sự ấm no, bình yên cho gia đình họ”.
Có một tối trời mưa tầm tã, tôi vội vã cầm chiếc ô phi nhanh ra bến xe bus về nhà kẻo muộn. Vừa chạy, tôi đột nhiên khựng lại khi thấy trên cầu đi bộ Nguyễn Chí Thanh có một người phụ nữ thân hình bé nhỏ, gầy rộc đang gánh một gánh ổi đi rất nhanh, không áo mưa, không ô, chỉ có độc chiếc nón cũ kỹ nhuốm màu sương gió. Trái tim tôi như có gì đó chặn lại, cổ họng nghẹn ứ. Tôi nghĩ về số phận những con người bé nhỏ kia.
Rồi có những sáng đi học thể dục rất sớm, 5h30 đã lọ mọ đi mua xôi còn lấy sức học. Gặp cô bán xôi cười nói xởi lởi:
- Ôi! Các con đi học sớm thế?
Thiết nghĩ: “Cô dậy để chuẩn bị xôi còn sớm hơn bọn con nhiều mà”.
Và còn nhiều lắm những khuôn mặt khắc khổ mà tôi gặp trên đường hàng ngày, tất cả như phơi bày ra một cuộc sống mưu sinh đầy vất vả.
Tôi chẳng phải chính trị gia, chẳng am hiểu nhiều về chính trị, chẳng vội bận tâm đến những chính sách vĩ mô mà nhà nước đề ra.
Tôi chỉ biết rằng miền đất đáng sống là nơi không còn những con người lầm lũi, mưu sinh trong đêm đông lạnh giá, trưa hè oi ả. Là nơi không còn những con mắt ráo hoảnh dành cho nhau.
Mỗi ngày trôi qua, tiếng rao đêm tôi vẫn nghe đều đặn, có lẽ những người cất lên tiếng rao đêm vẫn cứ âm thầm và đầy cam chịu. Cứ nghĩ đến cảnh mình được cuộn tròn chăn ấm, nệm êm giữa mùa đông lạnh giá, còn những con người ngoài kia chân tay ê buốt vẫn phải lăn lộn để bản thân, gia đình được ăn no, mặc ấm. Họ chẳng quan tâm đến cái gì gọi là “ăn ngon, mặc đẹp” như người ta vẫn nói về cuộc sống của thế kỷ hiện đại cả. Ấm cái thân, no cái bụng nghe tưởng chừng như đơn giản nhưng nhiều người vẫn còn không có được điều đó. Nghe mới bi ai làm sao?
Nhiều lúc sực nghĩ mình có trái tim ấm nóng nhưng có làm được gì cho những con người ngoài kia không? Trong khi mình cũng đang vất vả làm việc lo cho chính bản thân và gia đình. Chỉ khác biệt với những con người khắc khổ kia đó chính là mình không phải cất lên những tiếng rao đêm…
Chẳng có một ai muốn đêm đông lạnh giá phải lọ mọ đi rao hàng kiếm tiền cả, chẳng ai muốn giữa cái nắng gắt gỏng đến bỏng da, bỏng thịt phải ngồi ngoài đường để kiếm kế sinh nhai cả. Mồ hôi rơi, nước mắt rơi, dáng người cứ thế hao mòn, liệu bạn có muốn mình có cuộc sống như vậy hay không? Hiện thực vẫn là hiện thực, trốn tránh hiện thực nghiệt ngã chỉ tội làm cho bản thân mình thêm vô cảm và ích kỷ hơn thôi. Ta ấm no, người khác cũng muốn ấm no. Ta hạnh phúc, người khác cũng muốn hạnh phúc. Nhưng đó lại là khát khao cháy bỏng của cơ số người ngoài kia.
Một tiếng rao đêm canh cánh một nỗi lòng...


Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Một trăm ngọn nến

Hình ảnh có liên quan  
Tưởng niệm !
Trăm ngọn nến tưởng niệm người trăm tuổi,
Một thuở nào toả sáng ánh văn chương....
Thời gian qua một thoáng ngỡ như hương,
Bay xa mãi vẫn nhớ thương vườn cũ !!
NM

Kết quả hình ảnh cho ngọn nến động lung linh

MỘT TRĂM NGỌN NẾN

 Tên chủ nhà ghi trên tấm bảng đồng gắn phía trước cửa khiến tiếng gõ của tôi thêm mạnh dạn. Bên trong có tiếng giầy dép khua động. Rồi cửa mở. Chủ nhà, một người nhỏ thấp, giơ bắt tay tôi rồi ra hiệu mời tôi theo anh ta lên gác. Tôi bước lên một chiếc cầu thang gỗ. Ở đầu cầu thang nhìn qua một gian phòng rộng trên gác tôi thấy khoảng vườn cây xanh của một công viên nhỏ trước nhà sau một cánh cửa sổ mở rộng, khoảng trống tươi mát rất hiếm quí của Hà Nội bây giờ.
Tôi bước vào một phòng lớn trông như một thư viện. Một tủ sách rất rộng và cao chiếm nguyên một vách tường dài. Tủ gỗ đánh véc-ni bóng, sau ngăn kính những cuốn sách dầy cộm xếp ngay ngắn, trang trọng. Nhìn qua gáy tôi thấy có rất nhiều sách chữ Hán.
Giữa phòng là hai cái bàn phủ khăn trắng đặt liền nhau, trên để những chai rượu bia và đĩa đựng trái cây. Chủ nhà xếp tôi ngồi nơi một chiếc ghế đặt ở đầu bàn. Tôi nhìn hai dẫy ghế trống dài ở hai bên bàn, nói với chủ nhà:
- Anh bắt đầu làm tôi lo đấy. Tưởng đến thăm anh nói chuyện một lát thôi, không ngờ anh làm to chuyện quá.
Anh ta khẽ mỉm cười, nheo cặp mắt sáng sau cặp kính cận, nói:
- Có gì đâu. Nghe tin anh về một số anh em ở đây cũng muốn gặp anh. Vả lại hôm nay là một ngày rất đặc biệt, ngày sinh thứ 100 của Cụ. Chúng tôi cũng muốn làm cái gì để tưởng nhớ Cụ. Anh cứ tự nhiên nhé. Các anh em cũng sắp tới cả bây giờ.
Nói xong anh xin lỗi đi xuống cầu thang. Tôi nhìn xung quanh. Bên cạnh tôi trên một chiếc bàn nhỏ có đặt một máy vi tính để mở. Màn ảnh của máy hiện lên bức chân dung màu của bố tôi, bức tranh do họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ.
Ngay trước mặt tôi, trên bàn, đặt một quyển sách rất dầy, bìa bọc giấy láng đề TỪ ĐIỂN VĂN HỌC bộ mới, Nhà xuất bản
Thế Giới.
Tôi giở trang sách. Trên trang giấy đầu dưới hàng chữ in Từ Điển Văn Học là hàng chữ viết tay nắn nót và chữ ký của chủ nhà.

Bản tặng anh Nguyễn Tường Thiết và gia đình Nguyễn Tường nhân 100 năm ngày sinh cố văn hào Nhất Linh. Hà Nội 25-7-2006.
Nguyễn Huệ Chi
*
Buổi sáng hôm ấy từ khách sạn Galaxy trước vườn hoa hàng Đậu tôi đáp xe ôm lên Yên Phụ. Chiếc xe hai bánh luồn lách trên đường Thanh Niên trong dòng xe cộ nườm nượp. Đường này xưa kia có tên Cổ Ngư nằm xuyên giữa hai cái hồ lớn của Hà Nội là hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đến cuối đường, vòng qua khách sạn Sofitel, xe vào một con đường nhỏ ôm sát hồ Tây và ngừng lại trước một cái cổng gạch quét màu vôi vàng.
Tôi nhìn lên vòm cổng hình cánh cung đề hàng chữ LÀNG YÊN PHỤ rồi trả tiền bác lái xe thả bộ vào làng trên con ngõ rất hẹp thoải dốc. Mặt ngõ tráng xi măng sạch sẽ. Hai bên những căn nhà gạch nằm ép sát nhau, quét vôi trắng, ngói mái đỏ, hai ba từng cao. Nhiều nhà truớc có cửa song sắt thò ra những chấm đỏ hoa giấy.
Đi vào ngõ khoảng nửa cây số đến một khúc quành một tấm bảng bằng đá đen đập mắt tôi. Trên bảng có hàng chữ màu vàng ĐÌNH YÊN PHỤ dưới đề Di tích lịch sử văn hóa. Đã xếp hạng. Một mũi tên chỉ vào đình nằm phía bên kia ngõ. Ngay khúc quành một bờ xi măng cong vòng cao bằng đầu gối chắn ngõ với một cái đầm sen.
Khúc đường cong, đình Yên Phụ và cái đầm sen là ba điểm chuẩn giúp tôi định được vị trí ngôi nhà tôi đang tìm, ngôi nhà thời xửa xưa chúng tôi vẫn gọi bằng cái tên thân mật nhà cây liễu.
Nhà ấy là nơi tôi đã từng ở những ngày rất thơ ấu, cũng là nơi chú Sáu tôi, nhà văn Thạch Lam đã sống, viết và chết tại đó.
Đứng xoay lưng về phía đầm sen nhìn vào đình Yên Phụ nhà cây liễu nằm sát đình phía tay phải, ngay vị trí khúc đường cong. Trước nhà có bờ tường gạch chạy dài trên là lan can làm bằng những thanh sắt đầu có móc nhọn. Đằng sau hàng lan can ấy lại che đi bằng những tấm tôn sơn màu xanh khiến ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy được ngôi nhà bên trong. Cuối bờ tường xây một cổng gạch có mái ngói, giữa cổng có hai cánh cửa sắt cũng sơn xanh đóng kín mít.
Theo trí nhớ tôi thì phía sau cổng mé trái là vị trí của một khóm tre. Khóm tre ấy không còn nữa. Nếu còn thì hôm nay tôi phải nhìn thấy nó ló lên cao khỏi bờ tường này. Khóm tre ấy cũng chính là khóm tre mà chú Thạch Lam tôi đã nhiều lần nhìn ngắm và tả những cảm nghĩ của mình trong Theo Giòng khi thấy "các lá tre thổi vút một chiều tôi cảm thấy một vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn". Khóm tre ấy chắc là đã bị ai chặt mất từ một thuở nào xa xôi lắm cùng với cây liễu ven hồ Tây yêu quí của chú.
Không một khoảng hở để tôi có thể ghé mắt nhìn trộm vào trong. Tôi đứng ở ngoài tần ngần nhìn cánh cổng và bờ tường một lát rồi tôi quay trở lui, lững thững bước vào đình Yên Phụ ở sát cạnh, mang theo hình ảnh ngôi nhà mà mặc dù tôi đang ở rất gần nó, vẫn nguyên vẹn trong tôi là ngôi nhà cũ kỹ trong tâm tưởng sáu mươi năm trước.
Thủa ấy chúng tôi thuờng hay sang chơi bên đình Yên Phụ. Tôi còn nhỏ quá không thể nào nhớ hình dáng đình ra sao. Toàn thể khu này chỉ lưu lại trong trí tôi một màu xam xám nhàn nhạt trong đó hiện lên cái sân gạch bát tràng rộng thênh thang.
Tôi bước vào sân đình vắng lặng. Màu xám nhạt thì vẫn còn nguyên đấy, nhưng cái sân gạch bé nhỏ hơn rất nhiều so với ký ức. Trong sân có mấy vại sành lớn trồng những cây mẫu đơn trổ hoa đỏ thắm. Tôi đến gần nhìn những đóa hoa này và ngay tức khắc hiện lên trong mắt những chấm đỏ xoay tít. Thì ra tôi đã thấy hoa này rồi, ở đây, thời bé. Hoa mẫu đơn là tập họp của vô số những cánh hoa bé tí màu đỏ với những cọng hoa li ti hình ống. Chúng tôi thường ngắt những cọng đó rồi luồn một sợi tóc qua ống, thắt một đầu nút và vê tròn sợi tóc trên hai đầu ngón tay nhìn những cánh hoa đỏ xoay xoay như một cái chong chóng tí hon.
Không một bóng người. Từ lúc rời khỏi đường Thanh Niên để bước vào làng Yên Phụ những tiếng ồn ào của Hà Nội dường như đứng lại ở phía ngoài cổng làng. Trong tĩnh lặng hình như ngay cả tiếng chim kêu ở đây nghe cũng thanh sắc hơn. Tôi bước qua cái sân gạch. Nhưng thay vì đi thẳng vào đình phía chính diện tôi rẽ tay phải đi qua một cái vườn cây mà tôi đoán sau vườn là hồ Tây.
Bước ra khỏi bóng tối của vườn cây mắt tôi lóa đi trong giây lát. Phản chiếu ánh gắt nắng hè mặt hồ Tây như một tấm gương mênh mông bằng nước. Một bờ rộng xi-măng uốn vòng quanh đình Yên Phụ. Dưới bờ ấy sóng vỗ vào thềm mang theo những cánh bèo trôi rập rình. Tôi đi lần phía tay phải theo bờ nước cho tới lúc tôi không thể nào tiến xa nữa. Một hàng rào bằng lưới sắt ngăn đình Yên Phụ với căn nhà bên cạnh. Từ một bụi rậm nhìn qua lưới tôi lặng người thấy phía sau của căn nhà cây liễu cùng với mảnh vườn nhỏ ở ven hồ.
Ngôi nhà cũ của chúng tôi không còn nữa. Trước mặt tôi là một căn nhà gạch hoàn toàn khác, chắc là được xây rất gần đây vì màu nước vôi tường còn mới nguyên. Như vậy là từ hồi chú Sáu tôi ở đấy, căn nhà tranh của chú đã được xây lại hai lần bằng gạch. Tôi không thấy được toàn thể phía sau nhà vì bị chắn bởi một bức tường rộng bằng gạch ở giữa vườn. Tường này có khoét ba cái cửa tò vò lớn lại có mái hiên lợp ngói được xây với mục đích trang trí hơn là thực dụng.
Trước là cái vườn nhỏ ngày xưa chúng tôi vẫn chơi đùa. Vườn thoải xuồng hồ. Xưa kia chỗ tiếp giáp với nước có cắm một hàng cọc tre lúc nào cũng vương bám những cánh bèo trôi bềnh bồng theo sóng vỗ. Những cánh bèo bây giờ vẫn còn đó, lại còn có vẻ dầy đặc hơn. Nhưng cây liễu trong tâm tưởng tôi thì biến mất. Chỗ đó bây giờ người ta trồng hai cây cau, giữa hai cây căng sợi dây kẽm phơi quần áo. Những chiếc cánh áo bay phần phật thay chỗ cho những nhánh liễu xưa kia lúc nào cũng chao nghiêng trong gió.
Một con chuồn chuồn xanh bay vụt trong trí nhớ tôi. Nó sà xuống đậu trên một chiếc lá liễu. Chà, con chuồn chuồn này thật to! Đầu bóng như hòn bi ve. Thằng bé đưa cánh tay thò phía sau đuôi con vật. Chiếc đầu bóng khẽ nhích một cái rất nhẹ như thể muốn ngoái nhìn phía sau. Thằng bé vội ngừng tay. Lát sau nó nín thở phóng tay thật nhanh nắm lấy chiếc cánh mỏng. Tôi còn nhớ lại như in cái cảm giác nháp nháp của những đường gân nhỏ trên cánh con chuồn chuồn áp vào làn da giữa hai đầu ngón tay. Thằng bé vạch bụng mình đưa đầu con vật gần lỗ rốn. Các anh nó nói để chuồn chuồn xanh cắn rốn sẽ biết bơi. Nó thèm biết bơi lắm. Nhưng cái miệng to ngoác của con chuồn chuồn làm nó sợ. Thằng bé tính thả con vật đi nhưng nó bỗng nghĩ ra được một trò chơi. Nó gập hai chiếc cánh chuồn chuồn làm một rồi lấy tay bứt đôi trước khi thả. Con vật với đôi cánh cụt ngủn không bay lên cao được. Nó đâm chúi xuống đám bèo. Thằng bé quên phắt con chuồn chuồn xanh. Mắt nó theo dõi những chấm đỏ vẽ loăng quăng trên đám bèo: vô số những con chuồn chuồn ớt đỏ chót là xuống nhón đậu trên những cánh hoa bèo tím, những hoa bèo nhấp nhô trên sóng nước mang những chấm đỏ rung rinh. Nếu mình biết bơi mình sẽ bắt những con chuồn đỏ ấy. Thằng bé nghĩ thế và nó tiếc đã không để con chuồn chuồn xanh cắn rốn.
Không biết bơi như các anh tôi, tôi cùng chị Thoa làm thuyền. Chị Thoa khéo tay lắm. Chị làm thuyền bằng những thân bèo ghép sát nhau giữ bởi những cây tăm cắm xuyên. Một cái đũa tre cắm giữa thuyền, một hai chiếc lá bèo to xuyên qua đũa làm cánh buồm. Chúng tôi làm nhiều thuyền như thế lắm. Nhưng những chiếc thuyền được thả xuống hồ không đi xa được vì thường bị vướng mắc giữa những đám bèo luôn luôn dầy đặc ở ven bờ hồ. Chúng tôi phải nhờ các anh lớn bơi ra ngoài thả thuyền ra khơi.
Những con chuồn chuồn bay lả trên đám bèo, những cánh bướm bay loáng trên bờ cỏ... Như thế đấy. Vỏn vẹn những hình ảnh vặt vãnh như thế lưu giữ mãi trong trong ký ức tôi về căn nhà của người chú... toàn những cái không đáng nhớ.
Nhưng chú Đinh Hùng thì khác. Trí nhớ của nhà thơ này mới thật đáng nhớ. Trong cuốn hồi ký viết về những kỷ niệm chia ngọt sẻ bùi cùng Thạch Lam chú đã tả quang cảnh nơi tôi đang đối diện này bẩy mươi năm trước như sau:
Tuy là nhà tranh nhưng ngăn nắp sáng sủa, có đủ cửa kính lẫn cửa chớp, có thềm cao, với một khoảng sân nhỏ mấp mé ngay bờ hồ, với cây liễu rũ cành lá xuống nước và khóm tre xào xạc ngoài cổng.
Tôi đã ngủ nhiều đêm dưới mái nhà ấy, và canh khuya, khi cái tiếng vọng mơ hồ của thành phố xa xa lắng dần vào không khí óng ả của vùng hồ nước mát rượi, nằm nghe sóng vỗ vào bờ thao thức, nghe hơi thở uyển chuyển của gió lùa qua khóm tre, tôi cảm thấy những thời khắc đó thật đáng quý, khung cảnh thật dịu lành mà quyến rũ, và tôi thấm thía tại sao Thạch Lam không muốn đổi ngôi nhà tranh của anh lấy bất cứ một lâu đài dinh thự nào...
Những người bạn văn nghệ mà tôi thường gặp ở nhà Thạch Lam dạo đó là: Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thế Lữ (cùng cả vợ nhỏ là nữ kịch sĩ Song Kim), anh bạn thơ Huyền Kiêu, Nguyễn Tường Bách, Đỗ Đức Thu, Đoàn Phú Tứ, đôi khi Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, và một lần, Nguyễn Tuân, một lần Nguyễn Đỗ Cung...
Tất cả những người kể trên đều đã có lần tụ họp tại nhà Thạch Lam, thường thường quanh mâm rượu, thỉnh thoảng quanh chiếu tổ tôm hay cạnh khay trà. Ở địa vị chủ nhân tác giả Hà Nội băm sáu phố phường thực đã xứng đáng với cái danh Hào sĩ mà chúng tôi tặng anh.
Tôi không bao giờ quên được bữa rượu hội kiến đầu tiên có mặt Nhất Linh, Thế Lữ, Huyền Kiêu, Thạch Lam....
Từ trong nhà một người đàn bà đi ra bước qua cửa tò vò đến giữa hai cây cau. Người đàn bà túm lấy mấy chiếc áo khô bỏ trong một cái giỏ, lật mặt trái phơi tiếp mấy cái quần tây rồi bỏ đi vào trong nhà.
Trong căn nhà ấy... tôi nhìn thấy - qua con mắt của chú Đinh Hùng - hình bóng những người thân yêu đã khuất của tôi, bố tôi và các chú... đang ngả nghiêng đánh chén.
Khuya lắm, tiệc tàn. Bố tôi nằm trên chiếc võng giữa nhà, ê a ngâm thơ. Chú Sáu, chú Đinh Hùng và chú Huyền Kiêu thì loay hoay xuống bếp nướng mực và mò gậm giường lấy dưa chua trong vại ra nhậu... Cho đến rạng sáng, chú Sáu kêu người nhà đi mua thêm đồ nhắm. Bố tôi đã tỉnh ngủ từ hồi nào, ung dung ngồi vào dự tiệc. Trong khi tất cả đều say mèm bố tôi vẫn sung sức dẻo dai như khi bắt đầu uống. Bố tôi có tửu lượng rất cao. Hồi ở Đà Lạt tôi vẫn ngồi ngắm ông uống rượu. Càng uống ông càng ít nói, mặt chỉ tái đi chút đỉnh. Hồi ở bên Tàu - anh tôi kể - cậu đã từng uống thi whiskey với ba tay lính thủy Mỹ lựïc lưỡng, ba tay này gục trên bàn rượu trong khi cậu vẫn còn tỉnh như sáo. Cứ như thế tiệc rượu của bốn người kéo liền một mạch cho đến tận trưa. Tất cả đều say khướt, có lẽ chỉ trừ bố tôi. Chú Sáu và chú Huyền Kiêu rót rượu đầy tràn cả ra ngoài miệng chén. Bố tôi giằng lấy chai rượu đem giấu vào góc tủ, nói:
- Thôi đấy nhé! Hết rượu rồi. Không ai được uống nữa.
Rồi bố tôi kêu nóng. Ông cởi phăng áo ngoài. Mình trần, quần cộc, bố tôi chạy ra sân, nhẩy tùm xuống Hồ Tây bơi ào ào. Khi cách bờ khoảng dăm chục thước ông lớn tiếng nói vọng lên:
- Các tửu đồ! Có hứng thử nhẩy xuống hồ này vùng vẫy chơi cho mát!
Chú Đinh Hùng cũng thoát y mặc xì-líp nhẩy xuống hồ bơi lóp ngóp dưới nước. Bố tôi vung tay vẫy và ngoài người bơi thật nhanh về phía chú. Còn cách nhau chừng dăm thước, bố tôi bảo chú Đinh Hùng:
- Tôi với anh bơi thi từ đây vào bờ, xem ai thắng.
Hai người ra sức thi đua liền. Biết là chú Đinh Hùng không bơi giỏi, lại sợ chú còn say, bố tôi bơi kèm sát chú để đề phòng bất trắc. Cả hai về gần tới bờ cùng một lúc. Nhưng bố tôi cố ý bơi thụt lại, nhường chú nửa sải tay.
Hai người khoác tay nhau bước lên bờ. Rồi bố tôi cúi xuống. Nước hồ chẩy trên chiếc lưng rộng của ông...
Chiếc lưng ướt nước...
Trí tôi thoáng hiện một kỷ niệm với bố tôi ở Đà Lạt.
Trời nóng. Mấy bố con tôi vừa vào rừng tìm lan và đang đứng phía dưới của ngọn thác Pongour, nơi có một chỗ nước suối khét sâu làm thành một cái vũng lặng. Bố tôi ngồi xuống cát, tháo đôi giầy rồi đứng lên cởi áo sơ mi lột áo lót. Ông cúi xuống vén hai ống quần tây lên tận bẹn, quay sang tôi nói:
- Trời nóng quá! Chỗ này nước lặng con có thể tắm được.
Tôi ngần ngại. Trên người tôi mặc độc chiếc quần cộc và áo ngắn tay. Không có cả xì-líp. Năm đó tôi 16 tuổi. Tôi đã qua từ lâu cái tuổi tắm truồng. Bố tôi biết ý nói:
- Con cứ mặc quần mà tắm. Trời này thì quần ướt sẽ khô ngay ấy mà!
Tôi cởi áo đi theo bố tôi lội xuống nước. Bố tôi không bơi mà chỉ dầm chân xuống suối ngang đầu gối. Ông cúi xuống hai tay vốc nước suối dấp lên mặt, lên vai, lên lưng. Trước khi nhẩy tùm xuống bơi tôi thoáng thấy trên cái chiếc lưng ướt của bố tôi một cục bướu tròn to bằng cái trứng chim cút nằm ngay giữa xương sống.
Chỉ một thoáng thôi nhưng hình ảnh cái cục bướu ấy cứ lấn cấn mãi trong trí tôi cho tới tận ngày nay. Bố có cục u từ hồi nào? Liệu chú Đinh Hùng có nhìn thấy nó khi ông bơi với bố ở hồ Tây? Bố trăn trở ra sao mỗi khi nằm ngửa. Bố có khó chịu không? Vào khoảng đầu thập niên 60 ở Sài Gòn có phong trào các cô gái mặc áo cánh mà khuy cài lại ở phía sau lưng. Bố tôi thấy chị Thoa tôi mặc áo đó thì bình phẩm: Mặc áo đó thì khó chịu chết, mấy cái khuy cứ cấn sau lưng sao mà ngủ được?. Thế còn cái bướu của bố nó to và cộm hơn mấy cái khuy áo nhiều, thì sao?
Một tiếng động sột soạt ở phía sau lưng khiến tôi ngoảnh ra sau nhìn. Từ trong một bụi chuối bước ra một cụ già quần áo nâu, râu tóc bạc phơ nhưng người trông cứng cáp khỏe mạnh. Thấy tôi cụ trố mắt nhìn. Cái nhìn nghi hoặc làm tôi lúng túng. Rõ ràng là tôi vừa bị bắt quả tang đang toan tính chuyện gì mờ ám. Một người lạ đến khu này mà không vào đình, lại lén lút chui vô cái xó kẹt này nhìn chăm chăm vào căn nhà bên cạnh thì quả là rất khả nghi.
Tôi mỉm một nụ cười gượng tiến lại phía cụ già lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, cụ có phải cụ Từ trông nom đình Yên Phụ không ạ?
Ông cụ nhướng đôi mắt.
- Phải. Chính tôi. Ông muốn gì?
Tôi phân trần:
- Thưa cụ cháu định vào tham quan đình nhưng cháu nhìn mãi chẳng thấy một ai cả, cháu bèn ra hồ để ngắm cảnh.
Thấy cụ già hết nhìn tôi lại nhìn căn nhà bên kia lưới sắt, vẻ nghi ngờ, tôi nói thêm:
- Chẳng nói dấu gì cụ... cháu từ ở nước ngoài về. Trước đây hồi cháu còn bé, dễ cũng đã sáu mươi năm rồi, chúng cháu có ở căn nhà này. Vâng đúng là nhà này vì cháu nhớ nhà cháu sát cạnh đình Yên Phụ. Cháu bèn mạn phép tự tiện mò vào đây chỉ cốt là để nhìn lại căn nhà cũ của cháu, chứ thực tình không có ý gì khác. Nhưng cháu chẳng nhận ra được nhà cháu ngày xưa. Họ phá ra xây lại hết rồi. Cháu nhớ là ở chỗ cây cau kia kìa trước kia có một cây liễu...
Nói đến đây tôi thấy đôi mắt cụ Từ dịu xuống. Cụ nói:
- Cậu nhớ thế là đúng rồi. Cây liễu đó ai chặt mất từ lâu lắm. Ở đây không còn một ai nhớ ra là chỗ đó ngày xưa có cây liễu, ngoài tôi.
- Thưa cụ, như vậy cụ trông nom đình này đã lâu lắm. Chắc cụ biết trước kia nhà này là nhà tranh và nhà văn Thạch Lam đã từng sống trong nhà tranh đó.
- Ừ tôi biết chứ. Ông Thạch Lam tôi không được quen nhưng tôi biết ông Hoàn. Ông gì Hoàn nhỉ...? Tôi quên rồi. Hình như ông ta cũng có liên hệ với ông Thạch Lam.
- Thưa, chú Nguyễn Kim Hoàn là anh rể của chú Thạch Lam cháu...
Chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi chậm về phía đình. Đi qua bụi chuối gần đến bên hông đình thì cụ Từ lại rẽ ngang dẫn tôi ngược lại phía hồ. Cụ nói:
- Chẳng mấy khi mà đình làng này được đón khách từ ở nước ngoài về. Cậu ra đây một lát uống với chúng tôi chén nước.
Chúng tôi vào một lối mòn xuyên giữa bụi chuối. Qua mấy chậu cây cảnh thì đến lại cái bờ xi-măng cong vòng lúc nẫy. Nhưng khúc bờ xi-măng này nhìn ra phía khác của hồ. Từ chỗ này không thấy nhà cây liễu, nhưng thấy được mái chùa Trấn Quốc ló ở tít xa.
Một hàng dừa cao phủ bóng mát trồng dọc theo bờ xi-măng. Dưới bóng cây mấy người đàn ông ngồi ngắm cảnh hồ trên những chiếc ghế nhựa thấp, trước một cái bàn con có để một ống điếu cầy, một bình nước trà và mấy cái chén.
Cụ Từ chỉ tôi ngồi trên ghế rồi giới thiệu tôi với mọi người. Tất cả những người này đều đứng tuổi. Khi được biết tôi là cháu ruột của nhà văn Thạch Lam, một người lên tiếng bình phẩm:
- Thạch Lam à? Đệ nhất văn sĩ đấy! Văn thế mới đích thật là văn! Trước sau không một ai có thể viết được như Thạch Lam. Tôi dám cam đoan thế...
Với một vẻ trân trọng đặc biệt ông ta tiếp tục nói về Thạch Lam và những nhà văn khác thời đó. Giọng nói có xen lẫn chút u hoài như thể các nhà văn ông vừa nhắc tới khiến ông nhớ lại một thời tuổi trẻ của mình.
Câu chuyện xoay quanh vấn đề văn chương và đặc biệt là văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi hơi ngạc nhiên nghe những vị này bàn về văn đoàn cũng như thành viên của văn đoàn này với một sự hiểu biết khá chính xác, mặc dù Tự Lực Văn Đoàn là một đề tài cấm kỵ không được nhắc đến từ hơn một nửa thế kỷ. Trước đây tôi đã có dịp nói chuyện với vài người trong giới trẻ Hà Nội như mấy cô chú hướng dẫn viên các hãng du lịch hoặc các cô cậu sinh viên làm việc ở quầy tiếp tân các khách sạn, những người trẻ này có khả năng về ngoại ngữ rất cao, thể nói được nhuần nhuyễn cả hai thứ tiếng Anh, Pháp. Nhưng khi được hỏi về Tự Lực Văn Đoàn thì đa số trả lời là họ chỉ biết đến nhà văn Thạch Lam với truyện ngắn Hai Chị Em được dậy trong giáo trình giảng văn bậc trung học.
Rít một hơi thuốc lào một người khác ngửa cổ lên trời nhả khói rồi nói:
- Bây giờ người ta không biết viết văn... Cả một thế hệ không biết viết văn... Sách truyện bây giờ người ta in khối ra đấy mà chả có một cuốn nào viết ra hồn... Văn chả ra văn.
Tôi lên tiếng bênh vực:
- Bác nói thế có hơi quá không? Nhìn chung thì đúng như thế đấy, nhưng cũng có ngoại lệ chứ. Tôi đã đọc vài truyện tôi rất thích của một hai tác giả ở Hà Nội. Theo tôi họ viết cũng hay lắm.
- Ông nói thế là thế nào? Ông thử nêu tên vài cuốn tôi nghe thử? Làm sao họ có thế viết văn hay như những tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn được?
Tôi im lặng. Hơn bốn mươi năm trước hồi ở Sài Gòn đã có lần tôi nói tôi thích đọc văn của nhóm Sáng Tạo hơn đọc văn Tự Lực Văn Đoàn và khen nhóm này có nhiều tay viết rất cừ, mới chỉ nói thế thôi mà đã gây tranh luận trong đám bạn bè. Bây giờ nếu tôi mở miệng khen ngợi một hai nhà văn đương thời của Hà Nội với các vị mê say Tự Lực Văn Đoàn, xem văn của nhóm này như chuẩn đích cho cái hay của văn chương mọi thời thì chắc cũng lại chỉ gây tranh cãi vô ích.
Cụ Từ cúi xuống rót thêm nước chè vào chén của tôi. Từ lúc nẫy cụ yên lặng không tham dự vào câu chuyện văn chương. Cụ chắc đã trên tuổi bát tuần. Cái tuổi mà nếu các nhà văn bậc tiền bối còn sống hẳn là đã gọi cụ bằng hai tiếng thân mật chú em.
Tôi nhìn ra hồ Tây phía xa. Trong rặng cây xanh bên kia bờ nổi bật mái đỏ của hai gian nhà lớn hai từng. Thấy tôi nhìn phía bên kia hồ cụ Từ chỉ tay về phía ấy nói:
- Bên ấy là làng Thụy Khuê. Rặng cây xanh là vườn Bách Thảo. Hai cái nhà lớn mái đỏ kia là trường Bưởi.
- Thế hả cụ? Cháu cứ nghe mãi tên trường Bưởi bây giờ mới biết nó ở đấy đấy.
Trường Bưởi, cái tên rất thân quen. Chu Văn An ngàn đời treo gương sáng... anh tôi vẫn cất tiếng hát, bài hát của ngôi trường một thuở nào xa xôi anh đã từng in dấu.
Trường Bưởi, cùng với sóng nước hồ Tây, đã đi vào văn chương. Tôi mê đoạn văn sau đây, nhớ mãi. Có thật chăng một cuộc tình não nùng đã từng nẩy nở bên kia bờ nước, sau lùm cây, trên bãi cỏ, phía góc trường kia?
Hai mươi năm đã qua... Quanh hồ đủ thứ đã đổi thay, song thần thái của hồ vẫn là muôn thuở. Vẫn mênh mang thế, vẫn bình yên, thong dong, lãng đãng thế và say đắm thế. Với sương mờ ban mai. Với vừng ráng chiều tà. Với rặng núi xa. Kiên chưa lần nào vào lại sân trường xưa để vòng sau nhà bát giác tới lùm cây ấy, bãi cỏ ấy. Anh chỉ từ rất xa, mé đường Thanh Niên mà nhìn về góc trường đó, mặt hồ dường như ngước nhìn anh bằng đôi mắt lấp lánh màu nâu của Phương, với vẻ kỳ diệu và nỗi ngậm ngùi của tuổi thơ ấu, của tình yêu đã đi qua, đã xa vời vợi. Và những chiều ngồi bên hồ bao giờ anh cũng ngồi nán lại cho đến khi vừng ráng chỉ còn đọng lại một ngấn đỏ chạy ngang trời. Ấy là ánh hồi quang của cái đêm hai mươi năm trước, bên bờ hồ, sau lùm cây, trên bãi cỏ, phía góc trường...
Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chốt nổi trên đám bèo neo sâu trong hồ một hồi kẻng khuya chậm rãi dóng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng phải ai khác ngoài chính họ.
Gió thở dài. Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi bị cuốn dạt ra mỗi ngả... (Bảo Ninh - Thân phận tình yêu).
Gió... không thở dài ở đây, bây giờ, mà lồng lộng thổi từ mặt hồ Tây mênh mang phía trước.
Ngày hôm qua tôi nói với Bảo Ninh ngồi đối diện tôi nơi một bàn tiệc:
- Tôi có đọc truyện Nỗi buồn chiến tranh của anh. Không khí truyện này rất lôi cuốn khiến tôi đọc mà muốn ngộp hơi. Đọc xong tôi hiểu vì sao anh bị giằng co trong sự lựa chọn giữa hai nhan truyện Nỗi buồn chiến tranh và Thân phận tình yêu. Tôi thích nhan đề sau hơn, có lẽ bởi vì tôi bị mê hoặc bởi những đoạn anh viết về những cuộc tình hơn là những đoạn anh viết về cuộc chiến, tôi thích style văn rất mới của anh, cái lãng mạn trong văn phong anh, không phải cái lãng mạn trữ tình êm đềm kiểu Tự Lực Văn Đoàn mà là thứ lãng mạn chua xót và đớn đau. Tôi cho rằng mình đã đọc một truyện rất hay về cuộc chiến tranh mà anh với tôi đã cùng trải qua và trực tiếp dự phần, từ hai phía đối nghịch.
Bên kia bàn Bảo Ninh, trẻ hơn tôi đúng một giáp, mái tóc đã điểm sương bồng lên bù xù, hàng râu quặp trên mép, nhận lời khen của tôi một cách trịnh trọng, hơi kiểu cách: anh nắm chặt hai bàn tay vào nhau để phía trước ngực khẽ cúi đầu nói nhỏ đa tạ!.
Trong lúc ăn Bảo Ninh luôn tay với chai rượu whiskey rót thêm vào cốc đưa lên miệng uống. Chả mấy chốc chai thứ hai đã được khui. Bàn tiệc có sáu bảy người. Một mình anh ta có lẽ đã tiêu thụ nguyên gần một chai rượu mạnh.
Ngồi bên trái tôi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp yên lặng gắp đồ ăn, anh ăn nhỏ nhẹ không đụng tới một giọt rượu.
Bảo Ninh uống. Hết ly này đến ly khác. Mắt anh có một lúc rời tôi nhìn người ngồi cạnh tôi bên phải. Cặp mắt đã mờ say của anh ánh lên một tia nhìn dịu và đằm thắm, hẳn cũng là cái nhìn của nhân vật Kiên với những người nữ trong Nỗi buồn chiến tranh của anh.
Bên cạnh tôi là Đỗ Hoàng Diệu một nhà văn nữ rất trẻ, tác giả một quyển truyện nổi tiếng Bóng Đè.
Tiệc tàn. Tôi hơi say. Cả bàn có lẽ chỉ có hai người không đụng tới rượu là Nguyễn Huy Thiệp và Đỗ Hoàng Diệu.
Nguyễn Huy Thiệp quay qua tôi hỏi:
- Để tôi chở anh về. Anh có bận gì không?
- Không.
Anh ghé nói nhỏ vào tai tôi:
- Nhà anh Tô Hoài rất gần đây. Mình ghé thăm anh một lát rồi tôi chở anh về nhà tôi chơi...
Nơi mé hồ gần bờ hướng chùa Trấn Quốc có một người đang bơi, cái đầu chồi ngụp trên mặt sóng. Hình ảnh bố tôi bơi với chú Đinh Hùng lại thoáng trong trí.
Bố tôi đã ra đi bốn mươi ba năm trước... như con bướm trắng bay đi không trở lại. Nếu còn sống thì hôm nay là sinh nhật thứ 100 chúng tôi đã thắp một trăm ngọn nến trên chiếc bánh sinh nhật của ông.
Tôi đứng dậy nhìn đồng hồ tay. Nhớ tới cái hẹn tại nhà anh Nguyễn Huệ Chi tôi nói với cụ Từ xin kiếu về.
Bước ra khỏi đình Yên Phụ tôi ngoái nhìn phía trước căn nhà cây liễu một lần cuối rồi đi rẽ về phía cổng làng.
Mặc dù không dặn nhưng khi bước qua khỏi cổng làng tôi đã thấy bác lái xe ôm ban sáng ngồi chờ tôi dưới một gốc cây. Thấy tôi bác lật đật đứng lên vứt điếu thuốc xuống lề đường. Lúc nẫy tôi đã định bụng không về ngay khách sạn mà tản bộ một lát trên đường Cổ Ngư, nhưng thấy bác ta chờ từ sáng tội nghiệp, tôi đổi ý và để bác ta chở về.
Ngồi sau lưng bác tài trên chiếc xe hai bánh chạy ngược trên đường Thanh Niên tôi nhớ ngày hôm qua tôi ôm eo Nguyễn Huy Thiệp trên chiếc xe gắn máy của anh ta và hình như cũng chạy qua con đường này. Không có ý niệm về đường phố ở Hà Nội tôi không biết anh Thiệp đã chở tôi đi những đâu, qua những con phố nào, chỉ biết là anh chở tôi đi xa lắm tôi ngồi lâu trên xe ê cả mông đít.
Từ nhà hàng ăn chúng tôi đến thăm nhà văn lão thành Tô Hoài, tác giả của tập truyện Dế mèn phiêu lưu ký tôi đã mê say đọc từ hồi còn nhỏ. Anh Thiệp sau đó chở tôi đến phố Hàng Trống thăm một xưởng tranh hình như là của người con anh. Chiều đến anh chở tôi về nhà anh ở vùng ngoại thành Hà Nội rất xa khu trung tâm thành phố. Khi chiếc xe rời con đường chính vào một con ngõ tôi đinh ninh sắp đến nhà anh. Nhưng không. Xe còn đi lâu lắm rẽ qua không biết bao nhiêu con ngõ rắc rối rồi cuối cùng mới dừng lại trước căn nhà có bờ tường rêu bao quanh và có cổng gỗ kiến trúc giống như cổng một mái chùa hay một ngôi đình làng.
Nguyễn Huy Thiệp tắt máy xuống xe tra chìa vào ổ khóa đẩy hai cái cánh cửa gỗ nặng nề dắt xe qua cổng. Bên trong mở ra một thế giới khác hẳn bên ngoài. Một khu tuy nằm trong lòng Hà Nội nhưng biệt lập yên tịnh và đặc biệt là rất đồng quê. Qua bóng rợp của một khu vườn cây rộng, toàn cây ăn trái, nào nhãn, nào ổi, nào khế... cây nào cây nấy nặng trĩu những quả, một con đường lát gạch dẫn tôi tới căn nhà hai từng nằm ẩn sau vườn, nơi mà Không có vua, Tướng về hưu... cùng những tác phẩm khác của anh được thai nghén và sáng tác.
Tối đó anh Thiệp mời tôi dùng cơm tại nhà anh. Tôi nhớ mãi bữa cơm rau ấy vì đã từ lâu lắm rồi tôi không được ăn một bữa cơm rất thanh đạm nhưng đầy mùi vị quê hương. Về khuya anh đưa tôi ra đầu ngõ đón xe về khách sạn. Anh nói trước khi chia tay:
- Văn chương nó bạc lắm anh ạ. Phần thưởng quí nhất có lẽ là qua nó chúng ta có được những người bạn mới ở khắp bốn phương.
*
Tôi cúi xuống mở cái ba-lô tôi để dưới chân ghế lấy ra quyển hồi ký Nhất Linh, cha tôi tôi mới xuất bản ở Mỹ. Tôi mở trang đầu cuốn sách viết lời đề tặng chủ nhà.
Có tiếng động và tiếng người nói ở nhà dưới. Lát sau mọi người lần lượt lên cầu thang ngồi trên hai dẫy ghế hai bên bàn. Có hai vị khách được chủ nhà hướng dẫn ngồi ghế phía trước cạnh tôi. Tất cả khoảng hơn mười người.
Chủ nhà, giáo sư Nguyễn Huệ Chị, trưởng ban văn học Việt Nam Cổ cận đại viện văn học Hà Nội, cũng là chủ biên của tập Từ Điển Văn Học, giới thiệu những người hiện diện. Trừ vài người tôi đã nghe danh tánh như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, giáo sư Phan Đình Diệu, hai vị ngồi cạnh tôi, và một người ngồi phía dưới là đạo diễn Trần Văn Thủy, những người khác tôi mới nghe tên lần đầu.
Nghe anh Huệ Chi giới thiệu những người đó với toàn chức vị tiến sĩ tôi nói đùa với anh:
- Mặc dù Hà Nội đang giữa mùa Hạ anh cũng làm tôi rét đấy! Tôi chưa từng bao giờ được diện kiến với nhiều vị tiến sĩ như vậy trong đời...
Vài nụ cười nhẹ thoáng trên môi của mấy vị khách phái nữ.
Câu nói đùa của tôi không phá được bầu không khí khá trịnh trọng lúc ấy. Trong một lát tôi ngỡ ngàng. Tôi hoàn toàn không chuẩn bị để đối diện với cái không khí này.
Vị trí ngồi của tôi ở đầu bàn cho thấy hậu ý của chủ nhà muốn tôi là người nói chuyện và có lẽ là người duy nhất phát biểu trong buổi kỷ niệm này với đề tài được mọi người trông chờ là nói về ông cụ.
Tôi biết nói gì đây, ở một nơi mà chỉ nội nhắc đến cái tên ông cụ không thôi đã là một điều rất cấm kỵ?
Tôi mở đầu nói về tiểu sử và các hoạt động văn hóa của ông cụ. Tôi nói vắn tắt vì biết rằng hầu hết những người trong phòng này là những học giả uyên bác, họ đã nghiên cứu tác giả Nhất Linh rất kỹ và chắc hẳn là tường tận hơn tôi.
Còn về con người thứ hai của ông cụ, con người chính trị và cách mạng Nguyễn Tường Tam, thì đây mới thực sự là điểm nóng. Nhưng nơi này lại không phải là một chỗ thích hợp để nói tới và luận bàn.
Tôi với tay lấy cuốn hồi ký của tôi trên bàn và đọc nguyên một đoạn dài trong bài Nói chuyện với Huy Cận. Bài viết đó tôi tường thuật buổi gặp gỡ giữa anh em chúng tôi với thi sĩ Huy Cận vào mùa Hạ năm 2001, bốn năm trước khi thi sĩ qua đời. Trong buổi nói chuyện ấy chúng tôi đã có một lúc tranh luận khá gay gắt khi Huy Cận bắt đầu nói về chính trị, đặc biệt khi ông tựï dành quyền phán xét hành động chính trị của bố tôi, điều mà bố tôi không muốn: bố tôi tự chết chỉ quyết là không để ai được quyền phán xét ông, ngoài lịch sử.
Buổi nói chuyện trong đó tôi là người duy nhất lên tiếng chấm dứt trong im lặng. Không một tiếng nói thứ hai, không một lời bình luận. Sự yên lặng bao trùm khiến tôi liên tưởng đến thái độ của những người trí thức trong nước mà tôi đã có dịp tiếp xúc: họ nhã nhặn, lịch sự nhưng dè dặt.
Sau đó chủ nhà đứng lên chuyển lại lời mời của tôi với tất cả mọi người hiện diện đến dự buổi cơm trưa tại một nhà hàng do anh ấy lựa chọn. Rồi anh chuyển quanh bàn cuốn Từ Điển Văn Học để tất cả cùng ký tên trên trang sách anh đã viết sẵn lời đề tặng chúng tôi.
Sau khi chụp hình lưu niệm mọi người lần lượt bước xuống cầu thang. Anh Huệ Chi bảo tôi:
- Anh cứ ở trên này một lát để tôi xuống trước thu xếp xe.
Tôi hỏi anh:
- Anh đã chọn được quán ăn nào chưa?
- Rồi. Quán ngon.
Tôi hỏi lại:
- Quán gì?
- Quán Ngon.
- Chà, cái tên lạ nhỉ...
Anh mỉm cười bước xuống cầu thang.
Tôi ngồi xuống ghế lật trang đầu cuốn Từ Điển.
Bên dưới chữ ký của anh Nguyễn Huệ Chi có thêm chữ ký của các vị sau đây: Phan Đình Diệu, Trần Văn Thủy, Phạm Ngọc Lan, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Bá Dũng, Phạm Thu Hương, Trương Hồng Quang, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Văn Bình.
Phía dưới nữa là một hàng chữ lớn viết tay và chữ ký của người viết:

Với cả tấm lòng quý trọng đại văn hào Nhất Linh.
Hoàng Ngọc Hiến
Nguyễn Tường Thiết
Con nhìn thấu và rồi con sẽ ngộ,
Người con yêu và nguời đã yêu con...
Người dâng con với tất cả lòng son,
Tâm kiên định chẳng bao giờ thay đổi !

Con vội vã và rồi con lạc lối,
Ngỡ như mình tìm được chốn thần tiên....
Trong bóng đêm ba ngọn nến lung linh,
Cây trước mắt vẫn là cây sáng nhất !!
NM
 
Hình ảnh có liên quan

Ngon nến sáng nhất - Lời phật dạy về tình yêu

Khi hiểu rõ một vấn đề, chính ta sẽ nghiệm ra đâu là điều đúng nhất. Phật chỉ là người dẫn đường giúp ta nhìn ra chân lý ấy. Có một câu chuyện về tình yêu của người chồng, ngọn nến nào sáng nhất trong mắt anh ta.
Ngon nến sáng nhất - Lời phật dạy về tình yêu
Tối nọ, có một người đàn ông tìm tới một ngôi chùa để nhờ Đức Phật chỉ dạy cho anh về chuyện tình yêu.
- Thưa Đức Phật anh minh, con là một người đã có vợ, con đang yêu say đắm một người đàn bà khác, con thật không biết nên làm thế nào?

- Con có thể xác định người đàn bà con đang yêu hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con không? - Đức Phật đáp lại.

- Thưa vâng.

- Con ly hôn, sau đó lấy cô ấy?

- Nhưng vợ con hiện nay dịu dàng, lương thiện, thảo hiền. Con bỏ cô ấy liệu có phần tàn nhẫn không, có mất đạo đức không, thưa Đức Phật?

- Trong hôn nhân không có tình yêu mới là tàn nhẫn và mất đạo đức. Con hiện giờ đã yêu người khác, không yêu vợ nữa. Con làm như thế là đúng.

- Nhưng vợ con vẫn rất yêu con, quả thật yêu con lắm, thưa Đức Phật.

- Vậy thì vợ con hạnh phúc.

- Sau khi con chia tay vợ để lấy người khác, vợ con sẽ rất đau khổ, tại sao lại hạnh phúc, thưa Đức Phật?

- Trong hôn nhân, vợ con vẫn có tình yêu đối với con, còn con đã mất đi một tình yêu đối với vợ con. Bởi vì con đã yêu người khác, chính vì có hạnh phúc, mất đi mới đau khổ, cho nên người đau khổ là con.

- Nhưng con cắt đứt vợ, sau đó cưới người khác, vậy là cô ấy đã mất con, cô ấy mãi là người đau khổ.

- Con nhầm rồi, con chỉ là người vợ con yêu thật sự trong hôn nhân. Khi một người như con không tồn tại, thì tình yêu thật sự của vợ con sẽ tiếp nối sang một người khác. Bởi tình yêu thực sự của vợ con trong hôn nhân xưa nay chưa từng mất, cho nên vợ con mới là người hạnh phúc, con mới là người đau khổ.

- Vợ con từng nói kiếp này chỉ yêu mình con thôi. Cô ấy sẽ không yêu ai khác.

- Con cũng từng nói thế phải không?

- Con…con…con…

- Bây giờ con nhìn ba ngọn nến trong lư hương trước mặt, xem ngọn nào sáng nhất?

- Quả thật con không biết, hình như đều sáng giống nhau.

- Ba ngọn nến ví như ba người đàn bà. Một ngọn trong đó là người đàn bà hiện giờ con đang yêu. Đông đảo chúng sinh, đàn bà đâu chỉ là mười triệu trăm triệu… Ngay đến một trong ba ngọn nến, ngọn nào sáng nhất con cũng không biết, cũng không tìm được người con hiện đang yêu, thì làm sao con xác định được người đàn bà hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con?

- Con…con…con…

- Bây giờ con cầm một cây nến đặt trước mắt để tâm nhìn xem ngọn nào sáng nhất?

- Đương nhiên ngọn trước mặt sáng nhất.

- Bây giờ con đặt nó vào chỗ cũ, lại xem xem ngọn nào sáng nhất.

- Quả thật con vẫn không nhìn ra ngọn nào sáng nhất.

- Thật ra cây nến con vừa cầm giống như người đàn bà cuối cùng con đang yêu hiện nay, tình yêu nảy sinh từ trái tim, khi con cảm thấy yêu nó, để tâm ngắm nghía, con sẽ thấy nó sáng nhất. Khi con để nó vào chỗ cũ, con lại không tìm được một chút cảm giác sáng nhất. Thứ gọi là tình yêu cuối cùng và duy nhất của con chỉ là "hoa trong gương, trăng dưới nước", suy cho cùng chỉ là con số không, một cuộc tình trống rỗng.

- Con hiểu rồi, không phải Đức phật bảo con phải ly hôn vội vã, Đức Phật đang niệm chú làm cho con ngộ đạo.

- Nhìn thấu sẽ không nói trắng ra, con đi đi!

- Bây giờ con đã biết thật sự con yêu ai, người đó chính là vợ con hiện nay, thưa Đức Phật.
CXG
Hình ảnh có liên quan

HÒA TẤU GUITAR VÔ THƯỜNG 

Những Cây Nến... “Đen”
Cuối cùng thì ông cũng “”được” về hưu như người ta, đóng lại 40 năm ròng rã mệt nhoài trong công xưởng, hối hả đi về theo những chuyến xe tất bật ngược xuôi dòng đời.
Kết quả của 40 năm bươn chải, con cái thành tài có gia đình cơ ngơi riêng, nỗi lo toan cơm áo gạo tiền kết thúc, khoẻ ru! Bổng lộc hưu trí tích lũy ngần ấy năm thư thả cho những ngày còn lại của 2 ông bà, không phải nhờ con cháu, nhẹ gánh rồi!
Thời giờ xin dành hết thời gian cho bà, người vợ đầu gối tay ấp chung thủy nghĩa tình bao năm vất vả quán xuyến trong ngoài cho đại gia đình này.
Một chuyến du lịch hải hành trọn gói dài ngày bên Âu Châu, ước mơ thầm kín của bà từ lúc còn tóc xanh, có một ngày thật gần sẽ trở thành hiện thực. Viễn ảnh đẹp đẽ của những bờ biển trong veo trải dài cát trắng, núi non thiên nhiên hùng vĩ, những con đường thơ mộng trong công viên của thành phố hoa lệ… chỉ được nghe ca tụng, giờ nằm trong tầm tay với, ông cảm thấy hài lòng với món quà hấp hôn đầy ý tình, thi vị sẽ gây cho bà nhiều ngạc nhiên thích thú lắm đây! Vui!
Mùa Giáng Sinh sắp tới, kéo dài bắc cầu sang đến ngày lễ nghỉ mừng Năm Mới, ông lại nôn nao mong chóng gặp lại gia đình các con, chúng nó tất cả hẹn nhau tụ tập về đây, một công đôi chuyện, vừa hưởng ngày nhàn nhã lễ hội vừa dự tiệc họp mặt đại gia đình sau bao năm hẹn mà trớt quớt vì công tác bất ngờ hay có chuyện bận rộn bên vợ hay bên chồng thình lình của đứa này, đứa kia…
Còn đám cháu nhỏ, nghĩ đến là rộn rã ùa tràn lòng, tính khí năng động con nít sẽ khuấy động không khí vốn trống vắng từ lâu trong căn nhà này, nhớ tiếng cười, tiếng vòi vĩnh dễ thương của chúng quá thể!
Bà cũng như ông, ra vào cứ giở hoài tờ lịch, tẩn mẩn đếm đi đếm lại số ngày xuống dần sẽ đoàn viên cả nhà, rồi lại lui cui ghi chép thêm vào sổ tay thật kỹ càng những thứ bất chợt nảy sinh trong việc chuẩn bị những bữa cơm thân mật đông đủ gia đình với món ruột của tụi nhỏ, kể ra thôi cũng đã thèm cho kẻ mê ăn, này nhé… món bánh xèo Nam quyện nước dừa béo ngậy đổ chảo nóng giòn rụm, món bún thang Bắc đậm đà mắm tôm, bún bò giò heo Trung cay xé lưỡi, dặm thêm món bột lọc tôm chấy nồng đượm, món phở đặc trưng với mùi ngò gai rau quế thân thuộc v…v ngoài ra những món ăn vặt, ăn chính kiểu Tây Mỹ cho đám cháu không thể nào thiếu trong thực đơn. Bấy nhiêu cũng đủ chiếm trọn thời giờ của bà nội trợ đảm đang.
Việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, giao hẳn cho ông, coi như đã gần xong, cây thông dựng lên chỉ thiếu mấy trái cầu thủy tinh đủ sắc để tăng phần lộng lẫy bên cạnh những giây đèn hoa giăng rực rỡ, chiếm cứ một diện tích không nhỏ nơi góc nhà, và dự định sẽ để lâu qua hết tuần đầu của năm mới. Lễ lớn mà!
Ngày vui gần kề, thương bà quá! hẳn vì sự chộn rộn lo lắng, trông chờ nên giấc ngủ xáo trộn sinh bần thần, sớm ra lại lăng xăng việc nhà viêc chợ, nên khó tránh dạo này hay quên thứ này không nhớ thứ nọ, vì thế ông cũng bở hơi tai khi kiêm thêm nhiệm vụ sai vặt liên tu bất tận của bà.
Rồi một sáng, nét phờ phạc mệt mỏi của bà hiện rõ. Ông phải lên tiếng khuyên bà ngừng công việc, nghỉ ngơi ngay, cứ thủng thỉnh mà làm có thi đua chi đâu mà vội, chứ điệu này khi con cháu về, bà đổ bệnh thì mất vui, nhưng Bà chỉ ậm ừ, rồi bỏ ngoài tai, dễ giận không chứ?
Ông nói đâu có sai! để rồi một tối, chuyện lớn xảy ra.
Ông về nhà, cửa ngõ không khoá, phòng khách tối om, thất kinh hơn cả khi thấy bà nằm sóng soài trên nền gạch lạnh từ hồi nào.
Tiếng xe cấp cứu rú lên liên hồi trên đường đưa bà vào bệnh viện, lần đầu tiên, cảm giác không an bình, lo sợ mông lung làm bấn loạn cả ruột gan ông khiến bơ phờ cả mặt mũi, ông cứ nhẩm khấn khứa như bà đã từng, khi có tình huống gì nghiêm trọng, khó trấn tĩnh được.
Bao ngày bà nằm lại nhà thương để chờ kết quả định bệnh, là bấy ngày ông tất tả tới lui bệnh viện. Không ngờ cú té ngã mà sinh chuyện to thế, cứ tưởng là bà mệt do thiếu ngủ, trễ ăn bỏ bữa gây tụt huyết áp hay thiếu máu chi đó, chỉ cần khám cho thuốc rồi về tịnh dưỡng, chứ biết đâu…
Nhìn bà không khoẻ trên giưòng bệnh, ống nước biển truyền lủng lẳng trên đầu giường, cái kim to, dấu mình dưới mảnh băng keo dán, rúc vào mạch máu tay nổi bầm tím thịt da làm ông cũng thấy như thân mình cũng bị châm, đau cách gì!
Mấy bữa không ăn uống, gương mặt bà hốc hác xanh xao trông rõ. Ông có tốt hơn gì bà, sáng tối túc trực bên giường bệnh, thân già như củi mục ủ rũ. Bao tử của ông chỉ một khoảng thời gian ngắn thiếu bàn tay bà chăm sóc cơm nước nên tóp teo hẳn lại, reo báo động suốt, dáng đi hết còn mạnh mẽ, da dẻ bớt tươi, bề ngoài bạc nhược, nhìn ông chán nản thì thôi!
Coi bộ bà chẳng nhớ chút gì chuyện té xỉu ở nhà mỗi khi hỏi đến, bà ngơ ngác trả lời không đâu vào đâu, lơ mơ đầu óc… ông bất giác sợ tái người khi nghĩ bà có phải phát bệnh lú lẫn “ăng dai mơ” rồi chăng? hay khi té, nói dại, đập đầu xuống nền nhà, chạm dây thần kinh nào nên mới ra cớ sự.
Thế nhưng khi ngoài cửa sổ, những sợi tuyết bám đặc kín vào mặt kính như tấm màn bông, vọng tiếng nhạc lễ hội vui tươi phát ra khe khẽ từ radio của người nuôi bệnh cạnh bên lén mang vào cho người thân nghe bớt nhớ nhà, thì như có phép lạ khiến ký ức tưởng đã ngủ quên đâu đó trong bà bỗng trỗi dậy, đánh thức mách bảo trái tim của người mẹ thương con, tấm lòng yêu cháu của người bà ngoại, bà nội như bà, phút chốc giác quan trở nên mẫn tiệp, năng lượng đầy đủ tiếp sức cho tỉnh táo đầu óc, thấp thỏm câu hỏi thăm ông mọi sự vật sự việc, đề cập công chuyện nhà, nhắc chừng ông đừng báo vội cái tin không hay, tuị nó lo, đằng nào… con cháu cũng sắp về rồi, chậm biết càng tốt.
Không biết ông trấn an bà hay là tự nhủ lấy mình hãy lo cho sức khoẻ trước đi… mọi việc khác không quan trọng nữa, gác hết qua bên. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, thấm thía quá!
Ừ! đúng là cận ngày lễ Giáng sinh, nhưng sao chẳng còn những háo hức đón chờ khi thấy tình trạng của bà bây giờ. Ông nghe như tiếng thở dài của ai đó kéo theo tiếng chặc lưỡi ảo não giữa cái không khí đầy mùi thuốc của nhà thương, buồn thêm… lại buồn!
Ông bước thấp bước cao ra khỏi cửa bệnh viện với đầu óc hỗn mang cùng cực, không tin vào chính tai mình sau khi nghe bác sĩ chuyên khoa thần kinh chẩn đoán và thông báo cái hung tin đến điên đảo đất trời, bà phải nằm lâu trong nhà thương để chờ ngày lên lịch mổ… chỉ lấy ra… một phần… cái bướu trong não. Ác thay! là một bướu… độc, đang phát triển rất nhanh.
Số mệnh tàn nhẫn vậy sao? Trong cùng cực bi quan, ông quên hẳn rằng tấm thân tứ đại con người vốn phải chiụ sự chi phối của vòng sinh bệnh lão tử, và mọi sự trên cõi gian này chỉ là ngắn ngủi, tạm thời, nhưng nhất thời cú sốc thình lình, không chịu nổi, cảm xúc dằn vặt đau đớn cứ thế mỗi lúc dâng từng hồi trong lòng ông với tiếng kêu tuyệt vọng. Bệnh của bà… bất trị!
Mai này… không có bà, đời ông còn gì là hạnh phúc nữa, biết sống sao đây? Trời ơi! đau quá, đau nát tim, xé lòng, hô hấp cứ như thắt lại, không hít thở nổi, tưởng như nỗi tê dại gậm nhấm trong từng mạch chảy làm đông cứng toàn thân ông, muốn té quỵ!
Sắc sẫm hoàng hôn kéo dần chụp úp cảnh vật mọi nẻo đường. Bóng ông đổ dài lê thê với bước chân nặng chịch in rõ trên nền tuyết trắng xóa rã rượi mênh mang. Gió u u vô tình thổi buốt đến đỉnh đầu không nón, tràn xuống cổ không quấn khăn, ghim vào ngón tay xương xẩu già nua như nhánh khô thời gian, vạn vật theo ông rùng cả mình. Lạnh điếng!
Bước vào nhà, căn phòng tối om như hôm bà té, lạnh lẽo không có chút sưởi nhiệt, sinh khí.
Tắt điện! ông run rẩy mò mẫm vào bếp tìm cây nến bằng ánh sáng lập loè chờn vờn như ma trơi của chiếc bật quẹt gas.
Mở chiếc ngăn kéo tủ bếp, mắt ông nhìn trừng trừng như chết sững khi tay lôi ra những cây nến nhỏ, chắc được bà trữ sẵn dùng để thắp bánh trong dịp sắp tới, chúng đồng bộ hầu như đã bị cắt ngắn chỉ còn non phân nửa thân, thành những cây nến tí hon thấp lè tè, kỳ dị! Có phải chủ nhân muốn kết thúc thật nhanh đến tận cùng thời gian cháy nến hay vì tiết kiệm muốn tăng số lượng nến lên gấp đôi? Hoàn toàn không phải vậy bạn ạ! nến rẻ rề cơ mà! Ông liên tưởng ngay đến lời của bác sĩ đọc hồ sơ bệnh lý của bà, cái bướu phát triển đè lên giây thần kinh thị giác.
Thì ra chính sự ảnh hưởng của cái bướu, hình ảnh mọi sự vật xung quanh bị thu hẹp hẳn lại khác thường trong tầm nhìn của bà, không gian chỉ còn lờ mờ thấp nhỏ trong khung tranh tối tranh sáng, nửa chừng nửa vời. Bà không biết nan bệnh đã phát, tưởng cơ thể mình bị nóng, hỏa xông, hoa mắt, nhất thời không tỏ, cũng không nói ra sợ chồng con bận tâm, tự nghĩ cách đơn giản là cắt ngắn bớt thân nến đi là có thể thấy trọn vẹn ánh sáng thắp lên từ ngọn của nửa cây nến. Trời ơi! tội nghiệp làm sao!
Ôi! Những ngọn nến… “đen”… sẽ chẳng có cơ hội được thắp lên nữa. Quỹ thời gian của chủ nhân chúng đã dần cạn kiệt đến nơi.
Ông ngồi bệt dí xuống đất, chiếc bật lửa theo cơn gió chạm tắt ngúm trong đôi bàn tay run như cầy sấy.
Nước mắt tưởng rất hiếm trên gương mặt của đàn ông, nếu có thì cũng phải gan góc ghìm chặt vào lòng, ông vẫn từng tự hào thế, bây giờ thì sao? chẳng có gì có thể kìm hãm nó được, cũng chẳng còn gì mà giữ kẽ với ai nữa.
Ông mặc cho nước mắt, nước mũi, tự do thả tuôn như suối cuồng bão nổi đẫm ướt trên những cây nến …đen… cụt đầu. Ông ôm mặt nấc lên từng hồi rưng rức, tức tưởi như đứa trẻ ngoan bỗng nhiên vô cớ bị người tước mất trên tay vật yêu quý nhất đời mình. Thế là hết… mất… hết cả rồi!
Vô thường!
Hồng Thúy

Kết quả hình ảnh cho truyện ngắn minh vy

Khát Vọng

Hai ngọn nến cong
– Ngọn nến cũng có ngọn cong và ngọn thẳng, bạn suy nghĩ gì về câu nói này?
Đó là câu hỏi cho đêm chung kết cuộc thi “Vẻ đẹp vầng trăng khuyết” mà cô phải vượt qua. Trên sân khấu, cô đang mặc chiếc áo sơ mi màu trắng, điểm vài bông đỏ li ti, chiếc váy màu đem phủ qua đôi chân cong queo teo tóp được đặt ngay ngắn trên xe lăn. Đôi mắt cô nhìm đăm đắm xuống sân khấu, dường như cô chẳng còn thấy ai nữa vì ánh đèn chớp tắt không ngừng. Chiếc micro chuyền đến tay, hít một hơi thật dài, mắt rưng rưng theo niềm cảm xúc, cô trả lời câu hỏi của ban giám khảo như đang trả lời câu hỏi cho chính cuộc đời mình.
– Số phận đã khiến em trở thành một ngọn nến cong khi mang trong mình tật ở xương cột sống, rồi lại một lần nữa cướp đi đôi chân của em khiến em phải ngồi xe lăn vĩnh viễn, nghĩa là em phải hai lần cong.
Nói đến đây, đôi mắt cô đã ướt nhòe. Trước mắt cô, ký ức của một tuổi thơ dữ dội như vọng về, vang vang bên tai, trước mặt cô là một thước phim quay chậm, xoáy sâu vào…
o0o
Tuổi thơ của Ngọc là những năm tháng cô phải mang bên mình chiếc áo “Thạch cao” cho đến năm cô hai mươi tuổi. Có những buổi trưa hè ở lớp, cô thèm được xuống sân trường để cùng nhảy dây với các bạn, cùng chơi trò đuổi bắt…
Rồi đến cái tuổi mộng mơ trăng tròn cô chỉ biết lẳng lặng nhìn những mối tình của bạn bè trôi qua. Cô đã thầm yêu nhưng chẳng dám nói, ai mà tránh khỏi những giây phút xao lòng khi đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu và khát vọng. Nhưng cứ mỗi lần muốn ngỏ lời với người ấy, Ngọc lại tủi thân cho chính mình, cái cột sống không cho cô là một cô gái bình thường để có thể ngỏ lời yêu, và nước mắt làm bạn và nỗi buồn là người yêu.
Ngọc nhận được tin đoàn chuyên gia người Pháp sang Việt Nam để làm phẫu thuật nắn xương chỉnh hình. Cô là một trong bảy người được chọn để làm phẫu thuật, niềm vui lại lấp lánh trong đôi mắt của ngọn nến 20.
Căn phòng bệnh viện trắng toát, mùi sát trùng cộng với mùi thuốc bốc lên. Mẹ cô ngồi bên cạnh, bàn tay bà nắm chặt tay cô. Ngọc mở mắt ra với một cơ thể mệt mỏi và giọng người mẹ run run.
– Mẹ xin lỗi! Mẹ không cho con được những năm tháng hạnh phúc trong cuộc đời.
Bác sĩ bảo trong bảy người được phẫu thuật, Ngọc là người kém may mắn nhất vì ca phẫu thuật không thành công. Bác sĩ cho biết cô sẽ phải ngồi xe lăn vĩnh viễn. Ngọc nhìn vào đôi mắt mẹ đã thâm đen vì những đêm thức trắng, cô hiểu có người mẹ nào lại không đau. Lay bàn tay của mẹ, nước mắt Ngọc chảy xuống, len qua thái dương rồi chui vào đôi tai của mẹ, nhưng để cố không làm mẹ đau thêm nữa cô siết chặt trong sức lực yếu ớt.
– Mẹ ơi! Con ổn mà.
o0o
–  Không ai muốn bất hạnh xảy ra với mình. Thế nhưng khi nó đến cũng không nên than trách hay đổ lỗi cho ai. Đứng lên để hạnh phúc và mang hạnh phúc cho người khác, là những suy nghĩ của em lúc này. Và ít nhất, em cũng đã mang hạnh phúc đến cho mẹ khi em vẫn còn là một ngọn nến, cho dù em có mấy lần cong đi nữa, em vẫn muốn cháy và cháy hết ngọn nến để dâng một ánh sáng ấm áp đến cho đời.
Sau câu trả lời ấy, tiếng vỗ tay vang cả khán phòng, vài người lấy tay giấu vội giọt nước mắt cảm động. Cô ghi điểm cao và đăng quang ngôi vị hoa khôi. Những đóa hoa lung linh được trao đến, cô mơ hồ nghĩ đến một hạnh phúc xa xôi.
o0o
Tuy Ngọc đoạt giải cao nhất trong cuộc thi, nhưng cũng ít người chú ý đến bởi đó là cuộc thi của những người khuyết tật. Cô thấy cái thứ ánh sáng của sự hào quang nó không lấp lánh như mình nghĩ. Trở về căn nhà cũ, vẫn là nỗi cô đơn dày vò. Ít ai hiểu được, trong cô cũng khao khát một tình yêu mãnh liệt. Dẫu sao thì những thành công kia không khỏa lấp được những nỗi niềm thầm kín cứ âm thầm cháy trong cô.
Lập một cái nickname là “Ngọn nến”, cô vào các diễn dàn cộng đồng để kết bạn, chọn cho mình ngành tâm lý học, cô cũng muốn tiếp xúc với nhiều người. Có lẽ, khi không thấy mặt nhau, con người ta dễ nói với nhau những điều thật lòng nhất. Gương mặt cô khá xinh, lại ăn ảnh nên không mấy khó khăn cho việc kết bạn ảo trên mạng. Vài lời tán tỉnh cũng làm cô thấy vui hơn, dù cô biết đó không phải là những lời thật lòng.
Nói chuyện qua lại được vài lần, có người ngỏ ý muốn gặp, có người vội vã, có người thì lơ lửng. Ngọc bắt đầu thấy chán cái kiểu bạn bè nhạt nhẽo trên mạng. Màn đêm buông xuống, phủ lấy thành phố một màu đen đặc. Đêm lấp lánh những vì sao như tô điểm cho tấm màn nhung những màu sắc, cô ngước lên trời thưởng thức không khí thoáng đãng, có lẽ cô đã sai khi cố tìm một tình yêu ảo.
Tình yêu không là thứ đồ vật để muốn đến thì đến, muốn tìm là có. Hai mươi ba tuổi, Ngọc chưa thật sự có một tình yêu đúng nghĩa, nhưng cô vẫn tin và vẫn chờ đợi, dẫu tình yêu có đến muộn màng một chút thì có sao đâu…
Từ ô cửa sổ nhìn vào khoảng đường mênh mông bóng tối, Ngọc thấy đêm như làm con người cô đơn hơn. Đồng hồ đã chỉ hai giờ sáng. Cô định tắt máy tính để chìm vào giấc ngủ thì giật mình khi thấy có một khung cửa sổ chat có cái nick là “Bóng đêm”. Khung hình hiển thị đã gửi cách đó hơn ba mươi phút, là ai mà có thể kiên nhẫn đến vậy nhỉ, cô mỉm cười, chợt có điều gì đó thú vị.
– Ngọn nến thức khuya vậy?
– Thức khuya để soi sáng những tâm hồn cô đơn như Bóng đêm!
– Vậy sao? Nếu nó là lỗ đen của vũ trụ, Nến có thể soi sáng được không?
– Còn tùy…
– Ngủ sớm đi, mai còn đi học Nến à. Thức đêm không tốt cho sức khỏe và sắc đẹp, hiểu không?
Có điều gì đó lạ lẫm, Ngọc chưa hề biết người đang chat với cô là ai mà sao lại quan tâm đến cô như thế. Nhìn những dòng chữ đang chat cứ như hai người đã hiểu nhau lắm. Và cũng từ đêm đó, những dòng chat qua lại, để khi tắt máy, cô lại thấy lâng lâng. Lẽ nào, tình yêu đơn giản vậy sao, vài lần Ngọc thắc mắc, người ngồi trong bóng tối là ai, vài lần chính cô là người muốn chủ động gặp nhưng rồi lại thôi.
– Nến à! Mình gặp nhau nhé!
– Nến nghĩ, có lẽ mình nên như thế này sẽ tốt hơn Bóng đêm à.
– Tại sao em cứ thích ngồi trong bóng tối?
– Vì khi trong bóng tối, em mới được tỏa sáng.
– Chứ không phải, em là một ngọn nến cong sao?
Câu hỏi bất ngờ và đột ngột ấy khiến cô sững sờ, vì sao “Bóng đêm” lại biết Ngọc là một ngọn nến cong, vì sao lại cứa vào cô nỗi mặc cảm mà cô đã cố tình che giấu. Những ngày qua, cô đã rất hạnh phúc khi nói chuyện với “Bóng đêm”. Tại sao lại vậy, cô vã tắt nguồn máy tính mà chưa kịp chào “Bóng đêm” một tiếng.
o0o
Gần cả tuần nay, Ngọc không vào mạng chat, cô mở máy lên chỉ để tìm kiếm những thông tin liên quan đến việc học của mình. Ngọc thật sự nhớ bóng đêm, nhớ đến cồn cào, nhớ đến day dứt, nhưng cô quyết tâm không gặp bóng đêm nữa. Cô đã quá nhạy cảm rồi chăng, ai quen nhau mà không muốn một lần được gặp mặt. Nhưng cô thà để “Bóng đêm” cứ tưởng tượng rồi thỏa sức nghi ngờ, còn hơn là biết sự thật. Có những sự thật đôi khi không cần nói ra, hoặc không cần biết đến để bớt phải hụt hẫng, Ngọc suy nghĩ và cô đã hành động như vậy với “Bóng đêm”.
“Ước gì mình được nhìn thấy Bóng đêm”, Ngọc tự lấy quyển sách và gõ thật mạnh vào đầu mình, cô muốn xua đi suy nghĩ đó nhưng nó cứ như bóng ma đeo bám, ngày càng nhiều, khiến cô lúc nào cũng nghĩ tới nó. Vừa học bài xong, Ngọc vội tắt máy, cô sợ nấn ná thêm chút nữa, thì sẽ lại tìm “Bóng đêm”. Khó khăn để đặt mình lên chiếc nệm, cô lấy gối úp vào mặt mình, nhắm mắt cố đưa mình vào giấc ngủ.
– Em định trốn anh đến khi nào hả Ngọn nến. (Bóng đêm)
Là tin nhắn của “Bóng đêm”, sao anh ta lại biết số điện thoại của Ngọc, sao anh ta không để cho cô được yên.
– Cho đến khi nào Ngọn nến xua được Bóng đêm ra khỏi đầu mình.
– Trong cuộc sống, đôi lúc ta cũng cần bóng đêm để yên tĩnh mà, sao lại phải trốn tránh và xua đuổi nó. Nến đã dũng cảm để cháy và tỏa sáng, tại sao lại trốn tránh bóng đêm. Hãy gặp và đối diện với bóng đêm một lần, rồi mới thấy giá trị của ngọn nến như thế nào trong mắt người khác, có được không?
Lời của “Bóng đêm” có vẻ hợp lý. Cô đã là ngọn nến hai lần cong rồi, còn gì phải sợ nữa chứ. Mà dẫu “Bóng đêm” không chấp nhận cô thì cũng phải đối mặt. Đắn đo mãi, cô mới đưa ra quyết định cuối cùng là đến gặp “Bóng đêm” vào một buổi tối chủ nhật.
o0o
Ngọc đến nơi hẹn, “Bóng đêm” đã ngồi chờ đợi sẵn, không khó để tìm được chỗ ngồi của “Bóng đêm” khi dấu hiệu của anh là hai mươi ba ngọn nến trên bàn lung linh. Vừa thấy cô, bóng đêm nhổm dậy tính đỡ nhưng rồi lại ngồi xuống. Một chút thất vọng hiện lên trên gương mặt cô, trước khi vào quán, cô thầm nghĩ khi gặp cô “Bóng đêm” sẽ ân cần dìu cô ngồi xuống, giờ thì…
Anh đưa cho cô một hộp quà đã được gói thật khéo léo kèm câu chúc.
– Chúc mừng sinh nhật em!
Ngọc xúc động, làm sao anh có thể biết được ngày sinh của cô. Cô nhìn xoáy sâu vào mắt anh, giọng nói nhẹ như gió thoảng.
– Anh là ai?
– Là Bóng đêm.
Cô bật cười.
– Anh nói đúng, em là một ngọn nến cong, giờ thì anh hối hận vẫn còn kịp đấy.
Anh lắc đầu, dùng một bàn tay để nâng gương mặt cô lên giọng thì thào.
– Dù em là một ngọn nến hai lần cong, nhưng em biết tỏa sáng, lẽ nào em không nhớ anh sao.
Cô giật mình, nhìn kỹ vào gương mặt của Bóng đêm cô mới chợt nhớ ra rằng anh rất quen, cô đã gặp anh bao giờ chưa, trong một thoáng bối rối, cô nửa như năn nỉ, nửa như giận dỗi.
– Năn nỉ anh mà, anh là ai, em không thể nhớ nổi.
– Ngọn nến cũng có ngọn cong và ngọn thẳng, bạn suy nghĩ gì về câu nói này?
Cô tròn đôi mắt xinh đẹp nhìn anh, cùng hai mươi ba ngọn nến đang lung linh cháy, nỗi ngạc nhiên cùng niềm xúc động, cô muốn ôm anh, nhưng cơ thể cô bị bại liệt từ phần ngực trở xuống, cô không thể di chuyển mình được.
– Anh đã khóc khi nghe em kể về câu chuyện của mình, và một sự thật nữa anh muốn nói cho em hiểu, anh cũng là một ngọn nến cong, và chính em đã truyền ngọn lửa sang anh để anh được thắp sáng. Cảm ơn em, hãy là tình yêu của anh nhé!
Giờ cô hiểu được rằng, tình yêu thật đơn giản… như những ngọn nến cong nhưng vẫn luôn tỏa sáng.
Minh Vy