Hiển thị các bài đăng có nhãn Tết quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tết quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Tết quê nhà

Liên khúc mẹ và mùa xuân 

Hôm nay đã hạ nêu rồi, Tết đã qua nhưng tháng giêng vẫn còn lại, mùa Xuân chỉ mới bắt đầu, chủ đề về Tết đáng lý xong sớm nhưng thật sự vừa lu bu dọn dẹp "chiến trường" rồi theo thông lệ cúng sao, vía Trời, vía Thần tài cũng như đi những chùa xưa vẫn đi từ thuở nhỏ nối tiếp truyền thống xưa của gia đình, cảm thấy vừa vui vừa buồn vì chùa ngày nhỏ hay đi vẫn ...nghèo hoạ chăng thay đổi đôi chút, chùa Thích Ca vẫn khg có thùng "công đức", còn lại chùa mới giàu thật giàu !
Đi viếng cho biết nhưng cũng tự an ủi, khg biết sư trụ trì là ai, tâm như thế nào nhưng thà rằng dân đổ tiền vào xây dựng chùa có chỗ để mà ngắm hơn là giúp cho quán nhậu mọc lên như nấm
             Thú nhàn
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
Gõ nhịp lấy, đọc câu 'Tương Tiến Tửu'
"Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi"
Làm chi cho mệt một đời.

Cao Bá Quát
Nhớ Xuân
Tiếng pháo giao thừa rộn  trước sân,
Cành mai hé nụ chớm bâng khuâng...
Tiếc Đông, mừng đón Xuân hồng đến,
Thắm thoát Xuân qua biết mấy lần ?
Mai vàng, cúc đỏ hoa hồng thắm,
Đời đã bao lần vui đón Xuân ?
Ta vẫn chưa quên Xuân dĩ vãng...
Thanh bình mộc mạc mái tranh xưa !
NM

Tết Quê Nhà
 TỦ SÁCH TUỔI HOA
Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa xuân Quý Sửu, 1973

Tết Quê Nhà 

1 – Mùa xuân hồng này ta thêm một tuổi mới bao dung. Một chút bâng khuâng xa đưa qua hồn chim phiêu du về đậu trên cành hương xưa của khu vườn tuổi ấu thời.
Ơi chừ có nghe trăm nỗi thương nhớ ngút ngàn, những kỷ niệm của tháng ngày hồng xưa trở về thật đầy ắp trong một đời mộng tưởng của trí nhớ hoài niệm.

2 – Mười mấy năm rồi, hồi còn niên thiếu nơi quê ngoại. Thuở còn là cậu học trò lớp ba thơ dại hồn nhiên cắp sách đến trường làng, nghe thật xa vời.
Nhớ những mùa xuân xưa lúc ta còn bé, trong lòng rộn rã vô cùng một niềm vui mới chớm : Tết đến ! Thật nhiều mong đợi của tuổi nhỏ từ ngày rằm tháng chạp với lần đứng nhìn chú ba suốt lá cây mai trước sân nhà. Cây mai già trụi lá trơ những cành gầy guộc khẳng khiu trong nắng chiều và trong những ngày sắp tới sẽ trổ nụ nở đầu xuân.
3 – Rồi những ngày trong nhà nhộn nhịp hẳn lên, mẹ và chị hai bận rộn với mãng cầu, dừa, bí, gừng, me mà mẹ mua ngày chợ phiên. Chừ ta vẫn còn nhớ mãi hương vị mứt mới đậm đà biết mấy. Những tràng mứt phơi dưới nắng như những vòng tròn xanh đỏ vàng bày khắp sân, những buổi trưa ngồi học bài ở hiên nhà len lén chạy ra bốc một nắm cho vào túi. Thích nhất bao giờ cũng là mứt gừng ngọt dịu dàng pha một chút cay the.
4 – Ông thầy giáo già của ngôi trường làng cho bọn học trò liên hoan từ hôm hai mươi tháng chạp. Thuở nhỏ Tết đến ta thường đi tết thầy. Cành mai, hộp trà, chai rượu gói trọn tấm lòng kính mến của học trò nhỏ. Bao tục lệ cổ truyền đáng yêu của dân tộc vẫn tồn tại mãi trong lòng người dân quê. Chiều hăm ba pháo nổ vang vang trước ngõ đưa tiễn ông Táo về trời tâu nhỏ tâu to cùng Ngọc Hoàng, những chuyện trong năm từ tết năm xưa cho đến bây giờ.
5 – Cu kêu ba tiếng cu kêu
Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè

Từ những ngày đầu tháng chạp ta đã chờ đợi và lắng nghe tiếng chim kêu để được ăn chè. Ôi một tuổi ấu thời ngát hương hồn nhiên thơ ngây. Thật hớn hở bước chân sáo theo chú ba ra lũy tre làng chặt một cây tre già về dựng nêu ngày Tết. Buổi chiều ta ăn chè đứng nhìn ngọn nêu mới trồng trước sân nhà cao ngất nghểu, lá bùa đỏ viết mấy chữ nho phất phơ trong gió chiều. Trí óc non nớt của tuổi nhỏ vẫn có một sự tin tưởng thành kính ở lá bùa có quyền lực xua đuổi ma quỷ.
6 - Ở trong làng từ hôm đưa ông Táo đã có một không khí tết nhất bao phủ. Mọi nhà bắt đầu sửa sang sơn phết đón Tết, lòng người dân quê đượm một chút nao nao. Chú ba làm vườn đem bộ lư đồng ra hiên nhà cặm cụi đánh bóng. Màu đồng xám xịt trở nên sáng choang phản chiếu gương mặt của “cậu học trò trường làng” đang đứng trầm trồ khen ngợi. Cha ta kính cẩn dán trước cửa nhà hai câu đối chữ nho – màu đen nổi bật trên nền giấy hồng – mà cụ đồ Nhiêu đem tài họa phả vào ngọn bút lông như rồng bay phụng múa.
7 – Ngày cuối năm không khí buổi sáng thật êm dịu và thoang thoảng mùi Tết. Cây mai trước nhà ươm đầy những nụ hàm tiếu màu xanh non thật dễ thương. Vài cánh hoa nở sớm lung linh theo gió mai. Liếp vạn thọ ra bông thật nhiều vàng ối cả một góc vườn sau. Lá chuối xanh thật xanh – màu xanh hiền hòa thanh bình của quê hương – được rọc ra trải trên bộ ván. Nếp, đậu xanh, những sản phẩm thuần túy dân tộc nhất của ngày Tết, được mẹ và chị hai gói thành những đòn bánh tét xinh xắn, đậm đà tình quê hương thiết tha. Ơi ! Chừ ta vẫn còn nghe thật nhiều bâng khuâng.
8 – Tối ba mươi trời đen như mực ta ngồi cắn hạt dưa bên cạnh bếp lửa nấu bánh chờ đón giao thừa. Ngọn lửa tí tách reo vui. Giọng chú ba đều đều say mê theo pho truyện Tam Quốc. Ông ngoại nằm trên võng đong đưa nhâm nhi chén trà mạn sen bốc khói kể cho con cháu nghe những ngày Tết xa xưa. Hương yêu gia đình đoàn tụ thơm ngát ấm cúng vô cùng.
Giao thừa, năm hết Tết đến, người người hân hoan trăm nỗi vui mừng. Ông ngoại đốt một tràng pháo dài trước hiên nhà mừng năm mới. Tạch đùng, tạch đùng, tiếng pháo nổ vang khắp nơi. Ta vỗ tay vui cười thích chí lẫn trong làn khói trắng và tia chớp vàng rực xác pháo rơi đỏ tươi cả sân gạch tàu.
9 – Sáng đầu năm ta dậy thực sớm, xúng xính quần áo mới theo bà ngoại đi lễ chùa. Hương trầm bát ngát, người đông như hội. Ta ngoan ngoãn bên cạnh bà lễ lộc khấn vái nguyện cầu một năm mới được mùa sung túc. Lễ xong hai bà cháu ra sân chùa hái một nhánh lộc non xanh, sự may mắn thịnh vượng trong năm mới.
Pháo chuột, pháo tre nổ đì đùng, xác pháo rơi đỏ khắp làng xóm. Người dân mình thích màu đỏ cho những ngày Tết nhất – màu đỏ là sự sung túc của năm mới.
Ta quỳ lạy nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên khói hương nghi ngút, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân. Tuổi nhỏ thật ngây thơ ngoan hiền câu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, cô bác họ hàng. Và thật vui mừng với những đồng bạc cắc xóc xóc trong túi nghe vui tai, những phong giấy đỏ đựng tờ bạc mới còn thơm mùi giấy lì xì cho con cháu ngày Tết.
10 – Ngày mùng một cử quét nhà hốt rác, giờ ta thấy tập tục đó đáng yêu vô ngần. Mai nở rộ vàng óng ả giữa bầu trời xuân quyến rũ thật nhiều ong bướm xôn xao. Ngọn nêu cao vòi vọi bay bay theo gió, trong sắc nắng xuân sớm ngại ngần.
Ôi mùa xuân thanh bình cho quê hương ta đơn sơ mộc mạc thiết tha và đậm đà thâm tình dân tộc.
11 – Thật nhiều rộn ràng ba ngày Tết no đủ với thèo lèo, bánh mứt. Ta cắn hạt dưa đỏ hồng cả đầu ngón tay, lâu lâu hớp một ngụm trà tầu nhâm nhi ra vẻ người lớn.
Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo, bánh chưng xanh

Ngày Tết quê ta không thiếu thức gì. Cũng thịt kho, dưa giá bùi bùi, cũng bánh tét cắt từng khoanh bằng sợi lạt thơm ngon. Bánh chưng chỉ có ở những nhà người Bắc mà thôi. Dưa hấu da xanh mịn màng, xẻ đôi xẻ năm ruột đỏ đậm đà. Xôi vò, cơm rượu, rượu nếp than thơm nồng ngát hương xuân.
12 – Ngày xuân trong làng có hội hè đình đám nhộn nhịp vô cùng. Thiên hạ quần áo mới lượt là vui chơi ngày Tết. Những đám cờ bạc, xóc đĩa, bầu cua tụ năm tụ bảy từng đám đông ồn ào dọc theo bên lề con đường làng trải đá. Tiếng pháo chuột của bọn trẻ trong làng nổ đì đẹt vui tai suốt cả ngày. Ta cùng với mấy đứa bạn rủ nhau đi xem múa lân ở đình làng, chiêng trống thùng thùng náo nhiệt vui vô kể.
Tối đến đình làng có hát bội. Người đông như nêm, chú ba chen mãi mới giành được một chỗ đứng gần nơi diễn tuồng. Cuộc vui thường kéo dài đến khuya và ta đã ngủ gật trên lưng chú ba.
Gió xuân phảng phất trên làng xóm, lòng ai ai cũng nhẹ nhàng thư thái, hân hoan một nỗi reo vui. Ta theo cha đi xông đất bà con bằng hữu trong làng. Những lời chúc tụng vang vang, tiếng cười đùa rộn rã.
13 – Những ngày Tết trôi qua thật vội vã, thấm thoát mà đã mùng bốn rồi. Không khí Tết nhạt dần. Bánh mứt đầy vơi. Trong làng ngày mùng bảy hạ nêu, chú ba đốt một phong pháo tiễn xuân. Người dân làng trở về với cuộc đời bình dị hiền hòa bên lũy tre xanh. Ta đứng trông theo, bao luyến tiếc thật đầy ắp trong lòng, vẻ ngẩn ngơ in hằn trên khuôn má thật thà của cậu bé học trò trường làng ngày xưa.
Mười mấy năm trôi qua, hương yêu cũ ngút ngàn, chừ nhớ lại ta thấy tiếc những ngày xưa còn bé, những ngày niên thiếu ngát hương ấu thời như một chỗ nghỉ chân chim đậu. Bây giờ là mùa xuân hồng trên quê hương yêu dấu, bước chân chim gõ xuống cuộc đời, thật nhiều bâng khuâng, đôi chim sẻ hồn nhiên ríu rít đón chào mùa xuân mới trên ngọn cau đầu làng. Ôi làng quê thanh bình mộc mạc, lũy tre bờ giậu và những ngày Tết quê nhà yên vui xa xưa. Nắng tháng giêng đong đầy trong đáy mắt nhớ thương…
TRANG VY
(Trần Thượng Thái)

Bút Nhóm Hoa Nắng
Mẹ
Mẹ tôi cười lặng lẽ,
Hạnh phúc dâng tràn đầy...
Qua rồi Đông buồn tẻ,
Mẹ không rượu mà say !
NM

Mẹ và mùa xuân
Mẹ tôi làm nghề nấu, bán rượu. Nói phải tội, chứ nghề này như bán niềm vui cho thiên hạ mà mua buồn bực về cho mình. Tôi to gan nói vậy vì tôi thấy mẹ chẳng còn thời gian, mà cũng chẳng có bụng dạ để cười. Có khi mẹ đã quên cười rồi cũng nên.
Nghề nấu rượu rất cực, giỏi lắm cũng đủ mắm cá và lo cho chị em tôi đi học. Ba tôi có nhiệm vụ kiếm củi, còn chọn gạo, mua men, nấu rượu là việc của mẹ. À, giới thiệu với các bạn, nhà ngoại tôi ở Bình Định, có nghề gia truyền nấu rượu. Mẹ tôi là “con nhà tông”, lại thêm thích tìm tòi nghiên cứu nên kiến văn về rượu của mẹ cũng gần bằng… chuyên gia.
Nghề nấu rượu không có tết. Để ra lò và bán 10 lít rượu mỗi ngày thì gần như mẹ đã không còn thời gian để ngủ. Còn tết ư? Nghèo khó gì thì ngày tết cũng phải có rượu. Lại thêm cái lệ “Tháng Giêng là tháng ăn chơi” nên rượu cho ba ngày tết thì càng nhiều càng… ít. Mà nấu rượu đâu có dễ như nấu… cháo. Nghề này lắm công phu, đòi hỏi phải tỉ mỉ ở tất cả các khâu. Mẹ rất đầu tư cho một mẻ rượu có chất lượng, làm riết rồi “võ công” của mẹ cũng lên mức thượng thừa. Đến nỗi chỉ cần nghe tiếng giọt rượu rớt xuống hũ sành là mẹ có thể biết được chất lượng của mẻ rượu ấy. Nên tôi cũng chẳng lạ gì chuyện nhà mình lúc nào cũng có khách, thì rượu mẹ nấu chỉ khiến người khác “say” thôi mà.
Lần quần chuyện rượu mà quên chuyện tình tầm… huyền thoại của mẹ. Mẹ kể, hồi í mẹ học xong trung cấp thì vào Nha Trang làm việc cho một xí nghiệp chế biến thực phẩm. Ba không nhiều chữ nghĩa, bán hàng ở quầy mỹ nghệ dưới chân tháp Bà. Chỉ việc gã trai nghèo đèo trên chiếc xe đạp cà tàng về tới nhà khi gã đi làm về gặp mẹ ngồi dưới chân tháp nhăn nhó vì chân bị trật khớp mà mẹ hoàn toàn tin rằng, đó là một gã trai tốt. Tình yêu bắt đầu, đơm hoa, kết trái - như mối lương duyên tiền kiếp. Chuyện tình tưởng đã kết thúc có hậu với sự dâng hiến và chiếm đoạt theo nghĩa đẹp nhất của từ này. Giọt máu đang tượng hình trong bụng mẹ tưởng trái ngọt của tình yêu lại là lý do để bắt đầu cuộc chiến lựa chọn.
Thì ông bà ngoại làm sao chấp nhận chuyện “cành vàng lá ngọc” của mình lại đi trao thân cho một tên nhà nghèo ít học. Còn ông bà nội thì nổi xung vì thấy bị xúc phạm, từ tự ti, sang tự ái rồi đổ quạu. (Ba không được đi học nhiều, lại thêm cái vụ bác Năm, bác Chín từng ra vô chốn ngục tù). Vậy là ba mẹ đành chấp nhận cái giá từ bỏ gia đình để bảo vệ tình yêu. Đưa nhau về vùng kinh tế mới, không có công ty, xí nghiệp để xin làm công nhân, lại không có “kỹ năng” phá rừng làm rẫy, xóm núi heo hút, dân di cư là chủ yếu, lại thêm có nhiều người nghèo lười biếng và nghiện rượu. Trong hoàn cảnh ấy, để tồn tại thì nấu rượu là lựa chọn hoàn toàn sáng suốt.
Quay lại chuyện nấu rượu nhé. Vì rượu của mẹ chỉ khiến người ta “say sưa” nên mấy ông lưu linh hay ghé nhà. Nhiều lúc muốn bỏ nhà đi quách. Biết sao không, làm nghề buôn bán thì khách hàng đương nhiên là “thượng đế”. Khổ nỗi, nhà tôi toàn là những “thượng đế”… say. Thấy khổ chưa? Mà bạn biết rồi đấy, rượu vào thì ai mà tỉnh táo cho được. Buông lời sỗ sàng, có khi còn hành xử lỗ mãng, ngỗ ngược. Mẹ cắn răng chằng mắt chịu, chị em tôi thì tức cành hông. Đấy là chưa nói chuyện mấy ông vô nhà mua rượu, bày ra uống tại chỗ rồi chèo kéo ba tôi lại. Mà rớt xuống bàn rượu rồi thì “vào ba ra bảy” chứ đâu dễ dàng được đứng lên, vậy là trễ công trễ việc. Mẹ phải nai ra làm hết, tối mặt tối mày. Ba tôi có tính xấu là hễ rượu vô thì nhớ bài lai, hay lôi chuyện tận đẩu tận đâu ra ca cẩm. Mà chuyện này đâu phải chuyện năm thì mười họa, nó diễn ra gần như ngày một mới chết chứ. Giờ thì bạn hiểu vì sao tôi nói mẹ hình như quên cười chưa? Khổ lắm, mẹ có than thân trách phận, có đòi hỏi chi đâu. Mẹ lại càng không thích chuyện cãi cọ, hục hặc nên lầm lũi như chiếc bóng. Không nổi đóa là may chứ bụng dạ nào mà cười.
Không phải sự im lặng nào cũng cần thiết cho một gia đình. Căng quá! Chị em tôi nhiều lần nói tới chuyện nhà mình đừng nấu rượu nữa, mà nếu nấu thì không nên bán ở nhà. Không được, không còn sự lựa chọn nào khác. Khu này dân cư ít ỏi, quán xá ở đâu mà đi bỏ mối, đó là chưa nói, nấu rượu lời lãi bao nhiêu, đi bỏ quán họ kiếm hoa hồng, mình còn chút gì để ăn. Khổ nỗi nhà mình mọi thứ đều ngó chừng vào lò rượu của mẹ.
Mẹ không nói tôi cũng biết nỗi khổ của mẹ. Nhưng tôi cũng phải nói để mẹ biết nỗi khổ của mình. Chán, chán và chán! Đi học thì thôi, về tới nhà đằng nào cũng nghe mùi rượu lẫn với mùi hành, mùi sả. Cái mùi của mấy ông say rượu nôn mửa tới mật xanh mật vàng thật chỉ khiến người ta muốn… chết ngợp. Đó là chưa nói, mấy ông uống rượu cứ ra hè vô mấy bụi cây trong vườn mà xả nước. Chết mất thôi! Tôi tin là không có nỗi phiền nào lớn bằng nỗi phiền một người tỉnh phải “cộng nghiệp” với một người say.
Ở trong xóm, nhà chú Mĩ cũng nấu rượu nhưng khách bên nhà tôi lúc nào cũng nhiều hơn. Người ta tấm tắc khen rượu mẹ nấu. Tôi không biết uống rượu, cũng chưa nếm thử bao giờ nhưng tôi tin là người ta nói đúng. Tôi lấy món cơm rượu của mẹ để xác thực.
Dù bận rộn thế nào thì tết đến mẹ tôi cũng không quên làm cơm rượu - là món nửa cơm, nửa rượu. Nó là cơm nếp ép thành miếng, phủ men lên rồi bọc kín bằng lá chuối đem ủ. Một ngày, hai ngày, ba ngày…, cơm rượu bắt đầu dậy, thơm điếc mũi luôn. Từng miếng cơm rượu vuông, tươm nước được bóc lên, cho cẩn thận vào thẩu. Nhìn mà nuốt nước miếng ừng ực. Mùi thơm ngọt của nếp, mùi thơm nồng của rượu hòa vào nhau, quyến rũ đến mê mệt. Với chị em tôi thì món cơm rượu của mẹ là hương vị tết. Chị em tôi trông tết một mà trông món cơm rượu của mẹ đến… mười.
Còn nhớ, năm tôi học lớp 8, tết năm ấy, nhà tôi có một sự kiện trọng đại là phía nội ở Nha Trang ra chơi. Cái vụ bên kia thấp kém, bên này kiêu căng, chắc đã quên rồi. “Giận gần chết ngày tết cũng thôi” mà. Mẹ tôi vẫn một lòng tôn kính gia đình chồng, năm nào mẹ chẳng gửi thẩu rượu nếp vào Nha Trang. Mười lăm năm thử thách rồi còn gì, phía bên nội quay lại nhận con, nhìn cháu. Niềm vui quả là to lớn.
Phía nội bây giờ còn bác Năm, bác Chín. Hai bác đưa gia đình ra thăm thằng Út - ba tôi. Bữa cơm đầu năm thật ấm áp, có bánh chưng, giò chả, củ kiệu, cuối bữa còn có thêm đặc sản cơm rượu. Hai bác niềm nở, không khí thật nồng ấm. Ba tôi thấy vui quá, bèn lôi cây guitar ra, ai cũng hào hứng với tiết mục đờn ca sáo thổi. Hai bác gái hát trước. Ba sai tôi xách ra chai rượu. Mẹ tỏ ý không muốn nhưng ba bảo, hát hò mà không có rượu nó “nhạt” lắm.
Một đĩa thịt quấn lá mãng cầu nướng sực nức mùi thơm cộng với chai rượu mang thương hiệu mẹ thì còn gì bằng. Vậy là một chai, hai chai… Ba tôi rất máu mê đàn hát nhưng cuộc sống cơm áo đâu có chỗ để đờn ca. Được mấy khi nuông chiều cảm xúc, ba ôm đàn, đắm đuối gõ bập bùng. Rồi mẹ hát, giọng mẹ nhẹ xốp, ngọt lịm. Bỗng “ầm”, chai rượu nát mem dưới thềm nhà. Bác Năm gào:
- Cái đồ đàn bà hư hỏng mà mở miệng hát lời thanh cao. Ngon lành gì cái thứ được sinh ra trong lò rượu. Bán rượu cho đàn ông được thì bán thân cũng không khó đâu! Mày cao đẹp mà có chửa rồi bắt chồng? Vậy mà gia đình mày khinh miệt nhà tao thấp hèn. Tao phỉ nhổ cái thứ đàn bà mất gốc, lai căng!
Bác Năm gái tái mặt, chạy lại bụm miệng bác trai, cuống cuồng xin lỗi mẹ tôi: “Ổng say quá rồi nên nói xàm đấy, cái tật đánh chết cũng không bỏ! Thím đừng buồn nha!”. Ba tôi vụt cây đàn xuống, dỗ mẹ đang thút thít. Mấy anh chị con bác Năm vội lại ôm chặt, lôi bác vô giường, đè xuống cho bác ngủ.
Gia đình nhà bác Năm, bác Chín về, bữa ấy mới mùng hai tết nhưng nhà tôi cũng chính thức hết tết. Sau cái tết ấy, mẹ tôi bỏ nghề nấu rượu. Bỏ hẳn. Ba xin làm bảo vệ ở trường mẫu giáo, mẹ làm tạp vụ ở ủy ban xã. Không có “thượng đế” ra vô, không có mùi nồng của rượu, không còn tiếng lải nhải của mấy ông say, nhà tôi bình yên, đúng nghĩa của từ đó. Nhưng cũng chẳng thể vui.
Mấy cái tết qua, mâm cơm đầu năm thật đầy đủ. Nào bánh chưng, giò chả, dưa kiệu… Nhưng cuối bữa, không còn bát cơm rượu nồng nàn nữa. Thấy thiếu thiếu, nhạt nhạt. Tôi lỡ miệng nói:
- Lâu lắm rồi, nhà mình không còn tết!
- Mẹ tới tuổi tri thiên mệnh rồi, có biết tết nhứt chi đâu!
Mẹ nói trơn tru, không chút cảm xúc nhưng tôi nghe rất đau. Mẹ không thở dài nhưng tôi nghe mùa xuân trôi qua nặng nề, như tiếng lòng của mẹ…
* * *
- Tết này mẹ đưa vợ chồng thằng Khánh vào chỗ con ăn tết, con gái có đón mẹ không?
Là điện thoại của bà ngoại tôi đấy. Mẹ mừng đến sửng sốt. Tiếng “dạ” buông ra nghèn nghẹn, hạnh phúc có niềm vui lẫn tủi hờn. Trả lời bà ngoại xong, mẹ hớn hở chạy tìm ba báo tin. Ba không có trên bàn trà, không xem ti vi. Đố bạn biết ba tôi đang làm gì? Tin không, ông đang loay hoay dưới bếp. Mẹ thấy ba làm cơm rượu thì kinh ngạc, hỏi có chuyện trọng đại gì, ba cười hê hê nói, không có gì, chỉ là muốn có một mùa xuân trọn vẹn. Tết mà thiếu cơm rượu thì hương vị mùa xuân sẽ thiếu.
Mẹ cười, im lặng ngồi làm cơm rượu cùng ba. Tôi biết, mẹ không thắc mắc chuyện lần đầu ba tự tay làm cơm rượu mà muốn hỏi lý do bà ngoại thay đổi, chấp nhận ba. Mẹ cũng ngờ ngợ nghĩ, hình như ba đã biết chuyện tết này nhà tôi sẽ có “khách quý” nhưng hỏi thì ba đánh trống lảng. Thì tôi với ba âm mưu bí mật nên đâu để mẹ biết chuyện tôi tình cờ hay cậu Út bị bệnh, đang tìm người hiến thận, nghe tôi kể xong thì ba vui vẻ đi làm xét nghiệm và tặng quả thận cho cậu Út. Ba bảo, nó là lễ vật ba cưới mẹ. Rồi chuyện bà ngoại với ba lên kế hoạch cho bữa cơm đầu năm cũng được bảo mật.
Sáng mùng một tết, bà ngoại, cậu mợ với cháu Bo vào xông đất. Mẹ tôi mừng rỡ, ôm chầm lấy ngoại, bồng cháu Bo hun hít… Chao ôi, đẹp làm sao những hạt mưa mùa xuân đọng trên đôi má xương xương của mẹ, đôi má ấy sáng nay bỗng hồng hào, đằm thắm. Mẹ mừng đến nỗi cứ loay hoay bên bà, bên cậu… Ba tôi thấy mẹ vui nên một mình xuống bếp, thi thoảng đưa mắt lên nhìn mẹ rồi lỏn lẻn cười.
Mâm cơm đầu năm sung túc, ăn xong bánh chưng, củ kiệu thì ba giới thiệu tới tiết mục thưởng thức món cơm rượu. Ba vừa mở nắp hũ cơm rượu thì có tiếng xe dừng trước cửa nhà. Bác Năm, bác Chín nói từ ngoài sân:
- Dân Nha Trang đánh hơi được mùi cơm rượu nên đến nhà chú thím kiếm tết nè!
Mùi cơm rượu nồng nàn làm ngôi nhà nhỏ bừng sáng, ấm cúng lạ thường. Mẹ tôi cười lặng lẽ, chưa khi nào tôi thấy mẹ hạnh phúc đến vậy, chưa bao giờ tôi thấy mùa xuân đẹp đến thế…
NGUYỄN THỊ BÍCH NHÀN

Xuân Trên Non Cao (Y Vũ)


Bắt vợ trên núi mùa xuân

Đêm qua nằm trong chăn chàm ấm mới nhuộm, nghe cây mận bên chái nhà trình tường lợp ngói âm dương đã nở ra lách tách những bông hoa đầu tiên. Sáng ra mở cửa đi lấy cháo ngô cho ngựa trong chuồng, sương giá ùa vào nhà như suối. Sùng Thị Say bước ra ngỡ ngàng nhìn những cánh mận trắng muốt rung rinh trong gió lạnh. Hoa mận báo tin mùa xuân đã về. Thế là mùa xuân đã về trên núi. Mùa con chim queng quy bay đôi. Mùa con hươu nai gọi bạn tình. Mùa con trai cầm khèn đi bắt con gái về làm vợ.
Ngựa ăn xong, Sùng Thị Say cời hòn than đỏ trong bếp tro ấm, dùng cái ống thổi cho lửa cháy bùng lên, rồi ngồi khâu lại cái xà cạp cũ. Lửa giãn mấy nếp nhăn trên khuôn mặt Sùng Thị Say, lửa che mấy sợi bạc trên mái đầu Sùng Thị Say. Có cháu nội, cháu ngoại rồi thì cần gì cái mới, dùng váy cũ với xà cạp cũ cũng được mà, mấy tết trước đã bỏ không xem đi đánh yến, ném pao, có sao đâu.
Tiếng khèn ai gọi bạn lửng lơ bay qua bờ rào đá, bay qua khe vách nứa, lọt vào tai Sùng Thị Say khiến mũi kim đâm vào đầu ngón tay buốt nhói, người lâng lâng say như rơi tõm vào chum rượu ngô.
“…Khèn thơm như hơi thở
Khèn ngọt như lúa đòng
Chưa gặp mà đã nhớ
Chưa hẹn mà đã mong

Khèn sánh như mật ong
Khèn vàng như nắng mới
Quẩy tấu đầy nhớ mong
Mà chân người chẳng tới…”

Tiếng khèn tha thiết, bồi hồi làm Sùng Thị Say nhớ lại mùa xuân trước. Ngày ấy, Sùng Thị Say còn trẻ lắm, như trăng mười sáu, xinh lắm như hoa mận chái nhà. Thứ bảy, mặc váy hoa, địu quẩy tấu đi chợ phiên Cán Cấu bán tam thất trồng trên núi. Đường dốc vừa đủ hai bàn chân bước, nhỏ như sợi lanh đông Sùng Thị Say đang xe thoăn thoắt trên tay. Trời rét như dao cứa mà tự nhiên Sùng Thị Say thấy nóng gáy. Ngoái đầu lại, thấy ánh mắt của một thằng trai như hai hòn than đỏ đang đốt phía sau. Mắt nó truyền hơi ấm làm cho má Sùng Thị Say ửng lên thẹn thò như hoa đào gặp rét. Sùng Thị Say dừng, nó dừng. Sùng Thị Say đi, nó đi. Cứ thế cho đến tận chợ phiên. Mấy phiên rồi vẫn thế. Chắc nó rình cả đêm, chờ gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, đợi Sùng Thị Say bước ra khỏi nhà là đi theo. Nó là Giàng Mí Lầu, nhà bên Thào Chư Phìn, cách nhà Sùng Thị Say mấy chục quăng dao, đi một lần con ngựa nghỉ chân. Nhà xa lắm mà nó rình giỏi thế, bao nhiêu phiên là bấy nhiêu lần đi theo, cứ như mùa xuân về là hoa mận nở, chẳng sai hẹn bao giờ.
Đến phiên chợ thứ năm, thì Sùng Thị Say không thấy Giàng Mí Lầu đi phía sau nữa. Cứ bồn chồn, lo lắng không yên. Hay là nó ốm nhỉ. Không, nó khỏe thế cơ mà, mắt sáng sao hôm, ngực vồng đá tảng. Hay là nó lấy vợ rồi. Tuần trước, bên Thào Chư Phìn chẳng có đám cưới là gì, có lẽ nào chứ. Cái chân Sùng Thị Say thì vội vã mà cái lòng thì trông ngóng. Thôi kệ đi, hơi đâu mà nhớ người dưng chứ, rõ buồn cười.
Gần đến chợ rồi, Sùng Thị Say rẽ vào bụi cỏ tranh ven đường thay váy áo mới, cuốn xà cáp mới, chải đầu, vấn tóc chặt hơn một tí. Cái gương be bé, xinh xinh cất trong quẩy tấu đem ra soi. Trong gương, mắt ai mà trong như sương mai, môi ai mà hồng như đào phai, da ai mà nõn như măng vầu thế nhỉ. Sùng Thị Say tự hỏi rồi mỉm cười rõ tươi. Bọn con trai, dù cưỡi ngựa thồ hay đi xe máy, dù đi với vợ hay tay không, nhìn thấy Sùng Thị Say thì cứ phải liếc trộm một cái đã. Sùng Thị Say lấy làm thích lắm. Có thằng mải liếc quá, bị vợ đi cạnh véo cho vào hông một cái thật đau mới tỉnh, kêu “ối” lên rõ to.
Chuẩn bị rẽ vào cổng chợ, Sùng Thị Say bất ngờ bị một thằng từ phía sau tháo tuột quai quẩy tấu đang địu, cùng lúc đó một thằng khác ở đâu chạy ra ôm lấy bắp chân rồi bế thốc lên vai, lại còn một thằng nữa lấy dây vải điều buộc tay Sùng Thị Say trong lúc thằng kia vừa vác vừa chạy. Sùng Thị Say hiểu ra mình đã bị bắt về làm vợ, làm con ma suốt đời, trọn kiếp của dòng họ cái thằng đang vác mình. Sùng Thị Say giãy giụa và kêu khóc, mọi người đi chợ nhìn thấy cả, nhưng thật lạ chẳng ai ngăn cản đám trai để cứu lấy Sùng Thị Say yếu đuối, bé nhỏ, và tuyệt vọng. Lúc úp mặt vào vai áo thằng đang vác mình, Sùng Thị Say thấy mùi chàm hăng hắc thuốc lá, thấy mùi mồ hôi nồng nồng quả vả, hai thứ mùi sánh đặc như mật ong, tỏa ra ngây ngất như bùa mê. Ý nghĩ xoẹt ngang đầu Sùng Thị Say như tia chớp, thôi phải rồi thằng bắt mình chính là Giàng Mí Lầu, thằng hay đi theo sau mỗi buổi chợ phiên. Sùng Thị Say vui cái bụng quá, quả tim trong ngực cứ đập rộn ràng theo mỗi bước chạy của Giàng Mí Lầu. Sùng Thị Say chợt nhớ ra, có lần bà nội bảo, nếu yêu nhau thật lòng thì mới bắt vợ, bắt được vợ thì phải bắt được cả trái tim nó và nếu trong cuộc bắt vợ, cô gái nào khóc càng to và phản ứng càng quyết liệt thì sau này vợ chồng sẽ càng hạnh phúc. Và, có bắt vợ thì thằng trai mới chứng tỏ được với đứa gái về tình yêu và lòng dũng cảm của mình. Vì vậy, Sùng Thị Say mặc dù rất thích nhưng giả vờ giãy giụa và kêu khóc to hơn cả lúc bị bắt ở ngoài cổng chợ nữa. Hai thằng trai chạy phía sau thở hổn hển như ngựa thồ vượt dốc, một thằng đeo quẩy tấu, một thằng xách giày thêu tuột ra của Sùng Thị Say. Giàng Mí Lầu cướp được vợ nên chạy nhanh quá, chạy khỏe quá làm cho hai thằng bạn không đuổi kịp. Đến gốc cây pơ mu cạnh chợ trâu, Giàng Mí Lầu bế Sùng Thị Say lên con ngựa đã đóng yên cương, thắt nơ đỏ đợi sẵn. Sùng Thị Say ngồi nghiêng, váy như hoa nở xòe rực rỡ đón nắng. Giàng Mí Lầu ngồi sau, một tay giữ cương, một tay đặt nhẹ vào vòng eo con kiến của đứa gái mới bắt. Ngựa chạy một đoạn, Giàng Mí Lầu khẽ thì thầm vào tai Sùng Thị Say: “Làm vợ anh nhé!”. Lời thương như gió thổi. Lời thương như mây bay. Lời thương như suối chảy. Lời thương như núi đầy. Sùng Thị Say khẽ cúi đầu không nói. Trong lòng có chim hót. Trong lòng có hoa nở. Trong lòng có hội mở. Trong lòng có bướm vờn. Ngồi trên ngựa, mà cảm tưởng vó ngựa không hề chạm đất, trôi bồng bềnh trong sương.
Sùng Thị Say bị bắt về nhà Giàng Mí Lầu ba ngày. Ba ngày không phải cõng nước, chẻ củi, thái cỏ, dệt vải. Đến bữa ăn, mẹ Giàng Mí Lầu đưa cơm canh qua ô cửa sổ lỗ vuông mờ trắng hơi sương. Cửa buồng khóa trái để Sùng Thị Say không thể trốn về nhà, mà nếu không khóa trái thì Sùng Thị Say cũng chẳng thích trốn nữa, chỉ thích làm ma nhà họ Giàng, đẻ cho nhà họ Giàng một đàn con, để con trai lớn lên lại đi bắt vợ như bố, để con gái lớn lên lại đi chợ phiên như mẹ.
Nhà Giàng Mí Lầu cũng nghèo, không đủ bạc trắng, rượu tăm, lợn béo thách cưới theo tục lệ người Mông, nên Giàng Mí Lầu không vội ngỏ lời thương với Sùng Thị Say mấy phiên chợ trước. Lời thương ấy nói bằng mắt, bằng tim chứ không nói bằng lưỡi. Ba ngày sau, Giàng Mí Lầu đưa Sùng Thị Say về nhà bố mẹ vợ xin cưới. Tiền thách cưới được giảm đi một nửa. Bố mẹ vợ ưng con rể lắm, khen mắt nó sáng, mặt nó hiền. Bố vợ bảo nó không bắt con Sùng Thị Say, đến nhà xin cưới tao cũng chỉ thách thế thôi. Mẹ vợ tủm tỉm nói, ngày xưa ông bắt vợ, bố mẹ vợ cũng giảm cho một nửa tiền thách cưới còn gì. Tiềng cười làm tan giọt sương đầu lá quế rơi xuống kẽ đá sau nhà nghe thánh thót, gọi mặt trời lên lấp ló trên đỉnh Quan Thần Sán băng tuyết. Rượu ngô hâm nóng để bố vợ thết con rể. Rượu rót tràn bát sóng sánh, khói xanh bay lên đọng vào mái ngói âm dương, ngấm sang cột gỗ trình tường thứ men xuân ngây ngất.
Sùng Thị Say nhớ lại, vẫn phơi phới như thời còn trẻ. Ngoài đường tiếng khèn gọi bạn bay vào đậu trên cành hoa mận trắng muốt. Mưa bụi giăng khắp trời mỏng tang nét mày sơn nữ đánh thức búp chồi xanh biếc. Con trai út của Sùng Thị Say là thằng Giàng Mí Vàng đang chuẩn bị xách khèn đi chợ phiên, sắp tết rồi. Sùng Thị Say sẽ nói với con trai lời dặn của bà nội khi xưa về phong tục bắt vợ để nó biết, nó lớn rồi mà, biết đâu chợ phiên này…
Lại một mùa bắt vợ đã về trên núi mùa xuân…
Hoàng Anh Tuấn

Tháng giêng,
Tháng giêng xanh non chồi mới nhú,
Con về thương nhớ dáng xuân xưa
Bình yên đi dưới cơn mưa,
Nhớ bao hình bóng mãi chưa phai mờ !
NM
Xanh miền tháng Giêng quê
Tháng Giêng về hiền như nụ cười của mẹ. Buổi sáng bước ra đường đã nghe từng giọt nắng xuân ùa về trong vắt. Giọt nắng ấm cả những lời chào của mọi người lúc chạm mặt nhau. Dang tay đón những giọt nắng ấm của tháng Giêng trong veo, lòng lại khấp khởi những miền ký ức trong xanh.
Ta bước thật chậm cùng tháng Giêng cứ như bước vội thêm một chút, ta sẽ đánh mất tháng Giêng trong từng khoảnh khắc. Mùa về thật bình yên, trên lối vắng những cơn gió lồng lộng thổi qua vai. Tháng Giêng cứ bình yên đến lạ. Những cơn mưa phùn dùng dằng trước hiên nhà, những giọt mưa làm ướt mềm hoa cỏ, cho vạt áo ai cũng chùng chình qua ngõ. Những cơn mưa chợt đến rồi chợt đi như cái chớp mi hững hờ của người con gái nhà bên, nhẹ nhàng mà xao xuyến. Đi giữa cơn mưa phùn bất chợt, những vòng xe ngày xưa giờ đã trôi theo những cũ càng của quá khứ. Con đường ngày ấy vẫn thăm thẳm dáng hình của em. Ta lơ đễnh đánh rơi nhịp tim mình trong một miền tháng Giêng năm nào, để mỗi lần chạm mặt tháng Giêng, lòng ta lại bồi hồi về những ngày xưa xanh biếc.
Tháng Giêng xanh như chồi non mới nhú. Qua từng vạt cỏ xanh rì, ta nghe lời cỏ cây thầm thì năm tháng. Câu hát ru vọng về lấp lánh cả mặt sông quê, níu bước chân của người xóm nhỏ. Dòng nước đỏ chở đầy phù sa váng vất cả mặt sông vẫn lặng lẽ bên đời chẳng bao giờ vơi cạn. Giề lục bình trôi tím cả một triền sông, tiếng bìm bịp vẫn âm thầm theo từng con nước. Ta đứng giữa miền tháng Giêng quê nhà, nghe từng nhịp thời gian trôi rất khẽ như gieo vào lòng người những khoảng trắng bình yên…
Bao lần ta trở về với xóm nhỏ ven sông. Những bờ lá phía bến sông vẫn xạc xào trong gió. Con đò bao bận đưa người qua sông, giờ đã khảm lên mình mưa nắng phủ quanh. Trên chuyến đò chở ánh hoàng hôn về xóm nhỏ, có những dáng người mang nặng những ưu tư. Ký ức cứ như lá trong vườn nhà, hết lớp này rồi đến lớp khác theo thời gian mà không bao giờ phai cũ. Phía bên bờ kia, có người dõi mắt trông theo con nước lớn ròng trườn lên bờ bãi.
Tháng Giêng về trong mắt em tôi. Câu chuyện cổ tích ngày xưa của bà vẫn vỗ về năm tháng theo chân ta đi suốt cả cuộc đời. Để khi những khó khăn làm ta chùn bước, ta vẫn có một thứ để vịn vào mà vượt qua những ngày giông bão. Đám trẻ trong xóm lại nghiêng tai nghe những tiếng chim vút lên giữa xóm nhỏ bình yên, chúng kể cho nhau nghe về những vùng đất mới, về những giấc mơ viễn du miền sông núi. Tiếng cười của lũ trẻ cứ giòn tan trong nắng tháng Giêng.
Dáng mẹ vẫn quanh quẩn trước sân nhà với những chiếc nia phơi đầy cá khô, chuối ép, lạp xưởng, củ kiệu làm dưa. Những thứ vốn dĩ thuộc về mẹ mỗi khi tháng Giêng vừa chạm ngõ. Những món ăn bình dị mà vẫn đọng lại trên vành môi của những đứa con xa quê. Cho nên mỗi tháng Giêng về, ta lại khao khát cho những cuộc trở về bên mẹ, được cùng gia đình ngồi bên mâm cơm rộn rã tiếng cười. Mật nắng tháng Giêng cứ thơm lừng trong tấm lòng thơm thảo của người nhà quê. Cho những chiếc chân đi cứ rộng dài nỗi nhớ.
Tháng Giêng về, ta thu xếp lại lòng mình, dưới hiên nhà, ta đưa mắt nhìn những cánh chuồn nâu chuồn đỏ bay chấp chới đường về. Đâu nghĩ mình đã từng rời đi với ước mơ phố thị. Mái nhà quê có ngọn khói vờn trên mái lá làm cay xè đôi mắt tháng Giêng xanh…
Nguyễn Chí Ngoan


                  

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Khoảnh khắc đêm giao thừa

Phút Giao Mùa

Liên Khúc Phút Giao Thừa


Đêm Giao thừa,
Trong khoảnh khắc bỗng sáng bừng rực rỡ,
Pháo vang rền khai mở hội đêm xuân...
Xa thời xa gần cũng lại hoá gần.
Xuân đã đến trong sắc màu lễ hội

Tình xuân thắm xoá tan màu đen tối,
Sắc xuân về chan chứa khắp nhân gian...
Cha ngày xưa cứ ngỡ sắc Xuân tàn
Sẽ khg có một ngày xuân tái ngộ,

Giao thừa đến biết bao là ý nghĩa,
Nước mắt rơi mừng hội ngộ an vui
Đẹp lòng cha mang ý nghĩa cho đời
Xuân tái ngộ mang sắc màu hạnh phúc  
NM

Khoảnh khắc đêm giao thừa

Khoảnh khắc giao thừa đang đến gần, và hàng triệu con tim cùng hướng về một năm mới. Nhưng ở đâu đó trên những góc phố kia, trong những gầm cầu, vẫn có những con người đang mưu sinh, đang hy vọng, đang chờ đợi…
Thằng bé chạy tung tăng trên phố. Hôm nay nó kiếm được thật là nhiều, giá mà ngày nào cũng được như vậy… Đêm giao thừa năm nay, nó mua được một cái bánh chưng và kiếm vài ngọn nến giấu ở trong “cái ổ” dưới gầm cầu. Chỉ còn nửa tiếng nữa là năm mới rồi, thành phố dịp này thật là vắng vẻ và yên tĩnh.
Mấy hôm trước, người ta đổ hết về quê, khiến mọi con đường đều ùn tắc. Nhưng đó là lúc nó kiếm được nhiều tiền hơn cả. Nó cẩn thận để tiền tích cóp được trong một chiếc túi vải, buộc lại bằng dây dù, thắt nút vào con đỉa quần, rồi lại đút vào chiếc túi moi. Mấy ngày Tết chạy đôn chạy đáo, nhưng nó vẫn thật vui vì kiếm được nhiều tiền.
Phịch… Nó ngồi bệt xuống vỉa hè dưới gầm cầu, để bộ đồ nghề đánh giầy qua một bên, rồi lần mò moi chỗ tiền vừa kiếm được ra, xếp thành từng loại và gấp lại cho phẳng. Nó lẩm bẩm: “Đủ tiền mua xe đạp rồi”… Nó ngước nhìn lên…
Đêm giao thừa, ai nấy ăn mặc chỉnh chu, lác đác mấy chiếc xe sang trọng lướt qua. Nó tự nhủ: “Hôm nay chắc mấy cái công-te-nơ không làm phiền nữa…”, vừa dứt lời thì tiếng ai đó bất giác kêu lên, rồi có tiếng rồ ga của một chiếc xe máy. Chạy vội tới, nó thấy một ông lão đang ngồi trên mặt đất, đưa tay ôm chân, bên cạnh là chiếc xe đạp, bánh xe quay tròn.
“Để cháu giúp”, nó lật đật đỡ ông lão về vỉa hè, rồi dựng lại chiếc xe.
“Nhà ông ở đâu?”, nó hỏi với vẻ lo lắng. Ông lão nhịn đau, “Ở gần thôi…” rồi băn khoăn hỏi: “Cháu giúp lão nhé?”
“Vâng”, nói rồi nó chỉ tay qua cái ổ: “ông vào chỗ cháu ngủ ngồi đã”. Ông lão quay qua, chợt nín lặng, rồi gật đầu…
Hỏi địa chỉ rồi, nó chạy vụt đi.
*****
Bác tài điều khiển chiếc xe lao vút đi để kịp giờ đón giao thừa. Sau xe, một cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng đang ngồi ngắm đường phố. Người phụ nữ nhìn lướt qua ánh đèn hoa lấp lánh, khẽ giọng: “Thành phố bây giờ khác anh nhỉ”.
Người đàn ông trầm tư, ngả lưng về phía sau thở dài: “Mình đi hai mươi năm còn gì”.
Người phụ nữ tiếp lời: “Ba chắc cũng già đi nhiều. Em chưa hiểu được vì sao ba cứ nhất quyết không chịu qua đó ở cùng vợ chồng mình”.
Liếc nhìn vợ đăm chiêu, người đàn ông nhẹ giọng: “Ba có lý do mà. Có nhiều điều có thể em sẽ không hiểu. Cuộc sống sung túc đôi khi không phải là tất cả”.
Người phụ nữ hơi cau mày: “Anh giống ba, đến giờ em vẫn chưa hiểu, nơi đây thì có gì mà lưu luyến?”
“Có những điều em cần phải có cơ hội để cảm nhận bằng trái tim, nó rất giản dị, nhưng lại hàm chứa hạnh phúc… Ước gì anh có thể nói để em hiểu…”
Người đàn ông lặng nhìn đường phố, con đường vắng vẻ mà thời học sinh anh vẫn hay đi qua giờ đã mọc lên những căn biệt thự sang trọng. Anh đưa tay lên, liếc nhìn đồng hồ…
Kít… chiếc xe đột ngột phanh gấp rồi quẹo sang một bên, đâm vào vỉa hè. Bác tài nổi nóng rít lên: “Mày đi đứng thế à!”
Người đàn ông đặt tay lên vai bác tài: “Bác An à… Bình tĩnh!” Nói rồi anh vội xuống xe. Đầu chiếc xe hơi bị móp một chút. Trên đường, một thằng bé đang xanh mặt từ từ đứng dậy, “Cháu… cháu…”
Người phụ nữ xuống xe, lạnh lùng nói: “Xin lỗi thì có tác dụng gì”. Nói rồi cô rút điện thoại ra.
Người đàn ông im lặng nhìn cậu bé rồi quay sang nói: “Thôi em, xe nhà, mà sắp đến giao thừa rồi, ba đang đợi”. Anh quay lại hỏi thằng bé: “Nhà cháu ở đâu?”
Nó rụt rè chỉ về phía gầm cầu: “Ở kia ạ!” Mặt tái nhợt, thằng bé run run moi chiếc túi ra, cởi nút thắt, cầm cả mớ tiền được xếp ngay ngắn, ấp úng nói: “Cháu… cháu chỉ có ngần ngày thôi. Van xin cô chú đừng báo công an. Họ tới thì cháu mất chỗ ngủ…”
Người đàn ông nhìn thằng bé sâu hơn: “Chúng ta về chỗ cháu ngủ đã…”, nói rồi anh quay qua dặn bác An chờ xe.
Thằng bé dẫn người đàn ông đi, người phụ nữ níu tay anh, vẻ khó hiểu. Ba bóng người bước về phía cuối gầm cầu.
Tới gần chỗ mấy khối bê tông chặn lại, thằng bé luống cuống chui vào trước, nói nhỏ với ai đó: “Ông ơi, cháu xin lỗi…” Nói rồi, nó moi ra một cây nến và cái bao diêm. Ánh nến từ từ sáng lên, người đàn ông chợt nheo mắt, rồi kêu lên ngạc nhiên: “Ba! Sao lại thế này?” Người phụ nữ chạy tới: “Chân ba sao thế này?”
Ông lão nhìn hai con, từ từ nói: “Ba đi viết chữ về, bị đụng xe. Nhờ thằng bé về nhà báo. Hai con đã về rồi à? Bác An đâu?” Nói rồi, ông lão liếc nhìn qua thằng bé: “Cháu ổn chứ?” Nó gật gật đầu.
Gió lạnh, hương hoa sữa thoảng qua, và bất chợt những làn pháo hoa bắn lên, báo hiệu thời khắc giao thừa đến…
Ông lão trầm tư, ngoảnh sang hai con nhẹ giọng nói: “Tết cổ truyền, đêm giao thừa, gia đình sum họp, mà chúng ta ở đây cũng là ba thế hệ rồi”.
Thằng bé như chợt nhớ ra điều gì, luống cuống mò từ trong góc một lon Coca, hai cái cốc, một chiếc bát, và một chiếc bánh chưng, lí nhí nói: “Cháu chỉ có ngần này thôi”.
Bốn người ngồi nhìn nhau trong khoảnh khắc đó, dưới bầu trơi lung linh rực sáng pháo hoa. Người phụ nữ nghẹn ngào mở lời: “Ba, con đã hiểu. Cái Tết này thật là ý nghĩa…”
Nói rồi, cô đưa tay ra kéo thằng bé, đôi mắt rưng rưng: “Con về ở với cô chú nhé?” Thằng bé lặng đi…
Ông lão nhìn con dâu hồi lâu, rồi gật gù mỉm cười: “Cuối cùng ba cũng có cháu đích tôn rồi…”
Bầu trời đêm giao thừa rực sáng tình người…
Thanh Phong

Mai trắng năm xưa,
Nhớ hoài mai trắng năm xưa,
Đêm đêm hoa nở dù chưa xuân về...
Ta thường trong mộng nhớ quê,
Xuân dù có đến ngày về còn xa..
Thương thay giấc mộng Nam Kha,
Nửa đêm thức giấc quê nhà viễn khơi
Vay đời một kiếp rong chơi,
Tình quê luôn sống ngàn đời trong tim
NM

 Tết, Hương Nhà Ngày Đã Một Xa

Khá lâu hai chữ “ăn tết” chừng như không còn làm cho những người xa nhà xôn xao nữa, bởi không xa nhà như Nguyễn Bính, cách một hai lần đò, chúng tôi xa nhà vạn dặm không con đò nào đưa về quê được nên nhớ nhà chỉ còn cách duy nhất là lần về bằng trí nhớ, mà một khi trí nhớ hao mòn thì giống như thanh tre gát trên cầu khỉ gãy ngang, gây hụt hẫng cho người lần dò lấy nó mà đi cho dù con sông mà nó bắc ngang chỉ trong gang tất.
Khi cái mát lạnh của mùa xuân phảng phất thì chừng như những ngày tết đã cận kề. Nhớ như in về mẹ, những ngày này bận rộn nhưng môi mẹ chừng như không ngớt mỉm cười. Gia đình sống phiêu dạt theo chân cha trên nhiều tỉnh thành nhưng cái chất quê ngọt ngào không hề phai trên đôi vai của mẹ. Chiều 23 Tết trong khi mọi nhà cúng kiến ông Táo về trời thì nhà mình lại im ắng trước mâm cơm thường nhật. Sau bữa cơm mẹ kêu mình ra thử bộ quần áo mới mẹ vừa mua, cái cảm giác thử áo theo mình suốt bao nhiêu năm đến nỗi khi đã thành người lớn mỗi lần mua một bộ quần áo mới lại nhớ đến mẹ, nhớ từng cái vuốt cho áo thẳng thớm, kéo bên này phủi bên kia làm cho mình cảm thấy như được vuốt ve dưới manh áo mới. Mùi thơm của vải là thứ duy nhất nối liền mình với mẹ cho tới nay, nó như thứ nước hoa không thể lẫn giữa muôn ngàn loại hương thơm khác trong đời sống.
Và từ lúc thử cho tới lúc chính thức được mặc bộ quần áo mới là cả một chuỗi ngày chờ đợi.
Cũng may, chỉ một tuần lễ là tết, sự bận bịu không chừa một ai làm thời gian ngắn lại. Mẹ thường dẫn mình đi chợ tết vào những ngày sát tết thường là 27 tết khi mọi thứ bớt rầm rộ và giòng người len lỏi trong chợ ít đi. Đó là lúc mẹ chọn dưa hấu, các loại bánh mứt trên bàn thờ, thịt heo, gà sống, củ kiệu và hàng chục món khác. Mình thích nhất là chợ hoa trong những ngày này, những chậu mai hiền lành, những cụm vạn thọ vàng rực một góc chợ chen với cúc, huệ, và nhiều loại hoa khác làm cho không khí tết rực rỡ hẳn lên. Người ngắm kẻ mua chen lẫn nhau và mình chợt nhận ra mọi người đều hiền hòa, dễ thương so với ngày thường nhiều lắm, có lẽ mùa Tết làm cho người ta gần nhau hơn bởi ai cũng cùng chung mục đích: “ăn tết”.
Đêm ba mươi dù buồn ngủ cách nào mình và các chị không bao giờ vào mùng sớm vì còn xem nấu bánh tét. Cả nhà đi vô đi ra như chờ đợi một điều gì quan trọng lắm, thì ra chờ giây phút giao thừa để được đốt phong pháo mà cha mua về từ hôm trước. Cái thời khắc thiêng liêng ấy được chờ đợi trong hồi hộp vì pháo nổ là tết chính thức bước vào nhà và năm cũ ra đi dể năm mới hoàn toàn khác trở về. Những ngày tết về sau này nhà nước cấm đốt pháo thì mình đã xa quê nhưng tâm trí cứ nghĩ về tiếng pháo giao thừa của những ngày xưa cũ. Tiếng pháo đánh thức niềm hy vọng, hương thơm của pháo tết lan tỏa khắp nơi làm không khí ngày tết đượm mùi gần gũi của hàng xóm láng giềng. Pháo nổ làm cho những phiền muộn của người nghèo tạm thời bay xa nó làm cho những gia đình khá giả biết ơn những gì trời đất đã dành cho họ. Tiếng pháo mang nặng tâm lý cộng đồng và chính nó làm cho người ta gần gũi nhau hơn mỗi lần tết đến.
Rồi sáng mùng một trong lành cũng đến. Mẹ đánh thức mặc cho bộ quần áo mới, dặn dò nhiều điều mà năm trước mẹ từng dặn dò. Mọi người lục tục kéo nhau mừng tuổi ông bà cha mẹ, những phong thơ màu đỏ đựng những đồng tiền mới tinh lì xì cho bọn trẻ, tiếng nhạc mừng xuân bắt đầu rộn rã, bữa ăn sáng mùng một tết được dọn ra và mọi người quây quần bên nhau trước khi ra khỏi nhà mỗi người một hướng.
Mâm cơn sáng mùng một tết có lẽ là mâm cơm tươm tất và ngon nhất trong năm. Mẹ và các chị đã hết sức chăm chút nó từ những ngày trước tết. Củ kiệu và tai heo đã được ủ trong những chiếc hủ sành tính sao cho đủ độ chua ngọt cần có khi bóc ra vào sáng đầu năm. Những khoanh bánh tét xanh ươm màu lá nằm tròn trĩnh cạnh dĩa dưa món đầy màu sắc. Nồi thịt kho măng vàng rực cùng với những chiếc bánh tráng đang chờ cuốn với rau sống là món chủ lực của bữa ăn đầu năm. Tuy ngon và mát mắt như thế nhưng không ai ăn no cả, hình như tiếng trống múa lân ngoài phố đang thúc giục mọi người.
Trước khi xem lân, mình ghé ngang đám đông đầy tụi con nít cỡ tuổi mình trong các sòng “bầu cua cá cọp” bên đường. Những hình ảnh trái bầu đỏ mọng, con cua hùng tráng xanh mầu biển, con nai hiền lành đứng trên con cá đang vẫy đuôi cùng chú gà cồ lảnh lót tiếng gáy theo sát mình suốt mấy ngày tết. Vài đồng bạc lì xì mau chóng vào túi của nhà cái, thường là một anh chàng trong xóm, hết tiền lại chạy đi chơi cái khác, hiếm gì cuộc vui ngày tết hơi đâu phải phí công ngồi ngắm chú bầu con cua?
Tiếng trống múa lân làm cho bọn trẻ cỡ tuổi mình đứng ngồi không yên. Cứ thấy ông địa lắc bụng cầm chiếc quạt rách phe phẩy là mình lại thích thú. Con lân dưới đôi mất ngây thơ của mình thật khác thường, mắt nó chớp giật như một con vật sống đôi lúc làm mình sợ hãi nhưng cũng đầy thích thú. Khi nó leo lên táp túi đựng tiền lì xì của gia chủ là tiếng trống dồn dập, tiếng hò reo cổ vũ đầy trời tạo cho không khí hừng hực mầm sống của ngày tết Nguyên đán.
Lớn lên một chút tết vẫn còn nguyên hương vị của nó như xưa, có điều vì lớn nên cái nhìn ngày tết của mình cũng khác. Lớn có những yêu cầu khác với một cu con nít, tâm trí vỡ ra những hình ảnh mà ngày thường không có, nhất là phong vị của tết, càng lớn thì người ta càng cảm nhận đầy đủ hơn về không khí đặc biệt mà chỉ ngày tết mới có.
Đó là những cuộc đi chơi với bạn bè trong không khí ấm áp đầy hoa của không gian ngày tết. Đây là lúc chưng diện với mọi người chung quanh để chứng tỏ ta đã lớn, đã bước hẳn vào tuổi hoa niên đầy hoa lá chung quanh.
Nhưng có lẽ thời khắc này chính là lúc âm nhạc cuốn hút người ta nhiều nhất.
Tết mà không có nhạc xuân thì còn gì thiếu vắng hơn. “Tấm thiệp đầu xuân” “Xuân này con không về” cùng nhiều bài hát bất hủ khác của ngày tết góp phần làm cho tết lý thú, gắn bó hơn giữa người nghe với nhau… nhưng gì thì gì một bản nhạc không thề thiếu trong ba ngày tết đó là bài “Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương.
Thật vậy, ca khúc Ly rượu mừng đã ăn sâu vào trí nhớ của người Việt đối với những ai sống ở đất nước này từ năm 1975 trở về trước. Giai điệu quyến rũ, ca từ mặn mà, hồn hậu lột tả hết nét nhân văn của một vùng đất tuy đạn bom dày xéo vẫn không mất đi lòng thương yêu, thói quen tha thứ và khuyến khích nhau xây dựng quê hương trong tinh thần tương ái. Là một nhạc sĩ miền Bắc di cư vào Nam, Phạm Đình Chương mang tâm trạng xa quê lồng vào ca khúc này với ước vọng mọi người cùng nhau xây đắp non sông trong một ngày mai hòa bình hạnh phúc. Nhạc sĩ vượt lên mọi cám dỗ thường trực của chiến tranh tâm lý để cho ra đời một ca khúc bất hủ cho dân tộc. Ở đâu trên mọi vùng đất của quê hương, trong những ngày tết xa quê người ta cũng có thể hợp ca Ly rượu mừng để nối liền những người con xa xứ với gia đình.
Nhưng tiếc thay bài hát không thể nối được những đứa con xa quá, xa đến nỗi không con đò nào đem họ về được với quê nhà.
Nguyễn Bính chỉ từ Bắc vào Nam vài ngày đã rên rỉ:
……
Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió
Xuân này em chị vẫn tha hương
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ
Son sắt say hoài rượu viễn phương (…)
Đêm ba mươi Tết quê người cũng
Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương….

Ông đúng là giang hồ vặt, chỉ thấy cơm sôi đã nhớ nhà, còn chúng tôi không hề muốn giang hồ, chỉ muốn ngồi bên mộ mẹ ôn lại những ngày còn thơ cũng không được huống chi là tết?
Tản mác khắp thế giới chúng tôi cũng cố giữ cái hồn tết của dân tộc lắm nhưng tiếc thay cố gắng nào cũng vô ích trong suốt hơn 40 năm qua. Chúng tôi đốt pháo nhưng không ai nghe, mua bánh tét bánh chưng chất đầy nhà chỉ để đem đi làm trong mấy ngày được gọi là tết. Những bông hoa giả nằm buồn bã trong góc nhà. Chai rượu đắt tiền không biết khi nào mới khui vì bạn bè ai cũng tất bật mưu sinh không còn thời gian để nhớ tết. Trẻ con không cần áo mới vì chúng có mỗi ngày. Chúng cũng không biết thế nào là lì xì, là bầu cua cá cọp như chúng tôi.
Tết ở phương xa nếu có cũng chỉ ngồi trong bóng tối rồi nghe một mình ca khúc “Xuân này con không về” để tự đánh lừa mình cho một ngày về không được in trong lịch.
Tết, đối với chúng tôi, ngày càng xa, càng teo tóp. Nó giống như tiếng pháo không mùi thuốc pháo vậy thì khác gì tiếng nổ trong mọi cuốn phim hành động?

Mặc Lâm

Đêm Giao thừa,
Đêm giao thừa lúc tưng bừng rực rỡ,
Mẹ một mình tĩnh lặng giữa đêm khuya..
Trăng lẻ loi soi sáng trước hiên nhà,
Trăng năm mới khác gì trăng năm cũ ?
Tình mẹ cho con âm thầm chứa đủ,
Những ấm nồng và có cả hy sinh..
Mẹ cho con tất cả biết bao tình,
Nhưng với mẹ con thật là  ích kỷ.!
Bao giờ mẹ cũng hi sinh,
Bây giờ con mới giật mình ngộ ra.
NM

 Đêm giao thừa 1
Giao thừa là thời khắc thiêng liêng nhất trong một năm, khi năm cũ hôn nhẹ lên môi năm mới để tạm biệt, đi về miền kí ức. Sống giữa giây phút giao hoan của đất trời, lòng người cũng từ tâm như một tách trà đượm nóng. Người ta nói giao thừa là đêm của tình nhân, khi những đôi trai gái xúng xính quần áo đẹp òa xuống phố phường để yêu lấy nhau và yêu lấy mọi người, để oán hờn đi vào quên lãng, để muộn phiền ở lại cho tình yêu đi tiếp và để chúc nhau tiếng cười của ái ân.
- Con đi mẹ ơi. Mẹ ở nhà cứ ngủ trước đi, đừng đợi cửa con!
- Về sớm nhé con!
          Như những cặp tình nhân khác, tôi và Lan cũng xuống đường đêm giao thừa. Đó là sự bình thường giản dị của một kiếp người yêu nhau. Xã hội này có những luật lệ của tâm hồn mà nếu làm khác đi ta sẽ trở thành kẻ khác thường. Chúng tôi cũng thường nắm tay nhau đi bộ hàng giờ trên những con phố đông đúc, lấp lánh ánh đèn neon sáng trưng. Ngắm pháo hoa xong chúng tôi cũng đi chùa cầu may đầu năm. Dù phải chen nhau đông đúc nhưng ai cũng vui vẻ vì đó là điều bình thường của cuộc sống.
          Mẹ cúng giao thừa xong đợi tôi về, nhưng chẳng bao giờ đợi được. Tôi thường về muộn và mẹ đã tắt đèn tự khi nào. Những giao thừa của tôi cứ trôi đi lặng lẽ và bình yên như thế.
- Mẹ nhìn kìa, pháo hoa năm nay đẹp hơn mọi năm mẹ nhỉ? Mẹ có nhìn rõ không? Hay con cõng mẹ cho cao hơn nhé!
Bên cạnh tôi là một chàng trai trạc ba mươi tuổi đang cõng một bà cụ tóc bạc lấm tấm, khuôn mặt sạm những nếp nhăm của tuổi đá vôi, lưng còng xuống như đã cõng cả cuộc đời. Đôi mắt bà cụ sáng rỡ theo từng tràng pháo hoa, và những lúc như vậy nụ cười của chàng trai lại thêm nồng hơn. Sự hiện diện của hai con người ấy như một biến số lạ giữa đường phố tình nhân và bè bạn. Ai cũng ngoái lại với ánh mắt hiểu kì.
          – Nếu là họ chắc em xấu hổ chết mất! – Tiếng một cô gái khẽ thì thầm.
          Phải! Vì xấu hổ nên đã từ lâu tôi không còn đi chơi giao thừa với mẹ. Chợt, tôi thoáng nhớ về những năm tháng ấu thơ, khi mẹ còn dắt tay tôi khắp những con phố đêm giao thừa. Tôi nhớ nụ cười của mẹ, nhớ những chiếc kem bông giòn tan mẹ mua cho tôi, và mắt mẹ cũng từng sáng rực trước từng tràng pháo hoa trên trời. “Năm nay con lớn rồi, con đi với bạn nhé, đi với mẹ xấu hổ lắm!”. Mẹ mỉm cười đồng ý. Chẳng rõ tôi nói câu ấy khi nào, chỉ biết từ khi có bạn, rồi có người yêu, tôi đã bỏ mặc mẹ. Kể từ ngày ấy mẹ chỉ ở nhà cúng giao thừa rồi đi ngủ, còn tôi vui vẻ đến muộn khuya mới về. Giờ này chắc mẹ đã ngủ rồi. Trong khi tôi ở đây sáng choang thì mẹ ở nhà tối mịt một năm mới không ai bên cạnh, lủi thủi trong những giấc mơ dài. Luống nghĩ tới đó mà mắt tôi cay xè.
          Năm nay con không đi lễ chùa, nhất định con sẽ về sớm mừng tuổi mẹ!
          Đôi khi xã hội dùng những quy luật bình thường, giản dị để trói buộc nhân thế trong một sự bình yên đến nhạt nhẽo. Nhưng đâu đó vẫn có những tâm hồn tự do biết sống với tình yêu của bản ngã.            
Nhật Hạnh                                                                                                                                                               
 Đêm Giao Thừa 2 
Vậy là cái tết đã đến. Chỉ còn đêm nay nữa là kết thúc một năm đầy biến động trong gia đình Sơn. Chưa có năm nào anh phải gói bánh chưng tết một mình và đón phút giao thừa trong buồn tẻ thế này. Bé Na ngồi cạnh anh, nó cũng tập gói bánh. Trông bàn tay non nớt của nó vụng về dúm những tàu lá dong, gạo vương vãi, lòng anh se lại, thỉnh thoảng nó lại ngước lên hỏi chuyện: 
- Giờ này mà mẹ vẫn chưa về bố nhỉ? 
- Ừ, chắc mẹ đang về con ạ. 
- Mẹ đi công tác xa lắm hả bố? 
- Ừ, xa lắm. 
- Bệnh dài tim là gì hả bố? 
- Sao con lại hỏi thế, ai nói với con? 
- Các cô, các chú trên cơ quan. Hôm qua con lên đấy các cô bảo mẹ mày mắc bệnh dài tim. Mẹ mày xinh lắm lấy được ối chồng.
Sơn biết thừa đấy là những câu châm chọc ác ý của những kẻ xấu bụng dành cho vợ anh. Anh hướng thằng Na sang chuyện khác:
- Thôi, đừng hỏi nhiều nữa, tập trung vào gói bánh cho bố đi. Nào đưa đây bố bảo cách gói.
Sự vô tư của thằng bé đã vô tình động vào nỗi đau sâu thẳm của lòng anh. Thằng bé mới 5 tuổi, nó ngây thơ và tội nghiệp chẳng hiểu điều gì đã xẩy ra với gia đình nó.
Sơn và Xuân gặp nhau và lấy nhau trong hoàn cảnh tình cờ. Ngày ấy Sơn là một nhà báo trẻ năng nổ. Trong một chuyến công tác tại một lâm trường anh gặp Xuân. Cô là kỹ sư, làm ở phòng kỹ thuật. Được biết ngoài chuyên môn là một kỹ sư giỏi, Xuân còn thích làm thơ, viết báo. Sơn tìm đến phòng ở của Xuân, cốt mong tìm được người bạn tâm tình về viết lách ở chốn rừng xanh hiu quạnh cho đỡ buồn. Sơn đến nhà vừa lúc Xuân đi làm về. Bộ quần áo bảo hộ còn vương bụi bặm của cây rừng.
Thấy có khách lạ và giới thiệu là nhà báo, Xuân không khỏi lúng túng. Cô xin phép khách đi tắm và thay quần áo. Khi Xuân trở ra đã trở thành cô gái khác xa lúc đầu Sơn gặp. Cô có nước da hơi xạm nắng với một gương mặt khá xinh và đôi mắt thông minh, sâu thẳm. Trong cuộc trò chuyện tay đôi Sơn biết Xuân là người đàn bà có trái tim nồng cháy và nhiều khát vọng. Cô như con chim bị nhốt ở trong lồng, bị giam hãm, tù túng và muốn vùng vẫy bay trong bầu trời tự do. Người yêu của cô là một lái xe, tính tình khô khan, băng giá không phù hợp với trái tim cháy bỏng của cô. Anh ta chẳng bao giờ đọc báo, càng chúa ghét văn chương, thơ phú. Trong mối tình của họ luôn xẩy ra "chiến tranh lạnh".
Xuân đưa cho Sơn một tập thơ do cô sáng tác và nhờ Sơn đọc hộ, góp ý. Tập thơ ghi lại những nỗi niềm, tâm trạng vò xé và nỗi khát khao được sống, được yêu. Hàng chục bài thơ còn thô nháp nhưng hôi hổi cuộc sống, Sơn cũng nhận ra một tài năng lấp lánh ẩn trong những trang thơ. Anh xin phép cô được chép lại để gửi cho tòa soạn.
Một thời gian sau, bài thơ đầu tay của Xuân được đăng trên báo. Sơn gửi tờ báo cho Xuân kèm theo đôi lời khích lệ. Sự kiện ấy đã chắp cánh cho niềm hứng khởi sáng tạo của Xuân. Từ ấy Xuân gửi bài đều đặn về tòa soạn. Những bài thơ, bài báo của cô dù chưa được chỉnh lắm nhưng được bàn tay Sơn gọt rũa đã trở nên sinh động và gây dấu ấn trong lòng bạn đọc. Họ ngày một xích lại gần nhau hơn.
Một hôm Xuân tìm đến tòa soạn thông báo do cơ quan lâm trường đấu đá mất đoàn kết, là người viết lên những bài báo chống tiêu cực, cô cũng trở thành nạn nhân và đang có nguy cơ mất việc. Giữa lúc tòa soạn đang thiếu phóng viên, Sơn xin cho Xuân một suất. Xuân trở thành phóng viên từ ngày đó. Được sống gần nhau, mối tình của hai người nhen nhóm và được anh em đồng nghiệp vun vén, họ nên vợ nên chồng. Cuộc sống thật đầm ấm và hạnh phúc. Niềm hạnh phúc được nhân lên gấp bội khi họ có với nhau thằng con trai kháu khỉnh. Vốn chiều vợ và thương con, Sơn nhận tất cả phần việc của gia đình, tạo điều kiện để Xuân làm nghề. Xuân năng nổ, yêu nghề. Cô đi nhiều, viết nhiều và trở thành cây bút chủ lực của tòa soạn. Cô nổi tiếng với những bài viết sắc sảo làm nhiều vị giám đốc phải sởn gai ốc. Nhưng cũng từ đây tính cách của cô bắt đầu thay đổi. Những khoản tiền cô kiếm được làm cô giàu có lên, sang trọng lên nhưng lại làm tâm hồn cô hoen ố. Đã có dư luận về những sự buông thả sau mỗi lần đi công tác của cô.
Xuân trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Đám phụ nữ ích kỷ thì xì xào: "Có chồng rồi còn tí tởn". Đám đàn ông háo sắc thì tấm tắc: "Em xinh đẹp tuyệt vời". Nghe thấy hết. Cô bỏ ngoài tai những lời ghen ghét còn những lời gió trăng thì cô nuôi thành ảo vọng, cái ảo vọng về quyền uy của sắc đẹp và ảo vọng về một cuộc sống giàu sang.
Tiếng eo sèo rồi cũng đến tai Sơn. Đã có lần anh góp ý cho vợ nhưng cô ấy không chịu nghe. Cô tự bênh vực bằng cái lý của mình: "Làm phóng viên là phải giao tiếp, anh đừng có ghen tuông vớ vẩn". Tính hiền lành và thương vợ, Sơn bỏ qua để gia đình yên thấm. Sẽ chẳng có chuyện gì với tổ ấm của họ nếu không có một lần có một ông giám đốc tìm đến nhà Xuân đón đi để viết bài cho xí nghiệp. Sơn không biết vị giám đốc này là một ông cai đường và chính là người tình của Xuân. Họ gặp nhau trong một hội nghị các giám đốc doanh nghiệp. Sau đó trở thành cặp tình nhân. Mỗi chuyến đi công tác xa của Xuân là cô đến với gã. Những khoản tiền hậu hĩnh và những món quà có giá trị cùng với sự hào hoa của vị giám đốc lắm tiền đã làm hoa mắt Xuân. Cô không còn đủ tỉnh táo để nhận ra những cạm bẫy của cuộc đời nữa.
Lần này Xuân ra đi rất lạ. Cô thu hết các thứ tư trang quần áo nói rằng để đi lâu ngày. Cô ôm thằng Na vào lòng, nước mắt rưng rưng. Sơn không biết rằng đó là lần cuối cùng Xuân được ôm con để đi theo gã giám đốc đến một nơi xa lắc. Năm ngày, mười ngày rồi một tháng không thấy Xuân về lúc đó anh mới hiểu vợ mình đã bước đi quá xa trên con đường tội lỗi.
Xuân được Hãn (tay cai đường) đưa về một thành phố xa lạ. Hắn gửi cô ở nhà một người bạn. Những ngày đầu hắn chu cấp đầy đủ và đến thăm non thường xuyên. Cuộc sống của Xuân coi như tạm ổn. Nhưng rồi rắc rối nảy sinh. Căn hộ vẻn vẹn chín mét vuông vốn đã chật hẹp nay có thêm Xuân càng trở nên chật chội. Cô bé chủ nhà đã bắt đầu tỏ ra coi thường và khó chịu. Những câu nói vu vơ đã ám chỉ Xuân chỉ là một gái làm tiền.
Thời gian trôi đi chậm chạp, không có công ăn việc làm, không có người thân trò chuyện, Xuân ngồi đếm từng ngày qua đi trong nỗi buồn tủi và ân hận. Trước khi đưa Xuân về đây Hãn đã hứa sẽ lo cho cô công ăn, việc làm và cuộc sống tự do thoải mái. Vậy mà đến giờ hắn cứ lần lữa qua ngày. Một hôm Hãn đem tiền đến cho Xuân, hai người đang ngồi bên nhau thổn thức thì thấy có một phụ nữ cùng mấy tay đầu trọc gớm ghiếc dừng xe xông vào. Đó là vợ của Hãn. Mụ ta mặt đằng đằng sát khí chỉ vào mặt Hãn:
- Thằng già kia, quỳ xuống giường.
Hãn nem nép làm theo. Rồi mụ quay sang Xuân:
- Còn mày, mày biết tao là ai không? Tao nhắc cho mày biết thế nào là kẻ trốn chúa lộn chồng.
Mặc cho Xuân quỳ lạy, mụ cũng không tha. Mụ bảo bọn đàn em đưa cho cái kéo. Chỉ trong chốc lát mái đầu của Xuân đã mất đi một mảng tóc. Làm xong mụ tuyên bố: - Đây là những đứa tao cảnh cáo lần đầu, liệu đường mà tránh xa thằng chồng dê già của tao ra hiểu chưa? Xong rồi cả bọn lại rồ xe ra về. Thấy vợ về Hãn không dám ở lại và cũng lấm lét về theo. Không bị đánh đập, không bị chửi bới nhưng nỗi nhục nhã lại ê chề. Xuân thu dọn hành lý, trùm cái khăn lên đầu và lê bước ra đường,
Ra ngoài đường Xuân mới nhận ra không khí của ngày tết đang đến. Những chuyến xe ca chở đầy hoa đào hối hả đi về các ngả. Cô vẫy chiếc xe ôm bảo chở cô ra bến xe. Vừa lúc có chuyến xe về tỉnh nhà, cô leo lên xe và lẫn vào với mọi người. Về đến bến, mọi người tranh nhau xuống, trên tay họ cầm những cành đào sặc sỡ. Xuân bước xuống và chưa biết đi về đâu. Nhà cô ngay gần đây. Chỉ một ngõ nhỏ nữa thôi là cô sẽ nhìn thấy ngôi nhà tập thể giản dị của mình, nhìn thấy đứa con tội nghiệp mà mấy tháng nay nó đã vắng mẹ.
Xuân không định về nhà hay nói đúng hơn không dám về nhà. Nhưng những bước chân vô định lang thang của cô lại cứ nhằm vào cái ngõ nhỏ. "Qua ngõ nhỏ này là nhìn thấy nhà mình", cái ý nghĩ ấy cứ cháy bỏng trong đầu Xuân.
Từ xa Xuân đã nhìn thấy ô cửa sổ nhà mình và cánh cửa của nhà mình vẫn mở. Từ căn nhà ấy hắt ra ánh đèn quen thuộc - ánh đèn mà bảy năm qua cô vẫn ngồi viết những bài báo và những trang thơ. Ngôi nhà ấy từng là tổ ấm, là nơi bình yên để tâm hồn cô trú ngụ. Vậy mà giờ đây cô không dám bước vào.
Xuân đứng nép vào một gốc sấu bên đường nhìn vào nhà và thấy hai bố con Sơn đang dạy nhau gói bánh. Thằng bé vừa nói với bố nó chuyện gì đấy lại vừa ngó ra đường. Giọt nước mắt hiếm hoi từ từ lăn trên gò má. Tự nhiên Xuân thấy đầu choáng váng, tay chân rời rã. Cô gục dần, gục dần xuống gốc cây sấu ngay trước cửa nhà mình.
TRIỆU ĐĂNG KHOA