Chú tôi mất. Đấy là tổn thất vô cùng to lớn của gia
đình. Chỉ có điều rất lạ là cây lộc vừng chú tôi yêu quí và gắn bó từ lâu
cũng tự nhiên héo úa.
Chú tôi là công nhân lâm nghiệp, cả cuộc đời gắn bó với
rừng. Có thể nói rừng là một phần không thể thiếu trong cuộc đời chú. Bàn
chân chú đã từng in dấu trên nhiều cánh rừng của Tổ Quốc. Ở đâu khó khăn
hoặc cần là chú có mặt.
Anh em tôi được chú cưu mang từ nhỏ khi mẹ tôi không
may bị tai nạn mất sớm. Chú coi anh em tôi như con, còn anh em tôi coi chú
vừa như cha, vừa như một người bạn lớn. Chú luôn dang tay che chở cho anh em
tôi, bên chú chúng tôi thấy yên tâm và thanh thản. Mỗi lần về thăm nhà chú
đều có quà cho chúng tôi, khi thì chùm quả vả căng đầy những mật, khi lại
chùm dâu da đỏ rực… Ngày ấy chúng tôi rất thích nghe chú kể chuyện. Khi chú
kể về khu rừng mới trồngđã lên xanh tốt, trong ánh mắt chú như có hai đốm
lửa sáng ngời. Còn những hôm bắt gặp những cánh rừng bị bọn lâm tặc tàn phá,
chú xót xa đau đớn như chính cơ thể mình bị tổn thương….
Có lần chú cho tôi vào rừng cùng. Tôi như đứa trẻ lạc
vào khu rừng cổ tích. Rừng xanh đầy những bất ngờ, đây đó những cây cổ thụ
to đến mấy người ôm không xuể, cao vút, bạnh cây gân guốc, tán lá rậm rạp,
ánh nắng xuyên qua thành những tia vàng óng. Những chùm dây leo như bầy rắn
khổng lồ đang gồng mình cuồn cuộn. Dưới thấp là thảm cây rậm rạp, nhiều lòai
hoa đủ sắc mầu rất lạ mắt. Những con sóc chuyền cành nhanh thoăn thoắt, một
tiếng chim lảnh lót trong tán lá, thỉnh thoảng một chú chim từ bụi cây bên
cạnh bay vút lên khiến tôi giật mình thích thú. Tiếng gió reo trong lá tạo
thành những âm thanh ru dương trầm bổng. Tôi bắt trước chú áp tai vào thân
cây, lắng nghe tiếng nhạc rừng đang ngân rung những giai điệu bất tận của
tình yêu cuộc sống, trong lồng ngực non trẻ bỗng dâng lên một cảm giác xốn
xang rất lạ.
Chú đưa tôi đến một cánh rừng mới trồng, chú bảo đây là
nơi bọn lâm tặc đã khai thác trộm, chú và anh em mới trồng lại. Có mấy cây
con bị gió thổi ngã rạp xuống, chú nhẹ nhàng nâng dậy và cứ xuýt xoa mãi.
Nhìn tôi đang vụng về lấy cành cây cắm xuống đất làm điểm tựa cho những cây
yếu, chú xoa đầu trìu mến:
- Cháu ạ, cây cũng có đời sống và tình cảm như người,
chỉ có những người yêu rừng, yêu cây và hết lòng vì nó mới có thể cảm nhận
được.
Chú tôi nói về rừng về cây một cách say sưa.
Rừng là lá phổi xanh của trái đất, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất… rồi cây
cũng biết vui biết buồn, biết giận. Nhiều điều chú nói sau này được học
trong nhà trường tôi càng thấm thía hơn. Còn lúc đó trong trí óc non nớt của
mình, tôi cứ tưởng tượng có một cô gái xinh đẹp như cô tiên ẩn trong thân
cây. Khi cô khỏe, cây vui cứng cáp mỡ màng, mỗi khi cô yếu hay buồn là cây
lại ủ rũ…
Hai chú cháu dừng chân bên một gốc vả, quả sai trĩu
từng chùm mọng căng quanh gốc. Chú lựa mấy quả chín đỏ bổ cho tôi ăn, lát vả
thơm lựng dâng đầy mật ngọt làm bao mệt nhọc tan biến. Nhìn ra phía rừng xa,
chú vui vẻ:
Lộc của rừng đấy cháu ạ. Còn nhiều thứ quí và của ngon
vật lạ lắm, nếu ta biết trân trọng nâng niu, rừng sẽ cho ta hưởng lộc.
Từ ngày nghỉ hưu, chú tôi qui hoạch lại khu vườn, mùa
nào cũng xanh tốt và sai trĩu quả. Chú trồng một vườn cây cảnh, đủ cả sung,
si, đa, lộc vừng… Nhìn chú chăm chút khu vườn mới biết tình yêu rừng trong
chú vẫn như ngày nào.
Lần ấy thấy tôi về chơi chú mừng lắm, kéo tôi ra vườn
khoe:
- Chú mới có một cây lộc vừng đẹp tuyệt vời.
Cây này do anh em trong lâm trường tặng. Cả đời gắn bó với rừng mà chú chưa
thấy cây lộc vừng nào đẹp đến như vậy.
Nói rồi chú đưa tôi đến bên cây lộc vừng, đi xung
quanh rồi lại ra xa ngắm. Cây lộc vừng thân to xù xì u cục nhưng tiềm ẩn một
sức sống mãnh liệt, tán cây xòe rộng hình tháp, xanh mướt vươn lên kiêu
hãnh, bộ rễ xum xuê vững chãi.
Nhìn chú vui tôi mừng lắm và hiểu rằng chú quí cây lộc
vừng trước hết vì đó là cái tình sâu nặng của đồng đội. Mà cây lộc vừng ấy
đẹp thật, càng ngắm càng thấy tỏa ra thần thái của bậc trượng phu, khí tiết
của trang quân tử. Chẳng khác nào chú tôi cả đời ngay thẳng, trung thực, hết
lòng vì những cánh rừng.
Chú từng kể cho tôi nghe, nhiều lần bọn lâm tặc tìm mọi
cách mua chuộc chú để chú làm ngơ cho chúng khai thác gỗ trái phép, bị chú
từ chối chúng tưởng chú chê ít chúng lại tăng gấp bội, nhưng chú kiên quyết
không tiếp tay cho kẻ ác, chú bảo:
- Mình sống nghèo mà thanh thản, chứ ăn của rừng “rưng
rưng nước mắt” đấy cháu ạ. Những lời nói chân thành mộc mạc ấy làm tôi xúc
đông và nhớ mãi.
Thế rồi chú tôi bất ngờ đổ bệnh. Khi gia đình đưa chú
đi khám mới biết chú bị ung thư giai đoạn cuối. Cả gia đình đều quây quần
bên chú. Nhìn hình hài bé nhỏ gầy guộc, đến trở mình cũng khó khăn của chú,
mọi người đều cố kìm xúc động, ra sân khóc lén. Riêng chú là vẫn cười nói
như không, chỉ khi trong giấc ngủ ít ỏi mới thoáng thấy chú rên nhè nhẹ.
Khi chú hỏi thăm cây lộc vừng và bảo đem sang gửi ở nhà
người con thứ ở cuối làng, kẻo cây biết chú ốm sẽ buồn phiền, ai cũng nghĩ
chú nói đùa. Cũng đến lúc đó mọi người mới để ý tới cây lộc vừng. Vẫn cái
dáng cứng cáp ấy nhưng lá đã ngả vàng từ lúc nào, lác đác đã có vài chiếc lá
lìa cành. Tôi nghe loáng thoáng ai đó nói rằng từ khi chú tôi đổ bệnh không
chăm sóc được nên cây mới thế, chứ khi còn khỏe ngày nào cũng thấy chú bên
cây, có lúc còn thầm thì như đôi bạn tâm giao, tri âm tri kỷ. Tôi bỗng ớn
lạnh khi nhớ tới chuyện hồn sống của cây mà chú tôi kể ngày nào. Tôi tin
rằng bằng một cách nào đó, cây lộc vừng đã cảm nhận được tình trạng sức khỏe
của chú tôi.
Thế rồi chú tôi lặng lẽ ra đi, vầng trán rộng còn vương
nỗi ưu tư trăn trở. Chúng tôi đem khăn tang thắt cho cây lộc vừng và những
cây trong vườn, cả khu vườn trắng một mầu tang tóc. Anh em chúng tôi không
ai cầm lòng được, nức nở gọi chú trong nước mắt. Hàng cây chịu tang đứng im
phăng phắc bỗng rùng mình xao xác, trời không mưa mà những giọt nước trên
vòm lá rơi ướt lạnh trên má anh em tôi.
Đưa chú tôi ra đồng, chúng tôi kính cẩn gửi chú vào
lòng đất mẹ xong, tôi thắp hương xin phép chú rồi mấy anh em xúm lại xem xét
cây lộc vừng. Cây không có biểu hiện sâu bệnh, bộ rễ vẫn từng chùm đầy sức
sống, cây đã rụng hết lá, vài cành nhỏ khô cứng nhưng bấm vào nhựa vẫn ứa
ra. Mấy anh em tôi tỉa cành khô, chuyển cây vào nơi dịu nắng. Trong thâm tâm
mấy anh em tôi ao ước cây lộc vừng xanh tốt trở lại. Chúng tôi đã quen với
hình ảnh chú bên cây lộc vừng, đến mức có lúc cứ ngỡ cây với chú đã hòa làm
một.
Dịp bốn chín ngày chú tôi, chúng tôi không hẹn mà cùng
ra thăm cây lộc vừng, chú em tôi nghẹn ngào:
- Hàng ngày chúng em vẫn chăm sóc cho cây,
nhiều lúc chúng em vẫn nói chuyện với cây như ngày trước bố em vẫn làm.
Chúng em không muốn cây thiếu vắng tình người…
Thế rồi cây lộc vừng xanh tốt lại thật,
những chiếc lá non tơ mới nhú óng lên trong nắng sớm, những hạt nước li ti
long lanh trên lá như muôn hạt châu. Cả khu vườn mơn mởn một mầu xanh. Trong
gió thoang thoảng hương thơm của lá, của hoa, ngây ngất một sức sống diệu kỳ
dâng lên từ đất.
Gần đến ngày giỗ đầu chú, chú em điện cho tôi giọng
mừng rỡ:
- Lạ lắm anh ạ, cây lộc vừng sai nụ lắm, em
cứ cầu trời khấn phật để cây trổ hoa đúng ngày giỗ anh ạ.
Ngày giỗ chú, dù làm việc gì thì anh em tôi thỉnh
thoảng vẫn ngó về phía cây lộc vừng với một sự chờ đợi thấp thỏm. Chiều ấy
khi mọi việc đã xong, mấy anh em tôi ngồi quanh cây lộc vừng, câu chuyện đưa
về những kỷ niệm về người chú thân yêu đã đi xa. Mỗi người đều kể về chú với
một tình cảm sâu nặng.
Trăng lên. Tán lá xanh ánh lên một mầu vàng dịu, những
chùm nụ đung đưa lung linh huyền ảo. Tôi thắp một nén hương trên bàn thờ
chú, khi quay ra chợt sững người lại. Trời ơi! Tôi có nhầm không, khi từ
trong tĩnh lặng như có tiếng lách tách nhè nhẹ. Những cánh hoa lộc vừng bừng
nở đỏ thoáng chốc ngỡ ngàng, rồi chẳng mấy chốc đã buông thành một rèm hoa
tha thướt. Mấy anh em tôi không ai kìm được tiếng xuýt xoa. Thấy vậy cả nhà
ùa đến, thím tôi khóc nức lên: “Ông ơi là ông ơi! Ông sống khôn thác
thiêng…”
Tôi chợt cay sè sống mũi vội bước ra sân, dưới ánh
trăng, những cánh rừng bạt ngàn nối nhau xa tít tắp, mùi hoa, mùi lá cây lan
tỏa khắp không gian. Tôi như thấy chú tôi vẫn còn đâu đó, lưng áo bạc trắng
mồ hôi, cần mẫn vì sự sống của những cánh rừng Trần Vân Hạc
Hoa lộc vừng
Nghĩa
địa làng Bùi cạnh sông Cầu Chày. Ngày ấy có một người tự nguyện trông
coi. Bình thường lão lo làm ăn hầu như không giao thiệp với ai, khi
làng có người chết lão tất tả đi lại nói năng khác thường, tỉ mẩn hướng
dẫn cách đào huyệt thế nào để khi đặt người âm xuống cho đỡ đau, xua
đám trẻ chăn trâu dạt ra cho người ta cúng tế, hạ huyệt.
Xong
việc, mọi người về hết, lão thui thủi một mình cùng đống hoa giấy,
tiền âm, cầm chai rượu cúng, ngửa cổ lên trời tu mấy ngụm rồi loạng
choạng ngất ngưởng thu dọn đồ cúng cho vào nhà. Hôm sau, lũ trẻ chăn
trâu biết chắc lão còn ở ngoài vườn bày trò tập trận giả, trộm hết
chuối, oản, bánh kẹo ra bãi tha ma chén sạch. Lão biết nhưng không thèm
xua đuổi.
Lão
có tên Trần Như Tiếp, dân làng Bùi quen gọi thân mật bằng cái tên cúng
cơm từ bé là Cò Tiếp. Ai gọi thế nào mặc kệ, lão không thèm để ý, cứ
dửng dưng vô cảm. Cò Tiếp dựng một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ xoan cạnh nghĩa
địa, trồng các loại hoa màu đủ ăn. Làng bảo mắc điện, lão ậm ờ cho qua
chuyện, bảo không có tiền. Các tổ chức đoàn thể khuyên lấy vợ lão nói
lảng sang chuyện khác. Trong nhà trống huơ trống hoác không có gì đáng
giá ngoài mấy bộ áo quần bộ đội đã cũ, một giường đơn và vài dụng cụ
sản xuất vẹt mòn theo năm tháng. Bộ ấm trà và ống thuốc lào cũng đen
sì, đặc quánh thâm u. Xung quanh nhà, lão đắp ụ trồng nhiều cây lộc vừng
lấy từ đầu nguồn sông Cầu Chày, có hai cây đẹp, lão cho vào chậu cảnh
cắt tỉa công phu tạo dáng mẹ bồng con.
Nhìn
lão tỉa tót, nâng niu, chẳng khác mấy đại gia chơi bon sai sành điệu
dưới phố. Ai trả bao nhiêu lão cũng không bán. Mùa xuân, hai cây lộc
vừng ra hoa giống những sợi tơ trời rũ xuống như hai mái tóc buông xõa.
Lũ chim trời động lòng rủ nhau về ngự, chuyền cành hót líu lo xua tan
vẻ âm u tĩnh mịch, làm lão Tiếp cũng vui lây. Mới ngoài năm mươi tuổi,
cổ lão đã có hốc, mắt trũng sâu như người đói ngủ, chân mày rậm, trán
hói, hai hàm răng bám đầy trà thuốc. Lão cười ngô nghê trông đến tội
nghiệp. Những người ở làng kháo nhau: Lão Tiếp mắc chứng mộng du. Mấy
bà quá tuổi, góa chồng mỗi lần đi làm qua vườn gặp lão đều trêu:
- Anh Tiếp ơi, người ta con đàn con đống, còn anh để chúng em chờ đến bao giờ…?
Tiếp
vốn là đứa con hoang được một người tốt bụng từ thị xã Thanh Hóa mang
về cho ông Thiện làm con nuôi. Ông bà Thiện chân chất, phúc hậu nhất
nhì ở làng Bùi nhưng sinh con một bề nên ông bà quý Tiếp hơn vàng. Tiếp
lớn lên nhờ những giọt sữa thơm bú mướn, được trời sinh, trời dưỡng
không ốm đau dặt dẹo rồi cũng đi học, chăn trâu cắt cỏ bình thường như
những đứa trẻ khác. Có điều kỳ lạ, Tiếp học rất sáng dạ, thông minh, mới
lớp sáu mà đã giải hộ được toán lớp bảy, làm không ít con gái ở trường
làng để ý, liếc trộm, thán phục trong đó có con gái ông Chủ tịch xã
Nhiêu Về. Mới mười lăm tuổi đã biết làm dáng, nhưng học kém, kiểm tra
toàn nhìn bài của Tiếp. Bù lại, Nhiêu Về có đôi mắt bồ câu sắc đẹp,
khuôn mặt thanh tú dễ nhìn, vồng ngực vun lên từng ngày và mùi hương
thơm khó tả của tuổi dậy thì làm cho máu con trai trong người Tiếp rực
lửa.
Những
năm giữa thế kỷ trước, chiến tranh lan đến mọi nẻo quê, con trai làng
Bùi xung phong ra trận gần hết, nhiều người không về, những người phụ
nữ âm thầm gánh thêm phần góa bụa. Ngày ấy, chỉ còn lại những người đàn
ông tật nguyền và phụ nữ ngày đêm thi đua sản xuất góp gạo nuôi quân.
Vượt lên nhiều mất mát của chiến tranh, hạt gạo làng Bùi cũng âm thầm,
lặng lẽ theo những cánh quân xuyên rừng vào tận trời Nam đánh giặc.
Không chịu được nỗi cô đơn trống trải của người con trai thời loạn và
khát khao cháy lòng được đi bộ đội cầm súng đánh giặc, trốn ông bà
Thiện, Tiếp nhiều lần đến nhà Chủ tịch xã xin được nhập ngũ.
Ông
Hoắng, Chủ tịch xã vừa đi họp trên huyện về đã thấy Tiếp trong nhà,
không kịp cởi bộ áo quần màu gụ còn nguyên bụi đường, dựng chiếc xe đạp
Thống Nhất vào rặng cúc tần, ném mũ cói và chiếc xắc cốt màu đen xuống
phản. Không thèm đáp lại lời chào của Tiếp, ông vê một điếu thuốc lào
tra vào nỏ châm lửa kéo một hơi dài, tiếng điếu rít lên như xé gió,
khói từ miệng ông phả ra thành nhiều vòng tròn nối nhau như ống khói tàu
hỏa chạy bằng hơi nước. Chiêu một ngụm chè xanh, ông phán:
- Tôi đã nói nhiều lần, ngữ anh vắt mũi chưa sạch, còn thiếu một tuổi, xã đội đã bàn cho ở nhà đi cày.
Tiếp ấp úng:
- Bác khỏi lo, cháu đi bộ đội được mà.
Ông Hoắng cao giọng:
- Không nói nhiều, mất thì giờ, về đi để tôi còn làm việc.
Không nhịn được, Tiếp đứng lên tuyên bố một câu xanh rờn:
- Không bác cháu gì sất! Ông không cho tôi đi, tôi sẽ lấy con gái ông, đừng trách.
Ông
Hoắng như giẫm phải lửa, sau phút chau mày ông trấn tĩnh lại ngay:
Mình là Chủ tịch xã có bề thế danh gia vọng tộc không thể đồng trang
lứa với thằng phải gió, mách qué này. Mẹ kiếp, thằng này không cha
không mẹ, máu giang hồ còn nguyên, mấy năm uống nước làng Bùi có nhằm
nhò gì? Không khéo nó làm thật thì khốn. Nghĩ đến đó ông hạ giọng vỗ về:
- Bác nói đùa vậy thôi để thử quyết tâm của cháu. Không sao, cứ về chuẩn bị đi, từ từ rồi bác tính.
Đợt
tuyển quân năm ấy, Tiếp đi bộ đội lúc 17 tuổi, khi chuyến đò dọc đưa
anh và nhiều thanh niên khác về bến sông Mã để đi vào Nam thì có một
người con gái đứng khuất sau rặng lộc vừng vẫy tay đưa tiễn. Ông Hoắng
đâu ngờ trong hành trang Tiếp mang theo có một cuốn nhật ký và một khăn
mùi xoa thêu hai con bồ câu đậu trên một trái tim màu lửa rất đẹp.
Nhiêu Về xúc động chóng mặt khụy xuống, mầm sống trong người cô xuất
hiện.
Ông
Hoắng gọi dân quân đưa ngay vào trạm xá cấp cứu. Là người từng trải,
rành đời, ông tức lộn tiết muốn tống cái của nợ này đi nhưng không
được. Nhiêu Về đòi tự vẫn để bảo toàn danh dự đã thề thốt với người
mình yêu. Vốn là kẻ đa mưu túc kế, may cho ông, chỉ một tháng sau đám
cưới của Nhiêu Về - con gái ông Chủ tịch xã và anh thương binh Trần
Trọng Kim bị ù tai do sức ép của bom Mỹ từ miền Nam ra an dưỡng tại làng
được tiến hành. Đám cưới tổ chức theo đời sống mới, dân làng Bùi tha
hồ đàm tiếu xung quanh câu chuyện cái thai trong bụng Nhiêu Về, được
cái anh Kim điếc đặc không nghe thấy, ai nói cũng cười cứ tưởng họ chúc
mừng hạnh phúc. Nhiêu Về cũng khéo ăn ở nên được chồng cưng chiều yêu
thương.
Rồi
con gái Nhiêu Về ra đời giống mẹ như tạc, mũi dọc dừa, lớn nhanh học
giỏi. Của đáng tội con bé đẹp người, đẹp nết gặp ai cũng lễ phép chào,
làng trên xóm dưới ai cũng đặt miệng khen, rồi tai họa bỗng dưng ập đến
làm xôn xao cả làng. Hôm ấy hai mẹ con giặt áo ngay bến sông Cầu Chày,
trời nắng, con bé Liên ngẫu hứng xin mẹ tập bơi, không may gặp dòng
nước xoáy hụt chân. Nhiêu Về lao ra cứu con bị dòng nước cuốn chìm, ba
ngày sau dân làng mới vớt được xác hai mẹ con dưới rặng lộc vừng cách
đó không xa. Anh thương binh thương vợ, thương con bỏ đi mất tích.
…
Hết chiến tranh, Tiếp về làng với chiếc ba lô trĩu nặng, lỉnh kỉnh một
con búp bê mặc váy củn cỡn mắt xanh lè, tóc vàng hoe, một khung xe đạp
Stecnin và khá nhiều quà cáp. Anh tặng tôi một tập ảnh có cô gái nheo
mắt rất đa tình mỗi khi di chuyển trông thật ngộ nghĩnh. Ngày anh vắng
nhà, các chị đều đi lấy chồng làng bên, ông bà Thiện lần lượt dìu nhau
về với tổ tiên, nỗi cô đơn trống trải đè nặng khi anh đặt ba lô xuống
chiếc giường cũ trong gian nhà ngói ba gian lâu ngày vắng hơi người và
đầy tiếng mọt nghiến. Đón anh không ai khác chính là ông Hoắng.
Anh
ra bến sông Cầu Chày ngồi lặng đi hằng tuần, tìm về bãi tha ma thắp
hương cho người xấu số, anh ốm một trận thập tử nhất sinh, đi nhiều
bệnh viện không xác định rõ bệnh, rồi tự nhiên trở thành người khác và
tự đốn gỗ làm nhà ở lại nơi này.
Hôm
ấy trời bỗng dưng đổ mưa, cất xong mẻ rượu, mẹ tôi bảo mang ra cho bác
Tiếp, giờ này không có ai chắc bác buồn lắm. Trời xẩm tối, tôi vừa đi
vừa sợ, biết ý mẹ tôi dỗ dành: Không có ma quỷ gì đâu, mà nếu có thì ma
không bắt những người tử tế.
Tôi
đạp xe một mạch ra cạnh bến sông. Mưa tạnh. Trời đầy sao, tiếng dế nỉ
non, tiếng côn trùng rả rích, lũ ếch nhái đi tìm bạn tình, tiếng cuốc
gọi đêm tạo thành một thứ âm thanh với nhiều tạp âm hỗn loạn. Dưới ánh
đèn dầu leo lét mờ tỏ tôi thấy bóng anh đổ dài đang thì thầm với người
thiên cổ. Gió suông đưa theo mùi vàng mã trộn với khói nhang thơm ngát,
tiếng anh vọng lại:
- Mình ơi! Tôi vượt qua nghìn lửa đạn nguyên vẹn về đây sao lại gặp nhau trong hoàn cảnh thế này?
Đất trời vẫn im lặng.
- Mẹ con nằm dưới ấy có lạnh không? Mùa đông về rồi tôi gửi cho em và con hai tấm chăn bông và ít quần áo sách vở.
Tôi
đứng như phỗng, không tin những điều mình nghe thấy. Đất dưới chân như
lún xuống, cảm giác như từng ngọn cỏ, nhành cây, tiếng gió đều tụ về
chứng kiến tấm lòng của anh.
Bến quê còn đây mãi Em và con đâu rồi Ngước nhìn lên dốc vắng Gặp vầng trăng đơn côi
Không
dám lên tiếng sợ cắt đứt dòng suy nghĩ thiêng liêng của anh, nhẹ nhàng
bỏ can rượu vào nhà, dắt xe ra bờ đê, tôi chạy một mạch như bị ma
đuổi.
Hơn
mười năm, tôi về thăm làng trong một ngày nắng đẹp. Mẹ tôi tóc bạc da
mồi, nhưng vẫn nhớ như in ngày anh Tiếp ra đi. Cả làng ai cũng khóc. Mẹ
tôi ngậm ngùi “Thế là ông ấy toại nguyện xuống gặp được vợ con”. Tôi
ra bến sông Cầu Chày, nhớ về thời chăn trâu cắt cỏ. Vẫn cây cáo mọc
chìa ra giữa sông cho chúng tôi tập bơi, điếm canh đê của làng vẫn còn,
nghĩa địa có thêm nhiều ngôi mộ mới. Tôi kính cẩn thắp cho anh một
tuần nhang. Ngôi nhà cũ năm xưa vẫn còn, ai đó âm thầm chăm chút cho
rặng lộc vừng xanh tốt. Bên cạnh hai cây lộc vừng cũ, giờ lại có thêm
một cây được bài trí trong chậu mới theo thế quân tử. Hai cây lớn khép
tán xanh nụ, những đài hoa tím ngát tỏa hương thơm dịu nhẹ len vào đất
trong ráng chiều tĩnh lặng.ĐỖ NHƯ THUẦN
Hoa lộc vừng thương nhớ
Về nhà đi con gái
Bên góc vườn xưa cha vẫn ngồi đó ngóng chờ
Về nhà đi con gái
Cuối mùa này hoa Lộc Vừng vẫn nở
Nhành đỏ tươi đợi người thiếu nữ cài lên tóc
Chú họa mi ngày nào chẳng hót nữa
Cả khu vườn cây cỏ chợt lặng im
Về nhà đi con gái
Tất cả đều đang buồn rầu mong mỏi...
Một
buổi sáng gần đầu mùa đông năm ngoái tôi nhận được tấm bưu thiếp của
em trai gửi từ quê nhà với những dòng thơ ấy. Đã gần một năm trôi qua
tôi không về nhà. Cha tôi đang bị ốm, bao nhiêu thuốc thang cũng không
thể chữa được những căn bệnh của tuổi già. Ngay trong chiều hôm ấy tôi
đã mua vé máy bay từ Marrid (Tây Ban Nha) về nước ngay.
Tôi
bỏ tấm thiệp vào túi áo khoác, thỉnh thoảng lại lôi ra đọc, những dòng
chữ trên đó đã ướt nhòe bởi những dòng nước mắt của tôi. Tôi nhớ cha
mẹ, nhớ nhà, đã bao nhiêu lần tôi bảo về nhưng cứ lần lữa mãi. Hoa Lộc
Vừng, cây hoa mà em trai tôi nhắc đến trong bài thơ ấy chắc là cây Lộc
Vừng mà cách đó khoảng năm, sáu năm về trước cha tôi không biết xin
được ở đâu đem về trồng ở một góc vườn nhỏ của gia đình. Cha chăm sóc nó
rất cẩn thận, chỉ vài năm sau nó đã lớn và trổ hoa, hồi đó tôi vẫn
đang học những năm đầu đại học, tôi đi xa nhà suốt. Mỗi lần về nhà tôi
cũng chẳng để ý là trong vườn nhà mình có cái cây nào đó tên là Lộc
Vừng, mãi đến khi nó trổ hoa một màu đỏ tươi tôi mới hỏi cha tôi đó là
cây gì.
" Người ta gọi đó là cây Lộc Vừng đấy!"
"Cha trồng cây này để làm gì? Nó có quả ăn được không, sao giống như cây cảnh vậy?"
"Tao
cũng không biết, nghe một người Kinh ở dưới xuôi bảo trồng cây này thì
nhà sẽ có lộc, phát tài phát lộc ấy, sau này hoa nở nhiều ta sẽ có
cuộc sống ấm no, đủ đầy..."
Nghe
cha trả lời vậy tôi chỉ thấy trái tim mình đau nhói, cha tôi vẫn không
ngừng mơ ước, mơ ước và hy vọng về một cuộc sống sung túc cho cả gia
đình. Năm ấy cha tôi đã ngoài 50 tuổi, người ta luôn mơ ước những điều
mình không có, cha tôi cũng vậy, cả cuộc đời cha sống trong nghèo khổ
nên lúc nào cha cũng mơ ước về một cuộc sống khá giả hơn ở hiện tại.
Tôi biết cha mơ ước như vậy cũng là vì mấy anh em tôi, là cho những đứa
con mà ông hằng thương yêu mà thôi. Hồi trẻ cha tôi là con riêng của bà
nội, ông nội tôi không yêu quý ông nên suốt những năm tháng tuổi thơ
ông phải chịu rất nhiều thiệt thòi và cay đắng. Cha mẹ tôi lấy nhau cũng
trong hoàn cảnh nghèo khó, vài năm sau mấy anh em tôi lần lượt ra đời
cuộc sống của cha mẹ lại thêm phần khổ cực hơn. Hồi bé tôi từng bị một
trận ốm rất nguy kịch, cha tôi đã phải bán chiếc đồng hồ đeo tay là kỉ
vật mà cha đẻ của ông để lại cho, cha phải bán đi lấy tiền chữa chạy
cho tôi.
Sau
này lớn lên biết được chuyện đó lúc nào tôi cũng thầm ao ước một ngày
nào đó kiếm ra tiền sẽ mua tặng cho cha mình một chiếc đồng hồ đeo tay
thật đẹp. Trong suốt nhiều năm qua với công việc của một nhà báo tôi đã
có cơ hội gặp không ít những vĩ nhân, người nổi tiếng trong số ấy có
rất nhiều người không chỉ tài giỏi mà còn có tấm lòng nhân hậu, với tôi
họ đến tuyệt vời đến mức hoàn hảo. Tôi rất ngưỡng mộ họ nhưng người tôi
luôn kính trọng và thần tượng nhất trên đời này chính lại là cha tôi,
một người đàn ông cả đời lam lũ, chỉ biết có ruộng vườn, cây cỏ. Một
người đàn ông mà trong suốt gần sáu mươi năm cuộc đời chưa từng đặt chân
đến thành phố lớn nhất đất nước của mình. Một người đàn ông chỉ biết
có núi đồi, ông chưa từng đọc trọn vẹn cuốn tiểu thuyết nào thậm chí
nói tiếng phổ thông còn không thạo. Cha tôi là một người cha miền núi
chất phác, là một người đàn ông hầu như phần lớn cuộc đời chỉ biết hỏi:
"Ngày mai sẽ ăn gì?"; "Mùa sau có đủ thóc ăn không?"; "Lấy tiền đâu
gửi cho con nộp học kỳ tới?"... Đất đai ít, chẳng có vốn liếng gì, nhà
đông con, vợ lại hay ốm đau... cả đời dù đã làm việc cật lực nhưng cha
tôi chẳng hết được khổ cực. Cha nghiêm khắc lắm, mấy anh em tôi thường
xuyên phải đòn vì những trò nghịch dại nhưng sau mỗi cái roi quất xuống
mông đứa con nào là nước mắt của cha tôi tuôn rơi theo từng lằn roi
ấy. Sau này tôi và anh trai lớn dù có hư cha cũng chẳng đánh nữa, chỉ
mắng mỏ đôi câu. Còn các em tôi thì chẳng bị đánh bao giờ, chắc theo
thời đại phương pháp giáo dục con cái của cha tôi đã khác đi.
Cha
tôi nấu ăn ngon và khéo nữa nên họ hàng có tiệc tùng gì luôn nhờ ông
sang nấu nướng hộ một vài món chính, anh em chúng tôi đứa nào cũng
thích ăn cơm của cha nấu hơn là của mẹ. Những năm tháng nơi đất khách
quê người phải ăn những món ăn khác lạ tôi luôn thấy thèm một bữa cơm
gia đình nhất là những món ăn ngon mà do chính tay cha tôi làm. Ngày xưa
đi học đại học, không có tiền nên dù được nghỉ lễ dài ngày tôi cũng
không thể về nhà, từ thành phố về quê cũng mất gần nửa ngày đi xe khách.
Thế là một mình tôi cứ lang thang quanh khu kí túc xá vắng tanh, mỗi
lần như thế cha tôi lại gọi điện xuống hỏi, nghe giọng ba và các em chí
chóe qua điện thoại tôi phải cố kìm nén để không òa khóc. Dù không nhìn
thấy nét mặt tôi lúc đó nhưng hình như cha tôi biết rõ chuyện gì đang
xảy ra, ông bảo.
"Nhớ nhà quá thì về một chuyến đi, để tao đi gửi tiền xuống cho mua cái vé xe về nhé".
Tôi
bảo không, vì biết cha cũng chẳng có tiền, cha sẽ lại đi vay, cả đời
cha phải vay nợ khổ lắm rồi. Sau khi tôi ra trường đi làm được một thời
gian, anh trai cả nhà tôi cũng đi xuất khẩu lao động nước ngoài, cuộc
sống của gia đình tôi có khấm khá hơn nhưng tôi vẫn rất ít khi về nhà.
Một lần cha tôi gọi điện:
"Tết Cơm mới này có về nhà không?"
Thấy tôi chần chừ mãi không trả lời, ở đầu dây bên kia giọng cha sốt sắng nói tiếp.
"Nếu mày bận học, bận việc thì thôi ở nhà vẫn tốt cả mà".
Đúng
là tôi rất bận, không có cả ngày nghỉ cuối tuần, cha biết thế cũng
chẳng giục tôi về. Cũng vì thế mà những cuộc điện thoại về nhà của tôi
cũng thưa dần đi, cha ốm tôi nhiều lần tôi không biết. Cha tôi vốn là
một người đàn ông cao lớn, khỏe mạnh từ bé đến giờ ít khi thấy ông ốm
đau, nếu cha ốm tôi thấy không quen chút nào và thấy có cảm giác sợ
hãi. Tôi đã quen với việc mẹ quanh năm thuốc thang nhưng lần nào thấy ba
phải uống thuốc là tôi thấy lo lắm, lúc đó biết bao nhiêu điều xấu xa
chợt hiện về trong trí óc tôi. Tôi sợ nếu như cha cũng thường xuyên bị
như mẹ thì ruộng vườn, việc học hành của anh em chúng tôi sẽ ra sao
đây? Và tôi biết chính cha tôi cũng sợ lắm, một lần ông bị đau bụng rất
nặng, do bị dị ứng thức ăn lạ, ông gọi anh em tôi đến và bảo đem cái
vòng tay bạc duy nhất của mẹ đi bán lấy tiền rồi đưa ông đi bệnh viện.
Lời cha nói hôm đó vẫn còn ám ảnh tôi đến bây giờ.
"Tao
không muốn chết lúc này đâu, tao sợ lắm, tao còn nợ nần nhiều quá, tao
mà chết đi mẹ con chúng mày làm gì mà trả được cho người ta".
Ơn
trời mọi chuyện rồi cũng đã trôi qua, sau đợt đó cha tôi lại khỏe mạnh
lại như xưa. Mỗi lần đến một vùng đất mới, tôi thường không bỏ qua
những đền chùa, nhà thờ, nhà nguyện và tất cả những nơi có thể cầu
nguyện được. Tôi đến những nơi ấy cầu nguyện bằng đủ tất cả những thứ
tiếng mà tôi biết, tôi cầu nguyện cho cha mẹ, cho tất cả gia đình tôi.
Mở đầu những lời cầu nguyện bao giờ tôi cũng cầu cho cha mẹ tôi được
khỏe mạnh bình an. Thế mà mùa đông năm ngoái cha bỗng bị một trận ốm, ốm
nhẹ thôi nhưng kéo dài. Dù khi anh em tôi trưởng thành, biết đi làm
cha đã đỡ vất vả nhiều nhưng lúc ấy cha cũng già rồi, sức khỏe không
còn được như trước nữa. Em trai út tôi bảo cha ốm còn là vì cô đơn nữa,
anh em tôi đứa đi học, đứa đi làm, có đứa cả năm không về cha buồn nên
sinh bệnh. Đúng là từ ngày đi làm tôi cứ đi suốt từ nơi này đến nơi
kia, cha không nói gì tôi cứ nghĩ là ông chẳng nhớ tôi nhiều đến thế.
Hóa ra ông luôn lo lắng, luôn mong ngóng chúng tôi về... Ông chẳng nói
với tôi người chuyên đi không có điểm dừng, chẳng nói với anh trai cả
đang làm việc ở Đài Loan mà chỉ nói với thằng em trai út của tôi đang ở
cùng cha mẹ, rằng ông nhớ những đứa con đang tha hương nơi đất khách
quê người, nhất là tôi là con gái mà cứ một thân, một mình. Tôi mới
biết điều ấy từ mùa đông năm ngoái, lúc ấy dù đang có đủ thứ phải làm ở
Tây Ban Nha tôi cũng bỏ dở để về nhà. Thấy tôi trở về cha mừng lắm,
ông chỉ tay ra góc vườn, cây Lộc Vừng xưa giờ đã cao lớn, đầu đông rồi
mà hoa vẫn nở.
"Cái ông người Kinh gì dưới xuôi cho tao cái cây này đã bảo mà, hoa nở là nhà có cái lộc, mày về rồi đúng là cái lộc đây mà..."
Lúc
ấy nước mắt tôi lại tuôn rơi, hóa ra tôi là "lộc" của cha sao? Những
điều cha mong mỏi chỉ có vậy, chỉ là mong chúng tôi luôn được vui vẻ,
hạnh phúc và thỉnh thoảng về sum họp đủ đầy bên nhau...
Mùa
hè qua tôi đi lấy chồng, nhà chồng xa nhà cha mẹ có vài chục cây số
nhưng tôi vẫn ít khi được về nhà thăm cha mẹ, thăm ngôi nhà thân yêu
xưa cũ của mình, vẫn là chuyện công việc, chồng con. Về nhà chồng được
một tháng ba tôi gửi tặng cho tôi cành Lộc Vừng đã được ông chiết từ
lâu, chồng tôi mang ra khoảng sân trước nhà trồng và ngày nào anh cũng
chăm bón cẩn thận. Sáng nay dậy trong tiết trời hơi se lạnh của cuối mùa
thu tôi nhìn thấy trước cổng nhà mình cây Lộc Vừng nhỏ đã đỏ đầy hoa,
bài thơ của cậu em trai nhỏ viết ngày nào lại ùa về trong tâm trí:
...Về nhà thôi con gái
Cuối mùa này hoa Lộc Vừng vẫn nở...
Sáng nay tôi quyết định về thăm cha tôi.
Hoa Thược Dược
HOA LỘC VỪNG LẠI NỞ…
Sau
lần đầu tiên bất ngờ khi chứng kiến cả một chùm dây hoa lộc vừng, với
những bông hoa nhỏ màu đỏ, lấp lánh dưới ánh đèn treo trên cao, đong
đưa trong gió, tỏa hương ngào ngạt trong đêm, đã năm năm trôi qua, đợi
chờ mãi mà cây lộc vừng ở căn nhà gỗ ven sông Sài Gòn của tôi không
thấy nở hoa. Tôi cũng không biết điều này có ý nghĩa gì vì cây lộc vừng
nằm trong tam đa sinh vật cảnh, là một loại hoa có nhiều ẩn ý phong
thủy, linh thiêng. Từng cánh hoa như những hạt vừng tuy nhỏ nhặt nhưng
nhiều nhặn, khác với những loài hoa khác chỉ rụng khi đã úa tàn, riêng
hoa lộc vừng ngay khi bóng đêm vừa tan, hoa còn tươi thắm đã rời cành.
Một loài cây mang lại cảm giác bình yên, an toàn..
Hơn
năm năm qua, hàng ngày tôi vẫn thầm quan sát, chờ đợi. Nước sông Sài
Gòn ngày hai bận lên xuống, bèo lục bình mênh mang xanh ngắt dạt cả một
bên bờ khi nước lên, bóng cây lộc vừng in xuống dòng sông. Cây lộc
vừng này do mấy người thân trong gia đình các nạn nhân trong vụ chìm
tàu du lịch Dìn Ký tặng cho tôi thay vì phải trả thù lao luật sư trong
quá trình bảo vệ quyền lợi cho những người phụ nữ là bị hại trong vụ
tai nạn chìm tàu Dìn Ký xảy ra vào ngày 20/5/2011. Thân cây lộc vừng
ngày càng vững chãi, lá xanh um choàng bóng mát lên cả một khoảng sân
rộng, thi thoảng khi nhìn ánh hoàng hôn toả vàng trên tán lá, đón màn
đêm dần che phủ trên sông, tôi thầm cầu mong linh hồn của các nạn nhân
siêu thoát.
Đó
cũng là quãng thời gian tôi chứng kiến biết bao mảnh đời, thân phận
của những người phụ nữ là khách hàng của tôi đang phải tự mình giành
lấy sự bình yên cho gia đình sau những biến cố. Khi đang viết những
dòng chữ này vào ngày cuối cùng của tháng Ba, có Ngày Quốc tế phụ nữ,
tôi cảm nhận giới đàn ông dường như chưa hiểu thấu đáo sự trưởng thành
của chính họ xuất phát từ chính yêu thương, lòng bao dung của những
người mẹ, người vợ, người chị, người em trong gia đình hay bạn hữu thân
thiết. Sau những mệt mỏi, thậm chí chán chường, tuyệt vọng trong
chuyến đi của chính mình vào cuộc đời nhiều bất trắc này, khoảnh khắc
cô đơn giữa sa mạc, trong giông bão đời thực hay tâm hồn, có lẽ không
người đàn ông nào thôi suy nghĩ, ước có được một mái hiên với vòng tay
của người phụ nữ đang chờ họ.
Vậy
mà cây lộc vừng lâu lắm rồi không trổ hoa, khói trầm nghi ngút mỗi độ
trăng tròn, nhưng bóng cây vẫn cô độc in bóng bên dòng sông. Tôi không
rõ bây giờ, những người đàn ông còn lại đang sống như thế nào khi trong
căn nhà mỗi khi họ mệt mỏi quay về, không có bóng dáng của những người
phụ nữ thân yêu của họ. Ở ngoài kia, tôi đang chứng kiến những mảnh
đời còn đau đớn hơn, khi dường như bây giờ phụ nữ phải gánh vác vượt
quá thiên chức vốn dĩ dành cho họ. Trong một vụ án hình sự đặc biệt lớn
đang diễn ra, người phụ nữ nhỏ nhoi bất lực chống đỡ cùng số phận có
thể bị tước đi mạng sống, chờ đợi mãi không thấy người đàn ông của đời
mình đến gặp mỗi kỳ thăm nuôi. Bà bảo với tôi, nếu có mệnh hệ nào không
bước qua được phận số, bà muốn hiến tặng thân thể của mình cho y học.
Tôi lặng người trước suy nghĩ kỳ dị của bà
Vẫn
biết dù đó là người bình thường hay đang bị chế tài của pháp luật,
quyền được hiến mô, tạng bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc sau
khi chết đã được pháp luật quy định. Tôi chưa rõ nếu ý tưởng trên thành
hiện thực, liệu những mô, tạng trong cơ thể nhỏ bé của bà sẽ giúp được
cho những ai đang chờ đợi được ghép tạng như là phương pháp điều trị
cuối cùng và hiệu quả cho người bệnh suy tạng giai đoạn cuối ? Đó là
chưa kể, trước khi hiến tặng thân xác, nội tạng, chắc chắn bà phải trải
qua một quy trình kiểm tra sức khỏe hết sức nghiêm ngặt, để đảm bảo
mô, tạng hiến tặng thật sự có thể giúp cho người có nhu cầu khi cơ thể
của bà đã ngừng hay không còn cơ hội hồi phục. Tôi cũng tự hỏi, không
biết bà có hiểu một người chết não hiến tạng có thể cứu sống cho hơn
mười người khác không ? Chỉ nghĩ đến đây thôi, tôi lại thấy thương vô
cùng cho những khách hàng của mình, khi đối diện với sinh tử cuộc đời,
vẫn còn hy vọng làm điều gì ân nghĩa như là một sự hồi tâm.
Trong
khi tôi miên man suy nghĩ về những sự kiện đang xảy ra, vào sáng hôm
qua khi tôi ghé về căn nhà nhỏ bên sông, bỗng thấy một thảm hoa lộc
vừng phủ kín dưới thân cây. Tôi đã từng ví von, khi bình minh chiếu rọi
cảnh quang sông nước khi triều lên, thảm hoa lộc vừng vương vãi trên
mặt đất, để lại những nhành hoa buông thõng như vừa qua một kỳ sinh nở.
Nay vốc một nhúm hoa lộc vừng để trên bàn tay, tôi cảm nhận những cánh
hoa mềm ướt đang run rẩy, như thể chiêm nghiệm giây phút ngắn ngủi của
đời người. Một cơn gió bất ngờ thổi qua, khiến những cánh hoa bay dọc
bờ sông, chấp chới. Có cảm giác như ai đó vừa mới về ghé thăm vườn cũ…
Luật sư Phan Trung Hoài | | |
Cây lộc vừng kỳ lạ
Bán
mua gì đâu bác. Ông chủ tịch huyện miền núi thích quá, nhà em biếu
luôn. Nhận được cái dự án mấy chục tỉ còn gì. Lão ấy tiếc chứ em thèm
vào. Cây gì mà như có ma, em cứ đến gần là rợn cả tóc gáy.
Nha
khí tượng dự báo thời tiết lạnh 6-7 độ. Nhưng ở bản Mây, có lẽ trời
lạnh hơn. Gió bấc thông thốc, nhức buốt từ lỗ tai này sang lỗ tai kia.
Năm nay rét lạ. Rét chết trâu chết bò. Sương muối buổi sáng rải trắng
hai bờ cỏ ven đường vào bản. Cuối con dốc đổ sát ven suối, ngôi nhà sàn
phên nứa mốc đen, khói bay cuộn ra từ gian giữa. Một cái đầu bịt khăn
ngó ra sau cửa sổ, mặt mũi nhăn nheo ám khói của bà già người Mường,
giống cái sọ người mới đào lên, chỉ thấy hai hốc mắt.
- Chỗ có cờ đỏ ấy mà!
Bàn tay khô mỏng da ếch, khua khua chỉ về phía trong bản. Nơi có lá cờ
đỏ bay trên cây cột thép cao là Trạm kiểm lâm bản Mây. Khách hỏi đường
là một ông già tóc muối tiêu để dài, mũ len, áo dạ xù xù. Khách dụi mắt,
lạnh buốt dọc sống lưng. Vừa đến đầu bản đã gặp ma. Hay tại mình chạy
xe đường xa, mệt quá nên hoa mắt. Rõ ràng vào đây một lần rồi, sao quên
đường nhanh thế. Bộ mặt khô quắt của bà già thật giống chiếc đầu lâu
trùm khăn đỏ. Khách xiết ga, chạy. Chiếc xe máy cũ nát, tả tơi phun khói
mù mịt, lao thẳng vào sân trạm kiểm lâm.
- Ô! Nhà thơ! Lâu ngày tiên sinh vẫn khoẻ chứ ạ?
- Chả khoẻ lại vào được nơi rừng sâu, nước độc này à.
Người thì bắt tay, người thì ôm vai vồ vập. Mấy cuốn sách mỏng được lôi
ra từ chiếc cặp da cũ. Tặng anh em tập thơ mới ra này. Toàn viết về
rừng nhà các cậu đấy.
Chưa ngồi ấm chỗ, Nhà thơ nhấp nhổm.
- Cành lộc vừng của tớ ra rễ chửa? Được rồi! Rễ màu vàng là được rồi.
- Đang rét lắm anh ạ. Để tháng ba ấm áp vào cắt đảm bảo hơn.
- Mặc kệ! Cứ cắt cho tớ. Chờ đến tháng ba, có thằng dở hơi nào nó cắt mất thì sao.
- Của nhà thơ ai dám lấy! Mà còn anh em ở đây nó trông giữ chứ.
- Cậu cứ đùa dai. Hỏi ở đâu có cây lộc vừng ra hoa hai màu vàng đỏ như ở
đây? Nói thật nhá. Lỡ ông Tính phó chủ tịch tỉnh vào thăm, lão ấy đòi
lấy, có đứa nào dám giữ không? Hớ hớ! Bố bảo chả dám nhá. Nên tí nữa
cơm rượu xong, anh xin mang về thành phố cho chắc.
Đúng là chẳng chỗ nào có cây lộc vừng ra hai màu hoa như ở bản Mây. Nó
cao sừng sững có tới bảy tám mét, cành lá rườm rà, mỗi chùm hoa buông
dài cả thước. Đặc biệt, từng dải hoa vàng đỏ xen lẫn, đẹp tuyệt. Cậu kỹ
sư lâm nghiệp của trạm sau khi tính toán, cho hay lão lộc vừng đã hơn
trăm tuổi. Đầu năm ngoái lang thang vào rừng tìm cảm hứng, Nhà thơ “thơ
thẩn” phát hiện ra cây lộc vừng lạ. Ông ngơ ngẩn trước những chùm hoa
hai màu, rồi tỉ tê xin trạm trưởng một cành mang về làm cây cảnh. Kiểm
lâm đồng ý rồi. Cũng phải mất ba ngày nhà thơ cứ chắp tay sau đít đi đi
lại lại dưới gốc cây, ngửa cổ lên lựa chọn.
- Cho anh xin cái cành tha la kia kìa. Cành ấy chiết xong, trồng vào
chậu sẽ có thế Nghênh phong. Cánh văn nghệ bọn tớ khoái thế ấy. Anh cám
ơn trước nhá.
Một cậu kiểm lâm trẻ vất vả trèo lên cây. Tiếng cưa xoèn xoẹt. Xoèn
xoẹt. Mùn cây lươm tươm đỏ như máu, bay rắc lên đầu nhà thơ. Cành lộc
vừng được buộc dây thả xuống. Đám rễ đã chùm ra ngoài nắm mùn đất trong
bọc ni lon buộc túm hai đầu. Nhà thơ nhẹ nhàng dựng ngược cành cây, gật
đầu ưng ý. Trong nỗi thích thú âm ỉ, nhà thơ chợt nghe có tiếng gầm gừ
trên ngọn cây. Ông ngước nhìn lên, nheo nheo con mắt trái. Nơi cành
lộc vừng vừa bị cắt, một khoảng trống nhỏ hiện ra, nhìn rõ cả mây trời
màu xám. Nhà thơ lại lạnh sống lưng. Giữa khoảng trống kia xuất hiện
một cái đầu tóc vàng hoe, khuôn mặt già nua nhăn nheo giận dữ. Bụp! Mọi
người đều giật mình. Câu kiểm lâm trượt chân ngã từ trên cây xuống,
nằm ngất lịm. Lao xao, cuống quýt. Có sao không? Kiểm tra xem có gãy
xương không? Cứ để cậu ấy nằm yên đấy, gọi y tá ra đây. Cậu kiểm lâm
được cấp cứu, mấy phút sau thì tỉnh. May không gãy xương. Nhà thơ tay
cầm cành lộc vừng, tâm trí rối bời vì tai nạn do mình liên đới. Trưởng
trạm an ủi ông. Không sao đâu bác. Ngã cây, trượt dốc đối với chúng em
là chuyện thường. Anh cắt bỏ mấy chùm hoa buông loà loà cho khỏi vướng.
Về nhà ươm nơi đất mát ba bốn tháng hãy vào chậu. Nhà thơ ngần ngừ một
lúc rồi nhất quyết:
- Kệ nó! Về nhà tớ cắt sau. Giờ cứ loà xoà thế này cho có tý sắc xuân.
Cây lộc vừng mới vắt vẻo sau yên chiếc xe máy cọc cạch, rong ruổi từ
rừng ra phố. Những cánh hoa màu đỏ, vàng rơi rải rác từ bản Mây ra suối
Nai, lốm đốm rắc dọc tỉnh lộ ra bến phà Tam Dân. Về đến thành phố thì
trơ mấy chùm cuống hoa tơi tả.
***
Năm sau cây lộc vừng nhu nhú mấy cọng hoa. Nhà thơ ngày ngày nín thở,
hồi hộp nhìn, chờ đợi. Rồi thì hoa cũng buông, nhưng chỉ ngắn chừng gang
tay. Rồi cánh hoa cũng nở, nhưng chỉ toàn hoa đỏ chứ không có chùm hoa
vàng nào. Chờ mãi, chờ mãi, cùng chỉ thấy màu đỏ mịn màng, mòng mọng.
Nhà thơ gừ gừ trong họng, đeo cả kính lão lên. Lạ nhỉ! Mới từ rừng ra
phố mà nó thoái hoá nhanh thế? Ấy vậy mà cánh bạn văn chương ông nào
cũng mê tít. Nhà thơ nhớ lời dặn của tay trạm trưởng kiểm lâm. “Tiên
sinh mà không kín miệng. Thiên hạ vào đây tàn phá cây lộc vừng là tiên
sinh có tội lớn đấy”.
Góc tường rào của Nhà thơ có rãnh nước nhỏ đổ vào hệ thống thoát nước
của khu phố. Cảnh thôn quê mới lên thành thị, nhiều thứ có vẻ kệch cỡm.
Vậy mà mấy cánh hoa đỏ mòng mọng lững lờ chảy qua rãnh nước lại tạo ra
nét thơ mộng. Chúng túm tụm lại một chỗ, một màu đỏ trinh nguyên. Có
người đi qua, phát hiện ra mấy cánh hoa lạ. Hoa gì nhỉ? Không mỏng manh
như cánh bích đào, không to dày như cánh hồng trà hay hải đường. Tò
mò, có kẻ trèo lên bức tường rào dòm vào trong sân. Ái chà! Có phải cây
lộc vừng không? Sao từng chùm hoa đỏ lạ thế? Bỗng oạch. Tiếng kêu đau
đớn chói tai. Nhà thơ đang viết, vội dừng bút mở cổng nhìn ra. Một
thanh niên to béo ngồi bệt dưới tường rào, máu me đỏ thẫm bàn chân.
- Chết chửa! chân cẳng sao thế này?
- Ái ui! Cháu bị trượt chân ạ.
- Cậu chờ tí nhá. Tớ vào lấy cho miếng vải sạch băng vết thương lại.
Khi bước qua chậu lộc vừng, mắt nhìn mờ mờ nhân ảnh, khuôn mặt lão già
nhăn nhó giận dữ phảng phất sau gốc cây. Tuần sau, khi Nhà thơ đưa vợ
con đi đám hiếu nhạc mẫu về, cây lộc vừng đã “bay qua” tường rào hai
mét, biến mất. Nhà thơ đứng dụi mắt nhìn dấu vết hình tròn cái chậu để
lại trên sân, lòng thầm thán phục bọn trộm. Làm cách nào mà chúng khiêng
nổi cái chậu cây nặng hàng tạ qua tường rào? Ông lặng lẽ đi quanh sân.
Đây! Dấu vết chúng để lại lộn xộn nhiều bàn chân đi từ góc sân về phía
tường rào. Đây! Chiếc dép tổ ong thằng trộm làm rơi. Đứng trước bức
tường cao hai mét, ông lắc đầu không hiểu. Cũng may là trước kia nhà thơ
không chịu cắm mảnh chai lên mặt tường. Ông phát hiện một cục kẹo sô
cô la dài màu tím ngay chân tường rào, kiến bu kín đen. Mẹ cha bọn này!
Đi trộm cây còn kẹo bánh mang theo. Gẩy cục kẹo vào bụi cỏ “tóc tiên”,
Nhà thơ há mồm hoảng sợ. Đó là một ngón tay người, nát bươm. Trời cao
đất dày ơi! Cây lộc vừng đày đọa người ta thế này ư?! Nước mắt rơi ướt
đẫm buổi bình minh. Bà vợ đi chợ về, thấy nước mắt thì an ủi chồng:
- Thôi mình ạ! Mẹ cũng thọ hơn 80 rồi còn gì. Ai chẳng biết mình thương bà ngoại.
Nhà thơ ngơ ngẩn ra vào không làm được việc gì. Ông thương nhớ cây lộc
vừng, tiếc đứt từng khúc ruột. Lại còn ngón tay rách tươm ông chôn dưới
bụi chuối kia. Không lẽ lại đi báo công an. Nhưng ông vốn dị ứng với
ngành này. Cứ nhắc đến công an là khắp người nổi mần đay, ngứa râm ran.
Trong khi khắp người đang ngứa ngáy, Nhà thơ bỗng nghĩ tới một giải
pháp. Hôm nào lại xấu mặt vào rừng xin cây khác vậy.
Cách đó 60 cây số là nhà một đại gia chuyên thầu xây dựng. Ngôi nhà của
kẻ lắm tiền trông cũng khác. Cao ba tầng, mái chồng mái. Đằng trước
một tháp tròn kiểu Nga-ta-lư, đằng sau tháp nhọn kiểu Ai Cập. Cổng vào
bằng gỗ quý có hai con chó đá ngồi chầu. Tường rào toàn đá đen xây thô
như tường phủ Vua Mèo trên Hà Giang. Đại gia này tuyên bố. “Ngôi nhà là
tập hợp các kiểu kiến trúc của người giàu có”. Hôm nay chủ nhật, nhà
đại gia có tiệc sinh nhật. Khách khứa tới nơi mới té ngửa không phải
sinh nhật 49 tuổi đại gia, mà là sinh nhật một năm cây lộc vừng quý.
Chẳng nói thì ai cũng đoán ra, đó chính là cây lộc vừng hoa đỏ mà nhà
thơ nọ bị mất. Một năm nay cây lộc vừng lọt vào nhà đại gia, được chăm
sóc kỹ lưỡng rồi ngồi trong chậu quý. Cái cành ngả xuống thành thế
Nghênh phong nay được uốn lên, kết hợp với hai cành nhỏ phía trên thành
thế Tam Đa (Phúc- Lộc – Thọ). Ai cũng trầm trồ vì những chùm hoa đỏ
buông thõng, ríu rít ong bướm. Thay vì nở chúm chím như buổi đầu mới ở
rừng ra, nay những cánh hoa nhỏ nở bung hết cỡ, để thiên hạ chiêm
ngưỡng thật rõ từ đầu cánh hoa đỏ tròn mọng đến cuống hoa màu phớt hồng
và chùm nhụy li ti trắng chấm đen.
- Chậu lộc vừng này... Lúc nào đại gia không khoái chơi nữa, sang tay cho tôi nhé.
Một tiểu gia xuất khẩu chuối xanh sang Tàu, gạ gẫm.
- Cậu có bao nhiêu tiền mà dám hỏi mua cây lộc vừng của ông ấy?
- Thì cũng cỡ một trăm trở lại chứ mấy!
- Thôi cậu lượn đi cho nước nó trong. Chị trả nửa tỉ rồi mà mặt lão ấy lạnh như đít bom kia kìa.
Tiểu gia nóng mặt, văng tục:
- Bà cậy lắm tiền kiểu trọc phú thì mua làm sao được cây quý của ông
anh tôi. Vấn đề không phải là tiền, mà là văn hoá thưởng thức. Kể
ra…công việc của bà cũng bận rộn, thời gian đâu mà thưởng thức cây cảnh?
Bà trọc phú giận tím cả mặt. Nó mới ti toe mấy năm buôn chuối xanh mà
xấc, lại dám cạnh khoé nghề chạy tìm con nuôi cho người nước ngoài của
bà. Đang sắp tốc váy lên dạy cho thằng tiểu gia một bài học, thì liên
tục chuông điện thoại:
- Ờ! Ờ! Cứ đưa nó về chỗ chị. Cho đi thử máu, kiểm tra sức khoẻ cả mẹ
lẫn thai nhi nhá. Dồi! Dồi! Ô-kê! Thanh- kìu! Phần em có mười triệu nhé.
Tiệc mở tưng bừng, bia rượu tràn cung mây. Kiếp người ta, có nhiều tiền
cũng sướng. Cái cây quý thế này chứ quý nữa cũng mua được. Kể cả mấy
cái mạng người có đáng bao nhiêu đồng tiền đâu. Bọn họ bắt chước dân Nam
Bộ, một tay giấu sau lưng, một tay nâng cốc bia, miệng hô: “Một! Hai!
Ba! Dzô! Chúc mừng cây quý! Dzô! Dzô!”.
Có tiếng xe máy nổ lạch bạch chạy vào sân. Cả hội quay ra nhìn người
đàn ông tóc muối tiêu để dài đang lúi húi tìm chỗ dựng xe. Ai thế nhỉ?
Khách của ai mà trông như ông ăn mày hiện đại.
- Chào các anh em!
- Vâng! Bác tìm ai? Có nhầm nhà không?
- Không lẽ lại nhầm? Đây là nhà Đại gia xây dựng...
- Ông là ai?
- Tớ là nhà thơ. Nghe gia chủ có cây lộc vừng quý nên đến thưởng lãm thôi mà.
Cả đám ồ lên. Ái chà chà! Tiếng lành đồn xa. Đúng là cây quý. Xin mời
nhà thơ vào đây. Thưởng thức cây phải thưởng thức cốc bia đã. Nhà thơ
đứng trố mắt nhìn cây lộc vừng. Ôi cây ơi! Đúng là mày đây, nhưng sao
bây giờ cành lá lộn tùng phèo cả lên thế này? Hình như cành lá cây lộc
vừng run rẩy, dù trời lặng gió. Nhà thơ cảm thấy lờ mờ bộ mặt già nua
nhăn nhó vẻ đau đớn trong thế cây mới.
- Tớ hỏi không phải. Chứ đại gia mua cây này ở đâu ?
- Ha ha ha! Cám ơn bác quan tâm. Tôi không phải khai báo việc này chứ?
- Này! Ông có bán lại không?
- Trả bảo nhiêu hả nhà thơ?
- Hai chục triệu! Hoặc là báo công an.
Ha ha ha! Cả đám cười đau bụng. Thằng cha nhà thơ này điên. Người ta
bảo bọn nhà thơ thường điên điên khùng khùng. Đúng thế! Cây lộc vừng giá
nửa tỉ mà nó trả hai chục triệu. Lại còn doạ báo công an nữa. Thôi mời
ông xơi cái cánh gà này, rồi về mà nghỉ ngơi làm thơ nhá. Nhà thơ thấy
trong người ngứa râm ran. Ông đang nghĩ đến việc báo công an về vụ mất
cây quý.
- Các người cứ vui vẻ đi. Tớ về. Hẹn gặp lại sau.
Chẳng đồng chí công an nào can thiệp vào vụ mất cây của Nhà thơ. Ông
mất cây hàng năm trời, bây giờ mới báo thì bố chúng tôi tìm được à? Nhà
thơ lại ngứa phát điên lên vì tức. “Hãy tự cứu mình trước khi trời
cứu”, câu châm ngôn loé lên trong một đêm mưa lớn, sấm chớp ùng oàng.
Sáng hôm sau, Nhà thơ dắt xe máy ra đường. Nước mưa còn chảy cuồn cuộn
từ các ngõ hẻm đổ ra mương thoát nước. Bánh xe rẽ nước thành niềm hy
vọng. Mình phải nói thẳng, nói thật với tay đại gia xây dựng. Nếu nó
động tâm sẽ cho chuộc lại cái cây với giá mua vào. Xe hết xăng giữa
đường, phải dắt bộ hai cây số. Mồ hôi túa ra, hơi thở phì phì. Nhà thơ
thất vọng bải hoải chân tay khi được biết đại gia xây dựng không có
nhà. Cô vợ, cổ, tay vàng đeo như mang cùm, thông báo:
- Nhà em đưa máy vào huyện miền núi làm đường rồi bác ạ. Lão ấy có về, phải cuối tuần.
Nhà thơ liếc mắt nhìn. Cây lộc vừng không còn nằm ở góc sân. Nó giấu đi đằng nào nhỉ?
- Nhà có cây lộc vừng quý. Cô chú bán rồi à?
- Bán mua gì đâu bác. Ông chủ tịch huyện miền núi thích quá, nhà em
biếu luôn. Nhận được cái dự án mấy chục tỉ còn gì. Lão ấy tiếc chứ em
thèm vào. Cây gì mà như có ma, em cứ đến gần là rợn cả tóc gáy.
Cô vợ cười toe toét, đôi mắt dâm đãng xô bắn nhà thơ ra khỏi cổng.
Trưởng trạm kiểm lâm ghé tai Nhà thơ thì thầm :
- Đúng cành lộc vừng này rồi. Mẹ khỉ! Thế nào mà nó lại quay trở ngược về rừng?
Chủ tịch huyện xách bình rượu thuốc, rót ra ba cái cốc lớn.
- Rượu này một người uống, nhiều người vui đây. Chẳng mấy khi có nhà thơ về huyện. Xin mời cụ lộc vừng trước ạ.
Chủ nhà tưới chút rượu xuồng gốc cây, rồi mới đưa mời khách.
Rượu uống vào đắng ngắt. Nhà thơ ấp úng :
- Nghe tin anh có cây lộc vừng quý, anh em chúng tôi vào xin phép ngó qua tí.
- A! Thế này là Bá Nha gặp Tử Kỳ đây. Đúng là giống cây quý. Các cậu
xem này. Hoa nó đang buông, lại có hai màu vàng và đỏ xen lẫn. Tuyệt cú
mèo không? Cây này nguồn gốc từ bên Trung Quốc hay châu Phi mới di thực
về. Nếu nó chịu được thổ nhưỡng ở đây, mình sẽ đề nghị lập dự án nhân
rộng cây lộc vừng hai màu, giao cho bên kiểm lâm thực hiện.
Nhà thơ lom khom đứng xem chậu cây. Những chùm hoa hai màu đỏ, vàng
buông tuyệt đẹp. Cả lá cây cũng xanh nhuận hơn, không héo hắt như hồi ở
nhà ông. Nhà thơ dụi mắt. Lạ thật! Giữa những chùm hoa, phảng phất
khuôn mặt lão già tóc vàng, hẻ hê như say rượu.
Lúc ra khỏi nhà Chủ tịch huyện, trạm trưởng kiểm lâm nói nhỏ:
- Anh phải tuyệt đối giữ bí mật nhé. Không là có tội đấy. Thằng nào lại
ba hoa xích đế, lừa cả chủ tịch huyện thế nhỉ? Để trời nắng, em bảo
lính nó chiết cho anh cành khác. Lần này chọn thế gì? Chứ nghênh phong
thì hết rồi.
Nhà thơ lắc đầu. Thôi cậu ạ! Đem cây từ rừng về nhà mình, có lẽ là tội
ác thật. Mình không còn hứng thú chuyện cây cảnh nữa. Nhà thơ thì làm
thơ thôi. Líu ríu chuyện đời thường làm gì. Nhưng mà hôm nào tìm cho tớ
mấy cái rễ cây mật gấu về ngâm rượu nhá. Hồi này người ngợm nhão hết cả
rồi. Đau ê đau ẩm. Tớ sẽ giữ bí mật, không bẻm mép với bố con thằng
nào cả. Thật đấy!
| | | | | | | | | | | | | |
|
|
|
|
|
|
| |