Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

NTV 15 - Hoa Thiên Lý

Giàn Thiên Lý Đã Xa - Ái Vân

Màu Hoa Thiên Lý

  (Cám ơn Tố Lang đã cho bài thơ về Hoa Thiên Lý một diện mạo dễ thương !)

Nhớ giàn Thiên Lý năm xưa !...
 Sống cuộc sống tha hương,
 Chưa một lần tôi quay lại.....
 Thăm quê hương và thăm cả dấu yêu xưa !
 Nhớ biết bao hàng luỹ tre già,
 Giàn thiên lý ngát hương ,
 Suốt hai mùa mưa nắng ......

 Thương biết bao nhiêu,
 Buổi trưa hè thanh vắng !
 Dưới giàn hoa thơm mát,
 Tiếng võng buồn , mẹ cất tiếng ru con !
 Những tối mùa thu trăng sáng, trăng tròn.....
 Cùng lũ bạn đùa vui , 
 Vang tiếng cười rộn rả.....
 Hoa thiên lý ơi,
 Thương sao mà thương lạ !!!
 Gió mùa xuân đưa hương ngát thoảng bay xa....
 Chùm hoa xinh lay động buổi chiều tà.,
 Và ấm áp quá ....
 Trong mùa đông gió lạnh .
 Cùng quay quần thưởng thức món canh hoa !!!

 Ơi ! Sao nhớ thương nhiều...
 Giàn Thiên Lý đã xa ,
 Có biết được ngày nao quay trở lại ?
 Để tâm ta thôi không còn lưu luyến mãi....
 Chuỗi ngày thơ - Giàn Thiên Lý năm nào,
 Lời ru buồn của bài hát ca dao.....
 Ghi nhớ mãi .....tâm hồn người xa xứ !!!!
   

NM 

                                                   

Hoa Thiên Lý

 Mẹ tôi yêu hoa thiên lý như yêu chồng con. Chả biết mầu xanh dìu dịu của lá và hương thơm nhẹ nhàng của hoa thiết tha là bao mà mẹ tôi âu yếm nó thế.
    Thường thường mẹ tôi trồng từng khóm. Mẹ bắc khum khum một cái giàn. Chiều chiều mẹ xách nước tưới vào gốc cho cây chóng lớn. Khi lá theo cành lên kín đầy giàn và khi loài ve sầu rủ rê mùa hạ sang thì họ hàng nhà bọ ngựa đã tha thẩn cả ngày leo bò lên giàn hoa lý xanh tươi.
    Đối với tôi hồi còn bé có lẽ cây ổi trĩu nặng quả chín còn thú vị hơn giàn hoa thiên lý của mẹ. Nhưng mỗi lần theo mẹ mang rỗ ra vườn hái từng chùm hoa về nấu canh với cua đồng, tôi thấy lòng tôi hớn hở và cả lòng mẹ cũng tươi nở dưới giàn hoa.
    - Hoa thiên lý nấu với cua đồng ngon lắm cơ con ạ !
    - Mùi nó làm sao ấy mẹ ạ ! Con ghét giàn hoa của mẹ ghê đi ấy, cây gì lại cây chẳng có quả. Mai con chặt nó đi mẹ nhé !
    - Hư nào, tại con chưa biết ăn thì bảo nó làm sao à? Hôm nay con thử ăn mà xem, ngọt ngọt là.
    - Ngọt như kẹo dồi chó không hở mẹ?
    Mẹ tôi cười đăm đăm nhìn tôi. Tia mắt hiền hòa ấy như tiếng ru muôn đời có bao giờ định nghĩa được, nên ngày nay dù tôi không nhớ hết kỷ niệm huy hoàng của thời thơ ấu thì tôi vẫn tự nhủ rằng tất cả đã nằm trong bài hát ru con mà mẹ tôi đã ru tôi trên đôi tay gầy nho nhỏ và đã in vào ánh mắt mà mẹ tôi ban cho tôi thuở thiếu thời, đã lắng trong tâm hồn tôi.
    - Mẹ yêu hoa thiên lý như yêu các con, hễ Long ghét giàn hoa của mẹ thì mẹ giận đấy.
    - Ứ ừ ! Thế con cũng yêu hoa lý.
    Tôi vội vàng nói thế, kẻo mẹ tôi giận. Mẹ tôi chỉ cười. Và từ hôm ấy, mỗi buổi tra mẹ hay dắt tôi ra hóng gió ở dưới giàn hoa. Mẹ mang chiếu ra trải. Mẹ ngồi nghĩ ngợi xa xôi. Tôi ngồi gối đầu vào lòng mẹ mơ màng nghe tiếng sáo diều vi vu, tiếng võng đưa kẽo kẹt, tiếng ru buồn thấm thía hay tiếng chim cu gáy xa xa vọng lại. Đôi khi mẹ kể chuyện gì mà tôi không hiểu được, nhưng chắc lòng mẹ rộn ràng lắm vì cứ thấy mẹ mỉm cuời bâng quơ. Tôi thường ngủ thiếp đi trong hơi thở êm đềm ấy.
    Dần đần tôi thích trồng hoa. Tôi bắt mẹ bắc cho tôi một cái giàn. Mẹ bảo đến mùa hạ sang năm giàn hoa của tôi đẹp lắm, bốn mùa trắng xóa ánh trăng lan. Nhưng tôi không đợi được đến mùa hạ. Khi khóm cây bắt đầu leo, cha tôi ở Hà-Nội về đem gia-đình lên Vĩnh-Yên mở đồn điền. Tôi rời quê ngoại chưa biết tương tư tiếng sáo diều mà chỉ nhớ mang mang giàn hoa thiên lý mới trồng.
    Rồi tôi lớn lên giữa cảnh bao la hùng vĩ của đồi núi. Những buổi chiều theo cha cỡi ngựa đi hứng gió không làm cho tôi sung sướng bằng nằm trên bờ cỏ nghe tiếng suối reo. Tôi ghét cái bộ mặt của mấy bác cai, tôi ghét tiếng hò hét khi cái bác mắng mỏ người làm. Tôi cũng ghét cả nét mặt lạnh lùng ghê-sợ của cha tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu tại sao ngày bé nhỏ tôi ham thích những cái gì mềm mại, dễ thương im lặng như giọt mồ hôi chảy đều trên lưng người thợ hay hơi thở đều đều của mẹ tôi. Tâm hồn tôi giản dị nên tôi không ưa gì lũ cây sù sì mọc đầy nơi rừng rậm hoang vu này. Tòi vẫn thích giàn hoa thiên lý ở quê ngoại.
    Lên đây ít lâu mẹ tôi đã tốn nhiều công phu mà chưa ươm được khóm nào. Tại hoa lý chẳng hợp đất rừng hay đất rừng không chịu dung nạp loại cây ỉ lại sức người? Mỗi lần có người xuôi đồng bằng, mẹ tôi cố dặn thử mang một cây giống lên xem sao, cha tôi đều gạt đi:
    - Giồng làm cái quái gì của nợ ấy !
    - Cậu thì chẳng khi nào muốn giữ kỷ niệm êm đềm của đời mình.
    Mỗi lần thế, mẹ tôi buồn lắm. Có khi mẹ khóc và bỏ ăn hai ba bữa. Mới lên mười tuổi, tôi đã làm sao thấu rõ tâm sự của mẹ, làm sao tìm hiểu nổi niềm ấp ủ hoa thiên lý của mẹ tôi. Nhưng dù sao mẹ cũng cố vun trồng và mẹ đã mãn nguyện. Mấy giàn hoa xanh mơn mởn đẹp kiêu hãnh như nàng công chúa đứng trước đám thần dân. Những mùa hạ đi, những mùa hạ lại, ở rừng không có cua đồng nên hoa thiên lý phải nấu với thịt lợn rừng giã nhỏ. Nó vẫn ngon làm sao, mẹ tôi nói thế. Và người còn bảo:
    - Còn hương vị quê hương con ạ !
    Trưa hè miền này vắng tiếng sáo diều, tiếng ru buồn thấm thía. Mẹ tôi không đem chiếu trải dưới giàn hoa ngồi kể chuyện cho tôi ngủ thiếp đi nữa. Cuộc sống đồi núi nối tiếp từng trang dài tẻ nhạt. Mưa rừng giăng mờ muôn ngả chỉ làm cho tôi hậm hực trên nhà sàn. Và mỗi chiều nắng rớt rơi đọng trên cây lá thay mầu cảnh vật cũng chẳng làm tôi say mê. Tôi đã biết cảm thế nảo là tình quê hương.
    Ít lâu sau công việc làm ăn thất bại, nắng dữ dội quá nên cà-phê, chè chết khô chết héo, cha tôi phải nhường quyền cho người khác trông coi rồi đem gia đình về Hà-Nội.
    Tự đấy, cha tôi thay đổi tâm tính, thường kiếm cớ mắng mẹ tôi tuy mẹ tôi rất mực hiền hòa. Nhiều lần cha đi chơi mấy ngày mới về, mẹ tôi chỉ khóc âm thầm và để quên chuỗi thời gian mong đợi cha tôi hối hận, mẹ tìm vui bằng cách trồng thiên lý cho nó leo lên tường. Nhưng có một đêm nọ mẹ khóc nức nở, sáng hôm sau sưng cả mắt. Cha tôi đã bỏ vợ con bơ vơ đi theo tiếng gọi sông hồ. Cảnh chim vỗ cánh tung bay biết khi nào mới trở về tổ cũ. Mẹ tôi chợt nghĩ tới chân trời quê hương im lặng như giòng sông Trà-Lý cuối mùa thu, người đưa hai anh em tôi về nối lại tháng ngày êm ái cũ.
    Tôi được sống với họ hàng bên ngoại nhởn nhơ cả ngày thả diều, câu cá. Mẹ tôi dạy anh em tôi học. Tôi lớn dần trong sự chiều chuộng, trong sự bình thản mơ màng của mẹ tôi. Tâm hồn tôi đã ướp chung vời hoa bưởi, hoa nhài, hoa lý. Tôi chỉ muốn đời đời sống trên mảnh đất làng quê bên cạnh những cuộc đời giản dị biết thương yêu nhau thành thực như tình khoai lúa. Mộng ước chỉ cỏ thế nhưng sao dệt mãi chưa thành hay mình cứ dối lòng mình mà đuổi theo sóng gió của đại trùng dương?
    Mẹ tôi bây giờ hay thở dài. Chiều chiều mẹ đứng bâng khuâng bên giàn hoa thiên lý ngoài ngõ lơ đãng nhìn mây trôi. Lúc ấy là lúc mẹ lôi cảm nghĩ đến kỷ niệm thiêng liêng nhứt của đời mình.
    Cuộc sống của chúng tôi bắt đầu chật vật. Cha tôi vẫn chưa về. Mẹ tôi tính từng ngày một, cha tôi đã đi tròn năm rưỡì. Hoa bưởi rụng cuối vườn rồi héo khô tàn tạ, người nghèo hết cả thì giờ nghĩ vẩn vơ nên mẹ tôi không nhặt hoa xâu vào giây đeo lên cổ cho tôi nữa. Tôi cũng biết theo mẹ ra đồng nhặt từng bông lúa còn sót khi lưỡi liềm mẹ nhẹ ngon ngốn từng nắm lúa ruộng nhà. Không ai thèm than thở. Tình đời luôn luôn thắm nở thì lòng mình sao chẳng cởi mở cho hy vọng tràn đầy. Mẹ tôi vất vả tháng ngày song vẫn dành riêng chút ít thì giờ quý báu dậy em tôi đánh vần dưới giàn thiên lý buổi trưa, và bắt tôi học thuộc lòng những bài thơ nho nhỏ. Sau mỗi buổi học tôi bay hỏi:
    - Cha con đi đâu hở mẹ?
    - Đi xa lắm, xa lắm.
    Mẹ tôi trả lời thế và cặp mắt mọng đầy nước cho đến khi không thể cầm được, mẹ ôm em tôi mà khóc. Tôi thương mẹ tôi quá cũng vội òa lên khóc nức nở làm mẹ phải an ủi:
    - Sang năm ba con về. Nín đi, mai hãy khóc, khóc nhiều hôm nay đau mắt đấy.
    Quê ngoại nhà tôi nghèo nàn lắm nên dù sống với bà tôi, mẹ tôi đã phải trải qua tháng ngày dầm sương dãi nắng. Anh em tôi thiếu thốn đủ bề.
    Hoa thiên lý trĩu nặng cả giàn bây giờ mẹ đành lòng hái xuống đem đổi lấy cua về nấu canh hay bán lấy vài hào chỉ mua cho con cái bánh đa hoặc mấy viên kẹo vừng. Một buổì sáng tôi trông thấy mẹ tôi trèo lên cây sung ở bờ ao trước ngõ hái mấy chùm xanh chát xuống lấy muối chấm ăn ngon lành lắm. Đến trưa mẹ ôm bụng kêu đau. Bà ngoại tôi phải xin dầu con hổ và nướng ông đầu rau chườm mãi mới khỏi. Mẹ tôi cố dấu kín chuyện ấy. Sau này tôi khôn lớn, gia đình khá giả, mẹ mới chỉ riêng cho tôi nghe:
    - Vì mẹ đói quả, mẹ tưởng ăn sung cầm chừng ai ngờ nó hành hạ ghê gớm. Từ bận ấy mẹ sợ.
    Kỷ niệm chua chát ấy tôi còn ghi nhớ. Đôi khi vọng về dĩ vãng tôi không khỏi ngậm ngùi thương cảm. Hai năm sau cha tôi hồi hương, cánh chim đã mỏi thì phải về tổ cũ mà xây dựng lại những gì mất mát hôm qua. Vợ chồng gặp nhau, mẹ tôi vẫn khóc như ngày cha tôi bỏ nhà ra đi. Sung sướng hay đau khổ người đàn bà chỉ biết dùng nước mắt để giải tỏ nỗi niềm. Cha tôi về đem theo bệnh đau mắt khá nặng và một con dao rừng. Ngày đêm, mẹ chăm lo bệnh cho cha tôi. Nhờ sự săn sóc ấy vài tháng sau cha tôi khỏi. Tự đấy cha tôi không đi đâu nữa. Cha thường kể cho tôi nghe chuyện đường rừng. Hễ có dịp thuận tiện cha lại đem con dao ra khoe:
    - Tốt lắm, của người bạn Thổ tặng cha đấy.
    Con dao quý ấy đã tự cha tôi đào lỗ trồng mấy khóm cây. Có lần tôi chấy cha mẹ tôi nói chuyện với nhau rất lâu dưới giàn thiên lý xa xưa. Những chùm hoa nấu với cua đồng lại ngọt ngon hơn cả bao giờ.
    Giòng thời gian lặng lẽ trôi nhưng cuộc đời không êm ả chảy xuôi như nước sông Trà-Lý cuối mùa thu nữa. Tôi đã lớn hơn xưa đã phải chứng kiến những trận giông tố, những cơn sóng lớn phũ phàng trùm lên mái nhà êm ấm. Gia đình tôi trở về quê nội để rớt rơi bên ngoại từng miếng nắng cô liêu của những chiều xưa thân mến. Mẹ tôi lại bắc giàn trồng hoa thiên lý ngồi kề chuyện quê hương cho anh em chúng tôi nghe. Em tôi thường ngủ đi như thuở nào tôi ngủ nhờ hơi thở đềm êm ấy. Đắm chìm trong niềm im lặng muôn đời của thôn ổ, tiếng mẹ tôi tha thiết rót vào tai tôi thay vi tiếng ru êm ái ngày xưa làm cho lòng tôi càng ngày rộng mở, mắt tôi càng ngày càng thắm sắc mộng mơ. Tâm hồn tôi dào dạt tình cảm, cái gì cũng gợi tôi say đắm, từ chiếc áo nâu thô lổ đến mảnh áo nâu ố mầu bùn, từ cái cầu ao chênh vênh đến túp lều tranh xơ xác. Tôi bắt đầu suy cảm về số phận loài lá vàng chết rụng mỗi thu về và những con cuốc kêu rỉ rả suốt mấy tháng hè nóng bức. Và hôm nay nếu ai có tò mò hỏi rằng tại sao tôi cố níu tiếng đàn bầu, cố níu tiếng kèn đưa đám ma, cố níu tấm áo nâu non giải thắt lưng xanh, cố níu tất cả hình ảnh cũ kỹ đã bị chôn vùi xuống lòng đất quê hương mà hối tiếc, tôi sẽ trả lời sao đây?
    Sợi dây luyên ái như tơ trời giăng mắc nhè nhẹ buộc chặt, buộc chặt lấy tim mình ai mà hiểu tự giây phút nào nút dây đã thắt lại. Chuyện yêu thương không biết nghĩa để giảng giải, như hoa thì thơm, hương thì phải ngạt ngào, trăng thì sáng và sao thì lấp lánh. Dù sao thì tôi cũng nông nổi dám nói rằng chính ở giàn hoa thiên lý mẹ tôi đã dạy tôi bài học đầu tiên về tình người.
    Năm mười sáu tuổi, dần dần tôi cứ thấy xa mẹ. Con chim non biết ra ràng rồi đây, ngày kia nó sẽ bay mất để mẹ nó gục trên tay gầy mà thương về viễn phương mưa gió. Mẹ tôi chừng hiểu ý nghĩ đó nên một chiều tháng hai hoa gạo rụng đỏ nát mầu máu lên đường làng, mẹ dẫn tôi đi khắp hang cùng ngõ hẻm, qua mấy nhịp cầu tre, cầu đá. Mẹ chỉ vào bụi tre còm tơi lả, bức tường đất xiêu vẹo. Mẹ dừng chân bên dòng sông nhỏ bé, lặng ngắm mái đình cong cong, con trâu gầy ốm, cánh đồng xanh xanh mà giảng giải vu vơ. Sau cùng mẹ dắt tôi lên đầu làng ăn canh bánh đa nấu với cá rô rồi hai mẹ con về ngồi dưới giàn hoa lý. Mẹ mở đầu câu chuyện bằng lời nói bâng khuâng:
    - Giá ở đâu cũng có hoa lý. Ừ, hoa lý đơn sơ lắm, hương thơm chỉ phảng phất mà tưởng như bền chặt đến muôn đời.
    Lúc ấy âm hưởng sáo diều đã lên mênh mông. Nắng đang thoi thóp nhuộm mầu cảnh vật. Từ xa xăm vọng lại tiếng con nghé lạc mẹ, tiếng thời gian chìm chìm. Tôi nín thinh không dám phá tan sự im lặng để mặc tâm tư lơ lửng tựa tơ trời. Mẹ ngồi yên, ánh mắt sầu cảm lạ lùng. Những tia mắt hiền hòa của thời thơ ấu vẫn còn lắng trong suối mắt vô tận kia sao tôi chẳng thấy mà chỉ nghĩ tới sự buồn thương xâm chiếm lòng mình. Phải, tôi lớn rồi. Hôm qua hay hôm kia, mẹ tôi dậy tôi làm thơ. Mẹ chả bảo tình yêu phải có u sầu mới đẹp là gì. Ít ra lôi cũng dám nhận làm thi sĩ. Cho nên chuyện tưởng tượng đôi mắt của mẹ tôi đừng ai lạ. Trông chiều xuống vội vã, tôi khẽ gọi mẹ. Mẹ tôi giật mình, âu yếm nhìn tôi:
    - Long này, mẹ muốn kể cho chú (lúc này mẹ gọi tôi bằng chú) nghe chuyện giàn hoa thiên lý. Mẹ phải đợi đến hôm nay vì chú đã lớn, chú có thể bỏ nhà ra đi bất cứ lúc nào như cha chú hồi còn trẻ. Lúc nãy đưa chú vào lòng quê hương, sau này chú sẽ hiểu tại sao mẹ làm thế. Bây giờ thì Long lắng tai nghe nhé !
    Mẹ tôi thong thả lập lại vài trang dĩ vãng viết tự mười mấy năm về trước nhập đề là ngày xưa. Vâng, ngày xưa khi tâm hồn mẹ còn phơi phới, mắt đen chưa vẩn chút bụi đời, tóc xanh chưa một lần bối rối, mẹ tôi đẹp ai cũng khen nhưng không ai dám thương, dám ấp ủ linh hồn yếu đuối ấy trừ bà ngoại tôi. Ồ, có gì lạ đâu, tại mẹ tôi bị bệnh lao, cái bệnh gia truyền khốn nạn. Khi mắt mẹ phảng phất khói hương mơ mộng thì lại là lúc phải khóc nhiều vì cô độc đau thương. Pháo cưới thi nhau nổ nát tan lòng mẹ. Mầu áo đỏ, áo xanh bỗng nhiên ngả mầu tang tóc như muốn liệm chung cuộc đời người con gái chưa đầy hai mươi mùa xuân. Những con bươm bướm đa tình chẳng chịu ghé hoa vườn thuốc độc nên mẹ già cỗi và gần như xa hẳn nhân gian. Mẹ tôi buồn thảm oán hờn. Chiều chiều mẹ đứng ngắm mây trời đổi sắc dưới giàn thiêu lý ngoài ngõ đợi ngày yên ngủ dưới mồ. Một hôm có chuyến đò ngang chở hồn biệt xứ qua bến làng Thanh-Triều rồi chí lớn thiên hạ bỗng dừng lại bên giàn hoa, coi dặm đường xa là vô tận. Hồn biệt xứ là cha tôi. Cha tôi ngỏ lời chắp duyên cùng mẹ. Mẹ tôi khóc lóc chối từ, mẹ nói rõ bệnh tình cho cha tôi biết. Cha tôi không cần phải so đo, người nhất định lấy mẹ tôi dù kết quả có tái tê đau đớn. Mẹ tôi cảm động chết ngất trong đôi tay người yêu. Rồi cha tôi lo chữa chạy, rồi lòng mẹ nhóm lên ánh lửa tin yêu. Mẹ tôi lành mạnh nhờ thuốc thang nhưng phần lớn là nhờ lòng thương yêu của cha tôi. Mẹ tôi ngừng lại mỉm cười:
    - Chú cỏ dám tin không?
    - Tin gì hở mẹ?
    - Tin rằng nưgời ta sống bằng tình thương và người ta chết đi rất đỗi nghẹn ngào nếu chưa hưởng được chút thương yêu trong trời đất, như mẹ chẳng hạn.
    - Có mẹ ạ !
    Mẹ kể tiếp. Cha tôi tạm bỏ mộng sông hồ, dừng chân bên quê ngoại nhà tôi để phả vào tai mẹ những âm điệu vui vui, buồn buồn, phả vào hồn mẹ những vần thơ bồng bế nhất của tình yêu không giới hạn. Cha tôi dậy mẹ tôi tất cả nỗi niềm tha thiết, trao cho mẹ tôi trọn vẹn gia sản tinh thần của một người quê hương biết thương yêu nhau, sau này hòa với suối mộng mơ của mẹ, mẹ truyền cảm cho anh em tôỉ. Kỷ niệm ấy gợi hình tự giàn hoa thiên lý quê ngoại nên mẹ tôi thích trồng thứ cây dịu dàng bất cứ ở đâu: rừng đồi, thôn ổ, phố phường.
    - Chú có hiểu không?
    - Chuyện hết rồi ư mẹ?
    - Ừ.
    - Sao ngắn thế mẹ, con tưởng dài ghê lắm.
    - Nói bao giờ cho hết được, chú cố tìm hiểu nhiều hơn. Mẹ chỉ tóm tắt thế thôi. Nay mai chú ra đi và chiều nào chú sẽ gặp một con bé dưới giàn thiên lý. Chuyện thương yêu ai kể hết, ai biết hết mà kể.
    - Khó quá mẹ ạ !
    - Dễ mà. Khi nào ở phương trời xa lạ chú đáp chuyến tầu ba mươi tết xuống một bến quen rồi tha thẩn chú chẳng biết về đâu, lúc ấy chú sẽ hiểu tình thương. Khi nào lòng chú se sắt, chú thấy chú bơ vơ, thiếu điều gì khó diễn tả chú sẽ hiểu tình thương. Hay khi chú thấy người đồng loại đau khổ, nghẹn ngào chú nhỏ lệ cúi xuống hôn trán em nhỏ mồ côi, âu yếm dắt tay người thợ cùng bước trên đường chú sẽ hiểu tình thương. Còn nữa, còn nữa tình thương rất diệu vợi và khó đo lường. Chú sẽ hiểu chú nhỏ ạ !
    - Nhỡ con không hiểu?
    - Nhảm nào, chú phải hiểu, chú phải nói lên bằng lòng chú, bằng nước mắt của chú, tô lên những trang thơ trịnh trọng mà mẹ dạy chú niêm luật hôm nào. Nhưng cậu cả này, bao giờ khăn gói cho mẹ biết đấy nhé ! Mẹ không ngăn cấm chú đâu, chim đầu đàn phải bay dò đường cho các em chứ. Mẹ sẽ dặn chú điều nảy... Thôi đi vào.
    Mẹ còn muốn dặn điều gì? Mà sao mẹ vội nghĩ đến ngày tôi bỏ nhà ra đi. Đêm ấy tôi băn khoăn suy cảm. Hương thiên lý phủ kín tình tôi rạo rực như lần nhìn cảnh chim lạc bầy bay về viễn xứ. Ngày tháng rụng rơi nối tiếp, mẹ tôi vẫn trồng thiên lý và những trưa mùa hạ, cua đồng nấu với chùm hoa vẫn ngọt ngon. Cho đến năm tôi hai mươi tuổi thì lời dự đoán của mẹ hiện hình. Than ôi ! Tôi đã nói dối mẹ tôi vì ngày tôi đi giặc cướp ở rừng núi tràn về nhiều quá, vì tôi đi xa xôi lắm. Đêm giã từ mẹ, tôi đứng bên thềm nhà lắng tai nghe ngóng. Tim tôi đập mạnh, nước mắt đầm đìa. Tôi run run gỏ cửa, mẹ tôi ra. Tôi chùi vội nước mắt hỏi nhỏ:
    - Em Dực về chưa mẹ, lúc nãy con đưa em về.
    - Thế à, em ngủ rồi chú ạ !
    - Thưa mẹ... Mai... con đi...
    - Đi đâu, chú tính giang hồ chăng?
    - Con đi dự lớp huấn luyện hai ngày.
    - Mẹ cứ tưởng... Mang chăn đi kẻo lạnh. Chú có cần tiền tiêu mẹ đưa cho?
    - Không mẹ ạ ! Khuya rồi mời mẹ vào nghỉ, con đi từ đêm nay.
    Mẹ tôi trở vào. Mẹ lê guốc lẹp kẹp. Tôi ngờ rằng đó là tiếng nứt rạn của hai trái tim. Có tiếng mẹ thở dài và tiếng đặt mình nặng nhọc xuống giường.
    Tôi đứng trơ như gỗ, sức gì thiêng liêng níu chặt lấy chân tôi. Tôi muốn chạy nhưng khó khăn quá, khó khăn như chạy sự ghê rợn trong giấc chiêm bao. Khi chợt tỉnh tôi băng mình đi, đi không hành lý. không lời từ biệt không người đưa tiễn.
    Ba bốn năm trời lưu lạc miền Nam, cứ mỗi lần gió heo may rủ mùa thu sang thì lòng tôi lại nao nao sầu cảm. Cuộc sống lần hồi của tôi trôi dạt nhiều nơi, ở đâu cũng chỉ đan dệt bằng u buồn chán nản. Mắt tôi ngây đại, tóc tôi bụi đời phủ kín. Tôi vẫn đi và thường băn khoăn tự hỏi tại sao người ta cứ phải suy cảm người ta cứ giới hạn, người ta không chịu mở rộng cánh cửa tim đón tự muôn phương những luồng gió yêu thương thắm thiết hay trao tặng muôn phương những tiếng nói tâm tư cho kẻ khác tin cuộc đời. Tôi muốn hủy bỏ hai tiếng nghi ngờ, hai tiếng do dự nên có lần trót dại theo "đàn anh" đi làm cách mạng ở rừng đồi. Chao ôi ! Tôi đã khóc trắng mấy đêm để mang cái thân hình tiều tụy về thành phố sau thời gian thua nhẵn nửa số mộng mơ. Lòng tôi càng ngày càng khát vọng tình yêu. Tôi đã hiểu sức thiêng liêng và quyến rũ của nó và tôi thấy nhớ mẹ tôi quá...
    Giàn thiên lý quê nhà giờ đây héo khô tàn tạ. Loài ve sầu không rủ rê mùa hạ sang nữa nên họ hàng nhà bọ ngựa cũng chết hết vì buồn. Ở ngoài ấy người ta ngăn cấm không cho ai buồn, không cho ai nhớ, không cho ai thương nhau thì dễ gì mẹ tôi đã được ngồi duới giàn hoa mà kể chuyện cho em tôi nghe. Thì dễ gì có phút giây mẹ nằm tưởng tượng bão táp ngoài trời thấy con chim nhỏ lạc bầy dạt trôi thảm hại.
    Tôi buồn, tôi muốn khóc khi nghĩ rằng chiều nào người ta bắt mẹ tôi nhổ hoa lý, phá giàn tre để trồng ngô khoai chẳng hạn. Mẹ tôi sẽ chết khô héo trên mảnh đất xác xơ đầy những oán thù. Không biết mẹ tôi có giận tôi, có ân hận vì chưa dặn tôi thêm một điều gì không? Riêng tôi, tôi hơi tiếc số mộng mơ thuở ở rừng đồi. Biết đâu mẹ tôi chả dặn cái điều liên quan đến việc ấy.
    Tôi đi tìm thương yêu trong mầu hoa lý, đi tìm những bà mẹ biết kể chuyện tâm tình, đi tìm cô bé thả mắt trong mơ dưới giàn cây. Tôi chưa gặp ai cả. Tình thương nhân thế còn se sắt lắm. Nhưng nắng miền Nam ấm áp, đất miền Nam trồng cây gì cũng có trái vậy nên tôi cố gắng ươm cây Hy Vọng và quên rằng minh đang sống cùng cực, nghẹn ngào, thiếu từ đốm lửa gia đình đến mảnh áo đẹp. Tôi sẽ đi nữa, sẽ cầu xin từ ánh mắt tìm hiểu của người quê hương để tưới vào hàng cây Hy Vọng cho hoa nhân ái thắm nở rợp trời.
    Bao giờ rừng cây yêu thương đơm trái, người quê hương sẽ về cướp lại đất quê hương và tôi phải gặp cô bé dưới giàn cây bâng khuâng ngồi dệt hoàng hôn rơi trên sóng tóc. Khi hồi cư chúng tôi lấy nhau. Tôi sẽ đưa vợ tôi sang quê ngoại chỉ cho vợ tôi dấu vết giàn hoa thiên lý xa xưa. Vợ chồng tôi bắc giàn trồng hoa, chiều chiều tưới nước vào gốc cho chóng lớn. Đợi đến lúc lá theo cành leo kín đầy giàn thì loài ve sầu lại rủ rê mùa hạ sang thì họ hàng nhà bọ ngựa lại tha thẩn cả ngày leo bò trên mầu xanh muôn thuở. Tôi ngồi dưới giàn kể chuyện "Chuyện hoa lý của Mẹ" cho vợ tôi nghe. Vợ tôi phải nhớ để kể cho con tôi nghe sau này. Làng xưa đẹp lên mầu áo nâu, rộn ràng lên tiếng kéo cưa xẻ gỗ làm đình. Tôi tập làm ca dao ví von những câu thương yêu với mầu xanh hoa lý dìu dịu, nhẹ nhàng, lơ lửng tự ngàn xưa đến tận ngàn sau 
 Duyên Anh
 

LK: Chuyện giàn thiên - Chuyện tình hoa trắng ...

Dưới giàn thiên lý

      Chị ngồi lặng lẽ. Đôi vai gầy mỏng mảnh. - Sao chị không vào nhà? - ...
     Tôi ngồi bên chị, lặng nghe con dế gáy. Gió đêm hè thẽ thọt, hương hoa thiên lý thoang thoảng. Tôi co cổ hít đầy lồng ngực mùi hương hoa thanh mát cùng làn gió nhè nhẹ ve vuốt mái tóc dài đen óng của chị. Những mùi thơm quen thuộc trộn lẫn vào nhau tạo thành một làn hương không tả nổi tôi đành giữ lại cho riêng mình. Chị yêu hoa thiên lý, yêu thứ mùi thơm thanh khiết như tình yêu của chị. Nhẹ nhàng. Đã lâu rồi tôi không thấy anh hò hẹn chị dưới giàn thiên lý. Vài ngày… một tháng. Tôi nghĩ anh đi đâu đấy, ai dè anh quên chị. Nhẹ tênh. Mãi sau này tôi mới biết anh bỏ chị theo một người đàn bà đẹp.
       Chị yêu anh bằng một thứ tình yêu trong sáng đến giản đơn. Chị yêu bằng tâm hồn trong sáng và thánh thiện. Vậy mà anh nỡ rời bỏ chị. Chiếc nhẫn lồng ngón tay áp út chị vẫn đeo như trân trọng những gì đã qua, trân trọng tình cảm ngày nào anh dành cho riêng chị.
       Nhà anh nghèo. Bố quanh năm ốm đau, mình mẹ anh bươn chải lo cho bốn đứa con. Anh học cùng chị hết cấp hai thì bỏ học đi làm thuê. Chị thương anh, yêu anh vì nụ cười buồn heo hắt. Yêu anh, chị lo cho cả bốn đứa em anh bằng tiền lương ít ỏi của mình. Mẹ anh sang nhà xin phép cho chị về làm dâu. Mẹ buồn se sắt. Nhưng thương chị, mẹ đồng ý. Chỉ chờ ngày đón dâu... Tôi ôm vai chị:
       - Em sẽ hái cho chị bó hoa cúc vàng thật đẹp để chị cầm trong ngày cưới! Chị cười.
      Vậy mà bó cúc vàng của tôi nằm chỏng chơ trên bậc thềm. Chị tôi không được làm cô dâu. Anh bội ước dưới giàn hoa thiên lý. Hương hoa thơm ngạt ngào mà trái tim chị tan nát. Anh bỏ đi như kẻ đốn mạt cùng người đàn bà mặc váy ngắn đi giày cao gót. Tóc chị rối bời trên cánh đồng hoang hoải gió chiều đuổi nhau chẳng biết về đâu. Chị trở về không còn là chị của ngày xưa. Cả ngày chị không nói, chỉ cười nhềnh nhệch. Tôi sợ, ôm vai chị lay. Chị không tỉnh lại. Chị chạy ra cánh đồng vừa khóc vừa cười gọi tên anh man dại. Người làng bảo chị điên tình hay bị con ma mồ côi bắt mất hồn. Mẹ thuê thầy về cúng cho chị. Chị vẫn không nói, chỉ khóc rồi cười. Đêm nào chị cũng xoả tóc ra ngồi dưới giàn thiên lý. Có khi chị lặng yên, rồi cười. Còn mẹ khóc ròng. Chị vẫn đeo chiếc nhẫn trên ngón tay áp út. Chị không cất, cũng không quẳng đi. Trái tim chị không điên. Vậy nên chị không quên anh được…
       Tin anh chết như cơn gió độc loan ra khắp làng. Người làng đổ đi xem chiếc xe ô tô mang anh về. Hai người đeo kính đen dúi vào tay mẹ anh một bọc tiền rồi lên xe đi thẳng. Không thấy người đàn bà mặc váy ngắn đi giày cao gót. Người bảo anh chết vì đào vàng trong bãi bị sập hầm. Người bảo anh chết vì đi chở gỗ lậu. Hôm làng đưa anh ra đồng, mẹ không cho chị biết. Mẹ nhốt chị trong nhà, dặn tôi trông cẩn thận. Nhưng chị biết. Chị không gào khóc, cũng không chạy ra cánh đồng gọi tên anh man dại. Đàn cò trắng vỗ cánh bay để lại cánh đồng mênh mang. Xa xa tiếng kèn, tiếng ai khóc hờ theo gió bay hoang hoải trên cánh đồng.
       Người làng đồn trong làng có ma. Bóng ma ngày nào cũng đi vơ vẩn ngoài đường rồi khi đêm xuống lại trở ra nghĩa địa… Đang đêm tôi tỉnh dậy thấy chị ngồi dậy. Chị mặc váy, đi đôi giày cao gót không biết mua tự khi nào. Chị mở cửa bước ra ngoài đêm đen mịt mù… Tôi biết chị không điên. Chị đi tìm anh. Trái tim chị vẫn tỉnh, vẫn thổn thức yêu.
      Tháng ngày trôi qua… gió trên cánh đồng không còn hoang hoải đuổi nhau nữa. Cánh đồng được quy hoạch nhường đất cho một dự án. Vậy là gió không có chỗ về để cái nóng, cái bụi xâm lấn và nhao nhác cỏ dại đua nhau mọc… Mẹ ngồi tần ngần trước hiên nhà tiếc rẻ những vụ mùa. Những người được đền bù đua nhau sắm xe, xây nhà ngồi chờ dự án để được đi làm công nhân. Chị đi làm kế toán cho một doanh nghiệp. Chiếc nhẫn vẫn còn trên ngón tay áp út. Chị mặc váy và đi giày cao gót tô son đỏ trên đôi môi mềm. Mỗi lần nhìn chị soi gương không hiểu sao tôi lại nhớ đến hai câu thơ tình cờ đọc ở đâu đó: “Em về điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nét cười”. Chị được nhiều người để ý nhưng không hiểu sao những người đàn ông tìm đến với chị chỉ vài ngày rồi không thấy quay trở lại. Họ sợ chị mắc bệnh điên tình mà không dám yêu? Chị lặng thinh sống trong không gian của riêng chị không cho ai bước vào, cả tôi, cả mẹ. Mẹ đau lòng giục chị lấy chồng. Chị lặng thinh.
      Chị chưa yêu thêm lần nữa. Mẹ thương thời con gái của chị qua mau. Đêm đêm chị vẫn ra ngồi dưới giàn thiên lý. Chị để tóc dài. Tóc chị xoã xuống đất thoảng mùi hương dầu gội đầu dịu nhẹ. Tôi thích ngồi bên chị trong những đêm mùa hè vời vợi sao. Giàn hoa thiên lý vẫn âm thầm toả hương. Lòng chị liệu đã nguôi ngoai? Bao lần tôi muốn hỏi chị nhưng rồi lại thôi. Tôi sợ đánh thức lại những cảm xúc nơi trái tim từng ngập đầy cỏ dại của chị. Chị lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời của biết bao cuộc đời, mặc tuổi trẻ bỏ hoang… Xót xa một thời con gái!
      Rồi anh đến với chị. Anh là kỹ sư xây dựng. Vợ chết, mình anh nuôi hai đứa con thơ. Anh thay tôi kiên nhẫn ngồi bên chị dưới giàn hoa thiên lý trong lặng im mỗi đêm hè vời vợi trăng sao. Anh biết quá khứ của chị. Biết chị đã từng điên vì một người đàn ông. Anh chấp nhận như một lẽ dĩ nhiên vì hoàn cảnh hay vì anh yêu chị? Mẹ rưng rưng nước mắt bảo anh nếu yêu thương chị thật lòng thì cưới chị. Anh lồng thêm vào ngón tay áp út của chị một chiếc nhẫn đính hôn.
      Thương mẹ, chị đi lấy chồng. Ngày chị đi, hoa thiên lý theo gió cuốn bay đầy ngoài ngõ, vương lên mái tóc, lên khăn voan màu trắng của chị. Chị khép những bông hoa thiên lý trong lòng bàn tay bước theo chồng... Sáng nay trên mộ anh những chùm hoa thiên lý còn ướt đọng sương đêm...
 
 Quỳnh Giao
Sự tích hoa Thiên Lý

Truyện Sự tích hoa Thiên Lý

Sự tích hoa Thiên Lý là truyện cổ tích Việt Nam kể về các loài cây, cho thấy mưu trí tài giỏi của cụ già đã giúp chàng trai thổi sáo tìm được người vợ mình.

Thương chồng nấu cháo le le,
Nấu canh Thiên Lý, nấu chè hạt sen.

– Ca dao Việt Nam

1. Người vợ giả và người vợ thật

Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, có một con rắn lục nghe thấy tiếng sáo của chàng liền mê mẩn. Nó đã quyết tâm tu luyện thành người để lấy chàng làm chồng mình, mặc dù chàng đã có vợ.

Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về. Vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ vừa xinh đẹp trẻ trung, vừa hiền hậu đảm đang của mình ra đón. Lúc ấy, chàng vui lắm. Chàng đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả dạng giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi.

Về đến nhà, chàng trai bỗng bàng hoàng khi thấy một người vợ thứ hai bước ra. Chàng trai không còn biết một trong hai ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ ông cụ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà đến.

2. Cụ già tài giỏi trong câu chuyện Sự tích hoa Thiên Lý

Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại, rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn:

– Cứ ngửi đi, cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu!

Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy, cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. Ông cụ lại nghĩ ra cách khách để thử hai người vợ này. Ông liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. Ông cụ dặn:

– Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu.

Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. Ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa.

– Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng.

Truyện Sự tích hoa Thiên Lý

Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to:

– Chàng ơi! Thiếp ở đằng này này!

Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô. Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói:

– Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ rắp tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô.

Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi:

– Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao?

– Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra!

Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:

– Chàng ơi! Chàng ơi!

Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. Ông cụ tươi cười bảo:

– Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của anh thôi!

Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. Ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê.

Hai vợ chồng sau đó cùng nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau.

3. Sự tích hoa Thiên Lý

Một buổi chiều, khi người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để khi có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.

Sáng hôm sau, khi ánh bình minh chiếu xuống khắp nơi, hai vợ chồng thức dậy, họ đều lạ lùng khi thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác nở. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loài hoa ấy ngày nay người ta gọi là hoa Thiên Lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn Thiên Lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô:

– Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình…!

Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật… Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay, càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.

Truyện Sự tích hoa Thiên Lý
 


                                   




          



Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

NTV 14 - Bạc Liêu

 
Đời là giấc mộng phù du,
Cõi đời như buổi chiều thu lá vàng....
Vừa sum họp đã ly tan,
Trong ta bao nỗi bàng hoàng xót xa !!
       
NM

Bạc liêu ơi, lặng lẽ !.... 
Bạc liêu ơi ....
Tôi muốn trở về đây....lặng lẽ ,  
Như một thời lặng lẽ sống nơi đây !  
Bạc liêu ơi, 
Tôi ước ao thời gian quay trở lại.... 
Sống lặng buồn nhưng đầy ắp tình thương ! 
Làm sao quên nắng bụi với mưa buồn...? 
Nơi xứ Bạc ...
Những sáng, những chiều ,
Tôi đến trường trong...lặng lẽ..!!
 


Bạc liêu ơi,
Trái tim tôi luôn nhắc khẻ,
Thương câu vọng cổ buồn ,
Nhớ bài giảng ca dao...
 

Những khuôn mặt thân thương,
Của học trò cũ năm nào.....
Theo tôi mãi, trãi dài bao năm tháng !!
 


Bạc liêu ơi,
Tôi ước có một ngày như thuở ấy,
Được âm thầm sống với ngoại như xưa....
Trong ánh hoàng hôn,
Tôi tựa cửa ngóng chờ....
Lặng lẽ đến, người mang theo tình ấm áp !!
 


Bạc liêu ơi,
Vẫn biết thôi không còn gặp lại ,
Sao thương nhớ hoài....
Những bóng dáng của ngày xưa !!
Bạc liêu ơi ,
Đong biết mấy cho vừa ?
Trong lặng lẽ nước mắt tôi rơi....lặng lẽ... !!!

      NM          
     

Về Bạc Liêu - Thanh Ngân

Công Tử Bạc Liêu Chung Tử Long

 sông Gành Hào | Tin tức hình ảnh mới nhất

Sông Gành Hào
   Hồi đó ông kiểm lâm “Rốp” được dân chúng thương mến lắm.
    Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi “rỏn” có bốn lần. Mổi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi... đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắng khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.
    Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này:
    - Ông “Rốp” hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao “Cọt” cù lao “Kiệt” gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khố, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới toà. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.
    Người khác nói thêm:
    - Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện “An Nam” rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đ1o thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá.
    Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:
    - Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết. Nghe anh “bồi” nói lại trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho... Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.
    Rốt cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.
    Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm.
    Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.
    Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:
    - Ghé lại! “Chéc” ghe hay là con “xấu”?
    Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải. Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:
    - Con “xáu” hay là “chéc” ghe. Ông lớn bắn đà!
    Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng:
    - Chiếc ghe, quan lớn ơi... Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.
    Ông Rốp càng trầm tĩnh:
    - “Chéc” ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử...
    Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận “phú de” sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn đã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.
    Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây với là lần phạm tội đầu tiên thôi. Chú Từ bèn làm núng:
    - Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.
    - Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?
    - Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.
    Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:
    - Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.
    Chú Tư Ðức cố nén cơn giận:
    - Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!
    Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đâu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên “ky ninh” của ông Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đồi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu... báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.
    Ðứa con trai khóc sụt sùi:
    - Mình phải về, ba à!
    Chú Tư chép miệng:
    - Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.
    Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.
    Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.
    Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:
    - Biết hình gì đây không? Quí lắm đó.
    Chú Tư Ðức đáp:
    - Dạ, chưa biết vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.
    - Chú theo tín ngưỡng nào?
    Chú Tư suy nghĩ hồi lâu:
    - Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.
    - Nhiều thứ quá vậy. Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?
    - Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người “an Nam” mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.
    Ông Rốp cười đắc chí:
    - Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm. Theo đạo Phật mà sao không biết hình này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này...
    Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:
    - Chữ Phạn gọi nó là “Mi lanh đa băng ha”. Chữ nho dịch lại... là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.
    Mấy tiếng “Băng ha, xơ na” khiến chú Tư Ðức rối trí quá. Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tứ là nước Thiên Trúc.
    - Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?
    - Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.
    - Tại sao vậy, quan lớn?
    - Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hàng dạy lại tôi.
    Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm “quốc sự”!
    Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.
    Ðưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng có là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu. Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:
    - Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ “ga xơ na, ma lanh đa” gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.
    Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết. Chú Tư Ðức nghĩ:
    - Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?
    Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ. Hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn “bin”. Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chu Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.
    Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bão rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.
    Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên quá bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: “Chéc” ghe hay là con “xáu”! Chú vào đồn kiểm lậm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.
    Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.
    Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm:
    - Ngay cô hồn các đẳng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt... Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần.
- o O o -
    Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:
    - Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?
    Chú Tư nói:
    - Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.
    Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:
    - Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.
    Ông Rốp hoảng hốt:
    - Dữ quá vậy! Con “xáu” là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con “xáu” ăn thịt nên tôn thờ nó.
    Thầy hương quản nóng ruột quá:
    - Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.
    Ông Rốp cảm thấy áy náy:
    - Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.
    Thầy hương quản nói:
    - Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng. Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kì.
    - Sấu chạy lên bờ à?
    - Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.
    - Làm sao bây giờ, thầy hương quản?
    - Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.
    Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:
    - Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.
    Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lũng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa làm sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe. Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp:
    - Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây “cà líp xây”, nó yếu lắm.
    - Chiều nay, tôi sẽ tính.
    Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi “rỏn” bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.
    Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọg rằng “muôi quân ba tháng, dụng quân một ngày”.
    Chú Tư Ðức nói với ông:
    - Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Có hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!
    - Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.
    Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.
    Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp:
    - Bây giờ mình làm thế nào?
    Tư Ðức hỏi ngược lại:
    - Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!
    - Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không?
    Chú Tư Ðức mỉm cười:
    - Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình. Chứng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì...
    Chú Tư cố tình không nói dứt. Ông Rốp nhướng mắt:
    - Thì sao?
    - Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưởi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà!
    Ông Rốp hoảng hồn, chú Tư Ðức nói tiếp:
    - Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre là bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân “An Nam” xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấy nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.
    - Cách nào?
    - Tôi móc con vịt cô lưỡi câu rồi tôi đúng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.
    Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.
    Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.
    Hai hôm sau, chú nói:
    - Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. tới giờ rồi.
    Ông Rốp hỏi:
    - Lễ gì?
    - Dạ, lễ cúng cô hồn.
    Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đen tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.
    - Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.
    Ông Rốp nói:
    - Thôi... tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.
    Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, “bủa xua” hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai:
    - Thúng cơm khô con có đem theo không?
    Nó đáp:
    - Dạ có.
    - Nhiều hay ít vậy con?
    - Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.
    Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.
    Ngày qua, ngày lại.
    Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.
    Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.
    Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.
    Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.
    Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.
    Thầy hương quản đã đến:
    - Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?
    Rồi thầy quát to:
    - Hương ấp đâu? Hương tuần đầu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên... Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!
    Nắng lên cao.
    Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.
    Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.
    Chiếc bè từ từ nổi lên.
    Dân chúng hai bên bờ la lớn:
    - Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau.
    - Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.
    - Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá. Thiệt cha nào con nấy!
    Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:
    - để tôi bắn con sấu!
    Thầy hương quản vô cùng e ngại:
    - Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao?
    Một người phía sau nói với tới:
    - Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.
    Thầy hương quản day lại:
    - Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.
    Hằng chục người, một tiếng thét to:
    - Giết chết nó đi!
    Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.
    Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.
    Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay. Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:
    - Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.
    Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất!
    Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rối không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.
    Sấu ta lại chìm.
    Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên:
    - Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!
    Thầy hương quản la lớn:
    - Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng co hoài, quên hết phận sự. Tệ quá!
    Một mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.
    Hai cây lao phóng xuống.
    Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.
    Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.
    Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏio, nằm lé đé.
    Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Nắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.
    Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.
    Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:
    - Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!
    Hằng chục chiếc xuồng va 2ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.
    Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tiu tít:
    - Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà cón mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn.
    Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:
    - Ðể tôi ở lại coi nó.
    Ông Rốp nói:
    - Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe. Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.
    Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.
    - Rượu “cổ nhác” bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao “Cọt” gởi riêng qua cho tôi.
    Chú Tư hớp một miếng:
    - Ðược rồi, quan lớn.
    Ông kiểm lâm nói:
    - Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.
    Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:
    - Hết sức giỏi! Người “An Nam” hết sức giỏi. Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học nghề với ai vậy?
    Chú Tư nói:
    - Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.
    Ông Rốp gật đầu:
    - Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.
    Chú Tư suy nghĩ:
    - Không được đâu!
    - Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.
    - Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.
    - Tội gì vậy, chú Tư?
    - Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.
    Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:
    - Dân “An Nam” giỏi quá, hiền từ quá. Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức “bếp”, ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.
    Chú Tư Ðức cười:
    - Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: “Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...
    - Chi vậy?
    - Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.
    - Nghề gì?
    - Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.
    Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.
    Ông chắp tay lại mà nói:
    - Tôi khen chú nhiều lắm.
    Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:
    - Ông xá tôi, tôi ngại quá. Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm “bông đồ”. Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích “xơ lanh đa” gì đó...
    Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.
    Ông Rốp buột miệng:
    - Chú Tư Ðức là thầy tư Na Ga Sơ Na.
    Chú Tư nói:
    - Trời ơi! Không dám, tồi chết! tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ “phú de” hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.
    Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm “bếp” kiểm lâm.
    Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.
    Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:
    - Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm. Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỏng mặt đất lận kia! 
Sơn Nam


Hoài niệm
 Trời tháng Mười se lạnh, cái lạnh đặc thù của miền Tây, cái lạnh khởi nguồn từ đồng ruộng. Nhìn những con mương, con rạch khô cạn nước, lồi lõm bùn sình với những con còng đỏ huơ huơ đôi càng nhỏ xíu tôi chợt nhớ da diết về một thời. Không biết rồi sau này mười hay hai mươi năm nữa ký ức tuổi thơ có còn in đậm trong tôi như bây giờ không? Cuộc sống quá xô bồ, quá bon chen, thực sự có những lúc với ly cà phê với buổi sinh nhật, picnic hào nhoáng tôi đã vô tình lãng quên. Nhưng, tôi thiết nghĩ có lẽ - vâng có lẽ - tôi khó mà quên...
    Ngày xưa, nói thì nghe diệu vợi quá nhưng cũng đã khá lâu: 8 năm hay 10 năm? 10 năm! Ngày đó tôi rất mê bắt những con còng màu đỏ này dù nó kẹp rất đau và nó rất hôi. Mặc dù cho mẹ la rầy, thậm chí đánh đòn tôi vẫn tìm cách trốn khỏi nhà theo con Mèo hàng xóm. Quê tôi không có nhiều ruộng lúa. Nhiều nhất là những hàng dừa cao vút mát rượi và những bờ mía thẳng tắp xanh rì thêm vào đó không biết cơ man nào là sông, sông to, sông nhỏ, kênh, rạch chằng chịt. Nếu có một ngày đi về miền Tây bạn sẽ thấy ở những con mương nhỏ có rất nhiều những lỗ tròn to bằng ngón chân cái - đấy là tổ ấm của loài còng.
    Lũ nhóc chúng tôi có khi xắn quần lội xuống tìm bắt chúng một cách say mê và trước sau gì cũng có đứa mồm mếu máo: “Ðau quá! Còng kẹp tao rồi!”. Thế đấy, nếu người ta là người lớn, nếu người ta là người thành thị nhìn những đứa trẻ đầu trần chân đất dấy bùn trong cái nắng chang chang của những trưa hè, trong cái mưa tầm tã dai dẳng của miền quê người ta sẽ thốt lên: “Dơ quá!”. Vâng, “dơ quá!” nhưng ở những nơi mà trẻ con chỉ biết tụm năm tụm bảy hốt đất cất nhà chòi, bắn bi, ở những nơi mà cha mẹ suốt một đời không xa mảnh đất vườn cây mía, cây dừa thì liệu chúng biết làm gì hơn? Ở cái tuổi muốn tiếp xúc với thế giới, khám phá ra cuộc sống đời như thế nào, tuổi vô tư như một trang vở không tì vết, muốn hoạt động, muốn cười vui chúng phải làm gì nếu không rủ nhau hò hét trên con mương thửa ruộng? Nếu trẻ con thành phố được mẹ cha dắt đi Thảo cầm viên, nhà hát vào thứ bảy, chủ nhật thì chúng tôi ngày xưa chỉ biết gom lại đi dầm ngoài mưa, ngoài nắng. Lũ con gái lấy gáo dừa, hoa dừa giả bộ nấu cơm. Lũ con trai nhặt những trái dừa khô bị hư, những trái bưởi non rụng mà thỏa chí làm cầu thủ. Nếu trẻ con thành phố được ăn những món ngon trong nhà hàng, khách sạn thì chúng tôi có đứa phải tìm con tép, con cá cho bữa ăn gia đình từ lúc lên 7 hay lên 8.
    Trong đau khổ người ta xích lại gần nhau hơn! Hình như hơn một lần tôi đã nghe ở đâu đó điều này. Quả là con người! Thật vậy bây giờ đôi lúc tôi thấy có những đứa bé cứ ôm lấy đồ chơi của mình không thèm chia sớt cho ai, hỏi chúng chúng bảo “Hư hết”. Nghe những lời ấy thốt ra từ những đôi môi mọng đỏ còn thơm tho mùi sữa tôi giật nẩy mình. Tôi nhớ lại ngày xưa tôi, con Mèo, con Vân, thằng Tí Chuột, con Muỗi chơi với nhau rất “hết mình”. Không có khái niệm cái này của tao hay cái kia của mày. Một củ khoai lang luộc cũng cố để dành trưa mỗi đứa một miếng, một trái ổi chua chia nhau trên bãi cỏ phía sau nhà. Thằng Tí Chuột và tôi là chúa đánh nhau, có lúc đến u đầu chảy máu, mẹ nó kêu vào đánh đòn làm cả đám con gái cũng sụt sùi khóc theo... Hoàn cảnh sống đổi thay thì tình cảm con người liệu có thay đổi?
    Mười năm rồi... Mười năm trước tôi chỉ là một thằng nhóc quần cộc, cởi trần chạy rong khắp xóm. Mười năm sau tôi đã là một thanh niên, một người trưởng thành. Không biết tôi có đổi thay gì không nữa...
    “Anh thành phố ơi coi chừng té xuống sình”. Tôi điếng người. Tiếng gọi giật của thằng bé câu cá làm tôi tỉnh hẳn. “Té xuống sình?” Ờ, phải thận trọng!
    Mùi hăng hắc của bùn bốc lên xông vào tận mũi, ước gì bầy giờ tôi được gặp tụi nó nhỉ? Thằng Tí Chuột, con Vân, con Mèo, con Muỗi... Mười năm thời gian chưa đủ để quên nhau đâu tụi bay hả?

Dân miền Tây ai cũng biết con ba khía. Sở dĩ có tên như vậy vì nó giông giống cua đồng nhưng trên mai có ba cái gạch (khía).
Trong những đặc sản nổi tiếng ở vùng rừng ngập mặn nhất là vùng Cà Mau, phải kể đến con ba khía. Ba khía trông gần giống cua đồng với hai càng đỏ nâu, phần dưới của tám cái ngoe lấm tấm lông tơ mịn, mai màu nâu sẫm có ba vạch. Có lẽ vì vậy nên thành tên "ba khía" chăng?. Ba khía thường quần tụ nơi gốc cây mắm, đước để ăn trái mắm rụng. Người miền Tây có kinh nghiệm cho rằng ba khía gạch son, thịt chắc là do ăn trái mắm đen, còn ăn trái mắm trắng thì gạch màu tro không ngon bằng. Ba khía là loài sống trong bãi bồi nước lợ, mặn, dưới những tán đước, mắm rậm rạp; có mặt nhiều ở các vùng Cần Giờ, Gò Công, nhưng nhiều người thích ba khía Rạch Gốc và Tân An (Cà Mau) vì cho rằng thịt ngon thơm hơn các nơi khác. Muốn ăn ba khía không gì khó, chỉ việc tách mai, lặt bỏ phổi, rửa nước nóng rồi tách từng ngoe ra trộn với tỏi, ớt, giấm (hoặc chanh), đường
Nhớ lúc thuở nhỏ chúng tôi thường về miền quê ngoại ở Nhu Gia và có dịp cùng các anh em họ và các cậu đi bắt ba khía ở đồng ruộng non vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch. Trang bị quần áo dày, khăn che mặt, bao tay, giỏ tre, đuốc... coi như đủ lệ bộ. Thường đi vài người để đỡ đần nhau, người này xua muỗi, soi đuốc cho người kia bắt. Phải nhanh tay lẹ chân, bằng không chúng sẽ tọt mất xuống hang.
Nói chung việc bắt ba khía rất vất vả, vì người ta phải lội ruộng hay vào rừng ngập nước ban đêm, thường là người nghèo làm vì sinh kế. Họ chuẩn bị gạo, nước, khạp... xuống xuồng chèo chống, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống. Vùng rừng ngập mặn Rạch Gốc - Cà Mau có lẽ là quê hương của ba khía. Tập tính của chúng là đào hang ở những vạt rừng khô ráo rồi kéo đàn kiếm ăn. Hàng năm đến mùa, thường vào tháng mùa mưa, trời không trăng, người người từ các tỉnh lận cận đổ về tham gia bắt ba khía rất đông.
Theo mẹ tôi kể lại, thì ngày trước ở vành đai rừng mặn Rạch Gốc là nơi trú ngụ, sinh sôi của ba khía. Ban đêm ở rừng "muỗi kêu như sáo thổi" mà gặp lúc trời mưa rỉ rả thì càng cực gấp bội. Gặp đêm ba khía rộ thì cắm cán đuốc xuống bùn để bắt cho nhiều. Một hiện tượng lạ là vào trung tuần tháng 10 âm lịch hàng năm, không biết từ đâu ba khía tập trung với số lượng vô số kể rất đông, giống trường hợp dòng họ nhà còng lột vỏ đồng loạt vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch. Chúng lúc nhúc từng chùm đen kịt đeo bám trên các rễ cây đước, cành mắm hai bên bờ rạch không chừa khoảng trống nào!. Người ta không có thời giờ bắt từng con mà quơ hốt từng bụm tay. Hiện tượng này xuất hiện khoảng 3 ngày rồi đạo quân ba khía tự tan đàn, tản mác và chờ "hội" năm sau đến hẹn lại lên. Người dân địa phương dí dỏm gọi hiện tượng này là ”ba khía hội”. Bắt ba khía tuy cực nhiều nhưng rất vui và đầy hứng thú...Vào những ngày ba khía hội người dân Cà Mau tổ chức đi bắt rất đông. Họ cùng nhau vào rừng bằng các phương tiện cơ động nhất như xuồng chèo, xuồng máy đuôi tôm và đã đi từ rât sớm. Để khi trời vừa sập tối, ba khía dưới hang bò lên quần hội là có thể tập trung bắt cho thật nhiều. Ai cũng có thể bắt được ba khía, đàn ông, đàn bà và cả trẻ con. Thường khi ba khía nhiều thì người ta phân công, người cầm giỏ, người cầm đèn và người bắt. Người lãnh trách nhiệm bắt ba khía phải đeo bao tay để khỏi bị ba khía kẹp. Khi ba khía tập trung nhiều thì dùng hai tay mà hốt bởi bắt từng con thì làm sao cho xuể. Nhiều người mê bắt ba khía đến nỗi bị chúng kẹp sưng cả tay.
Bây giờ những con ba khía sẽ được ướp muối khi mới bắt về được gọi một cách rạch ròi là “mắm ba khía”, nhằm phân biệt với con ba khía tươi từ nhiều năm nay đã được chế biến thành những món ăn độc đáo. Ba khía rửa sạch trước khi ngâm muối theo tỉ lệ nhất định, không được nhạt và không quá mặn. Muối độ một tuần, ba khía ăn được mà vẫn giữ màu sắc như lúc còn sống là đạt chất lượng. Những con ba khía vỏ mỏng, càng đỏ, nặng chắc, yếm đầy trứng mới thật ngon. Ăn ba khía kiểu "dã chiến" thì tách mai, xé từng ngoe trộn với nước cốt chanh, tỏi, ớt, đường và không dùng lẫn với các món khác , vì sẽ làm giảm hương vị độc đáo của đặc sản này. Gỡ gạch son, gạch tro trong mai ra, ăn nhẩn nha để thưởng thức vị ngọt thơm. Ở quê, đang bụng đói mà có độ mươi con ba khía ăn với cơm nguội, dưa leo, ớt hiểm thì ngon mê tơi, đúng với câu "ăn cơm mắm thấm về lâu" !.
Đặc biệt ở quận Ninh Kiều (Cần Thơ) có hẳn một chiếc cầu và con đường được người dân nơi đây gọi là cầu Ba Khía và đường Ba Khía. Gọi như vậy vì con đường này từ nhiều năm nay “la liệt” những quán nhậu bán đặc trưng các món ba khía tươi, với thực đơn khá phong phú: ba khía rang muối hột, rang me, hấp bia, chiên giòn, xào rau răm, xào sa tế, chiên nước mắm... Mắm ba khía ăn sướng cái thần... mồm bao nhiêu thì ba khía tươi khi pha chế rồi càng khiến cái sự ăn uống của con người ta càng thêm khoái hoạt bấy nhiêu.
Muốn ăn "gỏi" thì chọn ba khía loại to, rửa sơ bằng nước ấm, tách bỏ mai, yếm, móng đầu ngoe, xé miếng nhỏ, đập dập càng... cho vào tô trộn đều với gia vị gồm chút rượu trắng, đường, tỏi, ớt, sả bằm nhuyễn, nêm nếm vừa miệng. Đậy kỹ, để gia vị ngấm đều (hôm trước trộn, hôm sau ăn là ngon). Đu đủ chín hườm xắt lát mỏng hoặc bào sợi rồi trộn đều với ba khía, rau răm, thêm chút nước chanh. Ăn với cơm nóng hay bún tùy sở thích. Sau đó nên uống trà chanh tráng miệng, vừa khử mùi vừa dễ tiêu hóa. Những người đã một lần ăn ba khía thì khó mà quên được hương vị khó tả này.
Muốn ngon hơn thì cầu kỳ một chút, xắt ớt, khế từng lát ướp tỏi đường, bột ngọt, xào với ba khía đã xé ra trên bếp lửa là có một món ăn... hao cơm. Vị chua của khế, vị cay của ớt, vị ngọt của đường cùng vị mặn của con ba khía đã được “thăng hoa” trên sức nóng ngọn lửa, thành một mùi thơm. Độc đáo của món ăn này là nhờ sự hiện diện hết sức quan trọng của trái khế chín hườm. Cái chất chua của khế bị vị chát nhẹ của vỏ khế “dằn” lại, hòa hợp thành một vị chua ngọt lạ kỳ, không làm “ê ẩm chân răng” như vị chua của chanh hoặc giấm.
Ba khía chiên nước mắm là món đơn giản, gấp gáp phục vụ các ông lai rai. Gặp mùa mưa thì khỏi nói, con ba khía mập ú sau khi chiên nước mắm nhĩ rồi chỉ cần cầm đĩa lướt qua mũi đã nghe cái mùi thơm rạo rực. Xé con ba khía, loại bỏ phổi, tách từng ngoe chấm muối tiêu chanh ớt cắn nhai mới thấy tuyệt vời làm sao...
Nếu bảo rằng mỗi món ăn đều có hương vị riêng và mang theo cái hồn của nó, thì ba khía muối quả là một món ẩm thực trứ danh, thịt ba khía đã ngon, cái nước từ trong tinh cốt con ba khía muối đượm ra hòa lẫn vào gia vị lại càng đặc biệt, đem chấm rau sống kèm thịt luộc, cá luộc thì khó có nước chấm nào qua nổi. Nhưng từ trong dân gian, không biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến con ba khía muối, thì cũng không thể thiếu một món ăn, cũng thuộc hàng đặc sản ở Cà Mau, đó là dưa bồn bồn. Dưa bồn bồn nhận bằng nước gạo vo mà ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn hoài cũng chẳng biết no.
Ngày nay số lượng ba khía miền Cà Mau không còn nhiều và chất lượng ba khía cũng không còn ngon như ngày trước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó con người là yếu tố căn bản nhất. Sự tàn phá thiên nhiên , phá rừng bãi bồi dẫn đến môi trường sống của sinh vật nhỏ bé này càng thu hẹp.  Cùng với đó là số lượng cây mắm đã giảm. Mất nguồn thức ăn chính là trái mắm đen nên thịt ba khía ít gạch son. Con người lại sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng trưởng trong các vuông tôm làm ảnh hưởng không nhỏ đến con ba khía miền nam nhứt là ba khía Cà Mau. Con ba khía bây giờ ngày càng hiếm cộng thêm người dân dè dặt tránh ăn quá mặn không tốt cho sức khỏe. E rằng đến lúc nào đó không còn nữa thì thật buồn tiếc cho những ai đã từng nếm qua món đặc sản này, tuy bình dân mà thấm đậm hương quê...
Nghĩ đến sự mai một của một loại đặc sản quê nhà mà cảm thấy xót xa.  Nhiều người sẽ hụt hẫn khi một ngày nào đó về Cà Mau mà không được thưởng thức món ngon đặc trưng đã từng vang danh trong làng ẩm thực gần xa. Chợt nghĩ mà thấy thương con ba khía quê mình quá đỗi!
 Phuc Nguyen (sưu tầm & nghiên cứu)

Bạc liêu - Đất và người

Dân Bạc Liêu đi khắp đó đây, có thể người ta không biết nhiều về miệt quê này, nhưng sẽ luôn có một câu mà ai cũng biết thì ra anh chàng này là người ở đất Công Tử Bạc Liêu.                                                                                       
Bạc Liêu là nơi có nhiều dân tộc cộng cư, vì vậy cũng là nơi hội tụ nhiều dòng văn hóa của người Kinh — Hoa và Kh’mer. Những dân tộc này đã “chung vai sát cánh” từ thưở cùng nhau mở đất cho đến thời kỳ chống giặc ngoại xâm, cũng như giai đoạn đổi mới hôm nay. Đó cũng là quá trình hình thành nên một dòng văn hóa đậm đà bản sắc Bạc Liêu, trong đó đặc biệt là một “tính cách Bạc Liêu” rất độc đáo.
Qua những giai thoại, tư liệu ngày xưa để lại và trên những thước phim, vở tuồng…, Bạc Liêu được bạn bè gần xa biết đến nhờ có một anh chàng Hắc công tử “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” và những kiểu chơi độc đáo, xa hoa không ai sánh bằng. Thật ra tính cách Bạc Liêu cũng có những nét “hao hao” của vị Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy nổi đình nổi đám này 
Nếu gạt đi những yếu tố tiêu cực của kẻ lắm của nhiều tiền, ăn chơi phung phí mà gạn đục khơi trong thì phải khẳng định cá tính phóng khoáng hầu hết đều có ở người dân Bạc Liêu từ giàu đến nghèo. Trong việc chi phí sinh hoạt, giao tiếp họ không tính toán chi li. Những người tuy có khi bị cho là “ít chữ nghĩa”, nhưng lại chủ động và ân cần về mặt chi phí.
Chính vì tính cách phóng khoáng, “chịu chơi” này mà nhiều người Bạc Liêu mê cái “ngón” đờn ca tài tử, đặc sản văn hóa phi vật thể của người xứ Nam Bộ nói chung và của đất Bạc Liêu nói riêng
Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.
Người Bạc Liêu có tính bộ trực, thẳng thắn nhiệt tình, hiếu khách. Trong nói năng, không đôi co dài dòng, không “văn hoa mỹ tự”, mà chủ yếu là tinh thông nghĩa lý, muốn nói gì thì nói thẳng.

Không gian đất rộng, người thưa nên cũng hình thành phong cách “ăn to nói lớn”, nói năng thật rõ, thật to để cho người nghe hiểu thông ý mình. Những thành ngữ, ca dao, điệu hò Bạc Liêu: “ Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi, qua khúc sông này bờ bụi tối tăm”…là những chứng minh xác thực nhất về tính cách trừu tượng phu hảo hán.



Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.



Họ đam mê theo kiểu di truyền từ đời ông sang đời cha, từ đời cha sang đời con. Hát để nghe chơi nên không ai câu nệ giá trị những giải thưởng từ những liên hoan, hội thi…Từ việc hát ở nông thôn trong những bữa tiệc quê, đờn ca tài tử hiện đã được liệt kê vào danh sách công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Bạc Liêu.
Người Bạc Liêu có tính bộc trực, thẳng thắn nhiệt tình, hiếu khách. Trong nói năng, không đôi co dài dòng, không “văn hoa mỹ tự”, mà chủ yếu là tinh thông nghĩa lý, muốn nói gì thì nói thẳng.

Không gian đất rộng, người thưa nên cũng hình thành phong cách “ăn to nói lớn”, nói năng thật rõ, thật to để cho người nghe hiểu thông ý mình. Những thành ngữ, ca dao, điệu hò Bạc Liêu: “ Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi, qua khúc sông này bờ bụi tối tăm”…là những chứng minh xác thực nhất về tính cách trừu tượng phu hảo hán.

*****
Cá tính, nhiệt tình, thật thà, chất phác còn được thể hiện khá rõ nét trong suy nghĩ cũng như trong sinh hoạt hàng ngày đối với người Kh’mer ở Bạc Liêu. Họ nói năng ý tứ, ngắn gọn, đơn giản. Trong lao động rất nhiệt tình, có ưu thế trong lao động trực tiếp, thường làm việc quần quật để lo kinh tế cho gia đình và luôn có ý thức trách nhiệm cao để đóng góp cho cộng đồng.
Vì vậy nhà cửa của họ có thể là nhà tranh lợp lá lụp xụp, nhưng ngôi chùa phải được cộng đồng góp công, góp của xây dựng lộng lẫy, uy nghi. Điển hình là chùa Xiêm Cán (Vĩnh Trạch Đông, TX.Bạc Liêu), chùa Cái Gía( xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi), Còn tính đoàn kết của người Hoa ở Bạc Liêu thể hiện rõ qua các Bang, Hội đồng hương hoặc các Kiến họ.

                          
Miền đất Bạc Liêu còn hấp dẫn người ta bởi những ưu thế về du lịch. Đến Bạc Liêu du khách sẽ được đi thăm quan khu du lịch sinh thái vườn nhãn Bạc Liêu và nếm hương nhãn ngọt ngào, thơm ngát. Du khách được thưởng thức bánh xèo A mật tại vườn nhãn, vừa ăn bánh vừa nghe các ca sĩ đổ câu vọng cổ nổi tiếng “từ là từ phu tướng…” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu thì còn gì bằng!
Ngoài ra, du khách có thể đi tham quan vườn chim Bạc Liêu hay đi một tour du lịch sinh thái biển như Biển Nhà Mát — khu du lịch Phật bà Nam Hải nổi tiếng linh thiêng; hay chạy dọc biển Đông đi thẳng đến khu du lịch Gành Hào đến Kinh Tư ruộng muối, đi ra biển câu mực hoặc tham gia đánh bắt gần bờ quả là một thú vui.

                        
Đến Đông Hải du khách không thể không đi tham quan vườn chim Lập Điền, đây là vườn chim mới được hình thành của các hộ tư nhân với nhiều loại chim quí nằm trong sách Đỏ…
Du khách có thể về nông thôn du lịch các làng nghề truyền thống tại huyện Phước Long và Hồn Dân như làng nghề đan lát, dệt chiếu, nghề trầm nón…và không quên thưởng thức món bánh tầm bì hay bún bì ở Ngan Dừa Hồng Dân.
Người và cảnh vật ở Bạc Liêu thật đã để lại những đặc điểm khó lẫn với những vùng miền khác. Những tính cách ấy không phải có trong ngày một ngày hai mà được hun đúc gìn giữ từ đời này qua đời khác qua nhiều thế hệ.

                  
Ngày nay, tính cách Bạc Liêu vẫn được giữ gìn và phát huy. Cùng với những danh lam thắng cảnh thu hút du khách, chính những con người Bạc Liêu hiếu khách, hào hiệp nghĩa khí và phóng khoáng này đã giữ được chân bạn bè mình ở lại lâu hơn.
Không ít chàng trai từ tận miền Trung, miền Bắc về ở rể xứ Bạc, cũng không ít người trai Bạc Liêu đã “mê hoặc” được những cô gái thành thị…Bạc Liêu trong mắt du khách đẹp hơn có lẽ nhờ tính cách Bạc Liêu.
Sưu tầm
  Lặng lẽ Bạc Liêu (tt)
“Bên nước ngọt, biển cho muối nhiều, bên nước ngọt, phù sa vun bồi; dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu…” những mô tả về xứ Bạc Liêu trong bài Bạc Liêu hoài cổ của Thanh Sơn là ấn tượng của nhiều lắm – những con người chưa về vùng đất biển phù sa này.
Bây giờ quê hương công tử Bạc Liêu sao mà lặng lẽ. Thắng cảnh ít ỏi, hoang sơ, ngành du lịch không để lại chút dấu ấn “pro” nào vậy mà vẫn lưu luyến đến quặn lòng…
Về Bạc Liêu danh tiếng
Bạc Liêu đón tôi bằng cơn mưa dầm dề ngày cuối tuần. Ánh nắng không đủ sức rẽ tầng mây xám xịt cho ngày chút sắc vàng. Chuyến balô một mình của tôi hướng về chùa Xiêm Cán – ngôi chùa được coi là đẹp nhất của Bạc Liêu và đã tồn tại hơn một thế kỉ.


Nằm đối diện với con đường chạy ra biển, dẫn các trang trại nuôi tôm mênh mông của dân Bạc Liêu là chùa Xiêm Cán – ngôi chùa, cũng là ngôi trường của người Khmer - dân tộc sống khá đông ở Xã Vĩnh Trạch Đông. Vừa qua lễ Ok Om Bok được tổ chức vào ngày trăng rằm tháng 10 âm lịch hàng năm – Lễ hội được coi là quan trọng nhất trong ba lễ: Chol Thnăm Thmây, Đôn Ta, Ok Om Bok của người Khmer nhưng ngôi chùa chẳng còn chút dư âm của ngày tết.
Lễ hội Ok Om Bok diễn ra vào thời điểm chuyển dần từ mùa mưa sang mùa khô, mùa màng nông nghiệp bắt đầu cho thu hoạch, trong đó có nếp mới. Theo truyền thuyết, để ghi nhớ công ơn của Thần Mặt trăng - vị thần điều động mùa màng trong năm, người Khmer lấy nếp mới thu hoạch giã thành cốm dẹp để cúng trăng và tiến hành các nghi thức tạ ơn Thần mặt trăng và tiễn đưa thần nước.
Bước 17 bậc thang của chùa Xiêm Cán để vào trong chánh điện, còn gọi là Sala theo tiếng Khmer, một mình tôi ngẩn ngơ giữa chốn tôn nghiêm. Không có nhang khói nghi ngút như những ngôi chùa nổi tiếng khác, xung quanh tôi, bốn bức tường và nóc chánh điện đầy tranh vẽ về quá trình tu hành khắc khổ của Đức Phật Thích Ca qua vô lượng kiếp mới đạt thành. Ánh sáng của một ngày mưa âm u lọt vào chánh điện. Nơi đây, các sư cả đã tu tập cả đời, nghe những bi ai của cõi trần, thấu chữ từ bi, dạy chúng sinh năm điều quan trọng của đời người và cuộc sống là: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, trí tuệ.
Bác Sáu, một người sinh ra và lớn lên ở Bạc Liêu giải thích: Đối với người Khmer, ngôi chùa vừa là chốn linh thiêng vừa là trường học, là mái nhà chung che chở và đùm bọc về tinh thần và trí tuệ cho người dân, là nơi hội tụ cả văn hóa và tâm linh của người Khmer. Gần gũi và quan trọng như vậy nên chùa còn là sân chơi cho trẻ em. Trẻ em Khmer vẫn thường tung tăng vui đùa ở khu vực các lăng mộ trong khuôn viên chùa Xiêm Cán mà chẳng bao giờ bị cá sư cả la rầy. Đây cũng là sân chơi duy nhất cho trẻ em của xã


Ai đến Bạc Liêu cũng phải đi hết một ngày khu vườn nhãn, ra ngắm biển bồi. Ngắm chứ không tắm bởi biển phù sa – không trong mà luôn đục và sình. Kế đó là đến Khách sạn Công tử Bạc Liêu nằm ngay bờ sông trong thị xã uống nước, tham quan hoặc thuê phòng nghỉ lại.


Dấu ấn một thời vàng son của Bạc Liêu – xứ công tử nằm ngay bên bờ sông lớn. Dinh thự của gia đình Đại Điền chủ lớn nhất Bạc Liêu Trần Trinh Trạch – cha Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, hoàn thành năm 1919 nay dẫu rêu phong vẫn uy nghi. Hai tòa nhà này ngày nay là dĩ vãng một thời vàng son trong so sánh với những tòa nhà bề thế sinh sau đẻ muộn khác ở xung quanh. Nền đường đã được tôn cao nên tòa nhà như thấp xuống.
Nhà ở của Đại điền chủ Trần Trinh Trạch nay là khách sạn, nhà hàng phục vụ du khách. Nhiều nhà chòi mới được cất thêm trong khuôn viên “tư gia Công tử Bạc Liêu” làm chỗ ăn, uống cà phê. Ở Bạc Liêu có hai Đại điền chủ người Việt, một ông chăm chỉ làm ăn, một ông ăn chơi mát trời nhưng người ta chỉ nhớ đến cậu Ba Huy với những huyền thoại nức tiếng: đi vũ trường bằng sáu chiếc xe lôi: chiếc chở gây, chiếc chở nón… là người mua báy lái đi thăm đồng đầu tiên ở Đông Dương, là công tử ăn chơi “số dzách”… sẵn sàng “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu”
Thương quá Bạc Liêu
Dù đi xa trăm hướng nhưng nỗi hoài hương vẫn vang vọng bên lòng những người con đất Bạc Liêu. Tôi nghĩ, đó là tại con ba khía, tại con cá chốt, tại dưa bồn bồn... Ba khía của xứ này cứ tự nhiên mà sinh sôi. Món ăn nhà nghèo mà đi vào nỗi nhớ, trở thành nỗi thèm của biết bao con người. Thương hải tang điền, có ai ngờ bồn bồn năm xưa bỏ ngổn ngang trên bờ ruộng mà nay thành quà biếu trang trọng. Món ăn quê của người Bạc Liêu thành đặc sản hớp hồn biết bao du khách. Ba khía, cá chốt kho chấm dưa bồn bồn có mặt ở quán cơm bình dân cho đến nhà hàng sang trọng. Giá từ vài ngàn đến mấy chục ngàn chỉ do một cái chỗ ngồi.
Còn những người không phải sinh sống ở Bạc Liêu như đám du khách bụi chúng tôi không hiểu sao chưa về, chưa xa mà đã nghe trong lòng ngẩn ngơ, thương nhớ Bạc Liêu nhiều đến kì lạ. Đâu chỉ bởi dưa bồn bồn, nồi kho hay tô ba khía trộn. Lưu luyến nhất là bởi tình người. Ngẫm lại, ông Trần Phước Thuận, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu khẳng định: “Bây giờ, đừng hiểu cụm từ “công tử Bạc Liêu” là ăn chơi vô độ. Khái niệm này theo thời gian tượng trưng cho tính cách phóng khoáng, mến khách Nam bộ” chẳng sai chút nào. 
 
Nhà Công tử Bạc Liêu
Người khách phương xa nào mà không thấy ấm lòng khi được ông Sáu bỏ một ngày chủ nhật chở đi dưới thời tiết lúc mưa, lúc nắng khám phá Bạc Liêu. Đi uống nước cam ở dinh thự xưa Công tử. Tấm lòng của người Bạc Liêu rộng rãi ở chỗ: khi trước mùa khai giảng, ông Sáu bí mật đi mua đồng phục, mua sách vở, động viên từng trẻ em người Khmer chịu đi học và kiên trì bám lớp, bám trường.
“Giống như là mướn đi học vậy, nhưng có mướn cũng phải làm”, ông quả quyết. Tâm nguyện của ông là ở xã Vĩnh Trạch Đông, con em nhà ai muốn học và có thể đi học, ông sẽ tài trợ mọi chi phí, cao mấy cũng được. Vậy mà tìm không ra một người leo đến cấp ba, vào đại học. Buồn làm sao.
Và tôi đã thấy những gia đình Khmer con cái nhỏ nhít sắp một hàng cao dần đều. Dù là con trai hay con gái, tất cả đều có điểm giống nhau: đen đúa, quần áo lấm bùn, nhiều em chỉ mặc quần chứ không mặc áo, từng đám tóc bết vào nhau bởi nước phèn, nước mặn…
Tại xã Vĩnh Trạch Đông – xã nghèo nhất thị xã Bạc Liêu, nơi chủ yếu là người Khmer sinh sống, trẻ em biết đi coi như là đã biết vào đời. Chuyện sinh tồn ở tuổi lên năm lên ba đơn giản lắm: ngày ngày ra biển với một cái lon sữa bò rỉ sét, một hũ chao, bắt cua biển con bỏ vào hũ rồi đem bán cho các trại giống. Bóng dáng những đứa trẻ lấm lem cúi đầu đi ngoài biển bồi làm thắt trái tim tôi. Một con cua chỉ có 1.000đ, mỗi ngày kiến chừng 5.000đ, 10.000đ là việc bắt cua đủ say mê với trẻ em và cha mẹ chúng hơn là trường học.
Theo con đường chạy men theo biển bồi, tại khu Nhà Mát, không xa xã Vĩnh Trạch Đông tuy bây giờ còn hoang sơ nhưng đã có một dự án du lịch tầm cỡ “treo” sẵn mấy năm qua. Người ta dự tính sẽ khai thác vùng biển phù sa này. Sẽ có hồ tắm nước mặn, hồ tắm nước ngọt, có nhà hàng nổi… Mong sao khu du lịch này sẽ đem lại cơm áo cho người dân nơi đây để đừng có cảnh quá cách biệt: bao vây bên ngoài khu du lịch sang trọng – nơi người ta đến để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống là những mảnh đời lầm than, vất vả kiếm cái ăn.
Theo dulich.tuoitre.co
m 

Vườn nhãn cổ thụ Bạc Liêu
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là xứ sở của vườn cây ăn trái, trong đó nhãn là loại cây được trồng nhiều nhất. Riêng tại Bạc Liêu, nếu có dịp đi qua vùng đất này mà không ghé qua khu vườn nhãn cổ thụ hơn trăm tuổi thì có thể coi như chưa đến Bạc Liêu. Bởi đây là vườn nhãn đặc biệt nhất ở ĐBSCL, là niềm tự hào của người dân địa phương và còn là điểm thu hút khách phương xa đến tham quan.
Vườn nhãn cổ thụ Bạc Liêu rộng khoảng 230 ha, chạy dài trên 11km đi qua hai xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông, thuộc thị xã Bạc Liêu. Theo lời kể của những người dân nơi đây, vườn nhãn đã được trồng hơn 100 năm nay.
Hiện nay, tại ấp Chòm Xoài, xã Hiệp Thành có vườn nhãn của gia đình ông Trương Kiết rộng đến 3ha, lớn nhất ở Hiệp Thành, tuổi thọ đã trên trăm năm. Tại đây có một cây nhãn do cụ Trương Hưng trồng đầu tiên, giờ trở thành cây nhãn cổ thụ gốc to 2 người ôm không xuể. Hằng năm cứ đến tháng năm là nhãn trổ bông và sau 4 tháng bắt đầu thu hoạch; mỗi năm chỉ có duy nhất một vụ mùa
 Sưu tầm
*****

  Bạc liêu trù phú vườn chim, nhãn....

Bạc Liêu là một trong 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, được biết đến không chỉ vì có những cánh đồng lúa trù phú mà còn có những vườn nhãn xum xuê và một vườn chim đậm nét thiên nhiên hoang dã.


Tất cả những thứ đó đã cùng hòa quyện, vẽ nên bức tranh thiên nhiên sinh động với một Bạc Liêu khỏe khoắn, giàu tiềm năng, in sâu trong kí ức của mỗi du khách khi đi qua vùng đất này.
 Cách thị xã Bạc Liêu 6km về hướng biển, phía phải là vườn chim Bạc Liêu, thuộc địa phận xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu. Theo tư liệu của Khu bảo tồn thiên nhiên vườn chim Bạc Liêu, địa danh này xuất hiện cách nay khoảng 100 năm. Vườn chim là một phần thảm rừng còn sót lại ven biển Đông do sự bồi tụ tự nhiên nên ngày càng xa biển hơn. Năm 1962, vườn chim được một hộ dân quản lý chăm sóc, bảo vệ và khai thác chim non. Sau đó, chính quyền địa phương sớm nhận thức vườn chim là tài sản thiên nhiên quý hiếm nên đã có sự đầu tư từng bước.
Vườn chim Bạc Liêu là nơi cư trú của khoảng 46 loài chim. Một số loài đã được ghi vào sách đỏ như giang sen, cốc đế nhỏ...; 109 loài thực vật; 150 loài động vật sống chung trong một quần thể đa dạng, thể hiện cao tính đa dạng sinh học.
Trải qua gần một thế kỷ tồn tại, nơi đây đã có không biết bao nhiêu thế hệ các loài chim sinh sôi, nảy nở. Qua tính toán sơ bộ, số lượng chim ở vườn chim còn khoảng 40.000 con và 5.000 tổ chim các loại. Vườn đang từng bước được tỉnh Bạc Liêu đầu tư theo hướng vừa giữ được sắc thái thiên nhiên hoang dã, phù hợp với tính đa dạng sinh học, phục vụ nghiên cứu khoa học, vừa khai thác một phần thích hợp, tạo điều kiện cho khách tham quan du lịch và giải trí. 
ST