Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Mùa Hè có cô bé mất gốc

Mùa hè đáng nhớ !
Mùa hè đáng nhớ đã trôi qua,
Quê hương thân thiết , ôi thật xa....!
Chỉ còn giữ lại - đây nguồn cội,
"Tiếng Việt" yêu thương bao thiết tha !

Tâm tình anh đó, quê hương Việt,
Kín đáo trao em thật nồng nàn....
Xa anh em sẽ hoài thương tiếc,
Tô điểm hồng thêm chuỗi ngày xanh !!

"Tiếng Việt" đưa em về cõi nhớ,
Luôn khắc ghi  lòng nghĩ đến anh....!
Hạnh phúc là đây tình muôn thuở,
Một thuở hè vui ước mộng lành !!

 NM

Hình ảnh có liên quan
Mùa Hè Có Cô Bé Mất Gốc
Năm nay thời tiết thất thường, mới đầu hè trời đã trở nóng hầm hập suốt ngày. Grenoble nằm giữa những ngọn núi nên mùa đông cực lạnh và mùa hè thì phỏng da. Hà một mình vắt cái khăn tắm trên vai đi bộ đến hồ bơi. Tóc nó thắt thành hai bím làm khuôn mặt mười sáu nhìn như con nít Tây mười tuổi. Vóc dáng trẻ thơ nhưng bạn bè ít ai biết Hà là đứa khổ tâm. Ba Hà vừa la mắng nó vì tội nói tiếng Việt sai be bét và lầm lì không chịu nói chuyện với bà nội. Hà không hiểu tại sao ba nó nổi giận khi nó trả lời: “Con vừa giặt tay cho bà xong”. Ba cho nó là đồ mất gốc.
Hồ bơi đông nghịt người. Lớp đang vùng vẫy trong làn nước mát, lớp nằm xếp cá mòi trên bờ phơi nắng để có làn da nâu. Hà leo lên cầu nhún, nó dậm chân lấy đà cho cú rơi tự do vào lòng nước xanh lơ. Lúc nghe tiếng “chủm”, Hà mơ hồ mình vừa đè lên vật gì đó. Một anh chàng trồi lên ho sặc sụa. Hà biết mình suýt gây ra “án mạng” nên búng chân trườn xuống nước mất dạng. Nhưng đã trễ, nạn nhân chết hụt kịp nhìn thấy hai bím tóc màu đen nổi bật. Sáng hôm sau Hà lại một mình vắt khăn trên vai đến hồ bơi. Bạn bè nó theo gia đình xuống miền Nam tắm biển hay du lịch nước ngoài hết cả. Con nhỏ Natalie đi Việt Nam. Nó hứa khi nào về sẽ đem cho cô bạn gốc Việt chưa một lần đặt chân lên dải đất này thật nhiều quà của xứ sở nhiệt đới. Tụi bạn Tây rất yêu mến Hà vì nó sống động, học giỏi và thích thể thao. Tụi nó đặc biệt kết cái tên ngộ nghĩnh của Hà. Tên nó nghĩa là dòng sông nhưng khi phát âm theo tiếng Pháp tụi Tây không đọc chữ “H”. Nhỏ Natalie nói: “Mỗi lần tao gọi mày từ xa, người ta tưởng ai đánh tao đau lắm vì cứ là kéo dài “A! A! A!”. Bản thân Hà mỗi khi có kẻ nào la “A!”, theo phản xạ nó quay lại vì tưởng có người gọi. Đi học vui như thế nhưng về đến nhà Hà là một người ít nói, lơ đãng và ngơ ngác. Ba nó không biết tiếng Pháp ngoài mấy câu chào xã giao. Mẹ nó thì biết đếm để xài tiền nhưng khi coi truyền hình thì chỉ đoán già đoán non. Lúc Hà còn nhỏ, mỗi lần cần làm giấy tờ ba mẹ nó phải chạy vạy nhờ những bác Việt Kiều có học. Mấy năm nay đến phiên Hà phải giúp lại những người Việt sống không hòa nhập được vào xã hội bên này.
Tuy ngầm hãnh diện về tiếng Pháp của Hà nhưng ba mẹ nó luôn hổ thẹn về tiếng Việt của nó. Tình hình trở nên căng thẳng khi bà nội từ Việt Nam sang sáu tháng nay. Bà thủ thỉ đủ chuyện với Hà mà nó cứ lặng yên vô cảm khiến bà giận, bệnh tim tái phát. Hà thấy ngột ngạt nên tìm tối đa các lý do để được ở bên ngoài.
Nước mát làm cho Hà dễ chịu, nó lại vừa bị ba la tội lầm lì và không thân thiện với bà nội. Hà bơi hùng hục mấy vòng hồ mới dừng lại nghĩ. “Cô bơi giỏi quá”. Một giọng nói vang lên sau lưng làm Hà giật mình. Anh chàng người Châu Á, chất giọng còn lơ lớ của người không sinh ra ở đây. Không hiểu sao Hà lại không thích những ai mắt đen, da vàng, mũi tẹt như nó. Natalie gọi đó là một mặc cảm trong tiềm thức, khó giải thích được. Hà lịch sự nói “cảm ơn” rồi búng chân lao vút đi. Nhưng hôm sau rồi hôm sau nữa, suốt một tuần lễ, ngày nào đi bơi nó cũng bị gã trai Châu Á bám theo lân la làm quen. Nó dừng lại ở mức độ chào hỏi rồi vội vàng lặn mất tăm xuống lòng hồ sâu. Anh chàng đó bơi không siêu nên nên hay đứng xớ rớ chỗ nước cạn cùng đám trẻ con lau nhau. Anh ta phô thân hình không được cường tráng của người ít vật động. Hà cười thầm: “Đến đây để tắm chứ bơi cái gì!”.
Bà nội thèm trái cây Việt Nam nên sai Hà ra siêu thị đầu phố mua ít loại. Bà dặn: “Nếu sầu riêng không quá mắc mua cho nội một trái”. Hà nhăn mặt như đã nghe cái mùi khó chịu đó. Lần nào bà nội ăn nó cũng trốn vào toilette. Mỗi lần như vậy ba nó lại bực mình và gia đình lại xào xáo. Hà công nhận đó là một mùi đặc biệt, người thì thấy thơm lừng, kẻ bịt mũi buồn nôn. Còn frômage camembert Hà thích lại làm cả nhà nó lợm giọng chê là mùi… xác chết. Ba nó cấm tiệt không cho tha về nhà bất kỳ loại frômage nào trừ “con bò cười”. Hà thấy mình luôn bị chèn ép. Hà đến quầy trái cây nhiệt đới, sầu riêng đang khuyến mãi nhưng chắc chỉ nên mua thanh long thôi…
- Chào cô!
Hà ngơ ngác nhìn một anh chàng tóc đen trông quen quen. Nó đưa tay đẩy gọng kính suy nghĩ.
- Cô không nhớ tôi sao? - Anh thanh niên nhỏ nhẹ - Ngày nào ở hồ bơi chúng ta cũng gặp nhau.
- À! - Hà la lên ngạc nhiên - Thì ra là anh mấy bữa trước anh không mặc quần áo nên hôm nay nhìn khác quá!
Mấy người mua hàng đang đứng trong bán kính mười mét đều quay nhìn tò mò kẻ “mấy bữa trước không mặc quần áo gì”. Hà biết mình “hố”, anh chàng đỏ mặt lúng búng không nên lời. Hà vơ vội vài trái thanh long rồi nhanh chân chuồn ra quầy thu ngân. Giá đang ở hồ bơi nó đã tàng hình vào làn nước. Lần này anh chàng có vẻ quyết tâm làm quen nên đón đường nó trước cửa siêu thị.
- Cô người gốc nước nào vậy?
- Anh hỏi chi?
- Cùng là người Châu Á, tôi hy vọng chúng ta đồng hương. Tôi đến từ Việt Nam từ mùa thu năm ngoái để du học…
- Tôi quốc tịch Pháp, nhưng ba mẹ tôi người Việt!
Hà thấy rõ nét mặt vui mừng của anh sinh viên. Anh ta gần như đã nhảy lên vì không thất vọng. Trông anh thành thật đến tội nghiệp.
- Chúng ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nhé! - Vừa đề nghị anh liền thực hiện ngay - Anh thèm nói tiếng mẹ đẻ quá!
Hà vẫn dùng tiếng Pháp, đối với nó đây mới là tiếng mẹ đẻ, nó cho anh sinh viên biết mình sinh ra ở đây nên không có khả năng trao đổi với anh bằng tiếng Việt nhưng nếu anh muốn nó sẽ giới thiệu… bà nội nó cho anh.
- Được! Nhà gần đây không? - Vẫn nói tiếng Việt với Hà, anh sinh viên hồ hởi - Anh tên Hải. Em tên gì? Có tên Việt không?
Hà dẫn Hải về giao phó cho bà nội. Hai người nhớ tiếng Việt cùng nhau nói không hết chuyện. Mẹ Hà đi làm phụ bếp ở nhà hàng về đem theo mấy món đồ xào ế bà chủ cho. Anh Hải được mời ở lại ăn cơm. Anh ăn cật lực làm Hà nấu thêm cơm cho ba nó khuya đi làm ca về. Bà nội hài lòng nghe anh kể từ tám tháng nay chỉ lo học bù đầu làm luận án thạc sĩ nên không có thời giờ để giao tiếp với ai. Thèm món ăn Việt Nam, nhớ tiếng Việt và muốn tìm Việt kiều làm quen nhưng chưa có dịp. Đến mười giờ, ba Hà đi làm nhà Hải vẫn chưa chịu từ giã. Mới nhìn qua mà ba Hà có cảm tình với anh sinh viên cao học ngay. Ba nói có một đề nghị làm Hà rụng rời:
- Ngay ngày mai cháu đến dạy tiếng Việt cho con nhỏ này. Cháu vừa biết tiếng Pháp vừa rành tiếng Việt dạy nó sẽ dễ. Sẵn ký túc xá hè đóng cửa để sữa chữa cháu cứ đến nhà bác ở, khỏi thuê chổ khác làm gì mắc công!
Buổi học đầu tiên làm Hà lo sợ. Không phải nó ngán ông thầy từ trên trời rơi xuống mà sợ ba nó làm to chuyện nếu nó học không tốt.
- Em phải chịu khó nói tiếng Việt - anh Hải mào đầu. Anh biết em hiểu hết nhưng ngại nói vì sợ sai.
Hà bực bội đưa tay sửa gọng kính. Và như thói quen, những lúc thế này tự dưng nó… buồn tiểu. Hà đứng dậy dợm bước.
- Em đi đâu?
- Tôi muốn đi toilette - Hà cương quyết nói bằng tiếng Pháp. - Nói tiếng Việt xem nào! Nếu không tôi không cho đi.
- Con muốn đi đái!
Ông thầy bật cười ngặt nghẽo làm Hà ngơ ngác nhưng nhịn không nổi. Nó vụt chạy đi. Lúc trở vào phòng học vẫn thấy thầy ôm bụng cười khùng khục.
- Tại sao anh cười! - Hà khó chịu hỏi bằng tiếng Pháp - Lần nào tôi nói tiếng Việt cũng có người cười hoặc tức giận.
- Sao em lại xưng “con” với anh? Lại còn nói “đi đái”, nghe không hợp với một cô bé đeo kính cận sáng láng.
Bà nội ở phòng bên nghe ồn ào bèn sang giải quyết. Thầy vỡ lẽ, thì ra Hà chỉ hay gặp người Việt lớn tuổi nên có thói quen xưng "con", với tụi trẻ đồng trang lứa nó dùng tiếng Pháp nói chuyện với nhau cho nhanh. Còn từ "đi đái", quả thật hồi bé thỉnh thoảng ba vẫn gọi nó dậy "đi đái" mà! Thầy biết dạy thế này gay go rất nhiều lần làm gia sư ở Việt Nam. Phải đổi phương pháp, không nên nóng vội, tốt nhất nên thân thiệt với họ trò "mất gốc" đã. Thế là anh nói tiếng Pháp với Hà, đề nghị nó hãy tâm sự về mình để hai người thông hiểu nhau phần nào. Biết nó cũng thật sự muốn giỏi tiếng Việt để làm vui lòng cả nhà nhưng ba nó tánh cộc cằn chỉ thích lớn tiếng mỗi khi nó nói sai, anh Hải tội nghiệp cầm tay nó an ủi. Anh nói mình thông cảm cho hoàn cảnh những đứa trẻ bị hai nền văn hóa xâu xé như Hà. Anh sẽ hết lòng giúp nó, miễn nó coi anh như một người bạn tốt. Những ngày hôm sau tình hình khả quan hơn, học trò đã chịu mở miệng nói chút chút. Nghe Hà ngọng nghịu, giọng lơ lớ, mặt hồi hộp sợ sai thầy vừa nén cười vừa cay mắt. Nhưng khi hai anh em vừa ra khỏi nhà để đến hồ bơi Hà trở nên tự tin và nói tiếng Pháp không cần xin phép. Anh Hải có vẻ thất vọng, thì ra học trò sợ phụ huynh hơn là thầy. Hà cười, hù dọa anh bằng tiếng Việt "ba rọi" của mình:
- "Toa" mà nói lại với ba con, con sẽ đè "toa" xuống đáy hồ đến lúc có những hột nước đi lên cho "toa" chết luôn!
- Em chứ không phải con, bong bóng nổi lên chứ không phải hột nước đi lên! Gọi bằng "anh" chứ không được "toa"…
Học trò không thèm nghe, nó đã búng chân lao vút đi trong làn nước mát để thầy đứng xớ rớ chỗ cạn với đám con nít ồn ào. Thấy lố bịch với cô em Việt kiều, anh chàng lần lần vịn thành hồ tiến ra chỗ sâu. Một lực kéo bất ngờ làm hai "ống sậy" của gia sư nhấc bổng lên. Uống lưng bụng nước chàng sinh viên dở thể thao được Hà kéo vào.
- Em định ám sát tôi để khỏi phải học tiếng Việt nữa phải không? - Nạn nhân tức giận ho sặc sụa - Lần đầu tiên gặp em đã từ trên cầu phi thân đè tôi xuống đáy cầu một lần rồi.
Ngày mai ba Hà lái xe đưa anh Hải ra phi trường Lyon. Anh hứa vài năm sau lại sang để làm luận án tiến sĩ. Khi đó chắc Hà đã nói tiếng Việt rất giỏi và không cần gia sư nữa. Hà biết anh nói thế để khuyến khích chứ nó còn trật nhiều lắm. Mới hồi hôm qua thôi khi bà nội kể chuyện những tên tội phạm mua chuộc cảnh sát, nó thắc mắc: "Sao tụi nó phải mua con chuột của cảnh sát làm gì?". Ba Hà dạo này bớt cục tính, ông nghe lời anh Hải chịu khó học tiếng Pháp. Bởi thật bất công khi trách con gái mất gốc trong khi bản thân mình không hòa nhập được vào xã hội mới sau gần hai năm sinh sống. Đang ăn tiệc tiễn anh Hải về Việt Nam, mẹ Hà làm bể cái chén gây tiếng động trong nhà bếp, nó vào phòng ăn kể với cả nhà: "Cái chén té từ trên bàn xuống" làm thầy xấu hổ đỏ mặt.
Anh kéo nó ra sâu sau trao một món quà nhỏ. Con gấu mập ú ôm trái tim đỏ thật dễ thương.
- Đây là tim của anh, tấm lòng của một người anh dành cho đứa em mình - Anh Hải lí nhí. Hà thắc mắc sao con trai Việt Nam thích ngụy trang tình cảm dưới lốt anh em làm gì - Nhớ đừng có phát âm sai chữ tim thành…
- Biết rồi - Hà đỏ mặt nhớ lần nó kể bà nội bị bệnh "đau chim" làm anh Hải há hốc nhìn nó kinh ngạc. Sau khi cả hai hiểu ra, bật cười đau bụng, đến phiên bà nổi giận hai ngày - Sáng mai em đi học lại, con Natalie phone nói đem từ Việt Nam qua cho em một cái nón lá…
Đêm trở lạnh, những cơn gió mùa thu đã đến đem những chiếc lá vàng đầu tiên lìa cành. Hà nói giọng nuối tiếc một câu tiếng Việt văn chương đến mức làm thầy phải giật mình: "Mùa hè đáng nhớ đã trôi qua…".

Dương Thụy
Một chút !...
 Tìm "đất hứa" , mong đất lành chim đậu,
Nào ngờ đâu biển cả hoá nương dâu !?
Trông vời cố quốc , xa cách lòng đau....
Một lần nữa gia môn sầu ly biệt !!

Ba thế hệ bao thâm tình khôn xiết,
Giờ còn đây "người cũ" với ta thôi....!
Một chút tình thân, chẳng chút đãi bôi,
Mong  ấm áp hai tâm hồn....đau khổ !!
NM 
Tô cháo huyết
 Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
    Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon !
    Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng nhôm. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết.
    Lâu lâu, nhai nhằm một sợi gừng làm nồng lên trong miệng, ngon không chê được !Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng.
    Trong... “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).   
    Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng “chị” rất... thời trang từ ngữ ! Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
    - Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
    - Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
    - Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
    - Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?
    - Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
    - Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?
    - Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
    - Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
    - Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?
    - Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
    - Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa...
    - Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
    - Sao thím không đi?
    - Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?
    - Tôi kẹt !Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết? Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngả cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn ( vì đi ngang chợ cá ) mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến ( Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à? ). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn tuốt ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi thẳng. Thật là... thích thú. Tôi phục... tôi quá chừng !
    Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết !Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đăm đăm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:
    - Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu mất biệt vậy? Vô ăn cháo đi !Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho... lấy có:
    - Thím mạnh hả?
    Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
    - Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...
    - Tôi không có tiền ! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu !).
    - Không có sao ! Vô ăn đi ! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà... Thầy Hai !
    Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
    Tiếng bà xẩm vang lên:
    - Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao !Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng, bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
    - Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?
    Nó nói dóc một cách... gọn ơ:
    - Tôi mắc về dưới tỉnh.
    - Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?
    - Dạ, mạnh.
    Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
    - Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo !
    Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mặt mày hớn hở. Rồi nó nhắm mắt, hít từng hơi dài mùi thơm mời mọc, coi giống như một thằng ghiền…
    Giọng bà xẩm ôn tồn:
    - Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.Ngừng một chút rồi tiếp:
    - Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ ! Thầy Hai hiểu tôi không?
    Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh.
    Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn...
    Tôi thấy nó như vậy, và chỉ phải như vậy nó mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết !Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
    - Không ! Không ! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím !
    - Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà ! Không tính tiền !
    Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”.
    Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt...
    Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...

Tiểu Tử

Thò lò ơi,
Không có rượu sao thò lò quay tít ?
Dẫu ngã nghiêng mong tâm vẫn bình yên,
Thân phận con người , cuộc thế đảo điên.....?
Có dừng lại.. cũng xin đừng .....chỏng gọng !!
NM
 Con Thò Lò
Hồi nhỏ, tôi rất ít được nhận các món đồ chơi. Gia đình tôi khá giả, bố tôi là đại lý độc quyền hãng guốc sơn và guốc mộc khắp miền Nam, có cửa hàng chi nhánh ở Cần Thơ và giao bán khắp các tỉnh miền Tây. Lâu lâu, bố tôi lại tham dự hội chợ triển lãm và được cấp bằng khen Medaille d or hay Medaille d argent treo đầy nhà, có thứ được tặng từ Foire de Phnom Penh, hay Đấu Xảo Hà Nội chẳng hạn. Vậy mà nhớ mua cho tôi một món đồ chơi thì hầu như bố tôi không nghĩ đến.
    Tôi ham đồ chơi lắm nên góp nhặt lon sữa bò tự chế thành những cái xe khi đẩy nó xoay tròn tròn coi cũng ngộ. Lần vớ được con thò lò, tôi thích lắm. Dù không rõ vì sao lại gọi là thò lò, nhưng búng nó quay và nhín nó quay, quay tít suốt ngày, tôi cũng thấy hay hay. Búng thì nó quay, lảo đảo như người say, ngả nghiêng chông chênh, sức chuyển giảm dần rồi đổ ụp xuống, lăn quay ra đó.
    Tôi nhặt lên, búng lại, con thò lò lại quay. Tôi nhẩn nha chơi với nó suốt ngày không thấy chán, dẹp hết mấy cái xe làm bằng lon sữa bò hay các món khác đi. Có một lần mẹ tôi trông thấy tôi búng con thò lò quay tít, bà đứng lại nhìn một đỗi. Xem chừng tôi bị thu hút bởi sức quay của con thò lò, bà ôn tồn hỏi tôi: mày xem vậy mà không thấy chóng mặt sao?
    Tôi bảo: nó quay chứ con có quay theo nó đâu mà chóng mặt. Mẹ tôi cười khểnh phê phán: con nít con nôi tưởng việc gì cũng dễ. Vậy mà rồi có lúc mày sẽ thấy choáng váng đó con. Nói xong mẹ tôi bỏ đi. Tôi cũng không để tâm đến việc ấy.
    Thời gian bẵng đi bao năm tháng, bất chợt cái lần vào quân trường Thủ Đức, những lần cầm súng di hành ra bãi tập, rõ ràng nhìn giữa cái nắng chói chang của vùng Chợ Nhỏ, Linh Xuân Thôn ra bãi 25, hàng người nối đuôi nhau mà ngủ gục lúc nào không biết.
    Ông Đại Đội Trưởng của tôi vốn hết sức cẩn thận, cứ đưa SVSQ ra khỏi cổng là bắt gắn lưỡi lê vào đầu súng. Các đại đội bạn đi ngang đều tủm tỉm cười kháo nhau " đây là lính của ông Phới ". Thực ra tên ông DDT của tôi là Phái, nhưng bạn nhạo đổi thay giọng quảng Ngãi để chọc chúng tôi thôi. Còn anh em chúng tôi thì buồn buồn trong lòng, trường đóng ngay trên ngã ba Xa Lộ Biên Hòa, đi di hành ngay trong thành phố mà làm như đi " oánh giặc ".
    Có lẽ những điều nói hành nói tỏi của tụi tôi thấu đến tai ông cũng nên, vậy nhân một lần tập họp trước khi ra quân, ông đã vừa cảnh cáo vừa giảng giải cho tụi tôi rõ: các anh đừng tưởng mặt trận ở đâu xa, nó lù lù ngay ở trước mặt bất cứ lúc nào. Hơ hỏng là bị thịt đứt đuôi ngay tức khắc. Đã mặc bộ áo trận trên người là coi đã bắt đầu chết ngay từ phút đó rồi, may mắn lắm còn trụ được thêm phút giây nào là ân huệ của trời ban cho, đừng tưởng bở.
    Sau này, gần ngày ra trường để thằng nào thằng ấy cũng đều trở thành " thượng sĩ gân " với chức vụ Trung đội trưởng, chúng tôi mới biết kinh nghiệm chiến trường của ông. Thì ra ông đã một lần hơ hỏng ở Hưng Yên khiến quân số của ông đi đứt gần một nửa nên từ đó ông ân hận vô vàn.
    Lại nữa, khi chiến dịch Mậu Thân nổ ra ngay trong thành phố, tôi càng thấm thía chẳng có tiền tuyến lớn hay hậu phương nhỏ gì hết, chỗ nào cũng có thể mặt trận tất tận. Rồi tháng 4.75, bao nhiêu đô thị, thành phố ùn ùn kéo nhau đi thì quả thật cái chết đang đuổi theo sát nút mọi người.
    Tôi chợt nhớ lại con thò lò và những lời của mẹ. Ôi thôi, ai cũng quay tít, mệt hết thở, quân hồi vô phèng, lính làm thịt lẫn nhau, tệ hại là nhiều thằng hận cá chém thớt nên cứ nhè tìm vợ con sĩ quan để " trả thù dân tộc ". Dạo đó, nhiều người đã nghĩ: thôi kệ, ở lại dù có bị hành vẫn sướng hơn, chứ ra đường cảnh hỗn quân, hỗn quan, đầu không phải lại phải tai thì khốn.
    Nước có nguy mới thấy đâu là tài ba lương đống. Mấy bố phét lác nhanh chân vọt hết cả. Bất nhẫn là lại dối lừa đàn em cho mắc kẹt chết chùm để các bố dông được yên. Đất nước " giải phóng ", quân dân cán chính trải qua những tháng ngày tù cải tạo, thằng nào cũng chửi thượng cấp vung xích chó.
    Chính lúc đó nhìn đâu cũng thấy quay tít như con thò lò. Vợ các ông, bà nào không chịu nổi cảnh hẩm hiu là chập chững tìm một ông cán bộ dựa. Con thò lò quay tít không ngừng, một ngày nào đó anh chồng hết thời khập khiễng về thì nhà đã có chủ mới. Tử tế thì chị vợ cho trú tạm một đêm, quẳng cho cái chiếu nằm chèo queo ở hàng hiên, còn bà thì du dương với anh cán trong chính nhà của mình. Bằng không thì có ngay anh khu vực đến mời đi chơi chỗ khác.
    Con thò lò xem vậy mà có giá trị kinh hồn. Nó quay làm mọi người cũng quay theo, bát nhào bát nhào suốt từ thôn quê thành thị. Tôi mới thấy mẹ tôi tiên đoán cái chuyện ngồi xem con thò lò quay mà bỗng chóng mặt là sao. Cảm thương bà mẹ tội nghiệp đã nhìn xa thấy rộng mà không cưỡng lại được chính số phận của bà.
    Mỗi con người Việt Nam dường như đều có một thời lận đận của mình. Nhất là 20 năm đầu sau ngày "giải phóng ", ôi ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh, không kể đâu cho xiết. Mẹ tôi lẽo đẽo theo tụi con lên kinh tế mới, khều khào với cái cuốc mà nước mắt lưng tròng. Lưng mẹ một ngày một xụm, đến lúc nào đó thì cong tịt thành con tôm luộc. Vậy mà con thò lò vẫn cứ quay, chưa chịu ngưng.
    Phúc mươi đời, sao lại có ngày cả gia đình tôi lại cũng nhau lên phi cơ rời khỏi nước. Mẹ tôi tủm tỉm cười luôn miệng: tao tưởng đâu được một lần đường hoàng lên máy bay ra khỏi mảnh đất đang quay. Tôi thì ứa nước mắt khi phi cơ đảo vòng chót chào phi trường dưới thấp. Tôi tự hỏi mình: hồi nào về.
    Sang tới bên này rồi, con thò lò vẫn bám chặt theo người. Đi đâu cũng thấy cảnh thò lò đua nhau quay vung vít. Ông này đổ lỗi cho bà kia, toàn là đấng đầy tràn trách nhiệm, còn quốc gia ngả nghiêng là tại ai đâu đó. Chao ôi, những con thò lò biết nói và nói hay như khướu. Tôi mệt đầu vì ba cái chuyện lu bu.
    Ước gì tôi còn giữ được con thò lò ngày nào. Một mình, tôi sẽ giở ra búng khi đêm về trên đất khách. Tôi sẽ nghiền ngẫm xem cái trục nào giữ con thò lò đứng vững để quay, chờ khi hết đà thì lăn quay chỏng gọng. Tôi càng phục mẹ tôi mỗi khi cảm thấy cơn chóng mặt vừa lóe ra. Tôi muốn thưa với mẹ: bây giờ con nhức đầu quá.
    Ba mươi mấy năm rồi, những con thò lò vẫn chưa chịu ngừng. Cả bên này lẫn bên kia, những cái búng vẫn đẩy nhanh để khiến những con thò lò giao động. Biết ngày nào những con quay này mới nhận ra thân phận của mình, quay tít âu cũng chỉ là nhất thời rồi sẽ lăn chiêng ra đó?
Đỗ Thành

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Đoá Hoa Vô Thường


















             
 
Tìm đoá vô thường..... 
Trở về tìm chút hương mùa cũ,
Gặp đoá vô thường nơi chốn xưa....
Nhấp chén trà sen ôn kỹ niệm,
Càng thêm nuối tiếc mối duyên hờ ?!

Ngày đi sen nở ngát đầy ao,
Những giọt sương mai lóng lánh chào......
Tấm tình bày tỏ lòng không động ?!
Một phút cửa Thiền chắc xuyến xao ?

Cảnh đời dâu bể lòng tan nát,
Luôn giữ trong lòng đoá bạch liên....
Bao năm cách trở hương đoàn tụ,
Giờ chén trà sen cởi ái duyên !!

Hoa sen ngày ấy vẫn còn đây,
Tình xưa hẳn tỉnh chẳng còn say ?.....
Ngắm đoá vô thường qua khói toả,
Duyên có nào phai, Phật Pháp đây !!

NM


ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG
Hai người đàn ông mở cánh cổng gỗ thông ra khu vườn nhỏ. Cả hai chỉ độ gần sáu mươi, tóc đã lốm đốm bạc. Một người dáng cao cao mạnh mẽ, còn người kia thấp nhỏ hơn, nét mặt trầm ngâm, hình như đang nghĩ ngợi điều gì.
Đó là một khu vườn mang dáng dấp Á Đông, rải rác những loại cây vùng nhiệt đới, ven rào là vài bụi tre trúc đủ loại, chủ nhân có vẻ là một người biết hưởng thú điền viên với cây cỏ. Nhưng đặc biệt giữa khu vườn nhỏ lại là một hồ sen, tuy đã vào cuối hạ lập thu mà trong hồ vẫn nở rải rác vài nụ sen trắng, sen hồng. Trên chiếc lá sen buổi sớm còn đọng lại những giọt sương đêm, lóng lánh như những viên kim cương khi tia nắng đầu ngày vừa lên. Hương sen rất nhẹ, khách nghiêng mình vít một bông sen để thưởng thức mùi hương thật dịu mà có lẽ đã lâu lắm rồi, đến mấy mươi năm khách mới tìm lại được mùi hương ấy. Hai người không nói với nhau câu nào, dường như ai cũng sợ kinh động sự yên tĩnh của một buổi sớm mai, có con chim xanh đậu trên bờ rào hót líu lo. . .
Dưới gốc cây đào xum xuê, tạo thành bóng mát đủ che một cái bàn vuông và bốn chiếc ghế thấp, chủ khách ngồi thưởng thức chén trà với cơn gió thoảng mùi hương sen. Trà cũng thơm ngát mùi hương sen, chủ nhân đã cầu kỳ gói nhúm trà trong chiếc túi vải, bỏ vào cái nụ sen sắp nở ướp suốt đêm ngoài trời, sáng mới đem đãi khách. Nhấp tách trà thơm, hai người bạn già kể nhau nghe nhiều chuyện cũ, trong ấy có chuyện về đóa sen trắng và những hạt sương long lanh trên chiếc lá sen màu xanh biếc.
Đó là một chiều mùa hè, Viễn say mê đứng nhìn những bông sen trắng, hồng vươn mình lên trên mặt nước ở chiếc ao sen cạnh ngôi chùa cổ. Lá sen xanh biếc, to như những cái dĩa tròn màu xanh, nếu là buổi sớm khi giọt sương còn đọng lại trên lá, dưới ánh mặt trời giọt sương ấy y như một viên kim cương lóng lánh, trong suốt.
Cơn gió chiều đưa mùi hương sen thoảng qua, mùi hương dịu dàng thanh khiết quá khiến Viễn như chìm vào cái tịch mịch của chốn thiền môn. Trong sự yên tĩnh ấy, lẫn với tiếng reo của tre trúc trồng rải rác ven bờ giậu, mái chùa cong tạo thành một đường viền lên nền trời xanh giăng giăng những giải mây trắng. Hít thở mùi hương sen trong không gian tinh khiết của buổi chiều êm ả, Viễn mơ màng nhìn theo những giải mây bay lang thang, vài cánh chim bay qua điểm những chấm màu đen buồn rầu lên nền trời bát ngát. Không biết những giải mây kia bay đi đâu, và những cánh chim có phải đang tìm về tổ ấm?
Hằng tuần, Viễn có ba buổi chiều đến chùa đón cô em gái đang học lớp Hán Văn do ni cô Diệu Linh hướng dẫn. Cô bé tự nhiên thích đến chùa để tìm tòi học kinh Phật, những câu thơ cổ bằng Hán tự. Lớp học là một cái chái của ngôi chùa cổ, vách được ghép bằng những tấm phên nứa, khi ánh nắng của buổi chiều rọi vào tạo nên một khoảng tranh tối tranh sáng rất đẹp mắt. Viễn có lần tò mò nhìn vào, chỉ độ mười cô học trò với một ni cô còn rất trẻ, đang nắn nót viết những chữ Hán trên chiếc bảng đen, bàn tay gầy với những ngón nhỏ khiến chàng ngây ngây một cảm giác lạ lùng, vì bàn tay ấy bỗng đẹp như một đóa sen trắng trên mặt ao sóng gợn.
Thấp thoáng trong chấn song bằng nứa là khuôn mặt của người sư nữ, thanh thoát và dịu dàng dưới nếp khăn màu xám nhạt, cả tấm áo màu lam nhạt cũng đủ làm nền cho đôi mắt đen long lanh như hai hạt nhãn. Từng chấm sáng lay động trên dãy bàn học bằng gỗ nâu sậm, tạo nên một bức tranh nửa sáng nửa tối rất tuyệt vời. Không biết vì yêu thích những đóa sen trắng, sen hồng nở trên ao nhà chùa, hay vì hình ảnh ni cô trong lớp học, Viễn thường đến đón em sớm hơn giờ tan học. Chàng bâng khuâng nhìn vào lớp học, len lén nhìn bàn tay xanh gầy của ni cô Diệu Linh trên bảng đen. Tâm hồn chàng lãng mạn quá, có ai lại đi yêu một bàn tay trên tấm bảng đen, rồi từ chỗ tơ tưởng ấy, có lúc Viễn đã bồi hồi khi mơ ước một lần được nắm và hôn lên bàn tay mềm mại ấy.
Ni cô Diệu Linh còn trẻ lắm, chỉ nhỉnh hơn cô em gái chàng độ vài tuổi, nhưng căn duyên nào mà lại gửi đời vào chốn thiền môn? Ai bắt Viễn phải băn khoăn tìm hiểu, nhưng mỗi câu chuyện về lớp học do cô em gái kể lại, đã khiến chàng tò mò hơn, và hai chữ Diệu Linh như chút gì êm dịu lắm cứ lởn vởn trong óc chàng. Những câu chuyện nho nhỏ từ cô em gái, hôm nào không chở em đi học và đón em về Viễn lại bâng khuâng buồn. Hôm nay ni cô Diệu Linh nấu chè hạt sen cho cả lớp thưởng thức. Hôm nay ni cô Diệu Linh dạy bài Nhân Quả cho cả lớp nghe. Hôm nay ni cô Diệu Linh trồng cây hoa ngâu gần bể nước. Lúc nào câu chuyện của cô em cũng là ni cô Diệu Linh, hình như từng lời nói, việc làm của ni cô Diệu Linh đều tác động lên tâm hồn cô em nhỏ, rồi thấm thía đi luôn vào lòng người anh trai.
*****
Đôi khi nhớ lại, Viễn cho rằng chuyện gì xảy ra trên cõi đời này, đều do cơ duyên mà tới, muốn cũng không được, chạy trốn cũng không xong. Đấy là chuyện tình cờ chàng lại gặp ni cô Diệu Linh trong giảng đường Đại học Văn khoa ngày đầu năm học, mắt nhắm mắt mở chạy vội đến trường vì dậy muộn. Viễn dáo dác tìm chỗ ngồi, và không ngờ lại len vào được một chỗ trống trong khu giảng đường gần đầy nghẹt sinh viên. Khi an vị, Viễn bỗng giựt mình khi thấy ni cô Diệu Linh ở ghế bên cạnh, nghiêm trang nghe giáo sư giảng bài, đôi mắt đen to tròn ấy thỉnh thoảng nhìn xuống tập giấy trắng trên mặt bàn, ghi ghi chép chép. Tự nhiên Viễn như bị cuốn hút vào bàn tay có những ngón tay xanh gầy của ni cô, mảnh dẻ và yếu ớt đến tội tình.
Nàng đi học. Ước gì Diệu Linh là một cô sinh viên Văn khoa bình thường như mọi người để Viễn không phải luống cuống, tấm khăn màu lam nhẹ trên đầu và chiếc áo tu hành đã là một hàng rào cản bước chân mạo hiểm của chàng vào khu vườn cấm. Phiền nỗi ở đời hễ cái gì càng khó lại càng kích thích lòng ham muốn, Viễn buồn cười ngẫm nghĩ đến những quả táo thơm tội lỗi trong vườn Địa Đàng thuở xưa, nếu là chàng thì không bao giờ bắt tổ tông loài người trả cái nợ “đồng lần” ấy . . .
Nhận ra người thanh niên vẫn hay tới chùa đón cô em là học trò của mình, ni cô Diệu Linh có vẻ hơi bối rối, nhất là đôi mắt kia tuy không nhìn cô với cái nhìn hỗn xược, nhưng dường như lúc nào cũng mang một vẻ đắm đuối. Cô mỉm cười. Lần đầu tiên Viễn lại bị cuốn hút vào nụ cười của cô, có lẽ nụ cười ấy dành cho cả thế giới chứ không riêng mình chàng, nhưng lúc ấy đầu chàng lẫn lộn, si mê đến nỗi cứ cho là cô đang mỉm cười với riêng mình, và nụ cười hiền dịu ấy, quả là một bông sen trắng vừa hé nở. Đẹp, đẹp quá, tất cả ở cô đều toát ra sự thanh cao của một đài hoa sen vươn lên trên mặt hồ, và mùi hương toát ra từ cô, cũng là mùi dìu dịu của đóa sen vừa hé nở. Suốt buổi học hôm đó, Viễn không nghe được bao nhiêu bài giảng của giáo sư, lòng ngất ngây sung sướng vì ngẫu nhiên chàng lại được ngồi gần ni cô Diệu Linh, người chàng thầm yêu trộm nhớ.
Oan nghiệt! Quả là oan nghiệt khi chàng đặt tình yêu không đúng chỗ, giá như khi hiểu được vậy mà chàng tìm cách để tránh đi cái vòng oan nghiệt ấy thì lòng chàng đã không phải ray rứt, thương hoài đóa sen trắng. Sau buổi học, Viễn vội vã đạp xe theo sau đuôi người sư nữ, buổi trưa trời mưa lưa thưa, chỉ đủ ướt những lá cỏ, Viễn thú vị nhớ mấy câu thơ của Phạm thiên Thư “....em tan trường về, đường mưa nho nhỏ”. Buổi trưa hôm ấy Viễn cảm thấy yêu đời làm sao, chàng ước rằng con đường cứ dài mãi ra thì ngôi chùa đã hiện ra trước mặt, bóng người sư nữ đã khuất sau hàng cây bồ đề trên lối đi trước cổng chùa.
Năm học ấy quả là đẹp quá, đẹp nhất trong đời sinh viên của Viễn. Chàng dự định trong tương lai, nếu không phải đi lính, Viễn sẽ đi dạy học, ngôi trường Trung Học của ông anh họ thế nào cũng dành cho chàng một chỗ. Từ hôm ấy Viễn chăm chỉ đến trường rất sớm, hồi hộp mong đợi bóng dáng nhỏ nhắn, mảnh dẻ của ni cô Diệu Linh, nụ cười e ấp khiến khuôn mặt cô bừng sáng lên như một đóa huệ trắng. Bây giờ có lẽ bao nhiêu thứ hoa trên đời này chẳng có thứ nào ví von được với dung nhan xinh đẹp ấy, chỉ có mùi hương của hoa sen và vẻ trong sáng của hoa huệ mới diễn tả được nét kiều mỵ trên khuôn mặt thanh tú của Diệu Linh. Ngoài ra, Viễn còn được thấy cô luôn, vì em gái vẫn chăm chỉ đến chùa học Hán tự. Ni cô Diệu Linh được cho ra ngoài học thêm vì lý do đó, là một ni cô trẻ tuổi, có học, cô cần có kiến thức rộng rãi để nghiên cứu và phổ biến giáo lý nhà Phật, đến với những Phật Tử có trình độ hiểu biết rộng, đạo Phật không thể chỉ đào tạo những ni sư thụ động, chỉ loanh quanh ở chùa trong nếp sống thanh đạm rau dưa để tìm Phật cho bản thân.
Viễn ôm mối tình câm lặng rồi cứ thắc mắc tại sao một người đẹp như ni cô Diệu Linh, có ăn học lại chịu gửi thân vào chốn tu trì buồn bã. Đầu óc tưởng tượng của Viễn đi xa hơn bóng dáng khiêm nhu của người sư nữ trẻ tuổi. Có khi chàng khoác cho cô chiếc áo dài màu tím hoàng hôn, có khi chàng nằm mơ thấy được ôm cô vào lòng âu yếm. Sau này chàng mới biết tại sao người ta lại cho rằng tư tưởng cũng dự phần trong việc làm cho con người xấu hay tốt, với những rung động phát nguồn từ một thân thể khỏe mạnh, có lúc chàng đã nghĩ về ni cô Diệu Linh bằng những mê say rất trần tục.
Năm đó Viễn thi rớt. Mộng được trở thành một giáo sư không thành, chàng sắp sửa phải lên đường nhập ngũ. Sắp đi lính, Viễn vẫn cứ loay hoay mãi không biết làm sao tỏ thật được nỗi lòng với Diệu Linh. Lặng lẽ ra đi hay là viết một lá thư cuối cùng, kẹp vào một cuốn sách Thiền mới xuất bản, có lẽ Diệu Linh sẽ đọc và hiểu được mối tình câm nín của chàng. Không gửi được lá thư tỏ tình cho Diệu Linh, Viễn nghe đời trống vắng vô vàn, và sự ra đi im lặng của chàng để rồi sẽ bị lãng quên, như một cơn gió thổi chiếc lá rơi xuống sân chùa, để rồi chẳng ai biết, chẳng ai hay. Viễn thấy lòng buồn bã khi ngày đi sắp tới, hình bóng của Diệu Linh vẫn ám ảnh mãi với những ngón tay thon dài gầy guộc, xanh xao làm Viễn xốn xang. Không chịu nổi những dằn vặt của tâm hồn, Viễn nhất định gửi đi lá thư tỏ tình mà cũng là lời từ biệt nếu như ni cô Diệu Linh trốn tránh mối tình bồng bột của chàng, để mai này chàng đi xa, sống hay chết, hình ảnh và mối tình của chàng ít là cũng đọng lại mãi trong tâm tưởng của người sư nữ.
Lá thư gửi đi để rồi vẫn chỉ là sự im lặng của ni cô Diệu Linh. Trước khi đi lính, Viễn có đến chùa lần chót, bây giờ lớp học chiều đã tạm ngưng nên cô em của chàng không còn đi học như độ trước. Buổi chiều cửa Phật không còn xôn xao những tiếng nói cười của những cô học trò Phật tử, nắng quái chiều hôm vẫn nghiêng vai chiếu vào lớp học những vệt nắng buồn ngây ngất, cảnh vật quanh chùa hình như cũng cô đọng một nỗi buồn yên lặng đến mênh mang.
Lần sau cùng Viễn đến chùa là một sáng cuối hè, nắng dịu, bất ngờ thấy ni cô Diệu Linh đang tưới cây trong vườn. Nét mặt cô nghiêm trang, hơi xanh xao trong tấm khăn màu xám nhạt. Bất chợt gặp Viễn, dường như cô hơi lúng túng, nửa muốn tiếp tục làm việc, nửa muốn đi vào hậu liêu, Viễn thấy đôi mắt cô thoáng một chút ngại ngùngï. Nhưng chỉ vài phút yên lặng, Diệu Linh đặt thùng nước xuống chân và chắp tay chào chàng, như thói quen vẫn chào những Phật tử đến thăm chùa. Viễn nhìn chăm chăm vào khuôn mặt dịu hiền của Diệu Linh, lấy hết can đảm để nói nốt những điều chàng muốn nói:
“Tôi đến thăm chùa lần chót, để từ giã. Ngày mai tôi đi rồi, biết khi nào mới được trở lại...”
Diệu Linh cũng im lặng, đôi mắt trầm ngâm nhìn ra mặt ao, những bông sen trắng nở lác đác lẫn trong những chiếc lá xanh, nhô mình lên trên mặt ao xanh biếc. Viễn nói:
“Tôi biết mình không phải, khi đem con tim đặt vào một nơi không phải chỗ của nó, xin cô tha thứ. Nhưng nếu không nói được điều này, có lẽ cả đời tôi sẽ im lặng với một nỗi buồn, nhất là đời lính sẽ đưa tôi đi xa, xa mãi, đầy những bất trắc của chiến tranh.”
Diệu Linh thở nhẹ, hai người đứng gần nhau đến nỗi Viễn ngửi được cả hơi thở của nàng lẫn với mùi hương sen. Cô nói nhỏ:
“Mình chỉ là bạn, bạn học. Mỗi người có một lý tưởng khác nhau, tôi đã chọn con đường này khi chỉ là cô bé mười lăm tuổi. Sau những đổ nát của gia đình, tôi nhìn ra cái khổ của kiếp người, và tôi cho là mình đã đi đúng con đường mình đã chọn lựa.”
Viễn hấp tấp ngắt lời cô:
“Tôi không quan niệm trốn tránh điều đau khổ để tìm cho mình một sự giải thoát, càng lăn vào nỗi đau khổ mình sẽ tìm ra hạnh phúc. Như người lính nếu không ra chiến trường lao vào vùng lửa đạn, tìm đâu ra sự bình yên cho người khác.”
Diệu Linh mỉm cười, nụ cười tự tin khi biết mình khó bị lay chuyển:
“Mỗi hạt cát có hình thể khác nhau, mỗi con người có một đời để sống. Nhưng nói chung, nếu mục đích nào cũng đem lại cho đời sự tốt đẹp của nó, thì không so sánh được hoàn cảnh này với hoàn cảnh kia. Không trả lời được lá thư của ông, tôi mong ông cũng hiểu cho rằng, đời tôi không thể thuộc về một người, vì nó là của chúng sinh. Con người tôi được sinh ra là để phục vụ mọi người, như ý nguyện của tôi từ khi chớm hiểu biết. Ông hãy quên tôi đi, thân phận nhỏ nhoi của một hạt cát.”
Những lời lẽ vừa từ tốn, vừa quyết liệt của ni cô Diệu Linh khiến Viễn lặng người, một chút hối hận dâng lên trong lòng, chàng tự trách mình quá bồng bột đã phá vỡ sự yên tĩnh trong tâm hồn Diệu Linh. Nhưng thôi, “thà như giọt mưa, rớt trên tượng đá, có còn hơn không, có còn hơn không...”, chưa bao giờ chàng lại cảm phục được ý thơ của người làm thơ như lúc này. Cho đến giây phút đó, chàng vẫn bướng bỉnh cho rằng chính chàng đã biết sống, can đảm sống và can đảm nói những điều mình mong mỏi. Còn con đường tu hành của Diệu Linh, chẳng qua chỉ vì bi quan, yếm thế, thấy cái khổ của đời đã vội chạy trốn để tìm sự giải thoát.
Trước khi từ biệt, hai người còn đứng lại trước sân chùa, đôi mắt dịu dàng của Diệu Linh vẫn nhìn ra chiếc ao sen có những bông sen trắng, dường như cô muốn gửi hết nỗi buồn của sự biệt ly, vào những đóa hoa vô thường nơi cửa Phật. Hình ảnh cha mẹ, anh em đã chết vì một quả đại bác rớt vào thành phố một đêm mùa Xuân năm nào như vẫn còn đó, trong khi cô bé may mắn thoát được vì đi thăm bà ngoại của cô ở một thành phố khác, được bà giữ lại vài hôm để bà cháu hủ hỉ. Âu là định mệnh, ông Trời đã sắp xếp quá đau buồn để cô bé mười lăm tuổi ở lại trần gian có một mình, một mái gia đình đang đầm ấm hạnh phúc bỗng trong một đêm chỉ còn là cảnh tang tóc, tử biệt. Từ đấy, Diệu Linh về ở với bà ngoại, nhà ở gần một ngôi chùa. Ngày nào sau giờ học, Diệu Linh cũng sang chùa để gần gũi với mấy ni cô đang trụ trì trong ngôi chùa nhỏ vùng ngoại ô, cô bé đã tìm được tình yêu thương, nỗi chia xẻ cho thân phận một cô bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cô cũng hằng ngày nhìn thấy những mất mát tương tự, những “sinh ly tử biệt” giữa một đất nước chiến tranh bày trải trước mắt. Bởi vậy khi bà ngoại qua đời, Diệu Linh học xong Trung Học, cô bé cởi chiếc áo trắng tuổi học trò để khoác cho mình chiếc áo màu lam nhạt. Màu áo của sự tĩnh lặng, của khiêm nhu và chịu đựng, cô xa dần những phồn hoa không thực của cuộc đời muôn mặt.
Trong yên lặng ni cô Diệu Linh hồi tưởng một mình về dĩ vãng. Những bày tỏ sôi nổi về tình yêu của chàng sinh viên trẻ đứng trước mặt cô, mai đây chỉ một thời gian sẽ trở thành người lính. Người ấy sẽ đi đâu, cuộc chiến sẽ đem anh ta đến phương trời nào, những đạn bom, những chiến trường khét mùi thuốc súng, anh ta có trở về?
Bất chợt giây phút ấy, cô nghe tiếng nói êm đềm của người thanh niên si tình kia:
“Hôm nay đến chùa vào buổi sáng, tôi mới thấy rằng hoa sen đẹp quá, mà hương sen thì thanh khiết vô cùng. Diệu Linh, cô nhìn xem hạt sương còn đọng trên chiếc lá sen, đẹp như một viên kim cương diễm lệ. . .”
Đôi môi Diệu Linh mấp máy, cô nói khẽ lắm, nhưng câu nói buổi sáng hôm ấy như đọng lại trong tâm tư Viễn suốt một đời không phai:
“Vâng thưa ông, những giọt sương chỉ đẹp khi nó nằm trên chiếc lá sen, dưới ánh mặt trời mà thôi. Ông để nó trên tay, nó cũng chỉ là một giọt nước.”

* * *
Viễn nhập ngũ. Bỏ lại đời sinh viên và căn gác xép bừa bộn những kỷ niệm một thời tuổi trẻ. Bỏ lại tất cả để đi vào một cuộc đời khác, đời lính nhiều tập tành gian khổ nơi quân trường, và khi ra trường được thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến. Khi ấy, chàng mới thấu hiểu được những đau khổ của con người, mới thực sự đồng cảm với ni cô Diệu Linh, và thông cảm với cô khi chọn con đường tu hành để dâng hiến cuộc đời cho tha nhân.
Những ngày lặn lội hành quân trên vùng Đồng Tháp Mười, sông rạch chằng chịt nơi vùng đồng bằng tôm cá, lúa gạo đầy ắp nhưng đời sống phập phồng trước lằn tên mũi đạn. Có những nơi chàng đi qua, rừng dừa sơ sác và những ao truôm đầy hoa sen, hoa súng. Trời vẫn ban cho trái đất chút tươi mát của cỏ cây, nếu không, trước mắt chàng tất cả những vùng chàng đi qua, con người như ngơ ngáo chờ đợi cái chết đến không biết đâu mà tránh. Giữa tên bay đạn lạc, đôi khi lòng chàng vẫn ngất ngây vì cảnh đẹp của một ao sen miền thôn dã, mà những đóa sen trắng, hồng, vẫn phảng phất trong gió mùi hương sen rất dịu dàng. Những lúc đó lòng chàng lại nhớ đến ni cô Diệu Linh, trong lần nghỉ phép khi sắp ra đơn vị, chàng có đến chùa nhưng được biết ni cô Diệu Linh đã đi tu học ở một nơi khác, không ai nói cô đi đâu, chỉ có mình Viễn mới hiểu được sự thay đổi này.
Hai năm vào lính đã đào tạo cho Viễn sự trưởng thành, để thấu hiểu và phân biệt thế nào là sự đau khổ và hạnh phúc. Viễn đã nhìn thấy cái khổ của người dân trong vùng xôi đậu, Viễn đã nhìn thật gần xác anh em đồng đội bầy nhầy, nát bấy, méo mó, giá lạnh trong những tấm “poncho” nhà binh, những đôi mắt thất thần của trẻ con, những tiếng khóc bằn bặt, đôi vai gầy run run của bà mẹ già gục xuống trên xác con, và vành khăn trắng quấn trên đầu người vợ trẻ. . ..
Giây phút ấy chàng hối hận vô cùng, chút nữa thì Viễn đã lôi kéo ni cô Diệu Linh vào nỗi khổ này, nếu như ngày ấy. . . Ôi mỗi ngày thức dậy là chờ chực những khổ đau sẽ tới, thì ra Diệu Linh đã nhìn ra và chọn lựa đúng con đường của nàng, mà đối với tâm hồn bồng bột của tuổi thanh niên, Viễn cho rằng ít ra một lần, chàng sẽ là giọt mưa rớt trên tượng đá. Cũng may, may thật là may, hình ảnh ni cô Diệu Linh vẫn ở trong trái tim chàng, nhưng không bị chàng giữ lấy một mình và lôi kéo vào nỗi đau khổ giữa lằn ranh sống, chết của người lính. Chỉ tiếc rằng chàng đã bồng bột làm khuấy động tâm hồn của người sư nữ trẻ tuổi ấy, với cái ích kỷ của đàn ông, biết đâu rằng dù Diệu Linh quyết chí gửi đời mình vào cửa Phật, nhưng tâm tư cô làm sao khỏi có lúc không nghĩ về Viễn.
Viễn bị thương trong một lần hành quân chạm địch, chàng bị thương khá nặng, phải đưa về bịnh viện Cộng Hòa dưỡng thương một thời gian dài. Bây giờ mới là lúc Viễn nhìn ra cái đau khổ của thân xác, của chính mình và của anh em đồng đội trong Quân Y viện, chàng lại càng hiểu ra cái khổ của kiếp người, cái mất còn của cõi nhân gian. Chồng chất lên đời sống đầy rẫy những khổ đau này nối tiếp những khổ đau khác, chàng lại càng hay nhớ đến khuôn mặt hiền dịu và những lời nói êm đềm mà thấm thía của ni cô Diệu Linh.
Khi chiến tranh chấm dứt, Viễn còn trải qua một thời gian nữa trong tù, đói, khát, bịnh tật, ân oán chập chùng nơi lòng người, kẻ trả người vay, tiếp tục nối tiếp bởi con người khó gần gũi nhau, thương yêu nhau. Những lúc quá buồn cho tình đời, tình người, Viễn thường ngẫm nghĩ đến những đóa sen trắng trong cái ao gợn màu rêu trước sân chùa năm xưa, nhớ đến Diệu Linh năm nào đã sớm nhìn ra “tu là cội phúc, tình là giây oan”.

Người đàn ông tóc bạc, dáng đậm chắc nhấp một ngụm trà sen thơm ngát, rồi tiếp tục kể nốt câu chuyện của ông cho bạn nghe:
“Sau hơn hai mươi năm, tôi về thăm quê nhà lần đầu tiên. Nhớ nhà lắm anh ạ, nhưng có nhẽ lại nhớ cái tuổi trẻ của mình, căn nhà, con đường, trường học, và ngôi chùa. Ừ, ngôi chùa ngày xưa thuở tôi còn là một sinh viên văn khoa trước khi đi lính, có bóng dáng ni cô Diệu Linh mà tôi đã yêu tha thiết. Đến bây giờ tôi mới thấy không có gì tàn nhẫn bằng thời gian, nó tàn phá tất cả, tôi gần như không còn tìm được những gì thân quen của nhiều năm tháng cũ. Đấy, kể từ ngày tôi ra đi, hơn hai mươi năm rồi anh ạ, từ một người lính trẻ thuở nào, nay đã là ông lính già đi tìm quá khứ, nhưng quá khứ cũng không còn.
Sách Phật dạy rằng chẳng nên ngậm ngùi nuối tiếc dĩ vãng, vì dĩ vãng thì đã qua, tương lai cũng chưa biết, chỉ còn có hiện tại. Hiện tại thì tôi có một gia đình, nhưng không hạnh phúc, tôi như người lạc loài vì mãi vẫn không bắt kịp cái hiện tại xô bồ này, quay trở lại tìm dĩ vãng thì cũng muôn đời không tìm thấy. Buồn lắm anh ạ!”
Người bạn già vẫn yên lặng lắng nghe, tôn trọng nỗi buồn chất ngất trong lòng bạn. Ông lơ đãng nhìn đóa sen nở trong chiếc hồ nhỏ, những cánh hoa trắng muốt, ủ trong lòng hoa là những chiếc nhụy vàng. Hạnh phúc nhỏ nhoi thế kia mà bạn ông không nắm được, mà những đau khổ lại vẫn không rũ ra được. Tiếng nói của người bạn cũ vang lên trầm trầm bên tai ông:
“Tôi đi về quê nhà, như đi tìm lại cái đau khổ của chúng sinh trong mái chùa cong, chứ không phải tôi định đi tìm lại ni cô Diệu Linh nơi mái chùa đó. Đấy là một cơ sở nuôi trẻ mồ côi và khuyết tật, cô em gái của tôi đưa tôi đến mà không hề báo trước cho tôi biết rằng ni cô Diệu Linh vẫn ở trong ngôi chùa ấy. . . .”
Người bạn nhắp một ngụm trà, ngụm trà vừa nhấp vào hơi đắng nhưng cái hậu của trà như đọng lại nơi cuống họng ông vị ngọt thật dễ chịu:
“Thế là “quy cố hương” lại “ngộ cố tri”, quả là trái đất vẫn tròn.”
Cả hai cùng cười, ấm trà đã vơi đi một nửa:
“Tôi ngỡ ngàng khi gặp lại ni cô Diệu Linh nơi mái chùa xưa. Bây giờ cô đã chững chạc và già dặn với thời gian, nhưng dáng vóc vẫn gầy gò, nhanh nhẹn, đôi mắt của cô không còn đen nhánh nét tươi vui của thời trẻ tuổi, nhưng khuôn mặt cô vui vẻ, tự tin. Gặp lại tôi cô không hề bối rối, đến nỗi tôi tưởng là cô không hề nhớ đến những lời tỏ tình của tôi ngày xưa, vì nó đã thuộc về dĩ vãng. Cô dẫn tôi đi thăm cơ sở của chùa, thăm mái nhà tình thương mà ở đó là những đứa bé mồ côi, tàn tật được săn sóc bởi tình thương của những người tu hành. Bao nhiêu năm trở về, điều thú vị nhất đối với tôi là cái ao sen của chùa vẫn còn đó, đầy những đóa sen tàn, hoa với nhụy tả tơi rụng trên mặt nước. Tôi nghĩ đến kiếp người, rồi có lúc nó cũng tả tơi như những đóa sen tàn, tôi hình dung lại khuôn mặt xinh đẹp của ni cô Diệu Linh năm xưa, dĩ nhiên nó đã thay đổi rồi với thời gian.”
Người bạn cất tiếng hỏi:
“Anh thất vọng ư? Nếu là tôi, tôi sẽ không bao giờ đi tìm những hình bóng cũ...”
Nghe có tiếng cười vang lên trong nắng sớm:
“Đừng nói như vậy khi anh chưa biết tôi tìm được gì trong chuyến trở về ngày hôm ấy. Trở lại câu chuyện cũ anh nhé. Sau khi đi thăm các cháu bé, tôi trở lại nhà khách của chùa để nghỉ chân, ni cô Diệu Linh đã cho tôi thưởng thức bát chè hạt sen tuyệt trần đời anh ạ. Cô cho biết đó là những hạt sen thu hoạch sau mỗi độ sen tàn, cô để dành nấu chè đãi khách thập phương. Lúc ra về, tôi có trở ra ngắm lại vườn sen và bất chợt cúi nhìn xuống ao, tôi thấy bóng mình rung rinh dưới đáy nước. Không tìm đâu ra hình bóng của thuở đến chùa lúc ngoài hai mươi tuổi. Những đóa sen tàn, tàn đi để rồi còn lại những gương sen, có những hạt sen bùi thơm như bát chè của ni cô Diệu Linh đãi khách thập phương. Tôi lại nghĩ đến ni cô Diệu Linh, đời cô quả là một đóa hoa vô thường, dẫu đến khi tàn vẫn không sống một đời vô ích...”
Nguyên Nhung

Vầng trăng cổ tích...
Em đã ngắm trăng tận cõi lòng,
Với em , trăng chẳng phải hư không.....
Ánh trăng huyền diệu, vầng trăng sáng,
Lan toả bầu trời sao mênh mông !

 
Em đem ánh sáng vào tăm tối,
Khơi gợi lòng anh cổ tích xưa....
Ánh trăng với cả niềm khao khát ,
Thắm đượm hồn anh phép nhiệm mầu !!

 
Anh trở về đây ngắm trăng mơ ,
Không còn em nữa dưới trời thơ.....
Nàng tiên huyền thoại đâu còn nữa ?
Dưới ánh trăng vàng, anh ngẩn ngơ....!
NM


Người Nhìn Thấy Trăng Thật
- Đêm nay ra đê chơi chúng mày nhé. Đêm nay trăng đẹp lắm. Tiếng các cô gái làng đi làm đồng về qua ngõ vọng vào. Sơn chợt tỉnh. "Đêm nay có trăng". Tiếng thì thào của ký ức vọng về từ đâu đó. Sơn dò dẫm bước ra ngoài sân. Anh từ từ ngửa mặt lên trời. Trước mắt anh mênh mông một màu tối đục. Đã ba năm nay anh không nhìn thấy gì. Một trận ốm làm mắt anh lòa đi rồi dần dần tối lại. Cũng gần ba năm trước, các bác sĩ chuyên khoa mắt thực hiện cuộc phẫu thuật mắt cho anh, họ đã thất bại. Anh bỏ dở sự nghiệp học hành trở về quê. Nhiều lúc anh nghĩ đến cái chết. Anh quên mọi vui thú, mọi gặp gỡ, mọi trò chuyện.
"Đêm nay có trăng". Câu nói đó như một tiếng gọi. Nó thì thầm dẫn anh ra khỏi nhà. Anh lần ra đê và xuống bến sông. Gió hạ về đêm mát rượi thổi tung tóc anh. Anh ngước mắt lên lần nữa. Trời trong mắt anh tối thẫm. Anh bước đi chuếch choáng. Anh đã thấy mình ở rất gần sông bởi hơi nước mát rượi trong gió. Anh như nghe thấy tiếng sông chảy. Tiếng chảy dịu dàng làm tan đi những mệt mỏi, u buồn. Anh cởi áo, bước từng bước xuống dòng sông. Nước sông đêm chầm chậm dâng lên trong cơ thể anh. Anh nhoài người bơi. Từ trên đê thoang thoảng vọng lại tiếng cười của các cô gái đi chơi trăng, hóng gió. Cứ thế, anh như tan vào nước sông và thênh thang trôi. Ý nghĩ và da thịt anh như mê man trong nước mát rười rượi và sự tĩnh lặng mênh mang của trời đất đầy trăng.
- Ai thế này?
Một tiếng con gái thảng thốt làm Sơn giật tỉnh. Anh dừng lại, ngơ ngác. Xung quanh anh trời đất mờ đen. Anh lặng lẽ khỏa nước đi về phía tiếng người vừa cất lên.
- Ai thế này? Người ta đang tắm mà cứ sấn đến làm gì?
Sơn chợt hiểu. Có một cô gái đang tắm đêm. Anh vừa thấy xấu hổ vừa thấy cay đắng. Anh vội nói:
- Xin lỗi cô. Tôi... tôi không nhìn thấy. Tối quá.
- Trăng vằng vặc thế này mà bảo tối. Giọng cô gái đầy vẻ tức giận.
- Tôi... tôi, tôi bị... hỏng mắt.
Dòng sông chợt lặng phắc như không còn một giọt nước sau câu nói của Sơn.
- Tôi xin lỗi anh - Giọng cô gái rất khẽ - Tôi không biết.
Dòng sông lại lặng phắc sau câu nói của cô gái.
- Con gái mà lại tắm đêm một mình thế này, không sợ à?
- Tôi thích thế. Mà có gì phải sợ.
- Cô ở trên xóm Sóc à?
- Vâng.
- Lâu lắm tôi mới lại tắm sông, đã gần ba năm nay rồi, từ ngày mắt tôi bị hỏng.
Sau câu nói đó, hai người cùng im lặng. Họ nghe thấy tiếng những giọt nước chảy từ tóc họ xuống mặt sông.
- Trăng đẹp lắm phải không cô?
- Vâng. Cô gái đáp sau hồi im lặng rất lâu.
- Cô có thể kể cho tôi nghe trăng đêm nay đẹp như thế nào. Ba năm nay, tôi không được nhìn thấy ánh sáng, nhất là thấy trăng. Trước mắt tôi là màn đêm dằng dặc. Nhiều lúc tôi nghĩ lấy dao rạch mắt thì tôi có thể nhìn thấy ánh sáng...
- Anh đừng nói dại mồm - Cô gái vội kêu lên.
- Cô kể cho tôi nghe đi!
Cô gái lại im lặng rất lâu. Cuối cùng cô nói khẽ:
- Vâng, tôi sẽ kể cho anh, nhưng kể như thế nào nhỉ? Hôm nay là mười ba, sắp rằm rồi, trăng đêm nay...
Sơn từ từ ngước lên. Gió đêm như lòng sông thức dậy và khẽ rướn mình. Bầu trời mênh mang! Trăng như đang trôi miên man. Và hình như có những âm thanh như tiếng những chiếc chuông bạc, chuông vàng mỏng tang đang trôi bất tận không bờ bến. Sông như không còn đôi bờ đất nữa. Nước sông như dâng ngập cả đất trời hay đó là ánh trăng chảy giàn giụa xóa đi mọi giới hạn. Những lá cỏ bên bờ sông kia kìa. Chúng đang hắt những tia sáng trong vắt. Và xa hơn một chút là những vòm cây như những vòm ánh sáng xanh mơ màng và run rẩy. Và xa nữa là dãy núi. Dãy núi đang thiêm thiếp trong trăng. Cả dãy núi như bằng kim cương. Và xa nữa, xa nữa, những dải mây mỏng, ánh bạc, run rẩy và mơ hồ như đang trôi về xứ sở của thần thoại. Và gần lại, gần lại, dòng sông như một dòng ánh sáng chói lòa. Và trong dòng nước ấy có những con cá làm bằng pha lê...
Sơn như trôi đến bến bờ của xứ sở trăng. Anh đưa bàn tay về phía trước. Những ngón tay của anh run rẩy. Trước anh, một thế giới của ánh sáng lại từ từ mở ra bất tận.
- Thôi anh lên bờ đi kẻo lạnh. Mình tắm lâu quá rồi. Em phải về.
- Đừng - Sơn vội kêu. Anh vừa chợt thoát ra khỏi cơn mê ánh sáng. - Cám ơn em, anh cám ơn em...
- Về đi anh, lạnh lắm rồi đấy, ở dưới nước lâu ốm mất.
Cô gái nói và đi lên bờ.
- Nhà em ở ngay đây thôi. Anh trở lại bến nhà anh đi. Anh cứ đi dưới sông dễ hơn đi trên bờ.
- Anh muốn gặp lại em. Tối mai em có xuống sông không?
Im lặng.
- Anh muốn nghe em kể...
- Vâng. Em sẽ xuống bến.
Đêm hôm sau. Sơn lại ra sông và bơi về phía bến xóm cô gái.
- Anh đấy à?
Tiếng cô gái vang khẽ trên mặt sông.
- Anh đây.
- Mình lên bờ ngồi, kẻo ở lâu dưới nước lạnh đấy.
Sơn đi theo tiếng khỏa nước của cô gái lên bờ. Họ ngồi xuống bãi cát. Và sau một hồi im lặng, cô gái lại kể cho Sơn nghe tất cả. Rồi cứ thế, theo lời kể của cô, Sơn lại trôi mê man vào thế giới của ánh sáng. Và anh lại giật mình thoát ra khỏi cơn mê khi nghe thấy tiếng cô giục anh về.
- Tên em là gì?
- Đừng hỏi tên em. Chúng ta gặp nhau thế này là được rồi.
Và cứ thế, đêm đêm Sơn lại xuống sông và bơi về phía bến xóm cô gái. Họ lại ngồi bên nhau.
- Cuối tuần trăng rồi - Giọng cô gái thoáng buồn.
- Đêm nay trăng ở xa lắm...
Trăng cuối tháng buồn hơn. Dòng sông như chảy chậm hơn. Những con cá sông bơi chậm hơn. Và cây đôi bờ như thổn thức hơn. Mây như nặng hơn và gió như không muốn rướn mình nữa.
Đêm sau đó, Sơn lại gặp cô gái. Họ lại ngồi xuống bãi cát. Cô nói:
- Đêm nay em không kể cho anh nghe nữa. Mà anh hãy tự kể cho em nghe.
Nói xong, cô gái đặt bàn tay mình lên tay anh, Sơn quay về phía cô. Anh như chợt thấy gương mặt cô hiện lên mỗi lúc một rõ.
- Anh kể đi, kể đi anh...
Tiếng cô gái thì thầm như từ trăng vọng xuống. Sơn ngước mắt lên. Và như từ đáy của bóng tối, vầng trăng lặng lẽ hiện lên và lặng lẽ tỏa sáng dần dần.
Khi Sơn dứt lời, cô gái ôm lấy cánh tay anh nói như thở:
- Anh ơi, anh nhìn đúng trăng rồi đấy, thật mà... Anh ơi!
Sơn đưa tay vuốt mái tóc cô gái:

 Em tên là gì? Sao em lại không cho anh biết tên?
- Đừng hỏi tên em. Nếu anh cứ muốn biết tên em, em sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa. Anh hứa với em là không được hỏi tên em, anh nhé!
- Anh hứa.
Và rồi những đêm tiếp theo, cô gái ngồi nghe Sơn kể. Giọng anh rành mạch, mơ hồ, reo vui và buồn bã. Một đêm khi anh vừa dứt lời kể, anh nghe tiếng cô gái khóc. Cô cố kìm tiếng khóc nhưng Sơn vẫn nghe được.
- Làm sao em khóc? - Sơn hỏi hốt hoảng.
- Không... không... Ngày mai chúng ta không gặp được nhau nữa. Đêm mai gần sáng trăng mới lên.
- Nhưng anh không thể không gặp em được.
- Anh hãy nghe em nói đây. Anh hãy trở lại bệnh viện. Bác sĩ sẽ mổ mắt cho anh một lần nữa.
- Không còn hi vọng gì đâu - Giọng Sơn buồn bã.
- Nhất định lần này họ sẽ chữa khỏi mắt cho anh. Anh phải nghe em, đừng phụ lòng mong muốn của em. Anh hứa với em đi!
- Anh hứa.
Đêm ấy họ ở bên nhau rất lâu, im lặng. Cả hai cùng hướng về phía vầng trăng cuối tháng xa xăm. Gió vẫn thì thào đi qua họ.
- Anh về đi. Khuya rồi.
Cô gái nói và đứng dậy. Sơn đứng lên theo và bước lại gần cô gái. Anh thấy cô đang nhìn anh. Gương mặt cô đẹp như vầng trăng sau một lớp mây trắng mỏng. Anh thấy đôi mắt cô đẹp lạ lùng và thăm thẳm. Anh bước lại gần cô hơn nữa. Và anh thấy hơi thở cô nóng hổi phả vào một vùng đâu đó trên gương mặt anh thì cô nói:
- Về đi anh. Khuya lắm rồi. Em cầu chúc anh may mắn. Anh về đi...
Nói xong, cô vội quay người và bước đi như chạy về phía xóm cô dưới chân đê. Anh cảm thấy như cô đang vừa chạy vừa khóc.
Các bác sĩ vui mừng khi ca mổ mắt lần thứ hai cho anh thành công. Trước ngày ra viện, họ hỏi anh trong suốt thời gian từ lần phẫu thuật trước đến lần phẫu thuật này anh đã điều trị bằng những loại thuốc nào. Khi anh trả lời họ rằng anh không hề dùng bất kỳ một loại thuốc gì thì họ không tin. Bác sĩ trưởng khoa nói với anh: "Phải có một loại thuốc rất tốt mới làm cho một số cơ quan chức năng của mắt anh hồi phục. Bởi thế ca mổ của chúng tôi mới thành công. Anh hãy nói cho chúng tôi biết để chúng tôi có thể áp dụng giúp những bệnh án như của anh". Anh im lặng hồi lâu và khẽ nói: "Chỉ có một người con gái. Người ấy đã mang đến cho tôi niềm khao khát nhìn thấy ánh sáng và đã cho tôi thấy vẻ đẹp thật của ánh sáng".
Anh trở về làng. Tin anh chữa khỏi mắt sau ba năm bị mù lan khắp vùng. Sau một ngày ở nhà tiếp bà con hàng xóm đến chúc mừng, anh vội đi tìm cô gái. Anh không có một thông tin gì về cô ngoài một chi tiết là cô thường xuống sông tắm vào những đêm trăng mùa hạ, nhưng khi hỏi thăm những người xóm bãi của cô gái, anh không dám nói cho họ biết chi tiết ấy. Cuối cùng, vì khao khát gặp cô gái và để được nhìn thấy cô, anh phải nói ra sự thật ấy về cô.
Nghe anh nói xong, mọi người à lên một tiếng, nhưng sau đó họ nhìn nhau im lặng. Cuối cùng, một người già bước đến trước anh. Ông nhìn anh vừa ái ngại vừa thông cảm:
- Nó là con Nhung - ông nói khẽ.
- Bác làm ơn chỉ cho cháu nhà của Nhung - Sơn vội vã nói như sợ ông già biến mất.
- Nó bỏ nhà đi đâu mấy ngày nay rồi.
- Cô ấy đi đâu hả bác? Tại sao cô ấy lại bỏ đi?
- Không ai biết nó đi đâu. - Ông già thở dài - Và cũng không ai biết vì sao nó bỏ đi. Tội nghiệp con bé, nó bị mù từ thuở lọt lòng mẹ!
  Nguyễn Quang Thiều
Ngôi sao xưa....
 Anh Đông hải và em là Minh hải,
Em suốt đời bay mãi với trời sao...
Anh vẫn luôn thánh thiện như hôm nào,
Dưới chân Chúa anh vinh danh linh mục !

Alter Christus không còn là Đông hải,
Em giờ đây cũng chẳng phải Nữ hoàng......
Sau chuyến bay em vẫn bước lang thang,
Với nghi vấn Yêu ai 0 Minh hải ?

Đông hải rộng bao la còn sóng vỗ ?
Minh hải buồn thương nhớ kỹ niệm xưa..?!
Triệu lượt khách đi , triệu lượt khách về....
Sao chẳng thấy sóng nào đưa anh đến !
..........................
Có ai tát cạn Biển đông ?
Để cho Biển đẹp đi tìm sóng xưa !
Trời khuya trời đã vào mưa,
Trong em lấp lánh sao xưa rạng ngời !!
NM

 Nữ hoàng

Tôi chẳng còn nhỏ dù chưa hẳn lớn. Đang lớn. Tôi mới độ tuổi “bẻ gãy sừng trâu” mà thôi. Khó chịu khi “bị” gọi là cô bé nhưng cũng chẳng ưa gì khi “được” tôn là… chị. Ngược đời và bướng bỉnh vậy đó. Thời gian như chạy nước rút. Thế mà đã mười năm rồi. Anh có giận Nữ Hoàng không?                                        
Vốn năng động nên tôi chẳng ưa gì mấy “ông” lầm lì, cả ngày chẳng thèm nhếch môi lấy nửa lời. Tôi từng “thề độc” là không bao giờ chịu đội trời chung chứ đừng nói chi “hảo tâm” mà hé ngăn tim cho loại người như vậy. Đời làm gì có loài hoa nào cho ong Vò Vẽ!
Chẳng hiểu sao ba má tôi “rước” cái “anh thầy” mặt còn búng ra sữa ấy về nhà dạy kèm cho thằng Út nhà tôi nữa. Dĩ nhiên “người ấy” hơn tôi có đến dăm bảy lần mùa Thu lá úa, dám chưa có mảnh tình rách nào vắt vai! Nó học đâu đến nỗi mà phải kèm với cặp chi cho “rách việc” không biết. Người ta ít ra cũng có cái tướng, đằng này thì… Thánh Thần Thiên Địa ơi, người như cá hố, đã vậy tóc lại để dài, trông càng “tê-nặng” (tệ). Thấy mà… “thương” luôn. Gương mặt “hảm tài ấy thấy “dễ xa nhau” ghe đi! Tôi thử liếc xem “anh thầy” có nhìn tôi mỗi lần tôi xuất hiện hay không nhưng vô ích. Không phản ứng nào xảy ra. Xí! Làm bộ làm tịch. Có hỏi chắc gì “được” tôi trả lời? Bản tính tự ái bẩm sinh của con gái trong tôi trỗi dậy cực mạnh. Tôi “ném” cho “anh thầy” hàng loạt những “tia mắt cực nóng”, hơn cả các nhà thôi miên, hơn cả dạng “những con mắt mang hình viên đạn”!
Lâu ngày quen mắt, nhìn đỡ “gai” dần. Cứ giờ tôi đi học về là giờ “anh thầy” lên lớp cho thằng Út. Lên lầu thì tôi phải đi qua nơi hai thầy trò “làm việc”. Chiếc cầu thang “độc đạo” ấy vô tình trở thành đồng lõa với thời điểm tôi lên lầu. Khó chịu mấy cũng phải cắn răng ráng mà chịu!
Có lần nhìn vở học thêm của thằng Út, tôi thấy “mẹo” để dễ nhớ các nguyên âm trong Anh ngữ: 0 Yêu Ai (0 đọc là “không”). Trừ Y là bán nguyên âm, còn lại là 5 nguyên âm. Quái! Gã “anh thầy” này ranh ma ra trò. Thấy cũng hay hay, dễ nhớ. Tò mò, tôi coi thêm và nhớ được vài tiếng Mỹ lóng như: Motor-Mouth là người nói nhiều, Ass-Kisser là người nịnh hót, Wino là người nghiện rượu,… Tôi bật cười một mình vô cớ (nhưng không hề vô duyên đâu nhé!). Kể ra “anh thầy” này cũng không đến nỗi “dỏm” như tôi tưởng. Thành kiến giảm đột ngột như hạ áp suất nhiệt đới.
Lật lật vài trang nữa, tôi giật mình khi thấy tấm linh ảnh Lòng Chúa Thương Xót. Sau này tôi “điều tra” thằng Út thì nó nói thầy tặng nó tấm linh ảnh và khuyên nó cố gắng tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, mỗi ngày cứ thường xuyên đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài! Vì cuộc Khổ Nạn đau thương và Phục sinh của cúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới”. Vậy thôi, rất đơn giản mà hiệu quả. Thì ra “anh thầy” cũng dân Công giáo như tôi. Nhưng không ngờ nhìn vậy mà cũng đạo đức dữ!
                                 
Hôm đó, “chẳng may” ba má đi công chuyện, cho cả thằng Út theo. Đột xuất nên không kịp báo cho “anh thầy” biết trước được. Chiều đi học về thấy “anh thầy” đang nhấn chuông cổng. Không dưng tôi thấy… ngại. Nhưng không lẽ bất lịch sự đến nỗi cứ mặc kệ “anh thầy”? Xưng hô là gì? Là “anh” thì hơi kỳ, là “thầy” thì… (Tôi vậy mà gọi “người kia” là thầy ư? Còn khuya! Không bao giờ! Trừ khi bùng nổ đại chiến thế giới thứ ba). Suy đi nghĩ lại nhanh như chớp, thôi thì dù gì cũng là thầy của thằng Út, gọi “thầy” thay thằng Út chứ có phải mình “tôn xưng” đâu mà… sợ! Tôi căng thẳng:
– Chào thầ… ầy!
“Anh thầy” quay sang tôi, mặt lạnh như nước đá cục, không thèm nhếch mép cười “miểng chai” một miếng dù chỉ là cười gượng. Keo dễ sợ! Thật là phí nụ cười của tôi. Người gì mà… khó chịu! May mà còn được câu “chào cô”, rồi tiếp:
– Khôngcó ai ở nhà sao cô?
Máu tức dồn lên tới chỏm đầu, tôi “phang” liền:
– Nhấn chuông không ai ra thì biết. Còn phải hỏi?
– Xin lỗi cô. Hôm sau tôi tới.
“Anh thầy” dắt xe đi. Tôi chợt thấy “tội nghiệp” nên “lòng chợt từ bi bất ngờ” và “bố thí” thêm một câu:
– Thầy… vô nhà đã.
– Cảm ơn cô. Tôi về thôi.
Tôi “phịa” nhanh như máy vi tính:
– À, thắng Út nhờ… em… hỏi thầy điều này (Dĩ nhiên chữ “em” được phát âm rất “mỏng” và nhẹ như không nghe thấy. Ngu gì nói lớn!).
Thực ra đâu phải vậy. Tôi cũng chẳng hiểu sao tôi lại có thể “phịa” mau và logic đến thế. Có trời mới biết! Kể ra tôi cũng “đáng nể” thật. Cuối cùng, “anh thầy” đành “ngoan ngoãn” như chiên vậy. Tôi định bụng phá “ổng” cho… bõ ghét! Tôi cười thầm: “Sập bẫy rồi, chàng khờ ạ! Làm thầy thằng Út chứ đâu phải thầy của Nhỏ này. Tướng này có vợ, không bị “ăn hiếp” cũng coi chừng bị… “cắm sừng”. Coi đàn ông vậy chứ “nai tơ” quá. Dễ mắc lừa con gái “dụ” thí mồ đi!
– Thầy ngồi một lát.
Hồi lâu sau tôi mới ra với hai ly nước chanh trên khay. Một chiếc muỗng đã được “tẩm độc”. Tôi “tử tế”:
– Mời thầy dùng nước.
“Anh thầy” khẽ gật đầu. Nghèo nói dễ sợ! Tôi vừa giục vừa cầm muỗng nhẹ khuấy ly của tôi và nói:
– Đường còn lắng dưới ly đó thầy.
“Anh thầy” cầm muỗng. Trúng độc kế. Tôi vừa muốn bật cười vừa thấy lo lo. Tôi nói lảng:
– Thằng Út nhờ nói thầy mua giùm nó cuốn tiếng Mỹ lóng chi đó.
– Cuốn SLANG này chứ?
– Em không biết. Nghe nó nói vậy đó. Thầy cho coi thử.
Lõm bõm vốn liếng Anh ngữ chương trình phổ thông thì bằng ai. Tôi lật tới lật lui cho ra vẻ. Trời ạ! “Anh thầy” trùng tên với tôi. Tôi giả đò:
– Minh Hải là gì hả thầy?
– Có thể hiểu là Biển Đẹp.
Tôi đắc chí. Tôi chứ giỡn sao! Tôi chẳng vừa:
– Biển Đông chắc buồn lắm hả thầy?
– Tùy.
Tôi “gài số”:
– Thầy dùng nước đi!
Tôi suýt bật cười thành tiếng khi “anh thầy” vừa uống một ngụm đã thót người như điện giật, mặt nhăn như… khỉ ăn ớt. Mà ớt thật, vì muỗng đó tôi đã khéo léo bôi ớt hiểm mà. Chu choa! Chắc là khó uống lắm. Tôi tỉnh bơ:
– Vừa uống không thầy?
Rút khăn tay lau miệng, “anh thầy” miễn cưỡng gật đầu. Tội nghiệp!
– Em xin lỗi. Chắc tại em lấy lộn muỗng.
– Không có gì!
Thế nhưng trong thâm tâm tôi lại tự mãn nguyện với “trò đùa thông minh” của mình như thế. Chỉ số IQ (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh) của tôi hẳn phải ngang tầm cỡ quốc tế.
                         
Không biết nghe thằng Út “nổ” về gia sư của nó cỡ nào mà ba má tôi liền mời ngay “anh thầy” về dạy kèm cho tôi luôn một thể. Thế mới chết! Tôi không dám có ý kiến. Thế là dù muốn dù không tôi cũng phải gọi “anh thầy” là thầy chính hiệu con nai vàng.
Qua một năm học với thầy Đông Hải, tôi khá Anh văn hẳn lên. Vừa lấy chứng chỉ A, tôi đang “gạo” tiếp để lấy chứng chỉ B khi nào xong tú tài. Tức mình vì thầy ít nói, nhưng cũng phải công bằng mà cảm ơn thầy đã “tác động” nhiều đến tính bướng bỉnh của tôi. Nhưng con gái vẫn là con gái, khó mà không nhõng nhẽo, nhất là khi chợt nhận ra mình có “tố chất con gái” hơn trước. Càng thêm tuổi càng thêm… “khôn ngoan” mà!
Có lần thầy hỏi tôi:
– Minh Hải ước mơ gì sau khi đậu tốt nghiệp?
– Em… em sẽ cố lấy chứng chỉ B và C.
– Sau đó nữa?
– Em đi… tu.
Thầy im lặng nhìn vào khoảng không thăm thẳm. Tôi bật cười:
– Nói chơi chứ em mà tu nỗi gì. Em “quậy” thế này sẽ chẳng tu viện nào dám chứa đâu.
– Không hẳn như vậy.
– Thiệt mà. Nói chứ… em thích làm tiếp viên hàng không. Thầy thấy em đủ tiêu chuẩn chứ?? Nếu còn thời quân chủ, em mơ làm Nữ Hoàng. Như nữ hoàng Cleopatra, Arsinoë II hoặc Nefertiti của Ai Cập, hoặc như Elizabeth của Anh quốc chẳng hạn. Không thì cũng phải như nữ thủ tướng “thép” Thatcher mới chịu.
Thầy cười và quay đi. Giờ mới chịu cười, mà lại cười lén. Ghét! Rồi “anh thầy” nói:
– Ảo tưởng và tham lam quá không?
– Bình thường. Còn thầy?
– Làm phó thường dân Nam bộ thôi.
– Hứ!
– Chứ sao nữa? Minh Hải là Nữ Hoàng kia mà.
– Nhớ ơn thầy, em sẽ phong thầy làm Tể Tướng, hoặc ít ra cũng là Thượng Thư. Được không?
– Được. Nhưng Nữ Hoàng đừng độc đoán quá kẻo bàn dân thiên hạ khổ. Và nhớ là đừng phạt ai uống nước chanh pha… ớt.
– Hứ

       *****                   
Nắng đầy sân. Thời tiết oi mưa. Nắng gay gắt như nỗi nhớ quay quắt về kỷ niệm xa xưa. Cô bé Minh Hải chẳng bao giờ có thể trở thành Nữ Hoàng mà chỉ là một nữ tiếp viên hàng không, dĩ nhiên không “quậy” nữa. Hàng triệu lượt khách đi và đến phi trường Tân Sơn Nhất.
Còn anh? Đông Hải ơi! Sao Minh Hải không gặp anh đáp chuyến bay nào? Thời gian ơi! Biển Đẹp sẽ không còn đẹp như xưa nữa vì “ô nhiễm” chất buồn. Còn Biển Đông có vỗ sóng không? Bao la mãi không? Lẽ nào Đông Hải lặng mãi? Trên đời có ai tát cạn Biển Đông không anh? Trả lời em đi! Ngày xưa em bồng bột và mơ mộng tham vọng làm Nữ Hoàng. Còn bây giờ, em chẳng thèm làm Nữ Hoàng nữa nếu thiếu hạnh phúc. Ngày xưa em thường hát: “Em bảo anh nếu em là Nữ Hoàng, anh xin gì thì em sẽ ban cho, nhưng nói trước không nhường ngôi đâu nhé!...”.
Không. Em chẳng ích kỷ vậy đâu. Em sẽ nhường ngôi cho anh, Đông Hải ơi! Những nguyên âm kia, nếu là anh, em sẽ không làm như anh dạy thắng Út, mà em sẽ hoán vị. Thay vì “xác định” là “0 YÊU AI”, em sẽ “nghi vấn” là “YÊU AI 0?” cơ đấy.
Tại anh đó. Nhưng tất cả đã hóa thành cổ tích. Có lẽ giờ này anh đang thánh thiện trong từng lời Kinh Nhật Tụng. Còn em vẫn là em, Nữ Hoàng không đăng quang, Đông Hải à! Đừng giận em. Con gái mà anh!
Trời vào khuya và trời chuyển mưa, tôi chợt ước gì có một phép mầu… Và tôi chợt mở ngăn kéo ra lấy tấm linh ảnh Lòng Chúa Thương Xót mà ngày xưa anh tặng. Tôi giật mình khi thấy thư mời dự lễ phong chức linh mục sắp tới tại Nhà thờ Chính tòa. Có lẽ tôi đi vắng mấy bữa nên má hoặc thằng Út bỏ thư vô đây. Cảm xúc rất lạ, tôi ngước nhìn Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin gìn giữ anh thành thiện và trung thành trong thiên chức linh mục, xứng đáng là Alter Christus” (*).

TRẦMTHIÊNTHU

Kết quả hình ảnh cho Tranh vẽ thiếu nữ đẹp