Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Nghe tiếng đàn kìm buông bên sông

Để nhớ bác ba, người rất giỏi đàn kìm
Thương quá tiếng đàn kìm.... !
Thương tiếng đàn kìm bên kia sông,
Tiếng tơ não nuột sắt se lòng....
Em liều bỏ xứ đi phiêu bạt,
Trôi nổi theo anh phận má hồng !

Em theo đàn sáo trót sang sông,
Vì anh cam chịu kiếp long đong....
Đời buồn như sắc hoa muống tím,
Nhớ gian nhà nhỏ, nước mênh mông....!

Lìu xang xê cống, cống xê xang,
Anh lại ra đi, tình dở dang....
Đàn treo còn đó anh đâu thấy ?
Chỉ tủi cho em phận bẽ bàng !

Em lại đưa anh trở về đây,
Đàn kìm tám phím với hai dây...
Mà sao réo rắt bao cung bậc ?!
Nối tiếng tơ lòng thêm đắm say !! 
NM
Nghe tiếng đàn kìm buông bên sông
Vào những buổi chiều nhạt nắng bên bờ sông Bạc Liêu, dưới hàng cây dương xanh thẳm rì rào, tôi hay ngồi nghe đôi nghệ sĩ gieo tiếng hát giọng đàn lên mảnh vườn của gió.
Anh chồng mù với khuôn mặt vàng đen màu đất ngồi ôm đàn kìm, gác chân lên chiếc song lang gõ nhịp một hai bên người phụ nữ vén mái tóc tơ mịn rối nhòe nhòe trên trán, nhả từng thanh âm trầm dài xuyên qua đôi môi quệt màu đỏ bạc thời gian.
Người nghệ sĩ có đôi mắt lẩn trốn hút sâu sau cặp kính râm màu đen bắt thả hai dây đàn kìm thuần thục theo điệu Dạ cổ hoài lang. Hò lìu xang xê cống, líu cống líu cống xê xang. Những vực âm réo rắt bồng bềnh trôi đằm đằm theo hướng gió vẽ hình cung nhạc lượn lượn quanh hàng cây.
 Điệu tình ca của người thiếu phụ chờ chồng năm xưa được khảy lên trong buổi chiều phố bận rộn nhưng cũng đủ làm người nghe buồn héo hắt, bởi cái tê mê hẩng hơ trong đợi chờ - dù cũ kỹ chắc ai cũng đôi lần nếm thử. Với chất giọng thấm dầm và trộn lẫn giữa ngậm ngùi của cô đơn, mờ mịt của tương lai, u uẩn của tuyệt vọng và những dạt dào của tình yêu con gái, người ta tưởng chị đồng cảm với phận người vợ chơ vơ tựa cửa chờ chồng nhưng ít ai biết, thật ra, chị còn đang hát với tất cả rung cảm về cuộc đời son trẻ của chính mình.
Những năm 90, trên mảnh đất Vĩnh Hưng xanh màu lúa mới, bên ngôi nhà lá nhỏ nhuộm đầy những bông rau muống rừng màu tím. Cô gái Xuân thường trải lòng mình theo những điệu cải lương, nước mắt hay đẩm ướt, chị khóc cho những phận người hẩm hiu của Lan và Điệp, của Đời Cô Lựu… Rồi một ngày, trong lúc chị đang ngồi gội đầu và vuốt ve những sợi tóc mịn màng bên lu nước bên nhà, chiếc xuồng máy đuôi tôm chạy ngang sông rao dồn dập tin đoàn cải lương Bông Mù U đến diễn, danh ca Minh Tâm sẽ vào vai chính trong vở tuồng Mùa Thu Trên Bạch Mã Sơn. Lau vội mái tóc bên những tia nắng vàng nhảy múa trên bông rau muống màu tím. Lòng chị bâng khuâng như cây lúa đang vào độ chín, mềm yếu và thèm ngả tạm vào một nơi nào đó để bắt đầu một cuộc đời mới.
Câu chuyện về một hiệp khách giang hồ có mối tình không như ý nguyện vừa kết thúc, hai tấm màn nhung đã khép lại trên sân khấu dựng chơi vơi ngoài sân bóng. Khách đã về hết chỉ còn chị nán lại. Cầm trên tay những bông rau muống phủ sương đêm ướt mềm, rụt rè bước ra sau cánh gà sân khấu chị đảo mắt tìm một người.
- Tìm ai vậy em? - Người đàn ông còn trong bộ dạng hóa trang của một ông già nhìn ra và hỏi.
- Dạ!!!... nghệ… sĩ… Minh… Tâm.
Sau khi lắng tai nghe xong những lời ấp úng của chị thì ông ta thì bật cười. “Nhìn là biết liền à!”. Rồi quay vào trong gọi to: “Ê, Minh Tâm có người tìm”.
Chị cuối cuối đầu nhìn đất, ngó những ngón chân nhuộm vàng màu của phèn chua đất mặn, ngượng ngùng đếm đi đếm lại vài lần.
- Tìm anh hả cưng. - Người thanh niên với mái tóc dài ngang vai, đôi mắt màu nâu sáng điểm trên khuôn mặt phong trần đầy thu hút đang đứng đối diện và mĩm cười nhìn chị. Thấy cô gái đang vân vê chùm hoa tím, anh chủ động kéo bàn tay nhỏ bé đặt giữa đôi tay mình, chị bối rối hờ hững rút tay lại. Giữa bầu trời đêm sương giăng phủ đầy lên những ngọn cỏ bẹp dưới bàn chân người, bất chợt có ngọn lửa được đốt lên ấm áp.
Đoàn hát dọn đi sau bảy ngày lưu diễn cũng là lúc chị kẹp lá thư lên bộ ván trước nhà với vỏn vẹn vài câu: “Ba má yên tâm. Con đi theo đoàn hát một thời gian rồi sẽ về”. Tình yêu của chị như cây lúa được gieo trên mảnh đất màu mở hiền hòa. Đâm chồi. Nảy mầm. Và lớn phăng phăng cho đến khi ngậm sữa, trổ đồng rồi chín hẳn.
Vài mươi tháng chạy theo mối tình nghệ sĩ, lênh đênh sông hồ trên chiếc ghe bầu xuyên từ miệt này qua vùng khác, chị thấy ồn ào xô bồ chẳng có gì vui vẻ, ngược lại mệt mỏi đang thấm dần vào da thịt. Nhưng rồi chị vẫn lẳng lặng đứng sau sân khấu hằng đêm, tay cầm sẵn chén nước chiếc khăn chăm sóc người tình mỗi sau lớp diễn hoàn thành. Trong giấc ngủ cằn cỗi chị mơ thấy mình ở trong gian nhà nhỏ lặn yên soi bóng bên dòng nước ngọt ngào, mơ thứ tình yêu được nuôi dưỡng bằng cọng rau hạt gạo trồng trên mảnh đất Vĩnh Hưng ngày cũ.
- Tụi mình về nhà má đi anh! Người đàn ông liếc nhìn người phụ nữ mang bầu mệt nhọc ngồi tựa bên chiếc bàn trang điểm, rồi anh hướng mắt ra ngoài sân khấu im vắng, tấm pa-nô “Nghệ sĩ tài danh Minh Tâm” bị gió giật tung rơi một góc xuống bãi cỏ màu vàng xanh. Thời ế ấm của sân khấu kéo đến, có đêm đèn được mở lên rồi tắt vì không có mấy khán giả, những nghệ sĩ trong các đoàn hát nghèo như anh bắt đầu lo chạy ăn từng bữa.
- Ừ, đi thì đi.
Một hôm, trong lúc chị đang cấy lúa trên mảnh ruộng bên nhà trong tiếng đàn kìm lạc giọng lờ đờ “xừ xang xừ cống xế” thì chiếc xuồng máy chạy rao tin đoàn cải lương Hương Bưởi về đến lướt qua. Bỏ cây đàn nằm chỏng gọng bên góc ván, anh chạy xuống bến sông, đưa bàn tay che nắng cố nhìn theo chiếc xuồng máy chạy khuất xa chỉ còn chút bọt nước nổi nhợt nhạt trên mặt nước lăn tăn.
Mấy ngày sau không thấy chồng đâu chị tất tả đi tìm nhưng vô vọng, chị lo anh không kiềm chế được rượu chè rồi rơi xuống dòng nước lạnh căm ngoài kia. Ngược xui mấy bận mới hay tin chồng chạy theo cô đào Lệ Ướt Mi trong đoàn hát Hương Bưởi. Ngồi bên con chị thẩn thờ ngó ra bụi rau muống bên hè thấy những cái bông trổ màu tím đen. Chị nhớ lại lời sư cô bên chùa Từ Ân dạy mà thấy đúng, mỗi người được cột lại với nhau bằng sợi dây mầu nhiệm, có sợi làm bằng tình yêu, sợi làm bằng lòng lòng tin, sợi làm bằng sự vui vẻ, có sợi làm bằng tiền bạc, danh vọng. Và đến khi nào không còn nguồn sống để nuôi dưỡng nữa thì nó đứt lìa, mối liên hệ sẽ kết thúc chóng vánh như lúc nó chưa từng bắt đầu. Vợ chồng hết yêu thương nhau thì chia tay, bạn bè không còn tìm ra điều vui vẻ chung nữa thì đoạn tuyệt, cạn tàu ráo mán nhau vì tiền bạc là điều thường thấy ở cõi ta-bà này.
Nằm ôm con trên võng, nhìn cây tre lã ngọn in dấu trên bầu trời xám ngắt thầm trách sao trời nỡ gieo sâu nổi buồn cho chị.
“Ầu ơ, gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ”
Bảy tám mùa nước lũ dâng cao rồi rút. Đám rau muống bên hè vẫn trỗ bông màu tím như chị vẫn giữ được sợi dây nối liền với tình yêu cũ dù anh vẫn bặt tăm. Chị treo chiếc đàn kìm ngay cửa ra vào để đi ra thì tưởng có người còn đang đứng ở sau lưng, bước vào thì thấy người kia vẫn còn đang tồn tại. Chị sợ một ngày bận rộn nào đó quên mất anh, hễ thấy khuôn mặt anh lù mù trong ký ức thì bắc ghế lấy cây đàn xuống lau bụi. Như nghệ sĩ phết màu lên giấy, chị tô vẽ cho đến khi khuôn mặt chồng hiện lên sống động và rạng rỡ trong tâm trí thì mới yên tâm lên giường nằm ngủ.
- Nghe nói báo đăng nghệ sĩ Minh Tâm bị tạt a-xít ở Rạch Giá bây hay chưa? Đi chợ về vừa ghé xuồng vô bến, ông Tư Thời Sự đạp xe đi qua thấy chị dừng lại báo tin. Chị thẫn thờ đứng lặng thinh ngó vô nhà, đôi chân nặng như đeo đá. Rồi chị lao vào nhà, gom quần áo bỏ vào chiếc giỏ đệm sờn, chèo xuồng ra Bạc Liêu, xong đón xe đò đi Rạch Giá.
Xóm Rọc Lá bàn nhau coi ông trời cũng có mắt, một kẻ dứt bỏ con thơ đi lấy vợ năm vợ sáu rốt cuộc rồi cũng phải chịu nạn vì ghen. Dầu có phong lưu đến đâu nay với đôi mắt mù lòa ắt hắn cũng phải nằm ân hận co ro. Ngày chị chở anh về trên chiếc xuồng nhỏ hàng xóm kéo đến phàn nàn, thương gì kẻ ruồng rẫy phụ tình biền biệt bao năm mà không chút đoái hoài. Chị cười. Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh người chạy lại, huống hồ cũng tình nghĩa vợ chồng bao năm, chị không đành nhìn anh bơ vơ khi đến bước đường cùng. Và cũng chắc là ông Tơ đã kết nối chị với anh bằng sợi dây tình thương se cùng sợi dây bao dung bền chặt. Yêu thương trong tấm lòng bao dung làm cho tình cảm của chị dành cho anh luôn được tươi rói. Như chiếc đàn kìm chỉ có hai dây, tám phím mà có thể réo rắt được không biết bao nhiêu khúc nhạc tài tử, hà cớ chi tình cảm con người cứ mãi đóng khung trong cái tâm sân hận buồn chán.
Nguyễn văn Hiên
Tiếng đàn bầu
Lúa đồng thả cánh cò bay
Lời ru sông nước treo đầy ánh trăng
Lặng im nghe tiếng đàn ngân
Dập dìu trầm bổng bên sân vườn nhà

Hồn trong sâu thẳm bay ra
Treo vời ngọn gió vờn qua nước nguồn
Aò ào … rũ tiếng mưa tuôn
Nhẹ tơi thánh thót tơ vàng chảy ra
Quấn cùng hương bưởi thoảng qua
Trong như suối nước bên nhà sớm mai

Cung ngân giọng mẹ khoan thai
Cung trầm cha nối, cung dài tiếng em
Lắng nghe đàn lướt gió êm
Hòa theo điệu hát trăng lên quê nhà
Ngón rung đồng lúa hiện ra
Ngón vuốt hạt gạo nuôi ta tháng ngày
Ngón vỗ rợp trắng bướm bay
Ngón luyến chim hót mê say xanh trời
Ngón tiếng chuông hẹn lứa đôi
Ta, mình xa cách bồi hồi trong tim

Đàn kêu hơi thở, dịu êm
Một dây cũng đủ say lên đất trời...
Đinh Xuân Hoàng

Lòng mẹ ( Y Vân )

Những Tình Khúc Bất Hủ (Bầu Tranh)

              Văng vẳng đâu đây tiếng đàn bầu ?
                  Âm ba tha thiết, Ôi, xuyến xao...!
                   Chút tình đền đáp qua giai điệu,
                  Tơ hồng quấn quýt ta bên nhau...
                    NM

Tiếng đàn bầu

Thấy ông lặng im sau khi đọc thư mời về dự họp mặt với học sinh cũ, bà vợ gàn: - Ông đi làm gì. Ăn một bữa cỗ chạy ba quãng đồng! Con giai: - Thế họ có gửi tiền tàu xe cho bố không? Con gái: - Bố coi chừng cái xương sống của bố đấy. Sáu, bảy chục cây số xe ca thế nào nó cũng hành bố cho mà xem!
Gần 30 năm chưa trở về nơi đã cất giữ những kỷ niệm đẹp nhất của đời dậy học, vì thế, ông vẫn lặng lẽ chuẩn bị cho chuyến đi, với tất cả nỗi thấp thỏm không yên của người đã có tuổi, không mấy khi đi xa và cả những gì đang chờ đón ở phía trước.
… Sau phút chào hỏi, tay bắt mặt mừng là những nhận xét:
- Thầy chẳng thay đổi gì mấy.
- Tóc thầy bạc hết cả rồi!
- Đến chúng mình còn có tóc bạc nữa là thầy.
Rồi ông bị đám học trò bắt giải bài toán trí nhớ: Nói tên những người có mặt. Non nửa đời người đã đi qua giữa họ, một vài nét quen quen thấp thoáng hiện ra trong trí tưởng, rồi lại biến đâu mất. Càng lục tìm lại càng không thấy đâu, càng nhìn lại càng lạ. Ông lúng túng xin lỗi và chỉ dám nói tên một hai người trong đó có Hùng, lớp trưởng.
 Hùng xin phép giới thiệu ba người bạn không bao giờ còn về dự những lần gặp mặt thế này: Một người nằm dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh, một người trong một cánh rừng khộp Lào, một người ở Hàm Rồng mà hai bạn được cử đi cùng gia đình đã mang được hài cốt về nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh. Chiều nay, thầy trò sẽ đến thăm ba gia đình và ra mộ viếng các bạn ấy. Bây giờ, xin thầy thắp ba nén nhang cho các bạn ấy. Ông thật sửng sốt, khi nhìn vào gương mặt ba người học trò cũ, trên bàn thờ nhà Hùng. Cắm thêm một nén nhang nũa trước tấm ảnh ông cụ thân sinh ra Hùng, vái bốn vái rồi về chỗ họ giành cho mình. Giọt nước mắt hiếm hoi của ông, không phải chỉ vì ba người đã khuất, mà còn vì tình nghĩa những người học trò của ông. Không rõ bằng cách nào mà vừa mới ngồi vào chỗ ông đã thấy Hùng giới thiệu từng người: tên, biệt danh, những đặc điểm hay “chiến tích” của họ thời họ học ông, công ăn việc làm hiện nay, cuối cùng là gia đình. Không một lời nào Hùng nói về mình!
Vừa mới gặp lại, ông đã thấy ngay là mắt Hùng bị hỏng. Nhưng chắc anh vẫn có thể nhận ra người quen, chẳng thế sao anh có thể nói chính xác ai ngồi cạnh ai, bên trái ông là ai, bên phải là ai.
Ông không tiện hỏi, mà cũng không tiện nhìn quá lâu vào mắt anh. Bữa ăn thật vui. Liên ngồi cạnh chồng, gắp thức ăn cho anh, còn anh lại luôn miệng nhắc hai bạn ngồi cạnh ông, gắp thức ăn cho ông.
- Không biết các anh, các chị có nhớ những bữa liên hoan khoai nước, rong giềng ngày nào không nhỉ?
- Thầy còn nhớ nữa là chúng em!
Sau bữa cơm, dù rất muốn ngả lưng, nhưng ông cũng không nỡ đi nằm. Được sống lại  không khí ngày xưa ấy thật là hạnh phúc. Bây giờ học trò khác rất xa học trò ngày ấy. Thấy thầy loay hoay chọn một tư thế ngồi thoải mái, vợ Hùng mang đến một đôi gối trắng tinh để ông kê vào hõm ghế sau lưng. Thế là ông có thể ngả người và duỗi dài đôi chân để toàn thân được ở tư thế như nằm trên mặt phẳng nghiêng. Một cậu bảo Hùng:
- Thầy còn nghỉ lại đây đêm nay, vợ chồng cậu nhường thầy cho chúng mình đã nhé. Mấy thầy trò quây quần bên bàn nước.
- Cho đến bây giờ, dù chỉ là một người dân bình thường, lại tàn tật nữa, nhưng thầy thấy đấy, Hùng vẫn cứ là lớp trưởng của chúng em, như ngày nào.
- Vợ chồng bạn ấy sống hay lắm thầy ạ. Đấy, Liên đang kê dọn, sắp xếp lại các thứ đồ đạc cho đúng với trật tự cố định của gia đình.
- Thế làm sao mắt cậu ấy bị hỏng
 … Ngày ấy lớp ông là mũi nhọn của trường, và Hùng là mũi nhọn của cái mũi nhọn ấy. Anh thông minh, học khá toàn diện và được cái là, nói gì các bạn cũng nghe. Năm 1965, khi cả trường biên chế thành một tiểu đoàn, trong tuần quân sự thì ông được “cất nhắc” lên làm đại đội trưởng phụ trách cả khối 9 (cũ), Hùng phải thay ông đảm đương toàn bộ công việc của lớp như mọi giáo viên chủ nhiệm khác. Vậy mà lớp ông vẫn dẫn đầu toàn trường, trong cả tuần quân sự, mà cao trào là cuộc hành quân cắm trại hơn 10 cây số trong đêm. Nửa năm sau, ông đi bộ đội. Thay ông là một giáo viên dạy Hóa lùn tịt, mày xếch. Trong lần xuống một xe vôi cục cho trường, do thiếu kinh nghiệm tổ chức lao động, cô đã để các em đứng quá gần hố vôi đang sôi sùng sục. Hùng đứng cuối dây chuyền, bị vôi nóng bắn vào mắt. Cả lớp thay nhau đến động viên, chăm sóc, trong đó có hai bạn gái vẫn thầm yêu anh. Sau kỳ thi tốt nghiệp, chỉ còn một cô năng đến thăm. Người đó là Liên, vợ anh bây giờ. Đám cưới họ được tổ chức một năm sau ngày Liên tốt nghiệp sư phạm 10 +1. Tất cả những bạn bè không đi xa đều có mặt, trừ cô bạn gái kia. Năm, sáu tháng trời, Hùng đếm từng bước đi, đo từng gang để xác định khoảng cách, và vị trí của mọi vật trong nhà.
Điều khó hơn vẫn là việc anh tập làm tất cả mọi việc trong nhà mà vợ anh vẫn làm. Đến một lần, Hùng bị bỏng do bắc nồi cám lợn. Liên về khóc ròng: -“Em chỉ làm rốn một tí là xong. Anh đừng để em bị các bạn trách cứ là đã không chăm sóc anh đầy đủ.” Từ đấy, chị cấm anh làm mọi việc, nhưng nào anh có nghe. Song, anh cũng không để xảy ra một “vụ” nào tương tự. Đến bây giờ thì anh đã đảm đang tất cả mọi việc trong nhà: từ gà, lợn (hai con lợn bột), quần áo, cơm nước đến nhà cửa, sân xướng. Đi dậy học về, chị chỉ còn việc làm thêm thức ăn thôi. Chiếc đài bán dẫn, quà của lớp mừng họ ngày cưới những lúc chỉ có một mình, Hùng hay đeo trước bụng để khỏi bị va đập, và cũng không phải vặn to mà vẫn đủ nghe. Pin yếu, người khác đã phải thay rồi, nhưng anh vẫn dùng được hàng tuần nữa. Bọn trẻ hàng xóm thường sang chơi, giúp anh việc nọ, việc kia, hoặc ghi chép hộ anh những gì anh đọc mà chúng cũng không hiểu. Để bù lại, anh hát, kể chuyện cho chúng nghe, giảng toán đố cho chúng. Thỉnh thoảng các cháu lại dắt chú đi chơi đâu đó. Nhưng đi đâu thì đi, anh cũng luôn luôn hỏi giờ để bao giờ cũng kịp về đón chị. Chỉ mới đặt bước thứ nhất lên sân gạch, Liên đã nghe tiếng chồng mừng rỡ: -“Em về đấy à?” chị bước vội vào nhà. Hai vợ chồng dìu nhau vào phòng trong. Anh ôm choàng lấy chị, bàn tay vuốt vuốt mái tóc óng mượt, giọng thì thầm, tuy nhà chỉ có hai người:
- Anh đun nước rồi. Có cả lá sả nữa kia. Sả đi với chanh thơm lắm em ạ.
Có lần, mấy chị em ngồi túm tụm ở một góc phòng hội đồng sư phạm, mấy chị hỏi:
- Như hôm nay mày mặc áo mới, chồng mày có biết không?
- Thế có bao giờ nó khen mày đẹp không?
Liên đỏ mặt – Anh ấy biết chứ, vì chúng em có những quy ước với nhau. Ví dụ, nhà mới có bất kỳ một cái gì, em đều phải nói, tả thật kỹ, và đưa cho anh ấy xem. Em hơi gầy đi, hay hơi béo lên một chút là nhà em biết ngay.
- Mày còn lạ gì, có khi mình gầy người ta lại khen là béo, hoặc ngược lại. Đến tao, mắt thao láo thế này mà nhiều khi nhận xét cũng còn sai nữa là…
Liên cúi đầu, hơi chạnh lòng trước câu nói vô ý của bạn, nhưng rồi cô ngẩng đầu lên, bạo dạn nhìn thẳng vào mắt người hỏi:
- Dạo mới lấy nhau, từ tắm rửa giặt giũ trở đi việc gì cũng phải giúp anh ấy. Còn bây giờ ngược lại… Anh ấy yêu bằng tất cả tình cảm và giác quan còn lại của mình và vì không nhìn thấy nên các giác quan ấy dường như đều nhạy cảm hơn gấp bội. Có lần anh ấy bảo em: “Nỗi bất hạnh của anh là không được nhìn ngắm em hằng ngày, nhưng để bù lại, trong tâm trí anh, em mãi mãi vẫn là cô nữ sinh trung học trong trắng, hồn nhiên, có mái tóc mà cả trường mình không ai có”. Vì thế, mấy chị xui em phi dê, em có nghe đâu. Bây giờ, không mấy ai để tóc dài nữa, thế lại hóa ra độc đáo. Anh ấy chăm chút mái tóc em cứ như là niềm vui, là hạnh phúc của mình vậy. Em tắm gội xong, anh ấy lấy khăn khô thấm từng lọn tóc rồi lại lấy quạt, quạt cho khô. Những sợi tóc rụng anh ấy gom lại, cất đi, lúc em đi làm mới lấy ra chải cho mượt rồi buộc lại treo ở cửa sổ để dành, bảo sau này, nếu tóc em rụng dần, sẽ độn vào
Hôm ấy, Liên đã dặn chồng là sẽ về muộn. Cô không ngờ Hùng lại nóng ruột chờ mong đến thế. Vừa nghe bước chân của vợ, anh đã giơ hai tay ra phía trước như đứa trẻ sắp sà vào lòng mẹ và khi mấy ngón tay vừa chạm vào người vợ, anh đã kéo riết Liên về mình. Bỗng Hùng đẩy vợ ra, tuy hai tay vẫn giữ chặt vai chị:
- Có phải vừa có một người đàn ông gần gụi em phải không?
- Vâng, có thế thật, anh không hỏi thì em cũng sẽ kể chứ không định giấu a

Cùng trường với chị có một gã người thị xã, thỉnh thoảng lại sán đến tán tỉnh. Hắn kiếm mọi cơ hội để có cớ động chạm chị. Một lần, vừa từ lớp xuống, đang rửa tay trong chậu nước ở góc phòng hội đồng sư phạm, thì hắn chen vào đứng sát người chị, một tay vớt nước cho chảy vào tay chị, một tay hứng ở dưới. Chị ném vào mặt hắn một cái nhìn nảy lửa thì hắn làm ra vẻ cố tình không hiểu: - “Nhìn mắt anh, em có đọc thấy tình cảm gì không?”. Hôm nay cùng đi tập hát về, đang nói chuyện hội diễn sắp tới, đến một quãng vắng hắn ôm ghì lấy Liên ngấu nghiến, hớp hớp vào má chị như cá mương đớp mồi. Liên dùng hết sức xô hắn ra thì hắn lại kéo giật chị lại. Bộ răng nhăn nhở của hắn va vào má chị đau điếng… - “Thủy với chả chung, thật là ngớ ngẩn, mà không hiểu làm sao một cô gái xinh đẹp như em lại lấy một người như thế cho nó phí đời đi”…
Liên đã chấn tĩnh lại, chị thong thả chọn từng từ:
- Vâng, đúng là phí đời đi thật khi tôi đang phải nghe những lời như vậy từ miệng anh. Vì sống với chồng tôi, và lại có một người đồng nghiệp quý hóa như anh, nên tôi mới rút ra được nhận xét này: Thà mắt mù mà tâm trí sáng láng, còn hơn là mắt sáng mà tâm trí tối mù.
… Và chị nói thêm với chồng:
- Anh biết rất rõ, em lấy anh vì yêu chứ không phải vì thương. Em biết, yêu và được yêu như thế này là một niềm hạnh phúc hiếm hoi mà không phải người phụ nữ nào cũng có được.
Đầu tháng 10, Liên ra bưu điện thị xã nhận cho anh một chiếc đồng hồ nổi của một người bạn Nga, cùng cảnh ngộ gửi tặng. Đến lúc này, chị mới biết rằng Hùng vẫn thường đến chơi với một người bạn vong niên mù có ngón đàn bầu nổi tiếng khắp vùng để học chữ nổi.
… Đêm ấy trăng sáng lắm, Liên bần thần bỏ dở tập bài đang chấm. Trăng biêng biếc, bàng bạc, bảng lảng khắp không gian tĩnh lặng. Ở đâu xa lắm, tiếng đàn bầu theo gió vẳng lại, lẫn vào ánh trăng, lúc xa lúc gần, uốn lượn, dìu dặt, xao xuyến như tãi ra trên mái rạ, cây rơm, bụi ngâu, liếp cải hoa vàng làm đêm tĩnh lặng hơn, sâu hơn, rộng hơn, mênh mông đến không cùng,… Liên thấy nao lòng. Chị bồng bềnh bay lượn trong ánh trăng kia, trong tiếng đàn bầu mỏng mảnh như sợi tơ trời giăng ngang trời đêm, như những sợi tóc mình, anh vẫn nâng niu. Liên muốn dắt chồng đi trên con đường làng ngập ánh trăng. Chị dời bàn viết. Mỗi bước đi, tiếng đàn lại như gần hơn, quấn quýt mỗi bước chân, vuốt ve mái tóc thơm buông xõa sau lưng. Không thấy Hùng ở nhà ngoài. Chị bước ra sân và lập tức ngập chìm trong tiếng đàn bầu dâng đầy, nồng nàn tha thiết. Lần đầu tiên từ ngày sống với nhau, chị đến gần thế này mà anh không hay biết. Mải mê chìm đắm trong âm thanh, tay trái anh mở ra tự nhiên, nhẹ vuốt cần đàn gỗ thị, nuôi nốt láy cuối cùng của một giai điệu ngân nga cao vút. Gió bỗng nâng suối tóc chị bềnh lên như đám mây choàng lên anh, lên cây đàn. Mấy giọt nước mắt nóng hổi rơi trên bàn tay anh. Liên rụi cằm vào má, vào cổ chồng nghèn nghẹn thì thầm trong nước mắt… “Món quà của anh bất ngờ quá!”.
… Người giới thiệu Hội diễn văn nghệ tỉnh vén màn bước ra.
- Ngâm thơ, bài “Ru chồng” tiết mục tự biên, tự diễn của cô giáo Hồng Liên và chồng chị - Anh Xuân Hùng.
Màn mở, sân khấu tối đen, Hùng và Liên hiện ra trong vầng trăng sáng lung linh huyền ảo như ánh trăng biêng biếc trong đêm đầu tiên Liên được sống trong tiếng đàn bầu của chồng.
 
 Nguyễn Bắc Sơn

Dạ cổ hoài lang

Độc Tấu Đàn Tranh (Nhạc Tài Tử Miền Nam)

Hòa Tấu Đàn Tranh Nhạc Vàng Hay Nhất ...

Đâu tiếng đàn xưa ?!
Mười sáu sợi vàng rung phím tơ,
Nhẹ như gió thoảng, khẻ như thơ...
Dặt dìu theo dáng em ngày ấy,
Em trót đắm say, trót dại khờ..!

Thanh thoát tiếng đàn tôi bay cao,
Âm ba dìu dặt ý thanh tao...
Quyết đem mưa pháp cùng chân lý,
Chuyển hoá cho đời bớt khổ đau...!
 
Ai ngờ thế cuộc khéo vần xoay,
Tình cũng là đây, Phật pháp đây...
Khiến xui trói buộc tình nhi nữ,
Đập gãy đàn xưa thôi chia tay !!

Người đi xa khuất chốn thiền môn
Tâm nguyền theo gót Đức Thế Tôn...
Hạt giống ươm mầm nay trổ nhụy,
Đạo vàng khai sáng chốn cô thôn !!
NM
Hình ảnh có liên quan
 Tiếng đàn của vị tu sĩ
Thầy Minh Ký là một người lập dị khác đời. Mọi người đều nói về thầy như vậy, dù chẳng ai biết nhiều về thầy. Hai năm trước khi Hoà Thượng Viện Chủ về tịnh tu và cho tu bổ lại ngôi Bảo Điện trên núi, thì thầy cũng tìm đến xin tá túc trong hang đá ngay dưới chân núi.
Thầy sống đời ẩn dật lặng lẽ giữa chốn non xanh nước biếc, quanh năm chỉ áo vải nâu sòng, đầu trần chân đất. Và hầu như không giao thiệp tiếp xúc với ai, nên chẳng mấy ai quan tâm đến sự có mặt của thầy ở đây. Hằng ngày thầy giam mình trong ngôi thạch thất, mọi người qua lại chỉ nghe tiếng gõ mõ tụng kinh. Có khi thầy ra bên ngoài ngồi tham thiền nhập định trên mấy ghềnh đá cheo leo bên sườn núi. Thỉnh thoảng thầy cũng lên chùa phụ làm những công việc lặt vặt như bửa củi, trồng cây, hái thuốc….và ở lại dùng ngọ với các chú Tiểu. Đôi khi Thầy cũng có công việc phải đi đây đó vài ngày, hoặc ra ngoài Thị Trấn cách vài cây số. Khi về thì quãy đầy tay nãi nào là gạo muối lương khô…
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ. Mấy chú tiểu đi qua cứ tấm tắc khen. Thế là Thầy gọi vào hái trái cây xuống cho. Khi mấy chú ngỏ ý muốn gởi tiền cho Thầy uống trà, thì Thầy khoát tay nói:_ Mấy chú cứ tự nhiên… thầy trồng cây trái cho vui, chứ đâu phải thiếu thốn hay cần bạc tiền gì!
Nghe nói Thầy là người Thành Phố, từng là sinh viên một trường Đại Học Kinh Tế có tiếng. Đẹp trai, con nhà giàu học giỏi….không hiểu sao tự dưng lại từ bỏ tất cả để sống khắc khổ tu hành, an bần lạc đạo. Và cũng nghe đâu hồi trước Thầy thường thích sống đời nghệ sĩ lang bạt kỳ hồ, không chịu sự câu thúc bó buộc. Tuy vậy từ ngày về núi, Thầy chỉ chuyên tu mà không màng đến những chuyện thị phi nhân ngã bên ngoài.
Nhưng rồi …một hôm Thầy bất ngờ đem về một cây đàn tranh treo trước cửa Tịnh Thất. Mấy chú Tiểu đi ngang qua tò mò xúm lại xem, Thầy bèn lấy đàn xuống gảy cho nghe. Có chú thích quá xin theo học đàn thì thầy chỉ cười. Chuyện đến tai Hoà Thượng, người gọi Thầy lên bảo: Thầy là người tu hành sao lại còn chơi đàn…nhất là ở chốn núi non yên tịnh này, quả là điều không thích hợp chút nào.
 _ Bạch Hoà Thượng… con đem cây đàn về với mục đích là tạo nhân duyên để hướng dẫn các em nhỏ đến chùa. Dân ở đây dù lam lũ, nhưng đôi khi rảnh rỗi họ cũng muốn đến chùa nghe kinh cho thư thả tâm hồn. Con thiết nghĩ…mình mượn tiếng đàn để dạo lên những baì nhạc đạo, những câu niệm Phật cũng là giúp mọi người thông hiểu giáo lý Phật Pháp, xây dựng cho họ một đời sống tâm linh tốt đẹp, đó cũng là một phương cách hoá duyên.
Trước những lập luận nghe có vẻ hợp lý của Thầy, Hoà Thượng chỉ nói: Thầy có ý như vậy cũng được, phương tiện hoá sanh thì có nhiều, cũng chẳng thể câu thúc vào một việc gì. Duy có điều không nên cho mấy chú Tiểu sa đà theo học đàn hát. Hơn nữa thầy cũng đừng quá chủ quan, nếu chuyển hoá đời không khéo thì sẽ bị đời chuyển lại đó.
Thế là hằng đêm đám trẻ con quanh vùng tụ tập lại quanh tịnh thất để nghe thầy nói đạo, giảng pháp. Rồi thầy gảy đàn, dạy cho chúng hát và niệm Phật theo tiếng đàn. Chúng thuộc nhanh các bài nhạc đạo, yêu thích câu niệm Phật qua tiếng đàn lảnh lót nhịp nhàng. Lâu ngày tiếng đàn và phong cách sống cởi mở của Thầy lan xa đến cả xóm chợ. Thỉnh thoảng nhiều thanh niên thanh nữ trong Thị Trấn rủ nhau đến để cùng thầy đàn hát nói chuyện. Ngôi Thạch thất im vắng bỗng trở nên sinh động vui tươi giữa những câu chuyện đời đạo thân tình ý vị. 
_Bạch Hoà Thượng! Người cho gọi con lên có gì dạy ạ?
Vẻ mặt Hoà Thượng trông nghiêm nghị khác thường, nhưng người chỉ từ tốn nói:_ Có Bà Tư đây muốn nói chuyện với Thầy.
Bà Tư - chủ hãng nước đá ngoài Thị Trấn- Một Phật tử thuần thành vẫn hay lui tới cúng dường chùa. Thầy Minh Ký chỉ biết vậy thôi chứ chưa từng nói chuyện tiếp xúc với Bà. Thầy ngồi nghe Bà nói chuyện… tưởng chừng như câu chuyện về một ai khác. Nó giống như một pho tiểu thuyết mà hồi xưa Thầy đã từng đọc qua đâu đó. Cô Trâm- con gái rượu của Bà được coi là hoa khôi ở vùng này. Thời gian gần đây có nhiều người thuộc hạng danh vọng giàu sang đến dạm hỏi. Nhưng cô Trâm một mực cự tuyệt hết thảy. Gia đình bắt ép. Thế là cô bỗng phát bịnh không chịu ăn uống thuốc thang gì cả. Tra gạn mãi, Cô mới thú nhận. Gần một năm nay cô cùng chúng bạn đến Tịnh thất của thầy để học đàn hát theo các em nhỏ. Cô thích hát, mê mẩn trong những cung bậc du dương trầm ấm. Tiếng đàn trong những đêm trăng huyền ảo, đã thổi vào tâm hồn Cô biết bao mộng tưởng xuân thì. Cô yêu trăng, yêu đàn và mến mộ luôn người đánh đàn. Sự thương kính tưởng chừng như trong sáng ấy đã dần dần đổi màu…khi trái tim Cô bắt đầu tấu lên những tình khúc lạc điệu. Cô yêu dáng vẻ phong sương, yêu cả nụ cười hiền từ mà đạo mạo của thầy. Cô biết như thế là tội lỗi. Thầy là người tu hành. Thầy cũng chẳng có tư ý gì với cô. Thầy chỉ đàn cho mọi người hát. Những lời hát mang ý nghĩa thanh cao, chứa đựng bao điều hay, bao lý tưởng đẹp trong cuộc sống. Vậy mà từng đêm…từng đêm… lòng Cô cứ ray rứt khổ đau trong nỗi niềm đơn phương lặng lẽ. Cô thầm trách người, rồi lại trách trời cao dun rũi. Nếu như không thoát khỏi lưới tình, thì sao lại buộc Cô vào chốn thâm nghiêm này.
Bà Tư thở dài :_ Cả tuần nay nó không chịu ăn uống gì, cứ vật vã khóc lóc. Lại còn đòi tự tử nữa. Chính tiếng đàn của thầy đã làm hại nó. Dù mục đích của thầy có tốt đẹp như thế nào, nhưng hậu quả thì gia đình Tôi phải chịu. Chuyện đã như thế này thì Thầy không thể không có trách nhiệm.
Hôm sau Thầy Minh Ký xuống núi tìm đến nhà thăm cô gái đang lâm bịnh. Không hiểu Thầy đã nói những gì với Cô, nhưng được một lúc sau thì thầy trở về đập gãy cây đàn… thu xếp hành lý rồi từ giả núi rừng ra đi biền biệt.
Cuối năm, Cô Trâm đi lấy chồng. Chồng Cô là một Kỹ sư địa chất đang làm việc trong Thị trấn. Mọi người rồi cũng quên đi câu chuyện một thời đó. Nhưng Cô gái ngày xưa thì dường như không quên được. Nhiều năm sau này, Cô vẫn thường hay dắt đứa con nhỏ của mình lên núi, vào tận nơi hang đá… nhện giăng bụi bám để tìm lại chút dư âm cũ. Cây đàn bị đập vỡ nằm lăn lóc trong góc xó chẳng ai buồn đụng đến. Cảnh vật đìu hiu cũng khiến lòng người ai cảm bâng khuâng. Không ai biết được vị Thầy của ngôi thạch thất này đã đi đâu và làm gì? Có người bảo Thầy trở về tu trên Thành Phố. Cũng có người nói gặp thầy ở một ngọn núi xa tít tận cùng Đất Nước. Dù gì thì Thầy cũng đã dứt tình ra đi, để cho người ở lại tìm quên trong hạnh phúc của đời mình. Cô vẫn còn nhớ như in những lời Thầy đã nói :- “ Tôi vì không muốn buộc ràng trong đường tình lụy mà từ bỏ gia đình, sự nghiệp để được sống đời tự tại giải thoát. Còn Cô thì có biết bao nhiêu mộng đẹp đang chờ đón phía trước… mà chắc chắn là Tôi sẽ không mang lại cho Cô những hạnh phúc đó được. Chúng ta là hai ranh giới không thể cùng hoà hợp trong một ngôi nhà Thế Gian. Có chăng là cùng hướng đến một thứ tình cảm cao thượng tốt đẹp để còn giữ cho nhau niềm thương kính như sơ. Cô hãy vì bản thân vì gia đình… mà sống xứng đáng với những gì mình đang có, đừng quá mơ mộng viễn vong. Chuyện tình cảm không thể gượng ép van xin và hạnh phúc không thể có khi mà hai trái tim không đồng điệu. Hơn nữa tôi vì lý tưởng, vì mục đích cao cả nên không bao giờ từ bỏ con đường mà mình đã chọn….”
Núi rừng đã bao mùa thay lá, cảnh cũ rêu phong càng in đậm vẻ tang thương biến đổi. Dù tiếng đàn không còn, người khởi xướng đã như chim trời cá nước; Nhưng thỉnh thoảng vào những đêm trăng rằm…đám trẻ con vẫn quay quần bên chân núi cùng hát vang những câu hát, câu niệm Phật ngày xưa mà Thầy đã dạy. Hạt giống lành Thầy gieo trồng nay đang vươn mầm trổ nhụy. Có biết bao niềm tin được thắp sáng lên kể từ khi thầy rời bỏ ra đi.
 Khi nghe tiếng hát vọng lên từ vùng ký ức xa xôi, người thiếu phụ chợt thấy lòng nhẹ khuây trong nỗi niềm sám hối chân thành. Tiếng hát từ lâu đã giúp cô cảm nhận ra một điều: -Hạnh phúc và khổ đau luôn đan xen như hình với bóng… để muôn đời trói buộc kiếp sống nhân sinh. Chỉ có người liễu ngộ được đạo lý chơn thường thì mới trở nên bất biến ngay trong vòng cương toả của thế gian
Lam Khê

Hoa Tau Dan Tranh 








Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Mùa Hè có cô bé mất gốc

Mùa hè đáng nhớ !
Mùa hè đáng nhớ đã trôi qua,
Quê hương thân thiết , ôi thật xa....!
Chỉ còn giữ lại - đây nguồn cội,
"Tiếng Việt" yêu thương bao thiết tha !

Tâm tình anh đó, quê hương Việt,
Kín đáo trao em thật nồng nàn....
Xa anh em sẽ hoài thương tiếc,
Tô điểm hồng thêm chuỗi ngày xanh !!

"Tiếng Việt" đưa em về cõi nhớ,
Luôn khắc ghi  lòng nghĩ đến anh....!
Hạnh phúc là đây tình muôn thuở,
Một thuở hè vui ước mộng lành !!

 NM

Hình ảnh có liên quan
Mùa Hè Có Cô Bé Mất Gốc
Năm nay thời tiết thất thường, mới đầu hè trời đã trở nóng hầm hập suốt ngày. Grenoble nằm giữa những ngọn núi nên mùa đông cực lạnh và mùa hè thì phỏng da. Hà một mình vắt cái khăn tắm trên vai đi bộ đến hồ bơi. Tóc nó thắt thành hai bím làm khuôn mặt mười sáu nhìn như con nít Tây mười tuổi. Vóc dáng trẻ thơ nhưng bạn bè ít ai biết Hà là đứa khổ tâm. Ba Hà vừa la mắng nó vì tội nói tiếng Việt sai be bét và lầm lì không chịu nói chuyện với bà nội. Hà không hiểu tại sao ba nó nổi giận khi nó trả lời: “Con vừa giặt tay cho bà xong”. Ba cho nó là đồ mất gốc.
Hồ bơi đông nghịt người. Lớp đang vùng vẫy trong làn nước mát, lớp nằm xếp cá mòi trên bờ phơi nắng để có làn da nâu. Hà leo lên cầu nhún, nó dậm chân lấy đà cho cú rơi tự do vào lòng nước xanh lơ. Lúc nghe tiếng “chủm”, Hà mơ hồ mình vừa đè lên vật gì đó. Một anh chàng trồi lên ho sặc sụa. Hà biết mình suýt gây ra “án mạng” nên búng chân trườn xuống nước mất dạng. Nhưng đã trễ, nạn nhân chết hụt kịp nhìn thấy hai bím tóc màu đen nổi bật. Sáng hôm sau Hà lại một mình vắt khăn trên vai đến hồ bơi. Bạn bè nó theo gia đình xuống miền Nam tắm biển hay du lịch nước ngoài hết cả. Con nhỏ Natalie đi Việt Nam. Nó hứa khi nào về sẽ đem cho cô bạn gốc Việt chưa một lần đặt chân lên dải đất này thật nhiều quà của xứ sở nhiệt đới. Tụi bạn Tây rất yêu mến Hà vì nó sống động, học giỏi và thích thể thao. Tụi nó đặc biệt kết cái tên ngộ nghĩnh của Hà. Tên nó nghĩa là dòng sông nhưng khi phát âm theo tiếng Pháp tụi Tây không đọc chữ “H”. Nhỏ Natalie nói: “Mỗi lần tao gọi mày từ xa, người ta tưởng ai đánh tao đau lắm vì cứ là kéo dài “A! A! A!”. Bản thân Hà mỗi khi có kẻ nào la “A!”, theo phản xạ nó quay lại vì tưởng có người gọi. Đi học vui như thế nhưng về đến nhà Hà là một người ít nói, lơ đãng và ngơ ngác. Ba nó không biết tiếng Pháp ngoài mấy câu chào xã giao. Mẹ nó thì biết đếm để xài tiền nhưng khi coi truyền hình thì chỉ đoán già đoán non. Lúc Hà còn nhỏ, mỗi lần cần làm giấy tờ ba mẹ nó phải chạy vạy nhờ những bác Việt Kiều có học. Mấy năm nay đến phiên Hà phải giúp lại những người Việt sống không hòa nhập được vào xã hội bên này.
Tuy ngầm hãnh diện về tiếng Pháp của Hà nhưng ba mẹ nó luôn hổ thẹn về tiếng Việt của nó. Tình hình trở nên căng thẳng khi bà nội từ Việt Nam sang sáu tháng nay. Bà thủ thỉ đủ chuyện với Hà mà nó cứ lặng yên vô cảm khiến bà giận, bệnh tim tái phát. Hà thấy ngột ngạt nên tìm tối đa các lý do để được ở bên ngoài.
Nước mát làm cho Hà dễ chịu, nó lại vừa bị ba la tội lầm lì và không thân thiện với bà nội. Hà bơi hùng hục mấy vòng hồ mới dừng lại nghĩ. “Cô bơi giỏi quá”. Một giọng nói vang lên sau lưng làm Hà giật mình. Anh chàng người Châu Á, chất giọng còn lơ lớ của người không sinh ra ở đây. Không hiểu sao Hà lại không thích những ai mắt đen, da vàng, mũi tẹt như nó. Natalie gọi đó là một mặc cảm trong tiềm thức, khó giải thích được. Hà lịch sự nói “cảm ơn” rồi búng chân lao vút đi. Nhưng hôm sau rồi hôm sau nữa, suốt một tuần lễ, ngày nào đi bơi nó cũng bị gã trai Châu Á bám theo lân la làm quen. Nó dừng lại ở mức độ chào hỏi rồi vội vàng lặn mất tăm xuống lòng hồ sâu. Anh chàng đó bơi không siêu nên nên hay đứng xớ rớ chỗ nước cạn cùng đám trẻ con lau nhau. Anh ta phô thân hình không được cường tráng của người ít vật động. Hà cười thầm: “Đến đây để tắm chứ bơi cái gì!”.
Bà nội thèm trái cây Việt Nam nên sai Hà ra siêu thị đầu phố mua ít loại. Bà dặn: “Nếu sầu riêng không quá mắc mua cho nội một trái”. Hà nhăn mặt như đã nghe cái mùi khó chịu đó. Lần nào bà nội ăn nó cũng trốn vào toilette. Mỗi lần như vậy ba nó lại bực mình và gia đình lại xào xáo. Hà công nhận đó là một mùi đặc biệt, người thì thấy thơm lừng, kẻ bịt mũi buồn nôn. Còn frômage camembert Hà thích lại làm cả nhà nó lợm giọng chê là mùi… xác chết. Ba nó cấm tiệt không cho tha về nhà bất kỳ loại frômage nào trừ “con bò cười”. Hà thấy mình luôn bị chèn ép. Hà đến quầy trái cây nhiệt đới, sầu riêng đang khuyến mãi nhưng chắc chỉ nên mua thanh long thôi…
- Chào cô!
Hà ngơ ngác nhìn một anh chàng tóc đen trông quen quen. Nó đưa tay đẩy gọng kính suy nghĩ.
- Cô không nhớ tôi sao? - Anh thanh niên nhỏ nhẹ - Ngày nào ở hồ bơi chúng ta cũng gặp nhau.
- À! - Hà la lên ngạc nhiên - Thì ra là anh mấy bữa trước anh không mặc quần áo nên hôm nay nhìn khác quá!
Mấy người mua hàng đang đứng trong bán kính mười mét đều quay nhìn tò mò kẻ “mấy bữa trước không mặc quần áo gì”. Hà biết mình “hố”, anh chàng đỏ mặt lúng búng không nên lời. Hà vơ vội vài trái thanh long rồi nhanh chân chuồn ra quầy thu ngân. Giá đang ở hồ bơi nó đã tàng hình vào làn nước. Lần này anh chàng có vẻ quyết tâm làm quen nên đón đường nó trước cửa siêu thị.
- Cô người gốc nước nào vậy?
- Anh hỏi chi?
- Cùng là người Châu Á, tôi hy vọng chúng ta đồng hương. Tôi đến từ Việt Nam từ mùa thu năm ngoái để du học…
- Tôi quốc tịch Pháp, nhưng ba mẹ tôi người Việt!
Hà thấy rõ nét mặt vui mừng của anh sinh viên. Anh ta gần như đã nhảy lên vì không thất vọng. Trông anh thành thật đến tội nghiệp.
- Chúng ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nhé! - Vừa đề nghị anh liền thực hiện ngay - Anh thèm nói tiếng mẹ đẻ quá!
Hà vẫn dùng tiếng Pháp, đối với nó đây mới là tiếng mẹ đẻ, nó cho anh sinh viên biết mình sinh ra ở đây nên không có khả năng trao đổi với anh bằng tiếng Việt nhưng nếu anh muốn nó sẽ giới thiệu… bà nội nó cho anh.
- Được! Nhà gần đây không? - Vẫn nói tiếng Việt với Hà, anh sinh viên hồ hởi - Anh tên Hải. Em tên gì? Có tên Việt không?
Hà dẫn Hải về giao phó cho bà nội. Hai người nhớ tiếng Việt cùng nhau nói không hết chuyện. Mẹ Hà đi làm phụ bếp ở nhà hàng về đem theo mấy món đồ xào ế bà chủ cho. Anh Hải được mời ở lại ăn cơm. Anh ăn cật lực làm Hà nấu thêm cơm cho ba nó khuya đi làm ca về. Bà nội hài lòng nghe anh kể từ tám tháng nay chỉ lo học bù đầu làm luận án thạc sĩ nên không có thời giờ để giao tiếp với ai. Thèm món ăn Việt Nam, nhớ tiếng Việt và muốn tìm Việt kiều làm quen nhưng chưa có dịp. Đến mười giờ, ba Hà đi làm nhà Hải vẫn chưa chịu từ giã. Mới nhìn qua mà ba Hà có cảm tình với anh sinh viên cao học ngay. Ba nói có một đề nghị làm Hà rụng rời:
- Ngay ngày mai cháu đến dạy tiếng Việt cho con nhỏ này. Cháu vừa biết tiếng Pháp vừa rành tiếng Việt dạy nó sẽ dễ. Sẵn ký túc xá hè đóng cửa để sữa chữa cháu cứ đến nhà bác ở, khỏi thuê chổ khác làm gì mắc công!
Buổi học đầu tiên làm Hà lo sợ. Không phải nó ngán ông thầy từ trên trời rơi xuống mà sợ ba nó làm to chuyện nếu nó học không tốt.
- Em phải chịu khó nói tiếng Việt - anh Hải mào đầu. Anh biết em hiểu hết nhưng ngại nói vì sợ sai.
Hà bực bội đưa tay sửa gọng kính. Và như thói quen, những lúc thế này tự dưng nó… buồn tiểu. Hà đứng dậy dợm bước.
- Em đi đâu?
- Tôi muốn đi toilette - Hà cương quyết nói bằng tiếng Pháp. - Nói tiếng Việt xem nào! Nếu không tôi không cho đi.
- Con muốn đi đái!
Ông thầy bật cười ngặt nghẽo làm Hà ngơ ngác nhưng nhịn không nổi. Nó vụt chạy đi. Lúc trở vào phòng học vẫn thấy thầy ôm bụng cười khùng khục.
- Tại sao anh cười! - Hà khó chịu hỏi bằng tiếng Pháp - Lần nào tôi nói tiếng Việt cũng có người cười hoặc tức giận.
- Sao em lại xưng “con” với anh? Lại còn nói “đi đái”, nghe không hợp với một cô bé đeo kính cận sáng láng.
Bà nội ở phòng bên nghe ồn ào bèn sang giải quyết. Thầy vỡ lẽ, thì ra Hà chỉ hay gặp người Việt lớn tuổi nên có thói quen xưng "con", với tụi trẻ đồng trang lứa nó dùng tiếng Pháp nói chuyện với nhau cho nhanh. Còn từ "đi đái", quả thật hồi bé thỉnh thoảng ba vẫn gọi nó dậy "đi đái" mà! Thầy biết dạy thế này gay go rất nhiều lần làm gia sư ở Việt Nam. Phải đổi phương pháp, không nên nóng vội, tốt nhất nên thân thiệt với họ trò "mất gốc" đã. Thế là anh nói tiếng Pháp với Hà, đề nghị nó hãy tâm sự về mình để hai người thông hiểu nhau phần nào. Biết nó cũng thật sự muốn giỏi tiếng Việt để làm vui lòng cả nhà nhưng ba nó tánh cộc cằn chỉ thích lớn tiếng mỗi khi nó nói sai, anh Hải tội nghiệp cầm tay nó an ủi. Anh nói mình thông cảm cho hoàn cảnh những đứa trẻ bị hai nền văn hóa xâu xé như Hà. Anh sẽ hết lòng giúp nó, miễn nó coi anh như một người bạn tốt. Những ngày hôm sau tình hình khả quan hơn, học trò đã chịu mở miệng nói chút chút. Nghe Hà ngọng nghịu, giọng lơ lớ, mặt hồi hộp sợ sai thầy vừa nén cười vừa cay mắt. Nhưng khi hai anh em vừa ra khỏi nhà để đến hồ bơi Hà trở nên tự tin và nói tiếng Pháp không cần xin phép. Anh Hải có vẻ thất vọng, thì ra học trò sợ phụ huynh hơn là thầy. Hà cười, hù dọa anh bằng tiếng Việt "ba rọi" của mình:
- "Toa" mà nói lại với ba con, con sẽ đè "toa" xuống đáy hồ đến lúc có những hột nước đi lên cho "toa" chết luôn!
- Em chứ không phải con, bong bóng nổi lên chứ không phải hột nước đi lên! Gọi bằng "anh" chứ không được "toa"…
Học trò không thèm nghe, nó đã búng chân lao vút đi trong làn nước mát để thầy đứng xớ rớ chỗ cạn với đám con nít ồn ào. Thấy lố bịch với cô em Việt kiều, anh chàng lần lần vịn thành hồ tiến ra chỗ sâu. Một lực kéo bất ngờ làm hai "ống sậy" của gia sư nhấc bổng lên. Uống lưng bụng nước chàng sinh viên dở thể thao được Hà kéo vào.
- Em định ám sát tôi để khỏi phải học tiếng Việt nữa phải không? - Nạn nhân tức giận ho sặc sụa - Lần đầu tiên gặp em đã từ trên cầu phi thân đè tôi xuống đáy cầu một lần rồi.
Ngày mai ba Hà lái xe đưa anh Hải ra phi trường Lyon. Anh hứa vài năm sau lại sang để làm luận án tiến sĩ. Khi đó chắc Hà đã nói tiếng Việt rất giỏi và không cần gia sư nữa. Hà biết anh nói thế để khuyến khích chứ nó còn trật nhiều lắm. Mới hồi hôm qua thôi khi bà nội kể chuyện những tên tội phạm mua chuộc cảnh sát, nó thắc mắc: "Sao tụi nó phải mua con chuột của cảnh sát làm gì?". Ba Hà dạo này bớt cục tính, ông nghe lời anh Hải chịu khó học tiếng Pháp. Bởi thật bất công khi trách con gái mất gốc trong khi bản thân mình không hòa nhập được vào xã hội mới sau gần hai năm sinh sống. Đang ăn tiệc tiễn anh Hải về Việt Nam, mẹ Hà làm bể cái chén gây tiếng động trong nhà bếp, nó vào phòng ăn kể với cả nhà: "Cái chén té từ trên bàn xuống" làm thầy xấu hổ đỏ mặt.
Anh kéo nó ra sâu sau trao một món quà nhỏ. Con gấu mập ú ôm trái tim đỏ thật dễ thương.
- Đây là tim của anh, tấm lòng của một người anh dành cho đứa em mình - Anh Hải lí nhí. Hà thắc mắc sao con trai Việt Nam thích ngụy trang tình cảm dưới lốt anh em làm gì - Nhớ đừng có phát âm sai chữ tim thành…
- Biết rồi - Hà đỏ mặt nhớ lần nó kể bà nội bị bệnh "đau chim" làm anh Hải há hốc nhìn nó kinh ngạc. Sau khi cả hai hiểu ra, bật cười đau bụng, đến phiên bà nổi giận hai ngày - Sáng mai em đi học lại, con Natalie phone nói đem từ Việt Nam qua cho em một cái nón lá…
Đêm trở lạnh, những cơn gió mùa thu đã đến đem những chiếc lá vàng đầu tiên lìa cành. Hà nói giọng nuối tiếc một câu tiếng Việt văn chương đến mức làm thầy phải giật mình: "Mùa hè đáng nhớ đã trôi qua…".

Dương Thụy
Một chút !...
 Tìm "đất hứa" , mong đất lành chim đậu,
Nào ngờ đâu biển cả hoá nương dâu !?
Trông vời cố quốc , xa cách lòng đau....
Một lần nữa gia môn sầu ly biệt !!

Ba thế hệ bao thâm tình khôn xiết,
Giờ còn đây "người cũ" với ta thôi....!
Một chút tình thân, chẳng chút đãi bôi,
Mong  ấm áp hai tâm hồn....đau khổ !!
NM 
Tô cháo huyết
 Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
    Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon !
    Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng nhôm. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết.
    Lâu lâu, nhai nhằm một sợi gừng làm nồng lên trong miệng, ngon không chê được !Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng.
    Trong... “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).   
    Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng “chị” rất... thời trang từ ngữ ! Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
    - Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
    - Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
    - Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
    - Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?
    - Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
    - Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?
    - Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
    - Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
    - Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?
    - Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
    - Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa...
    - Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
    - Sao thím không đi?
    - Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?
    - Tôi kẹt !Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết? Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngả cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn ( vì đi ngang chợ cá ) mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến ( Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à? ). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn tuốt ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi thẳng. Thật là... thích thú. Tôi phục... tôi quá chừng !
    Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết !Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đăm đăm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:
    - Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu mất biệt vậy? Vô ăn cháo đi !Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho... lấy có:
    - Thím mạnh hả?
    Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
    - Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...
    - Tôi không có tiền ! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu !).
    - Không có sao ! Vô ăn đi ! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà... Thầy Hai !
    Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
    Tiếng bà xẩm vang lên:
    - Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao !Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng, bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
    - Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?
    Nó nói dóc một cách... gọn ơ:
    - Tôi mắc về dưới tỉnh.
    - Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?
    - Dạ, mạnh.
    Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
    - Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo !
    Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mặt mày hớn hở. Rồi nó nhắm mắt, hít từng hơi dài mùi thơm mời mọc, coi giống như một thằng ghiền…
    Giọng bà xẩm ôn tồn:
    - Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.Ngừng một chút rồi tiếp:
    - Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ ! Thầy Hai hiểu tôi không?
    Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh.
    Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn...
    Tôi thấy nó như vậy, và chỉ phải như vậy nó mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết !Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
    - Không ! Không ! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím !
    - Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà ! Không tính tiền !
    Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”.
    Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt...
    Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...

Tiểu Tử

Thò lò ơi,
Không có rượu sao thò lò quay tít ?
Dẫu ngã nghiêng mong tâm vẫn bình yên,
Thân phận con người , cuộc thế đảo điên.....?
Có dừng lại.. cũng xin đừng .....chỏng gọng !!
NM
 Con Thò Lò
Hồi nhỏ, tôi rất ít được nhận các món đồ chơi. Gia đình tôi khá giả, bố tôi là đại lý độc quyền hãng guốc sơn và guốc mộc khắp miền Nam, có cửa hàng chi nhánh ở Cần Thơ và giao bán khắp các tỉnh miền Tây. Lâu lâu, bố tôi lại tham dự hội chợ triển lãm và được cấp bằng khen Medaille d or hay Medaille d argent treo đầy nhà, có thứ được tặng từ Foire de Phnom Penh, hay Đấu Xảo Hà Nội chẳng hạn. Vậy mà nhớ mua cho tôi một món đồ chơi thì hầu như bố tôi không nghĩ đến.
    Tôi ham đồ chơi lắm nên góp nhặt lon sữa bò tự chế thành những cái xe khi đẩy nó xoay tròn tròn coi cũng ngộ. Lần vớ được con thò lò, tôi thích lắm. Dù không rõ vì sao lại gọi là thò lò, nhưng búng nó quay và nhín nó quay, quay tít suốt ngày, tôi cũng thấy hay hay. Búng thì nó quay, lảo đảo như người say, ngả nghiêng chông chênh, sức chuyển giảm dần rồi đổ ụp xuống, lăn quay ra đó.
    Tôi nhặt lên, búng lại, con thò lò lại quay. Tôi nhẩn nha chơi với nó suốt ngày không thấy chán, dẹp hết mấy cái xe làm bằng lon sữa bò hay các món khác đi. Có một lần mẹ tôi trông thấy tôi búng con thò lò quay tít, bà đứng lại nhìn một đỗi. Xem chừng tôi bị thu hút bởi sức quay của con thò lò, bà ôn tồn hỏi tôi: mày xem vậy mà không thấy chóng mặt sao?
    Tôi bảo: nó quay chứ con có quay theo nó đâu mà chóng mặt. Mẹ tôi cười khểnh phê phán: con nít con nôi tưởng việc gì cũng dễ. Vậy mà rồi có lúc mày sẽ thấy choáng váng đó con. Nói xong mẹ tôi bỏ đi. Tôi cũng không để tâm đến việc ấy.
    Thời gian bẵng đi bao năm tháng, bất chợt cái lần vào quân trường Thủ Đức, những lần cầm súng di hành ra bãi tập, rõ ràng nhìn giữa cái nắng chói chang của vùng Chợ Nhỏ, Linh Xuân Thôn ra bãi 25, hàng người nối đuôi nhau mà ngủ gục lúc nào không biết.
    Ông Đại Đội Trưởng của tôi vốn hết sức cẩn thận, cứ đưa SVSQ ra khỏi cổng là bắt gắn lưỡi lê vào đầu súng. Các đại đội bạn đi ngang đều tủm tỉm cười kháo nhau " đây là lính của ông Phới ". Thực ra tên ông DDT của tôi là Phái, nhưng bạn nhạo đổi thay giọng quảng Ngãi để chọc chúng tôi thôi. Còn anh em chúng tôi thì buồn buồn trong lòng, trường đóng ngay trên ngã ba Xa Lộ Biên Hòa, đi di hành ngay trong thành phố mà làm như đi " oánh giặc ".
    Có lẽ những điều nói hành nói tỏi của tụi tôi thấu đến tai ông cũng nên, vậy nhân một lần tập họp trước khi ra quân, ông đã vừa cảnh cáo vừa giảng giải cho tụi tôi rõ: các anh đừng tưởng mặt trận ở đâu xa, nó lù lù ngay ở trước mặt bất cứ lúc nào. Hơ hỏng là bị thịt đứt đuôi ngay tức khắc. Đã mặc bộ áo trận trên người là coi đã bắt đầu chết ngay từ phút đó rồi, may mắn lắm còn trụ được thêm phút giây nào là ân huệ của trời ban cho, đừng tưởng bở.
    Sau này, gần ngày ra trường để thằng nào thằng ấy cũng đều trở thành " thượng sĩ gân " với chức vụ Trung đội trưởng, chúng tôi mới biết kinh nghiệm chiến trường của ông. Thì ra ông đã một lần hơ hỏng ở Hưng Yên khiến quân số của ông đi đứt gần một nửa nên từ đó ông ân hận vô vàn.
    Lại nữa, khi chiến dịch Mậu Thân nổ ra ngay trong thành phố, tôi càng thấm thía chẳng có tiền tuyến lớn hay hậu phương nhỏ gì hết, chỗ nào cũng có thể mặt trận tất tận. Rồi tháng 4.75, bao nhiêu đô thị, thành phố ùn ùn kéo nhau đi thì quả thật cái chết đang đuổi theo sát nút mọi người.
    Tôi chợt nhớ lại con thò lò và những lời của mẹ. Ôi thôi, ai cũng quay tít, mệt hết thở, quân hồi vô phèng, lính làm thịt lẫn nhau, tệ hại là nhiều thằng hận cá chém thớt nên cứ nhè tìm vợ con sĩ quan để " trả thù dân tộc ". Dạo đó, nhiều người đã nghĩ: thôi kệ, ở lại dù có bị hành vẫn sướng hơn, chứ ra đường cảnh hỗn quân, hỗn quan, đầu không phải lại phải tai thì khốn.
    Nước có nguy mới thấy đâu là tài ba lương đống. Mấy bố phét lác nhanh chân vọt hết cả. Bất nhẫn là lại dối lừa đàn em cho mắc kẹt chết chùm để các bố dông được yên. Đất nước " giải phóng ", quân dân cán chính trải qua những tháng ngày tù cải tạo, thằng nào cũng chửi thượng cấp vung xích chó.
    Chính lúc đó nhìn đâu cũng thấy quay tít như con thò lò. Vợ các ông, bà nào không chịu nổi cảnh hẩm hiu là chập chững tìm một ông cán bộ dựa. Con thò lò quay tít không ngừng, một ngày nào đó anh chồng hết thời khập khiễng về thì nhà đã có chủ mới. Tử tế thì chị vợ cho trú tạm một đêm, quẳng cho cái chiếu nằm chèo queo ở hàng hiên, còn bà thì du dương với anh cán trong chính nhà của mình. Bằng không thì có ngay anh khu vực đến mời đi chơi chỗ khác.
    Con thò lò xem vậy mà có giá trị kinh hồn. Nó quay làm mọi người cũng quay theo, bát nhào bát nhào suốt từ thôn quê thành thị. Tôi mới thấy mẹ tôi tiên đoán cái chuyện ngồi xem con thò lò quay mà bỗng chóng mặt là sao. Cảm thương bà mẹ tội nghiệp đã nhìn xa thấy rộng mà không cưỡng lại được chính số phận của bà.
    Mỗi con người Việt Nam dường như đều có một thời lận đận của mình. Nhất là 20 năm đầu sau ngày "giải phóng ", ôi ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh, không kể đâu cho xiết. Mẹ tôi lẽo đẽo theo tụi con lên kinh tế mới, khều khào với cái cuốc mà nước mắt lưng tròng. Lưng mẹ một ngày một xụm, đến lúc nào đó thì cong tịt thành con tôm luộc. Vậy mà con thò lò vẫn cứ quay, chưa chịu ngưng.
    Phúc mươi đời, sao lại có ngày cả gia đình tôi lại cũng nhau lên phi cơ rời khỏi nước. Mẹ tôi tủm tỉm cười luôn miệng: tao tưởng đâu được một lần đường hoàng lên máy bay ra khỏi mảnh đất đang quay. Tôi thì ứa nước mắt khi phi cơ đảo vòng chót chào phi trường dưới thấp. Tôi tự hỏi mình: hồi nào về.
    Sang tới bên này rồi, con thò lò vẫn bám chặt theo người. Đi đâu cũng thấy cảnh thò lò đua nhau quay vung vít. Ông này đổ lỗi cho bà kia, toàn là đấng đầy tràn trách nhiệm, còn quốc gia ngả nghiêng là tại ai đâu đó. Chao ôi, những con thò lò biết nói và nói hay như khướu. Tôi mệt đầu vì ba cái chuyện lu bu.
    Ước gì tôi còn giữ được con thò lò ngày nào. Một mình, tôi sẽ giở ra búng khi đêm về trên đất khách. Tôi sẽ nghiền ngẫm xem cái trục nào giữ con thò lò đứng vững để quay, chờ khi hết đà thì lăn quay chỏng gọng. Tôi càng phục mẹ tôi mỗi khi cảm thấy cơn chóng mặt vừa lóe ra. Tôi muốn thưa với mẹ: bây giờ con nhức đầu quá.
    Ba mươi mấy năm rồi, những con thò lò vẫn chưa chịu ngừng. Cả bên này lẫn bên kia, những cái búng vẫn đẩy nhanh để khiến những con thò lò giao động. Biết ngày nào những con quay này mới nhận ra thân phận của mình, quay tít âu cũng chỉ là nhất thời rồi sẽ lăn chiêng ra đó?
Đỗ Thành