Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

Nhạc - Thơ - Văn Quân "ngày xưa"

Ngày Xưa Ơi

Những Ngày Thơ Mộng 

Ngày thơ ơi,
Dòng sông nào nhớ thương tìm bến cũ ?
 Thuyền xa bờ luôn nhớ bến đò xưa,
Tuổi thơ ơi, thương biết mấy cho vừa...
Nhánh sông nhỏ, trong xanh và dịu mát !

Cố tìm lại trong sóng xa dào dạt,
Dòng sông ngày thân ái thuở ngây thơ...
Nước trên cao trôi mãi có bao giờ,
Đổ ra biển quay về tìm chốn cũ !?
NM
Quân "ngày xưa"
           Chiếc đồng hồ cổ trong phòng khách đã rè rè đánh lên bảy tiếng từ lâu mà hai chị em tôi vẫn chưa thấy ba tôi dắt xe ra cửa đi làm... Trong phòng khách vẫn còn vọng ra tiếng nói chuyện của ba mẹ và chị Bảy giúp việc, thường vào những ngày thứ hai đầu tuần ba tôi hay đi làm sớm.
           Tôi đã nghỉ hè được một tuần, em gái còn nhvẫn chưa đi học, hai chị em bày biện đồ chơi ngoài sân, chỉ có hai chị em với nhau nên chóng chán mặc dù chị em chúng tôi có đầy đủ các món đồ chơi dành cho bé gái như ấm trà, mâm chén dĩa, đũa muỗng, gà mên, bếp lò nhỏ, nồi nấu cơm....tất cả đều bằng nhôm có thể nấu và xào thức ăn như thật !
           
        Cuối cùng thì ba tôi cũng dắt xe ra, em gái tôi nhanh nhẩu hỏi ba sao đi làm trễ, ba cười vui cho biết sáng nay ba có dặn chị Bảy đi chợ  mua cho hai chị em hai món quà để hai đứa chơi trong mùa hè nầy. Khi xe ba nổ máy đi thì chị Bảy cũng xách giỏ đi chợ, chị vui vẻ cười vẫy tay hẹn sẽ về sớm đem cho chúng tôi món quà mà ba đã hứa !
*****
          Chị Bảy quê ở Trà Kha thuộc tỉnh Bạc Liêu cùng quê với mẹ, bà ngoại tôi hàng tháng ở Bạc Liêu lên thăm mẹ và cậu ba, tháng trước ngoại không lên một mình mà dắt theo chị Bảy, một phụ nữ bà con xa, mặc dù chị sắp xỉ tuổi với mẹ, nhưng theo vai vế, chị phải gọi mẹ bằng cô, vì thế chị em tôi gọi bằng chị. Chị tròn trịa da ngâm ngâm, mái tóc chị dài đen nhánh được búi gọn ghẻ sau ót, đa phần dân Bạc Liêu hay mặc áo ngắn tay kiểu như áo xẩm vì Bạc Liêu là nơi nhiều người Triều Châu và người Miên, không biết chị Bảy có lai Tàu không nhưng chị ít khi mặc áo bà ba như bà ngoại, chị nhanh nhẹn và luôn vui cười lại yêu mến trẻ con, vì thế hai chị em tôi rất thương mến chị...Ngoại nói có chị Bảy giúp việc ngoại tôi sẽ an tâm hơn khi ba mẹ chào đón em bé vào cuối năm.
           Hơn  một tiếng sau chị Bảy về đến nhà, thấy bóng chị thoáng qua là hai chị em tôi chạy theo chị vào bếp, chị vui vẻ đưa ra khoe cái túi  bằng giấy ciment dày có khoét những lỗ tròn nhỏ, tôi nghe có tiếng chiêm chiếp và rột rẹt ở trong đó, chị nhanh nhẩu mở toang túi giấy và ơ kìa hai chú vịt con lao nhanh ra...Chị vội vã lấy cái rổ to úp lại và cầm từng con đưa cho hai chị em lựa, em gái tôi giành ngay con vịt toàn thân màu vàng như cuộn len, nó chừa lại cho tôi con vịt có một đốm lông đen trên lưng ! Chị Bảy nói cố tình mua như vậy để dễ phân biệt !

        Chị Bảy đem hai chú vịt con ra sân trước dưới bóng mát của cây vú sữa, chị căn dặn hai chị em nhớ để chúng một lúc trong rổ cho quen chỗ rồi mới được mở ra. Em tôi sốt ruột cứ hé cái rỗ để nhìn hai con vịt dễ thương kia, khi chị Bảy vui vẻ mở cái rổ, chị nói với em gái tôi đặt con vịt của em sau lưng rồi đi từ từ, con vịt lẻo đẻo chạy theo kêu chíp chíp nho nhỏ làm em vui vô cùng. Em bắt đầu chaỵ chầm chậm, con vịt cũng chạy chậm theo sau, em chạy nhanh hơn hai chú vịt cũng chạy lạch bạch theo nhanh, đôi chân ngắn đỏ hồng lạch bạch theo bén gót, có khi không kịp té lăn quay lại vội vã đứng lên chạy theo trông thật tức cười và đáng yêu
              Mặt trời lên cao nắng tràn vào sân trong, chúng tôi cũng mệt vì chơi đùa với hai chú vịt nhỏ, mẹ gọi vào thay quần áo, tắm rửa chuẩn bị ăn cơm trưa. Buổi sáng hôm nay thật là thú vị, hai chú vịt con lanh lẹ dễ thương cho nên em tôi cứ luyến tiếc mãi ! Nhà tôi hướng tây buổi chiều có nắng chói không được chơi dù trong sân có mái hiên che mát, hai chú vịt cũng được chị Bảy bỏ vào chuồng gà ngoài sân        
         Buổi chiều ba đi làm về, nhìn vào chuồng gà thấy hai chú vịt lấm lem vì ngã lăn quay trên cát để đuổi theo em tôi thì ba hướng dẫn cách chơi khác mỗi khi vui đùa với vịt xong, mượn chị Bảy cái thau nhỏ cho hai chú vịt bơi trong đó, xắt mỏng rau muống cho vịt ăn nhờ vậy em tôi mới không hành tội bắt hai chú vịt chạy theo mình hoài, chúng tôi thích thú xem vịt chúi đầu xuống nước tắm thỉnh thoảng ngẩng đầu lên vung vẩy cho rơi nước xong mới thò hai cái mỏ màu cam xinh xắn bập bập rau     
            - Cho anh em Quân chơi với !..
          Giật mình ngẩng đầu lên tôi thấy hai đứa con trai bất ngờ xuất hiện trước mặt, cả hai có lẻ lớn tuổi hơn tôi một chút, đứa con trai mặc áo màu kaki tự giới thiệu mình tên Quân  và chỉ đứa em trai mặc áo màu xám nhạt đứng kế bên tên Thuyên,
           Quân còn chỉ cho tôi nhà của Quân ở gần đó, cửa sau nhà Quân kế bên nhà ông Ba Ưu và mặt tiền nhà Quân nằm ngay ngã ba hẽm lớn, căn nhà nầy luôn đóng cửa im ỉm ở mặt trước. Hàng ngày khi đi học ngang qua tôi hay tò mò nhìn, tôi ch thấy thấp thoáng ở cửa sau một người đàn bà lớn tuổi hơn mẹ tôi một chút bế đứa con gái nhỏ xíu, bà luôn mặc áo bà ba màu măng cụt, tóc búi phía sau, căn nhà im ắng không thấy bóng dáng đàn ông hay ai ngoài người đàn bà đó, chỉ có mỗi con chó mực được cột ở cửa sau cất tiếng sủa vang mỗi khi có ai đi ngang qua....!
        Thật là bất ngờ khi hai gương mặt con trai vừa sáng sủa vừa vui vẻ đến làm quen ! Em gái tôi vui lắm, nó sốt sắng xích qua một bên cho anh em Quân ngồi xuống, Quân nhanh nhẹn giành cắt rau và bưng thau nước đi thay, em tôi vui hẳn lên luôn miệng hỏi han, Quân và Thuyên chìu em tôi trả lời tất cả mọi chuyện ngay cả những câu hỏi ngây thơ nhất !
            Bốn đứa trẻ chúng tôi sáng sáng vui đùa rồi ngắm vịt bơi lội, chị em tôi càng vui hơn khi có hai anh em Quân, được vài hôm thì Quân đề nghị thay vì cho vịt bơi trong thau , Quân sẽ đào một cái ao nhỏ ngay trên cát ngoài sân cho giống ao thật hơn, khi nào chơi xong sẽ cho vịt "tắm" lại trong thau nhỏ, Thuyên nói giống như cái ao sau nhà Thuyên ở quê vậy
         Anh em Quân nhanh nhẹn đào sâu xuống cát một khoảng rộng và sâu hơn cái thau một chút, ao không tròn vành như cái thau mà có những đoạn uốn lượn trông rất thiên nhiên, đất đào ra được Quân be thành bờ cao chung quanh ao, Quân còn đi bứng những đám cỏ nhỏ hay cây con gần nhà trồng lên bờ cát, hai chú vịt càng tung tăng bơi thoả thích trong cái ao thiên nhiên bé nhỏ nầy 
      ....Lúc nào cũng như lúc nào khi mẹ hay chị Bảy gọi chúng tôi vào nhà thay quần áo là anh em Quân ngoan ngoãn đi về hẹn hôm sau sang chơi tiếp, tđó bốn chúng tôi thân thiết với nhau và luôn có những trò chơi mới !
            Em gái tôi tuy nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng xinh đẹp và liếng thoắng, em hay hỏi, hay nghe và cái gì cũng muốn người ta chìu theo ý mình, trong những ngày có anh em Quân thì em càng đưa ra nhiều ý tưởng mới, anh em Quân đều vui vẻ làm theo, chúng tôi không còn chơi đơn giản như trước mà quy mô hơn, thay vì bày biện đồ chơi nhà bếp ra nấu giả thì chạy vào bếp xin cơm và thức ăn thật, giả như nấu xong dọn ra ăn, rồi Quân đi nhặt những quả gòn non rụng trong sân nhà ông Mười kế bên giả làm ổ bánh mì xẻ ra cho rau thái nhỏ vào, cũng có giấy bọc chung quanh như ổ bánh mì thật để bán hàng...
           Em tôi lại đề nghị làm nhà ở bằng hai chiếc mền, Quân cột sợi dây dài lên cao nối từ cửa sổ ra hàng rào, hai bên phủ hai cái mền lớn và bốn chân mền được gác lên bốn cái ghế, thế là chúng tôi đã có cái nhà hai mái với hai phòng bên trong , chúng tôi bắt đầu nấu đồ ăn thật dưới sự chỉ đạo của Quân, tất cả chuyện gì khó khăn anh em Quân đều làm nhanh nhẹn, vén khéo và giỏi,  
      ....Thỉnh thoảng tôi quay lại nhìn về cánh cửa sau nhà Quân thì thấy người phụ nữ bế con đang nhìn về phía chúng tôi chơi, bà cũng lặng lẽ như cái yên tĩnh của căn nhà luôn đóng cửa phía trước, còn Quân đang chơi mỗi khi nghe tiếng em bé khóc là gọi Thuyên chạy về xem sao, Thuyên sấp xỉ anh nhưng rất ngoan nhanh nhẹn chạy về rồi quay lại ngay...
           Năm nay cây sứ hồng trồng trong chậu lớn giữa sân đúng lứa cho  hoa nở thật nhiều, ba tôi nói đó là dạng "sứ cùi" nên hoa càng nhiều thì lá rụng gần hết, mỗi lần chơi với nhau chúng tôi phải quét gom hoa lại. Em gái tôi thấy màu hồng của hoa đẹp thì thích lắm, em đòi chơi trò "công chúa", không cần chúng tôi  đồng ý hay không em đã chaỵ vô phòng ba mẹ mang hai chiếc khăn voan của mẹ dùng để choàng mỗi khi đi xa, chẳng biết ai dạy em có sáng kiến cột hai đầu khăn lại rồi chui vào thế là em có cái áo đẹp bằng voan dài lê thê so với chiều cao của mình. Công chúa phải có hoa trên đầu như trong truyện tranh em nhìn thấy, em chỉ những bông hoa sứ rụng trong sân đòi Quân phải kết thành vòng hoa cho em đội, tính em tôi rất bướng muốn cái gì cũng đòi cho bằng được, sợ em khóc làm phiền người lớn, lúc nào Quân cũng nghe theo.
       Tôi và Thuyên đi nhặt hoa, chọn những hoa còn tươi gom lại cho Quân, hoa sứ không có nhuỵ nên Quân dùng cuốn hoa gắn vào giữa năm cánh thật chặt cứ thế mà kết nối nhau lại tạo được vòng hoa trên đầu, vòng đeo cổ và cả hai tay, em tôi hài lòng lắm cười vui...    
        Chợt nhớ ra hai cái khăn dài lê thê phết đất, sợ khăn dơ em lại nghĩ ra trò khiêng công chúa đi từ đầu sân đến cuối sân, em  mè nheo kéo vai Quân mà đòi, đang cắm cúi xỏ cho hết hai vòng đeo tay cuối cùng, Quân hứa sẽ cùng Thuyên bắt chéo tay khiêng em tôi, em hớn hở gọi Quân và Thuyên là "hai quân sĩ"....
           Đến trò chơi nầy, ngoài việc cùng Thuyên đi nhặt hoa cho Quân xong thì tôi chỉ ngồi nhìn và chờ theo ý em như anh em Quân, cũng hơi buồn và không biết mình sẽ làm gì, tôi hỏi nhỏ Quân :
        - " Vậy tui làm gì hả Quân ?"
        Vẫn cắm cúi gắn cho chặt những bông hoa rơi, Quân vừa chăm chú làm vừa nói cho tôi đủ nghe :
        - " Mai làm "hoàng hậu" !!
    *****
        Câu nói của Quân làm cho tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, tôi đinh ninh mình sẽ là "tì nữ" nâng vạt áo cho em hay làm bếp nấu cơm cho công chúa... không ngờ Quân lại có ý nghĩ như vậy. Thật sự trong suốt thời gian bốn đứa chúng tôi chơi đùa với nhau, em gái tôi lúc nào cũng được nuông chìu, em đẹp và mỗi khi mẹ dắt đi đâu em cũng được mọi người khen khi thì "Em bé đẹp" lúc thì "trắng trẻo như công chúa" cho nên em quyết định làm công chúa ! ngôi vị "Hoàng hậu" tôi nghĩ chỉ là mẹ thôi ! Tôi là chiếc bóng của em, âm thầm, lặng lẽ....
          Câu trả lời của Quân làm tôi bất ngờ và xúc động, tôi chỉ biết im lặng nhặt hoa đưa cho Quân và ....nhớ hoài câu nói nầy của Quân cho đến ....suốt đời, dù trải qua một  thời gian dài gặp biết bao nghịch cảnh, dù nhọc nhằn hay đau khổ, câu nói của Quân làm ấm lòng tôi mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn và giúp tôi mạnh mẽ hơn để vượt qua gian khổ, làm hoàng hậu thì không thể nào thua ai và không bao giờ cô độc !!...."Tôi là hoàng hậu", dĩ nhiên điều nầy chỉ có tôi và Quân biết !!
         Rốt cuộc em tôi cũng chán, Quân bất chợt đề nghị đi qua ao rau muống vớt bèo cho vịt ăn, lúc nầy hai chú vịt bắt đầu ăn nhiều, cái ao Quân đào càng ngày càng sâu rộng hơn, em tôi hưởng ứng liền, tôi ngần ngại vì biết ao nằm bên kia đường Hai Mươi, chiều nào cậu ba cũng chở tôi qua để phụ với cậu mở cửa, sắp bàn ghế lau bụi cho lớp học bình dân
          Lớp học nầy ba mẹ đã thuê một căn nhà rộng ở đó rồi "huy động" cả nhà đêm đêm qua dạy chữ cho dân nghèo, ngoài ba mẹ còn có cậu ba và hai người bạn thân của cậu là cậu năm Đ và cậu hai N và tôi cũng là một "cô giáo nhỏ"...! 
          Năm đó tôi chỉ mới bảy tuổi nhưng hết hè tôi sẽ lên lớp nhất, mẹ nói tôi dư sức kèm trẻ em từ lớp vở lòng cho đến lớp ba, mẹ chỉ tôi cách dạy như dò cửu chương, đọc chính tả, những bài toán cộng, trừ, nhân, chia...    
        Buổi chiều ở ao rau muống thật buồn và hình như mau tối hơn vì đa phần dân nghèo chỉ xài đèn dầu hay cùng lắm là đèn "măng sông" và cũng chưa có điện kéo tới ! Lớp học cũng xài loại đèn nầy, mùi dầu hôi của đèn thật khó chịu. Chung quanh và trước mặt nhà nào cũng có một hàng lạch nhỏ thay cho cống thoát nước, ô rô lẫn cỏ dại mọc rất nhiều
           Thú thật vì tôi chỉ là con bé bảy tuổi cho nên "cô giáo" rất sợ muỗi, sợ những con rắn mối, cóc nhái thấy ánh đèn sáng chạy vào đớp muỗi. Trời càng tối thì tiếng ễnh ương, nhái bầu càng lớn, lắm lúc thật buồn ngủ, mỗi khi mẹ đi ngang qua xong tôi lại co hai chân lên ghế ! Mẹ vừa dạy vừa thỉnh thoảng tới kiểm tra xem tôi "dạy" ra sao !
          Đám "học sinh " mà tôi phụ trách là những đứa bé của gia đình nghèo quần áo lôi thôi, có đứa mũi xanh chảy lòng thòng, thỉnh thoảng đưa tay lên quệt ngang làm "cô giáo" cứ rình chmẹ đi qua thì né ra xa...!         
       Lúc Quân rủ, tôi chỉ làm thinh mà cũng không cho Quân biết buổi tối mình "dạy học" ở đó, đối với tôi khung cảnh nơi đây thật buồn khi chiều xuống, hoa rau muống cụp lại, bèo và rong rập rình trên mặt ao trong chiều tối tạo thành những mảng đen chập chờn trên mặt nước đen thui trông thật ảm đạm, thế nhưng thấy anh em Quân rủ và em tôi  háo hức, tôi lẳng lặng cùng đi...
          Chúng tôi băng qua đường, Quân cẩn thận trông trước trông sau, con hẽm lớn dẫn vào ao ban ngày trông quang đãng hơn nhiều. Khi chúng tôi đứng trước ao, một cảnh tượng sáng rực đẹp vô cùng mà tôi không ngờ hiện ra trước mắt : mặt ao rau muống mênh mông lăn tăn những đợt sóng nhỏ theo gió phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh lung linh như kim cương, không có tiếng ếch nhái ễnh ương mà là tiếng chim ríu ríu bay chuyền trên những cây cao trồng chung quanh ao, mặt ao lại đầy màu tím của hoa rau muống, chuồn chuồn lớn, chuồn chuồn kim và bướm dủ màu lượn l vờn nhau...         
        Lúc nầy tôi chỉ thấy màu sắc xinh tươi của hoa, màu xanh của lá và những đám rong, bèo tạo thành quang cảnh đẹp mắt linh động. Sinh khí dường như bao trùm những gian nhà tôle và nhà lá chứ không tăm tối như ban đêm, tôi chỉ đứng đó ngắm nhìn so sánh mà cũng không hề nói cho Quân biết, lúc ấy còn quá nhỏ tôi không biết tâm trạng con người ta khi đứng trước một cảnh quan giống nhau lại có thể có những cảm nhận khác nhau, nhờ Quân tôi đã thưởng thức được vẻ đẹp thiên nhiên đầy ánh sáng và sức sống của nơi nầy, một nơi mà ban đêm thật là tối tăm ...!!
          Cứ như thế vài ba ngày anh em Quân lại rủ hai chị em tôi đi vớt bèo cho hai chú vịt con, những lần đi đó chỉ có Quân và Thuyên thay nhau lội xuống cắt rau, vớt bèo tuyệt nhiên chị em tôi chỉ đứng nhìn và em tôi hò reo vui vẻ khi Quân bắt cho nó con bướm hay con chuồn chuồn kim...
         Thỉnh thoảng ông Ba Ưu qua nhà trò chuyện với ba tôi, ông là "ông đốc học" nên rất oai vệ, tiếng nói vang vang  lớn, trên tay lúc nào cũng cầm cây can và miệng luôn ngậm ống pip phì phà khói, ông có vẻ không thích những người "di cư" ông thường nhắc nhở ba tôi hãy dè chừng họ, vì bên trái nhà tôi cũng có một gia đình di cư, tuy nhiên hai vợ chồng nầy cùng hai đứa con nhỏ trông sạch sẽ hiền lành, cả nhà lúc nào cũng mặc quần áo màu trắng vải phin, hai đứa trẻ trắng trẻo mập mạp chỉ đeo hàng rào ngó sang nhìn chúng tôi chơi.... Gia đình nầy khác với gia đình Quân nhưng tất cả các đứa trẻ của cả hai nhà đều lễ phép ngoan ngoãn
          Trong khi ông Ba không thiện cảm thì ba tôi trái lại , có lần trong đêm Trung Thu ba nhìn chúng tôi chơi rước đèn cùng con nít trong xóm, anh em Quân luôn cầm đầu khéo léo dẫn dắt chúng tôi, nhất là Quân và Thuyên luôn chìu theo ý em, ba tôi đã cười và buột miệng nói : "Thằng "Bắc kỳ con" nầy khôn tổ sư !" Và chưa bao ba giờ phản đối hay khó chịu khi thấy chúng tôi thân thiết chơi với nhau suốt cả mùa hè....
            Ba tháng hè qua nhanh, chúng tôi bắt đầu đi học, chỉ có dịp gặp nhau vào ngày thứ bảy và chủ nhật, hai chú vịt con giờ đã lớn cho nên không thả chạy rông như trước, chúng bị nhốt trong lồng gà lớn có thau chứa nước để tự tắm. Lớp học tạm đóng cửa vì mẹ sắp có em bé, mùi dầu đốt dèn làm mẹ dễ bị ngộp. hơn nữa trong thời gian nầy cậu ba còn chuẩn bị thi tú tài 1....            
        Bà ngoại lại lên dắt theo bà Tám trạc tuổi ngoại, nghe nói bà ở Nhu Gia, bà Tám là người nuôi em trai lớn của tôi lúc mẹ sinh ra em cách hai năm trước, bà Tám lên thì chị Bảy lại về Trà Kha vì ngoại nói có người ở quê ra nhắn chị về, mẹ chị bệnh cũng khá nặng ! Chia tay với chị Bảy cả nhà ai cũng buồn vì tánh chị chân chất lúc nào cũng vui cười, chị hay kể chuyện  bà con dưới quê cho mẹ tôi nghe.
          Ba mẹ quyết định cho chị Bảy mang hai chú vịt về quê vì chúng đã lớn mẹ lại khó ngủ, đêm về hễ có tiếng động là chúng "cạp cạp" um sùm, chúng chưa đủ lớn để làm thịt vã lại ba mẹ cũng không muốn chị em tôi chứng kiến cảnh cắt cổ hai chú vịt thân thiết của hai chị em  !!
        Con chó mực của nhà Quân mấy hôm nay ủ rủ không hay sủa như trước, nó nằm mẹp cạnh góc cửa sau được vài hôm thì biến mất ! Ông Ba lại sang nhà tôi nói chuyện, tôi chỉ nghe câu được câu mất, ông nói có lẻ tụi nó ăn thịt rồi... "Bắc kỳ" hay ăn thịt chó với "cá rô cây", rồi ông hỏi đùa tôi có hiểu không ? Ông về nhà ba tôi mới giải thích và nói không hiểu tại sao ông Ba lại ác cảm với người Bắc di cư ?
        Hôm sau anh em Quân sang chơi, bất chợt em gái tôi hỏi thẳng: "Con chó đâu bộ nhà Thuyên ăn thịt nó rồi hả ?", Quân nói nhỏ: "Con chó bệnh cho nên nhà làm thịt, nhưng Quân không ăn !!" Em tôi xì  một tiếng "Quân xạo" lúc ấy Thuyên bênh anh liền, Thuyên nói " Thật đó nhà Thuyên ăn, nhưng anh Quân không bao giờ ăn !"   
        Câu chuyện tưởng như chẳng có gì quan trọng, thế mà ông Ba đi nói với hàng xóm, Tiếng ông lớn có lẻ nhà Quân nghe được, cánh cửa sau không còn con chó lúc nầy đóng im ỉm và hai anh em Quân không qua nhà tôi nữa...!
        Tết Trung Thu đến, anh em Quân lại sang chơi, trước khi về Quân nói nhỏ với tôi nhà Quân sẽ dọn đi chỗ khác, anh em Quân cũng chưa biết dọn về đâu. Ngày hôm đó thật là buồn, tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng lờ mờ đoán ra nguyên nhân từ việc con chó mực chết, sau nầy gia đình tôi mới biết ông Ba không ưa những người Bắc di cư vì họ trốn chế độ Cộng sản, vượt biển vào Nam. Gia đình ông Ba gốc Ba Tri Bến Tre là nơi hoạt động cho Mặt Trận Giải phóng Miền Nam, ông có hai người con trai lớn đi theo Cách Mạng vì thế ông không thích người di cư !          
         Gia đình Quân dọn đi âm thầm và chị em tôi không còn có dịp gặp lại hai anh em Quân ! câu nói "Mai là hoàng hậu" tôi vẫn không quên, sau nầy học Sư Phạm từ "Quân" thường được dùng, Quân là vua, quân là "anh", là "chồng" chỉ đại từ ngôi thứ hai.... Tôi yêu chữ Quân và những bài thơ nào có chữ Quân tôi đều thuộc...!
*****
          Ngồi trên chiếc xe GMC của Công An huyện Long Đất đưa đám phụ nữ chúng tôi về trại E5 của tỉnh Đồng Nai, tất cả đám nữ tù vượt biên chúng tôi đều buồn bã, về đó chúng tôi mới thực sự biết mức án vượt biên của mình.
         Xe dừng lại trước một trạm Công An khác để lấy thêm người, nhìn qua khung cửa xe có lưới sắt tôi thấy phía bên ngoài là khu chợ nhộn nhịp vừa tiếng nhạc, tiếng hát rồi tiếng người đọc quảng cáo cho hai cuốn phim sắp chiếu: phim đầu là "Trại nữ tù binh" Một sự trùng hợp lạ kỳ, bỗng dưng tôi bật khóc, đám con gái trên xe cũng khóc ,...! Tiếng người quảng cáo lại đọc tiếp phim thứ hai là "Quân Vương và Thiếp", phim kể về một mối tình thật đẹp giữa nhà vua và cô gái, tôi đã ngừng khóc lắng nghe, cái gì mà khóc chứ, Quân đã nói tôi là Hoàng hậu mà ! Tất cả những kỷ niệm ngày còn bé lại hiện về, Quân người bạn hàng xóm dễ thương, một người anh trai tốt bụng chu đáo, một tình bạn đầu tiên tuyệt vời mà tôi luôn ghi nhớ, tôi mong rất nhiều sẽ có ngày được gặp lại hai anh em Quân, và ở đây mỗi khi tôi buồn , tôi sẽ đưa tâm trí mình trở về những ngày thơ ấu cũ ...
          Nhưng mà Quân bây giờ ở đâu nhỉ ? Trong cái cảnh "cá chậu chim lồng" nầy tôi nhớ về Quân, về "ngôi vị" của mình biết bao nhiêu !! Không biết Quân có bao giờ nhớ lại thời thơ ấu cũ ? Quân vẫn còn hay đã mất trong cuộc chiến vừa qua, hay Quân đã vượt biên qua bên kia nửa vòng trái đất ?! chỉ biết một điều là không bao giờ tôi muốn ngâm câu :
Quân bất kiến
Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi....
(Tương tiến tửu - Lý Bạch)
Phỏng dịch:
Anh không thấy sông Hoàng hà luôn chảy ?
Cao trên không buông theo sóng gập ghềnh...
Sông xa bờ ra biển cả mông mênh,
Mãi phiêu bạt biết bao giờ trở lại !?
NM Phan thị Ngọc Diệp

Niết Bàn tuổi thơ
Niết Bàn nào phải chốn cao sang,
Vốn dĩ là đây, Phật giữa làng !
Tiếng chuông thanh thoát nâng người khổ...
Tiếng ngắn đục trầm cứu oán than !
..........
Đêm nay trăng sáng Phật đi,
Nhường ngôi cổ tự cho người trần gian....
Biển đời dâu bể đa đoan,
Nơi đây phế tích hồng hoang vẫn còn !
Tiếng chuông ghi khắc lòng son,
Dẫu đời cơ cực tâm con Niết bàn !!
NM
           Cõi Niết bàn tuổi thơ
Quê tôi, làng Nguyệt Áng*, một làng nhỏ ở miền Trung. Cách làng một quãng đồng, phía nam, có một ngôi chùa nhỏ. Cửa chùa mở về hướng tây, nhìn về Thần Đinh, ngọn núi linh thiêng thuộc dãy Trường Sơn.
           Ngôi chùa làng tôi có tự bao giờ tôi không biết, bố mẹ tôi không biết, ông bà tôi cũng không biết. Chùa nằm giữa đồng vắng, bốn bề nắng gió. Lên năm, sáu tuổi, tôi vẫn chưa một lần vào chùa nhưng tôi cảm nhận được qua tiếng chuông, qua lời mẹ tôi. Khi gà gáy phiên cuối, tôi còn mơ ngủ, mẹ tôi chuẩn bị gồng gánh đi chợ Cổ Hiền*, bố tôi pha ấm trà đặc trầm ngâm nhìn ánh trăng hạ tuần chiếu qua khe cửa là lúc tiếng chuông thức giấc. Tiếng “boong, boong” thả vào khoảng không mờ đục, xuyên qua làn sương sớm, lay động giọt trăng đậu trên cành lá. Tiếng ngân dài lan xa, rất xa rồi chìm vào tiếng sóng của dòng Kiến Giang* có mái chèo khua nhẹ, xuôi theo tiếng gió tràn qua phá Hạc Hải* mênh mông. Tiếng ngân như tiếng hò khoan, lúc thưa lúc nhặt, như tiếng lúa hát, như lời mây bay. Tiếng chuông đưa mùi hương cốm ai giã sớm, bay xa, hòa vào tiếng dế ríu ran thành bản nhạc. Tiếng chuông như bàn tay chị nhẹ nhàng đánh thức giấc ngủ vùi. Tiếng chuông dìu mặt trăng xuống núi, nâng mặt trời từ biển lên, một ngày mới bắt đầu.
             Mẹ tôi không theo đạo Phật, tôi đoán thế, vì bàn thờ không treo ảnh Phật Bà Quan Âm, nhưng ngày rằm, mồng một bà vẫn thường ăn chay. Rằm tháng bảy, nghe tiếng chuông lúc trầm lúc bỗng, mẹ tôi bảo đó là ngày người dương thế gặp người cõi âm nên tiếng chuông cũng vậy. Tiếng trầm là âm thế, tiếng bỗng là trần gian. Khi tiếng chuông nằm lại, cũng là lúc những nén nhang đã tàn. Mẹ tôi rắc gạo muối quanh vườn và cầu khấn. Mẹ nói là cầu mong có chốn  lưu thân cho những âm hồn phiêu bạt.
             Tôi lớn lên trong tiếng chuông chùa, sự vật đổi thay, tiếng chuông cũng khác. Năm đói kém, tiếng chuông buồn tha thiết như cố làm đầy chén cơm vơi nửa của tôi. Mùa lạnh giá, tôi run cầm cập đến trường, tiếng chuông ngắn lại như áp vào tấm lưng nhỏ bé ngọn lửa ấm. Mùa lũ lụt, tiếng chuông đục ngầu  trôi nổi  lênh đênh… 
            Tôi thường theo mẹ lên thăm cô tôi ở thôn Trường Dục*, con đường mòn nhỏ đi qua trước cửa chùa. Cách vài chục bước, tôi thấy mẹ thường chỉnh lại áo quần,  cất nón trên đầu và nhắc tôi im lặng. Mẹ tôi bảo để cho phật tịnh tâm  cõi Niết Bàn.
           Lần đầu tôi sợ hãi khi thấy trước cổng tam quan những ông Hổ nhe răng, vuốt móng, những Quan hàm én cầm búa cầm đao. Mẹ bảo, các ông ấy dữ nhưng là dữ với cái ác, che chở cái hiền. Phật ở trong tâm, mình làm điều lành phật thì phù hộ, trời cao thấy hết chúng sinh.   
          Năm tháng đi qua, tôi đã là niên thiếu, mẹ tôi thành người cõi âm. Một mình lên thăm cô tôi, nghe lời mẹ, tôi xõa quần, cách dép và lặng lẽ khi đi qua cửa chùa. Những lúc trời tối, tôi không sợ vì có ông Hổ, ông Quan che chở cho mình.
          Vài năm sau, phong trào chống mê tín dị đoan rầm rộ, cúng tế thưa dần và tiếng chuông chùa cũng tắt lịm. Một đêm, trăng sáng đến nỗi tôi không nhìn thấy trời, trời chỉ là bóng đen u uất. Bọn trẻ xúm nhau nhỏ to gì đó rồi chạy về phía chùa, tôi chạy theo. Đến nơi, tôi chen qua đám đông và lẫn vào trong. Lần đầu tiên trong đời tôi được vào chùa. Chỉ có mấy năm vắng tiếng chuông mà ngôi chùa như nhà hoang, mái ngói hở ra từng mảng, ánh trăng rách rát chảy xuống rưng rức vỡ tan dưới nền nhà loang lổ. Những ông Phật già nua, ốm o lưng trần lạnh lẽo, mặt đầy bụi, mắt ngấn lệ. Những ông Phật áo xống tả tơi chau mày đau khổ như gánh hết cơ cực của nhân gian. Phía góc xa, chân hương gió bạt. Ở chính điện nước mưa  đọng vũng bệ thờ.
            Người ta đưa phật đi về phía Bình Thôn, ở đó cũng có một ngôi chùa.
            Tôi không biết vì sao đêm ấy trăng sáng đến thế. Trăng sáng để soi rõ mặt  người, tôi nghĩ thế.
            Tôi nhớ lời mẹ dặn “trời cao thấy hết chúng sinh”.
            Vài ngày sau, dân quân súng ống, cuốc xẻng đập chùa một cách rầm rộ, họ san bằng như bom phá. Ông Hổ, ông Quan dưới tay họ lặng lẽ đầu hàng và tan tác từng mảnh.
             Người ta xây trên nền chùa một  lò gạch, do có nền cao không bị ngập lụt.
            Mỗi lần tôi lên thăm cô tôi, trời tối không còn ông Hổ, ông Quan che chở, tôi sợ hãi cắm cổ chạy thật nhanh.
            Lớn lên. Xa làng. Về quê, tôi trở lại thăm nơi chùa cũ. Trong tiếng còi inh ỏi, tiếng nhạc xập xình giữa khu dân cư ồn ào náo nhiệt. Trên nền đất, trong phế tích vẫn còn hồn xưa nếp cũ, cỏ vẫn xanh rì mải miết như cố níu lại hơi ấm chân người qua đây một thuở có còn không?
             Tôi cởi giày, bỏ mũ, lặng im như lời mẹ dặn thuở nào. Những hồi chuông dội vào hồn tôi, từng hồi, từng hồi mừng rỡ như gặp lại người xưa, như nức nở sẽ chia những oan ức nghiệt ngã. Tiếng gươm đao, tiếng hổ gầm giữa thời loạn lạc. Tiếng kinh cầu râm ran trong khói hương huyền ảo, tiếng đất dậy sóng một thời. Trong tiếng kinh cầu đó có tiếng sám hối của những người đập chùa hay không ???
             Cũng vầng trăng đó, cũng bầu trời đây, thiếu tiếng chuông chùa thế gian như cô đơn, như đời tôi vắng mẹ. Rằm tháng bảy, có còn ai vẩy gạo muối trong vườn để những âm hồn trẻ thơ đỡ phần hờn tủi.
            Mấy chục năm rồi, đau đáu trong tôi  câu hỏi, những ông Phật giờ lưu lạc nơi nao???
            Bỗng vang lên  thong thả tiếng chuông chùa và câu hát ru văng vẳng đâu đây:
  Ru ru riến riến rà rà
 Voi ông đi trước ngựa bà đi sau 
Đi sau lủng lẳng con cau 
Ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng
             Cõi Niết Bàn là nơi cực lạc. Với tôi, tuổi thơ cơ cực nhưng cám ơn đời đã cho tôi đã gặp cõi Niết Bàn.
Từ Sâm
Nha Trang xuân Qúi Ty – 2013

 Thương em !
Thương em không mẹ không cha,
Thương em sớm vắng chiều xa thâm tình...
Mai vàng mang đến yên bình,
Trong hương Xuân mới có tình yêu thương !
NM

Tuổi thơ mênh mông  

Từ cổng trường giáo dưỡng nhìn ra bên ngoài, con đường rộng và thẳng tắp chạy miết về phía cuối dốc, trườn mình rồi ngã nhào xuống như một dòng thác khô. Hai bên đường là hai hàng cây cao nằm kề bên những ngôi nhà cổ kín, đồ sộ đan xen trong sự bao phủ của các mảng nắng sáng. Những hàng cây hình như đã phải mỏi mòn chờ đợi mùa xuân, để rồi vừa mới đến xuân lại đi qua mau, làm chúng chưa kịp đón hết cái dư vị của buổi giao thời. Ánh nắng dát vàng lên sống lưng của những chiếc lá, thả vài tia le lói qua những kẻ lá rọi xuống mặt đường. Đã sắp đến rằm tháng Giêng, vậy mà mấy chậu mai đặt ở phía trước trường giáo dưỡng vẫn chưa tàn, họa chăng chỉ có vài cánh mỏng rơi vãi xuống đất, nghiêng nghiêng. Bên ngoài dù con đường trước nay vẫn vắng vẻ nhưng trong những ngày đầu năm nầy vài đôi nam nữ vẫn huyên thuyên chuyện trò và rảo bước. Còn trong trường giáo dưỡng nầy cái không khí mấy ngày Tết vừa mới qua hẳn còn âm vang đâu đây.

Thằng Tâm ra ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế đá đặt trước sân, gương mặt nó đăm chiêu lắm. Đâu đó, vài ba cơn gió se lạnh thổi về làm hai vạt áo Tâm khẽ run run nhẹ nhàng. Gió phớt qua chậm rãi. Hơi lạnh buổi sớm thoáng mang một hương vị ngọt ngào phả vào môi, vào má Tâm. Đôi mắt nặng vẻ u buồn của Tâm căng tròn dõi về phía xa như cố ngóng chờ, hy vọng một điều gì đó, đôi chân mày đen mỏng chau lại… 
Nó đang tủi cho số phận của mình. 
Tội nghiệp, mới mười lăm tuổi đầu mà bao cay đắng, tủi cực đã đến với nó. Tâm sinh ra trong một gia đình mà ba mẹ không đăng ký kết hôn và cả hai đều là đối tượng nghiện hút. Mẹ qua đời khi nó mới được mấy tháng tuổi. Sau khi mẹ mất cha nó cũng bỏ đi bụi đời, lang thang khắp nơi. Một đứa trẻ khát sữa, thiếu tình mẫu tử lúc chưa chập chững đi bước chân đầu tiên trong đời phải sống trong vòng tay yêu thương của người bà ngoại đã già yếu. Từ nhỏ nó đã chưa một lần thấy mặt mẹ và cũng không biết ba mình là ai, có lẽ trong cuộc đời nầy, người thân duy nhứt của nó chỉ có bà. Bà của Tâm, quanh năm nghèo khó, khốn khổ, bệnh còn không tiền mua thuốc, lắm khi không có lấy một đồng để mua gạo nấu cơm ăn hai bà cháu phải lặn lội ra đồng hái rau về luộc ăn cho đỡ đói. Sống trong hoàn cảnh như vậy thì làm gì Tâm được học hành đến nơi đến chốn. Khi nó được hơn mười tuổi, thấy bà đã già yếu không còn đủ sức nuôi mình, nó xin đi kiếm việc làm để phụ giúp bà, gánh vác một phần cuộc sống gia đình. Ai thuê gì nó cũng làm, nặng nhọc gì cũng ráng cố gắng cho xong, vì nó biết rằng mình phải làm, làm hết sức để đỡ đần bà. Tội nghiệp thằng nhỏ, mỗi ngày cắc củm năm mười ngàn đem về, nhưng có thấm vào đâu. 
“Thằng Tâm một lát qua rửa chén cho bà Bảy nghe con ?”. 
“Tâm, mày qua đây khiêng hàng vô kho với tao coi...”. 
Từ phụ hồ, khuân vác, rửa chén, giặt đồ, quét dọn, phục vụ quán ăn… chẳng có việc nào chưa từng trải qua. Nhưng nó lúc nào cũng bị người ta chửi bới, chà đạp. Khi rửa bể một cái chén hay làm vỡ một món hàng gì khi khiêng vác, người chủ mắng chửi nó bằng những lời thậm tệ. Khi phụ hồ thì bị mấy thằng lớn tuổi hơn chọc ghẹo, đánh đập. Những lần như thế nó ước gì sẽ có ba mẹ kề bên, mẹ sẽ ôm nó vào lòng dỗ dành cho nín, ba sẽ đến quát vào mặt người ấy rằng sao bà dám chửi con tôi… nhưng những ước mơ đó đối với nó thật xa vời. Người ta không cần thiết phải quan tâm gì đến thằng nhỏ nầy. Nó từ đâu đến, con nhà ai ? Trong mắt họ chỉ là một thằng đầu đường xó chợ. Hững hờ. Bỏ mặc. Họ thuê thằng Tâm và trả tiền với giá rẻ mạt cho những gì nó đã làm, vậy là xong. Họ chẳng cần thiết dành cho nó một tí tình cảm nào. 
Cũng từ dạo ấy, thằng Tâm cảm nhận rằng trên cuộc đời nào không có cay đắng nào nó chưa từng trải qua, không có tủi cực nào nó chưa từng nếm.
Nó mười ba tuổi, rồi bà cũng nằm xuống dưới ba tất đất, để lại một mình nó bơ vơ, trơ trọi giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã nầy. Những lúc nầy đây, khi buồn nó sẽ dựa vào ai để khóc ? Những lúc nó tủi cực nhứt, lấy ai để chở che ? Những khi nó vui, ai là người để nó chia sẻ ? Tất cả, tất cả niềm hy vọng đã theo bà bay đi mất, tất cả đã hết rồi. 
Cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng nó và bụi bẩn cuộc đời hằng sâu vào từng nếp gấp tâm hồn như không thể nào gội rửa sạch. Từ đó, nó đi lưu lạc đầu đường xó chợ cùng mấy đứa bụi đời để “hành nghề”... ăn cắp. Cuộc sống đối với nó tưởng chừng như không còn là cuộc sống nữa. Là nơi tận cùng của khốn khổ. Là chốn chỉ có căm thù và thèm khát. Xung quanh nó toàn mùi tanh hôi của xã hội coi trọng đồng tiền. 
Sau mấy “phi vụ lớn”, nó bị công an bắt. Cứ ngỡ là mình bị ở tù, vào trại cải tạo hoặc giả bị tra tấn, đánh đập… nhưng rồi nó được cho đưa vào trường giáo dưỡng nầy. Cũng từ đây cuộc đời nó đã sang trang, không còn là một thằng bẩn thỉu đầu đường xó chợ, không còn bị coi là côn đồ du đãng nữa, nó khỏi lo cái ăn cái mặc lại còn được học hành… 
Tuy vậy, nó vẫn buồn. 
Buồn vì cuộc đời, vì số phận ? 
“Tâm ! Con đang suy nghĩ gì vậy ?”. 
Nó quay lại sau lưng thì gặp cô Thủy đang đi tới
Cô Thủy là mẹ thứ hai của nó, vì chính cô đã cưu mang nó về trường giáo dưỡng nầy. Trong trường ai cũng yêu quý cô, các em còn rất nghe lời cô nữa. Đối với Tâm, nó rất biết ơn cô vì nếu không có cô thì ngày hôm nay không biết nó đang ở gầm cầu hay một xó tối tăm nào đó. 
“Dạ… con buồn quá cô ơi !”. 
“Sao lại buồn ? Có bạn nào chọc ghẹo con hả ?”. 
“Không, các bạn đối xử tốt với con lắm. con buồn vì… con không biết ba mẹ mình là ai”. 
Ngừng một chút, nó nhìn cô - một cái nhìn sâu lắm, nó nói tiếp : 
“… Con thiệt thòi hơn mấy đứa trẻ khác quá hả cô ?”. 
Nghe thằng Tâm nói tới đó cô Thủy sững sờ, cô nhìn thấy đôi mắt nó đỏ hoe. Từ trước đến giờ cô biết rằng Tâm và một đứa láu lỉnh, nhanh nhẹn, nhưng cô đâu ngờ nó cũng giàu tình cảm vậy, cứ tưởng đâu nó vô đây rồi chắc nó quên cái thời tối tăm xa xôi ấy… 
“Con vẫn thường nhớ về ba mẹ con hả ?”. 
“Dạ, tuy con không biết ba mẹ mình mặt mũi ra sao nhưng lúc nào con buồn là con nhớ về ba mẹ. Hồi đó con sống bụi đời, lúc nào bị người ta chửi mắng, chà đạp là con lại khát khao có ba mẹ ở đây để chở che cho con… Con…”. 
Nó không nói hết câu. Nó khóc. Cô Thủy cũng sụt sùi. 
“Con đâu có lỗi khi con mồ côi. Với cô, mỗi đứa trẻ mồ côi là một con chim bé nhỏ, đáng thương”. 
Nói xong, cả hai cô trò đều im lặng, nhìn ra ngoài, dường như cô Thủy cũng có nhiều suy tư lắm. 
Một lúc sau, thoáng nghe phía trong có người gọi mình, cô Thủy đi vào. Chỉ còn một mình thằng Tâm vẫn ngồi thẩn thờ trước sân, nó ước gì có người bạn nào đó đến bên chia sẻ với mình… Chợt nó nhớ đến thằng Thành - người bạn đã gặp cách đây một năm. Thời gian trôi qua không chờ đợi điều gì, một năm rồi nhỉ, thêm một năm Tâm ở trường giáo dưỡng rồi. Cũng là một năm kỉ niệm ngày mà Tâm gặp Thành. Thành đã đi, nó đã về với mẹ, Tâm vui lắm chứ, nó cũng ganh tị và ước ao được giống như Thành - được về bên gia đình. Nhưng nó biết rằng đó chỉ là vô vọng, vì gia đình nó còn đâu. Tâm ngồi một mình, nó muốn kêu lên thật lớn: “Mẹ ơi… mẹ về với con!”. Im lặng nặng nề. Vẫn không có ai lên tiếng, cây cỏ thờ ơ, con đường trước của trường giáo dưỡng vắng hoe, nắng vẫn trải một màu vàng lên những hàng cây. Không gian như chật hơn, những thứ ngột ngạt đang dần bó sát cái khoảng rỗng trong tâm hồn trong sáng của đứa trẻ nầy. “Ước gì mình khóc lên được”, Tâm nhủ thầm. 
Tâm không thể quên buổi sáng đầu tiên thằng Thành đến trường giáo dưỡng nầy. Lúc ấy Tâm thấy một thằng nhỏ rón rén sau lưng cô Thủy từ phía ngoài cổng bước vào trường. Thằng nhỏ ấy cỡ bằng tuổi Tâm, nước da hơi ngăm đen, trên má có vết sẹo dài nhưng nhỏ, nếu không để ý kỹ sẽ không phát hiện ra. Trán nó cao mà mũi lại thấp, gương mặt bè bè nhìn nó ngộ ngộ làm sao. Cô đến chỗ đám đông các bạn, chỉ thằng nhỏ đó rồi nói : 
“Đây là bạn Thành, sẽ là bạn mới của các em, từ hôm nay bạn sẽ vào ở đây chung với các em. Các em làm quen với nhau đi !”. 
Vốn là dân bụi đời, Tâm nhanh chân đến bắt chuyện : 
“Chào bạn, tôi tên Tâm, mười lăm tuổi”.

Thấy vẻ nhanh nhảu của Tâm, thằng Thành cũng hơi sợ : 
“Ờ… chào Tâm, tôi là Thành, mười bốn tuổi”. 
Nó ngừng một chút, rồi nhìn Tâm, nói một cách rụt rè : 
“Mà… Tâm ơi! Sống ở đây có tốt không vậy ?”. 
Thằng Tâm nghĩ : “Chà, thằng nầy cũng láu lỉnh thiệt !”, mặt nó tươi rói: 
“Sống ở đây vui lắm, khỏi lo cái ăn cái mặc gì hết, lại có chỗ ngủ, khỏi phải ngủ ở vỉa hè. Mấy cô thương chúng tôi lắm, mấy bạn ở đây rất nhiều bạn không có cha mẹ hoặc bị bỏ rơi nên chúng tôi xem mấy cô như mẹ mình vậy… Ở đây chúng tôi được học hành, được vui chơi cùng các bạn, không ai dám coi mình là đứa mất dạy, là thằng vô côn nữa… À, mà sao bạn vô đây vậy ?" 
Thằng Thành giựt mình, nó nhìn Tâm rồi lặng người, cúi đầu không đáp. Từ trước giờ nó cứ nghĩ là sẽ không nói cho ai nghe cái cuộc đời đầy nghiệt ngã của nó. Có ích gì chứ ? Chỉ là những hoài vọng mơ hồ, xa xôi mà không ai còn nhớ. Nhưng không hiểu sao lần đầu gặp Tâm nhưng nó lại cảm thấy tin tưởng Tâm, muốn chia sẻ với Tâm. Một lúc sau nó nói, thật chậm, thật nhỏ, như chỉ muốn một mình thằng Tâm nghe thấy : 
“Mẹ tôi bỏ đi làm ăn xa từ năm tôi bảy tuổi, tôi sống với ba, nhưng ba tôi thường hay la mắng nên thời gian sau tôi bỏ nhà đi tìm mẹ. Dĩ nhiên là tôi không tìm được mẹ rồi, năm ấy tôi mới có bảy tuổi mà. Tôi quên đường về nhà, gặp một anh làm nghề đánh giày cho đi theo đánh giày chung với anh ấy. Sau đó anh về quê không làm nữa, tôi tự kiếm sống một mình, bị người ta chọc gẹo rồi đánh lộn, vết sẹo nầy là của đánh lộn nè”, vừa nói nó vừa chỉ lên mặt. 
Thằng Tâm thấy “hấp dẫn” như một truyện kiếm hiệp, nó giục : 
“Sao nữa ?” 
“Rồi thì riết quen, cứ đánh lộn hoài, bị công an bắt, được đưa về đây… Ủa mà còn bạn thì sao ?”. 
Thằng Tâm trầm tư hơn, nó cũng buồn lắm : 
“Cũng gần giống bạn. Tôi bị mẹ bỏ rơi, sống với bà, đi làm mướn để kiếm tiền. Sau khi bà mất, tôi đi bụi đời, cướp giựt rồi bị công an bắt, sau đó được đưa về đây”. 
Bỗng dưng Tâm thấy nao lòng, nó thở dài rồi đứng phắt dậy, nắng vẫn trải nhẹ nhàng nhưng tại lòng Tâm lại nặng nề u uất, nó nói, giọng run run
“Nhưng mà, bạn còn có mẹ để hy vọng một ngày nào đó sẽ được gặp lại, còn tôi thì…”.
Hai đứa lặng người, cúi đầu, không ai nói với ai một lời nào nữa. Thằng Tâm nhìn ra ngoài đường, vẫn đôi mắt vô cảm ấy, như trông chờ, hy vọng, nó hỏi thằng Thành mà như đang nói với hư vô : 
“Sao ba mẹ lại bỏ chúng ta như vậy hả Thành ?”. 
Thành vẫn ngồi yên và bất ngờ trước câu hỏi của Tâm. Nó nhìn thằng Tâm, đôi mắt của Tâm to, tròn xoe ra vẻ trí thức nhưng trong đó ẩn chứa một cái gì đó sâu xa lắm. Thằng Thành muốn nói : “Tâm ơi, sao tôi biết chứ, câu hỏi nầy phải dành cho những người cha, người mẹ đã bỏ rơi con cái của mình trả lời kìa”, nhưng nó lại thôi không nói.
Rồi thì thằng Thành cũng bỏ đi. Nghe đâu mẹ nó đi làm ăn gì đó, giờ khá giả lắm, bà trở về tìm nó để rước ra thành phố sống. Tự dưng Tâm nghe như có cái gì mênh mang lắm, trải lên dày cộm trong lòng mình. Thằng Thành phải đi rồi, cái thằng bạn thân thuở nào còn ngồi nhì mưa, kể cho nhau nghe những chuyện đi “giang hồ”, cùng ngồi cạnh nhau trong những bữa ăn ở trường giáo dưỡng, vậy mà giờ đây… 
- Ê, mẹ tôi sắp về rồi, mẹ sẽ rước tôi ra thành phố sống, từ nay tôi lại có mẹ rồi ! 
- Ừ, Chúc mừng bạn nghe ! 
- Ủa, hình như bạn không vui hả ? Sao, có chuyện gì vậy ? 
Thằng Tâm ú ớ… Vui! Nó vui chứ, nó vui vì bạn thân nó tìm được mẹ. Nhưng nó cũng buồn. Buồn một phần vì phải xa Thành, một người bạn chỉ mới quen chưa đầy một năm, một người dễ thương, biết chia sẻ. Một phần buồn vì tủi thân cho mình. 
Đâu, tôi vui chứ ! 
Thằng Thành cứ huyên thuyên kể làm Tâm càng đau hơn : 
- Mai mốt tôi về thành phố không biết ở đó ra sao nữa. Tôi nghe nói ở đó vui lắm mà đường sá thì nhóc hết, lạng hoạn là lạc đường như chơi đó… 
Thằng Tâm nghe rồi ừ hử cho xong chứ thật sự nó cũng không để ý Thành nói gì. Nó không muốn xa thằng bạn thân như Thành. Mà, con người ai cũng cần có cha mẹ mà, phải không Thành ? 
Mấy ngày sau đó, mẹ Thành về, cô Thủy tổ chức một buổi tiệc nhỏ cho Thành chia tay với mấy cô và bạn bè trong trường, Thành và Tâm ngậm ngùi nói lời chào từ biệt nhau, không biết bao giờ mới được gặp lại. 
Vậy là một đứa trẻ mồ côi nữa lại được trở về mái ấm gia đình. 
Còn thằng Tâm thì sao? 
Đang miên mang với những hồi ức, chợt ngoài cổng trường có tiếng lao xao. Chắc có người nào tới. Thằng Tâm không buồn nhìn ra, cứ ngồi thừ ở đó. Chợt thằng Hải chạy tới, vừa thở hổn hển nó vừa nói
- Tâm ! Sao mày ngồi ở đó hoài vậy ? Thằng Thành về thăm mình kìa ! 
- Cái gì ? Thằng Thành ? 
Tâm như không tin nổi vào tin mình, thằng bạn thân thuở nào mà nãy giờ nó đang nghĩ đến lại xuất hiện ở đây, ngay giờ phút nầy ư? 
- Ừ, thằng Thành kìa, ra gặp nó đi, ngồi đó hoài. 
Nói rồi thằng Hải vụt đi, thằng Tâm cũng đứng dậy, lật đật bước đi mà như chạy… 
Thằng Thành ! Đúng là thằng Thành, nó từ thành phố xa xôi đi hơn hai trăm cây số về đây để chung vui mấy ngày Tết với bạn bè. Nó đi thăm cô Thủy - người mẹ thứ hai của nó, thăm mấy đứa bạn, mấy đứa em trong trường và… thằng Tâm. 
Hôm nay, trường giáo dưỡng ấm lên, mặc dù trời se lạnh nhưng dường như một ngọn lửa đã thắp sáng và sưởi ấm cho những đứa trẻ lạc loài… 
Một ngày vui, một ngày mà Tâm và Thành đã gặp nhau, ngày của tình bạn. Chúng biết rằng trong tuổi thơ mênh mông buồn thảm, một niềm vui - dù nhỏ nhoi - nhưng vẫn ghi dấu ấn suốt cuộc đời. Sáng nay, mai vàng rụng đầy mặt sân trường giáo dưỡng, hai thằng bạn ngồi nói chuyện với nhau. Chúng chợt nhận ra rằng Trái Đất lúc nầy thật bình yên. Bình yên như chưa từng có chiến tranh thù hận, chưa từng có nghèo đói. Bình yên như chưa từng có những cuộc chia ly, chưa từng có nước mắt
 Gió vẫn thổi, mang theo bao tình thương của những tâm hồn trẻ dại bay thật xa

 VĨNH THÔNG  
   
   

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

Nhạc - Thơ - Văn Ngày Hoa hướng dương

Hướng dương, lòng thiếp như hoa,
Dõi theo hình bóng phương xa chưa về...
Đường tình khuất nẻo sơn khê,
Muôn trùng xa cách nhớ quê thương người !
Hướng dương nở khắp muôn nơi,
Hoa bao nhiêu hạt lệ rơi bấy chừ...
Yêu hoa yêu cả suy tư,
Niềm riêng anh giữ, tạ từ em đi..!
Đa mang chi khối tình si ?
Bên anh đã có diễm quỳ ngát hương !!
NM
 Ngày Hoa hướng dương
"Anh nghĩ rất nhiều, nhưng chẳng cái gì ra cái gì cả. Anh thấy hai đứa mình xa lạ với nhau quá. Em không quan tâm gì đến hoa hướng dương, trong khi đầu óc anh thì cứ cuồng loạn vì nó. Nhưng rồi khi em kể về chuyện mấy cái ghế đá, thì anh lại nghĩ trên đời này, nếu không có anh thì em biết kể chuyện này với ai đây. Anh chẳng quan tâm đến đám ghế đá trong trường em màu gì, thú thật là vậy. Nhưng anh yêu em."
***
Khi An bước vào tiệm bánh ngọt ở phố núi, mắt anh như bị hút vào một chi tiết: lọ hoa hướng dương đặt ở chiếc bàn gỗ góc quán.
Có năm bông tất cả, mỗi bông chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay, nhụy màu nâu thẫm, cánh nhỏ vàng ươm bung nở. Cành hoa thẳng, to bằng ngón tay, tuyệt nhiên không có lá. Chúng được cắm trong một cốc gốm màu xanh da trời có đi vài đường gân trắng. Chiếc bàn nhỏ làm bằng thứ gỗ đen bóng. Một sự kết hợp màu sắc hài hòa, một chi tiết trang trí giản dị mà làm người ta thấy vừa ngỡ ngàng lại vừa bình yên.
Cô gái phục vụ mang tạp dề đỏ dường như hiểu ý, cười bảo anh "Hoa trong vườn nhà đó anh". Anh quay sang mỉm cười, bắt chuyện "Ồ, sau nhà mình có vườn à?" "Dạ, không phải ở đây. Vườn nhà của chị chủ quán ở trên đèo anh à" "Ngoài chợ có bán hoa này không em?" "Có chứ anh. Anh mua về làm quà à?!" Cô gái thân thiện hỏi lại. Câu hỏi của anh đã tố cáo anh là du khách.
Anh chọn mua vài chiếc bánh ngọt cho chuyến đi vào rừng. Trước khi rời khỏi tiệm bánh, anh ngoái nhìn bình hoa vàng một lần nữa. Có cái gì như là sự mê hoặc tỏa ra từ năm bông hoa tươi mới, rực rỡ này.
Quỳnh, vợ mới cưới của anh đang ngồi ngay ngắn bên cạnh ghế lái. Cô hôm nay trông thật khỏe khoắn trong bộ đồ thể thao xám nhạt viền xanh, giày cao cổ gọn gàng.
Thường ngày, Quỳnh luôn mặc váy. Lúc nào cô cũng thướt tha guộc gầy, khiến cho người xung quanh bao giờ cũng có cảm giác rình rập của sự gãy đổ. Nước da cô trắng xanh nhìn rất yếu đuối. An nhớ như in ngày anh dẫn cô về nhà, mẹ anh cứ hỏi "Hình như cô bé này hay đau ốm lắm phải không con?"
Sự thật là Quỳnh chẳng đau ốm gì cả. "Tạng người của em nó vậy!" Cô giải thích. Cô bơi và đánh tennis thường xuyên. Lúc nào cô cũng chê anh to cao vậy mà yếu xìu. Đúng thế thật, anh chỉ vướng một trận mưa thôi đã cảm, hắt hơi sổ mũi om xòm. Còn Quỳnh, ít khi cô bị ốm vặt. Đôi khi anh và cô thường đùa nhau, trời cho cô cái vóc dáng tội nghiệp ấy để cô dễ bề "lừa đảo" thiên hạ. Người ta – một cách vô thức – nương nhẹ, cẩn trọng khi tiếp xúc với cô. Như thể đang bưng một cây nến leo lét, nếu thở mạnh thì sẽ tắt phụt ngay.
Anh để túi bánh cạnh mấy chai nước suối, lấy chiếc mũ rộng vành từ băng sau chụp lên đầu vợ. Cô tròn mắt nhìn anh "Em muốn rám nắng một chút mà!" Anh cười, vặn chìa khóa, nổ máy xe "Không hiểu sao anh cứ lo là mặt trời sẽ xuyên thấu qua em mất" Cô chồm lên hôn má anh. Rồi họ chạy ra ngoại thành.
Con đường một bên là hồ, một bên là rừng thông nằm êm đềm trong ngày đầu thu nắng nhẹ. Quỳnh gỡ kính mát ra, nheo nheo mắt. Cô muốn nhìn rõ màu thật của cảnh vật chung quanh. Đeo kính, như cô nói, luôn mang lại cảm giác xem ảnh đã qua chỉnh sửa. "Anh, sao không thấy hoa quỳ?" Cô chợt hỏi. "Mới đầu thu mà em. Đến mùa đông mới có hoa quỳ. Người ta gọi nó là hoa báo đông" "À, vậy mà em cứ tưởng nó nở quanh năm chứ".
Quỳnh luôn làm người ta ngạc nhiên. Cô có thể đọc được vanh vách đến hai mươi ba chữ số sau dấu phẩy của số pi, nhưng không thể phân biệt được cây gì với cây gì. Kiểu vậy. Hay là nếu ta bắt đầu đếm sao trên trời với vận tốc 1 phút 1 ngôi sao, thì sau bao lâu sẽ đếm xong, Quỳnh biết rõ. Nhưng cô không thể nào biết tại sao người ta lại phải sơn gốc cây cho trắng hếu cả lên. (Để phòng sâu bệnh đấy, trong trường hợp bạn cũng không biết) Và tất nhiên cô không biết là ở ngoài Trung, dù là chị hay em của mẹ cũng kêu bằng dì hết. Những chi tiết đại loại như vậy đối với cô rất lạ kỳ, mới mẻ và cô luôn ghi nhận chúng một cách thích thú.
Và anh, như một định mệnh, trở thành chồng cô để giải đáp cho cô những điều đó. Cái tập hợp những thứ anh và Quỳnh biết dường như không giao nhau. Họ chưa bao giờ thôi bất ngờ về nhau.
"Em, sáng nay anh thấy năm bông hoa hướng dương cắm trong một cái ly gốm màu xanh da trời" Anh bảo Quỳnh. "Dạ" Cô thờ ơ. Anh cố gắng bám víu vào câu chuyện. "Nhìn đẹp lắm em à!" "Dạ" Cô lặp lại, vẫn nhịp điệu như thế. "Em không quan tâm đến hoa hướng dương hả?" Anh quay sang vợ, ngạc nhiên. Anh tưởng cô quan tâm đến hoa quỳ, thì phải quan tâm đến hướng dương chứ.
Cô nhìn anh ngỡ ngàng, hỏi lại "Anh thích hoa hướng dương lắm sao?" Bỗng nhiên anh thần người ra. Mình thích hoa hướng dương lắm sao? Lâu nay anh đâu có quan tâm gì đến chuyện hoa hoét. Sao tự nhiên hôm nay bình hoa nọ lại ám ảnh anh lâu vậy? "Không. Đâu có." Anh lắc đầu, cũng không biết mình đang nghĩ gì nữa. Quỳnh nhìn anh lạ lùng hồi lâu, rồi cô lại dán mắt vào con đường trước mặt.
Chẳng hiểu sao, suốt buổi picnic trong rừng hôm đó, anh và cô im lặng đến ngột ngạt. Họ chỉ trao đổi những câu thiết yếu nhất. Cô lặng yên gọt táo, anh lặng yên quét mứt cam và bơ lên bánh mì. Đến khi cô bật nhạc bằng cái loa nhỏ mang theo, thì họ dường như không mở miệng ra nói nữa.
Anh nhìn xuống đồi thông xanh mướt, mặt hồ lấp loáng nắng, cố gắng nghĩ xem mình đang nghĩ gì. Nhưng anh không thể nắm bắt được. Ý nghĩ cứ chuồi khỏi tầm kiểm soát của anh như một con cá da trơn ướt. Anh tập trung nghe lời Beatles đang hát. Họ hát về đồng dâu, chiếc tàu ngầm màu vàng, con chim đen, về căn nhà gỗ Nauy... Thằng trong bài "Gỗ Nauy" đã đốt nhà khi sáng thức dậy không thấy người yêu đâu. Thằng này khiếp thật chứ! Anh băn khoăn không biết khi châm lửa đốt, thằng đó có đứng luôn trong nhà không, hay là ra ngoài rồi mới búng que diêm cháy vào.
Anh định nói điều đó cho Quỳnh nghe, nhưng khi anh quay sang, Quỳnh đã úp chiếc nón cói rộng vành lên mặt. Hình như cô đã ngủ rồi. Anh ngắm nhìn cô gái mà đến bây giờ, anh vẫn không khỏi ngạc nhiên vì nàng đã là vợ mình hồi lâu. Rồi anh nâng nhẹ bàn tay cô lên, áp môi vào đó nhẹ nhàng. Cô vẫn nằm im lìm, thở đều đặn. Bỗng dưng anh thấy sao mà họ xa lạ với nhau quá chừng. Chưa bao giờ xa lạ như thế.
Anh nhớ đến người yêu đầu tiên, hồi vừa tốt nghiệp đại học. Cô ấy không xinh đẹp, nhưng lúc nào cũng đem cho người đối diện một cảm giác rất tươi mới. Họ quen nhau một năm, hay hơn gì đó, rồi cô tạm biệt anh sang Nhật du học.
Như những người lớn thực tế, anh và cô đều hiểu chuyến ra đi của cô là sự kết thúc. Nhưng anh không buồn, hai người cũng không nói nhiều về việc ấy. Anh đưa cô ra sân bay, họ ôm nhau dịu dàng, rồi cô đi. Chính lúc đó anh mới mơ hồ nhận ra, mình không gắn bó với cô gái này đậm sâu như mình tưởng. Anh nhìn cô bước ra khỏi đời anh cũng thản nhiên như nhìn một ngày mưa, hay là cái cốc vỡ. Chúng làm anh xáo động chút ít. Nhưng chỉ vậy thôi. Rồi anh cũng phải đi tiếp, dù là trời mưa hay cốc vỡ.
Anh tu một ngụm nước rồi đứng dậy mở cửa xe, lấy điện thoại đang cắm sạc. Màn hình hiển thị thông báo có email mới. Từ cô ấy, cô người yêu cũ đang sống ở Nhật. Thỉnh thoảng cô vẫn email về cho anh hỏi thăm và kể vài câu chuyện về cô. Cô đang làm luận án tiến sĩ văn chương Nhật, đề tài là tiểu thuyết cổ đại gì đó. Anh không rành lắm mấy từ chuyên môn trong email của cô viết, nhưng đại khái anh hiểu cô rất hạnh phúc với điều mình đang làm. Vậy là đủ. Trong anh, cô là một cái gì đó rất êm đềm và tin tưởng, luôn như vậy. Và việc biết cô đang ổn thỏa làm anh yên lòng.
"Lúc đọc email anh thông báo đám cưới, em rất muốn gọi ngay cho anh. Em muốn hỏi vợ anh là người như thế nào, làm gì, có xinh không. Đại loại vậy. Rồi em nghĩ sao mà mình vô duyên quá, nên đã cố gắng không liên lạc gì với anh kể từ hôm đó. Giờ thì em nghĩ em đã điều khiển được sự tò mò của mình rồi.
Vậy là anh đã lập gia đình. Em cố gắng hình dung ra anh trong vai trò của một ông chồng. Không biết anh có giúp vợ rửa chén không, có cùng vợ đi siêu thị không. Nhưng hình ảnh đó quá xa lạ với em. Em vẫn chỉ nhớ về anh như một anh chàng độc thân, hàng ngày tan làm chỉ về nhà đọc sách hoặc chúi đầu vào máy tính. Việc có ai đó đột nhiên gắn bó với cuộc sống của anh, thú thật, vẫn làm em ngơ ngác.
Mấy ngày gần đây em đi làm tình nguyện viên ở Fukushima cùng với sinh viên trong trường. Anh biết tụi em làm gì không? Trồng hoa hướng dương. Mỗi người được phát một túi hạt giống. Người dân thì trồng trong vườn nhà, trong chậu cảnh, còn tình nguyện viên tụi em thì trồng ở những khu đất công. Người ta nói cây hoa hướng dương sẽ khử phóng xạ trong đất.
Fukushima vẫn còn đầy vết dấu hoang tàn. Nhưng em cứ tưởng tượng mãi về cái cảnh khi hàng ngàn hàng vạn cây hướng dương lớn lên và ra hoa...."
An lặng người khi đọc những dòng về hoa hướng dương. Giữa họ vẫn còn một sợi dây bí ẩn liên kết, hay chỉ là sự trùng hợp, anh không quan tâm. Anh chỉ đang cố gắng hiểu tại sao trong cùng một ngày, quá nhiều, quá nhiều những bông hoa hướng dương như trăm ngàn mặt trời rực rỡ rơi xuống cuộc đời anh. Anh thấy mình bốc cháy. Anh thấy tro bụi của chính mình. Anh thấy cuộc sống đang chảy trôi trước mắt cuốn mình đi. Anh thấy như thể có cái gì đó thiết yếu nhất trong mình đột nhiên bị rút cạn. Anh thấy hoảng sợ một cách vô lý.
Anh bất chợt nắm bàn tay gầy xanh của Quỳnh, xiết mạnh. Cô bỗng cất tiếng, mặt vẫn giấu dưới cái nón rộng vành. "Đau em!" Cô đã thức dậy, hoặc chưa bao giờ ngủ. An nằm xuống bên cạnh, ôm lấy vợ. Anh có cảm giác cô là điều cuối cùng có thể kết nối anh với cuộc sống này. Dù cô chẳng quan tâm gì đến hoa hướng dương cả.
"Em à, bên Nhật người ta đang trồng hướng dương để khử phóng xạ ở những khu rò rỉ hạt nhân." Anh nghe mình cất tiếng nói thì thầm.
"Trong phóng xạ có chất Xê-si, cũng là thành phần của phân bón. Em đoán hoa hướng dương sẽ hút chất này để lớn lên" Cô nói, giọng âm vang trong lồng ngực anh. Lại là một điều kì quặc khác mà cô biết.
"Tự nhiên hôm nay anh gặp thấy và đọc thấy toàn về hoa hướng dương. Đến nỗi anh như bị nó ám ảnh. Kỳ quặc nhỉ?" Anh nói với vợ.
"Chẳng sao hết anh à, bình thường thôi. Như hồi đại học, đang ngồi trong lớp Triết bỗng nhiên em cứ muốn đi ra ngoài để xem mấy cái ghế đá trong trường màu gì. Em chẳng hiểu tại sao nữa, chỉ là em muốn kinh khủng. Em nghĩ lúc đó mà thầy không cho em ra ngoài, chắc em tự tử chứ chẳng chơi. Ngay phút đó, việc tụi ghế đá màu gì quan trọng với em kinh lắm. Thế là em khom người chuồn ra khỏi lớp bằng cửa sau. Bọn ghế đá ấy, cái thì màu xanh, cái thì màu đỏ, cái thì màu vàng. Em nói một mình: hóa ra chúng không trùng màu với nhau. Rồi em đi vào lớp."
Quỳnh ngừng một lát. Rồi cô khẽ khàng hỏi anh "Anh có hiểu em đang nói gì không?"
"Anh nghĩ là anh hiểu" Anh trầm tư.
Kiểu như thế, bỗng một ngày người ta đặt tất cả chú ý vào một chi tiết xuất hiện trong đời mình, và thấy nó thật lạ lùng. Họ cố gắng tìm kiếm sự đồng cảm của những người xung quanh về cái chi tiết đó. Nhưng chẳng may nó lại nằm ngoài tầm quan tâm của những người kia. Thế là họ thấy hóa ra họ cô đơn kinh khủng. Anh thầm nghĩ.
"Vậy, anh nghĩ gì về hoa hướng dương? Nói cho em nghe đi." Quỳnh đẩy anh ra, nhìn thẳng vào mắt anh.
"Anh nghĩ rất nhiều, nhưng chẳng cái gì ra cái gì cả. Anh thấy hai đứa mình xa lạ với nhau quá. Em không quan tâm gì đến hoa hướng dương, trong khi đầu óc anh thì cứ cuồng loạn vì nó. Nhưng rồi khi em kể về chuyện mấy cái ghế đá, thì anh lại nghĩ trên đời này, nếu không có anh thì em biết kể chuyện này với ai đây. Anh chẳng quan tâm đến đám ghế đá trong trường em màu gì, thú thật là vậy. Nhưng anh yêu em." An mỉm cười, nhìn sâu vào mắt vợ.
Lúc đó, một ý thức trong anh hiện lên rất mãnh liệt, rằng cô gái này là người đang chia sẻ cuộc đời cùng anh, trọn vẹn. Dù cô ấy không quan tâm đến hoa hướng dương, và có thể là nhiều điều khác nữa sẽ hiện ra trong đời anh, như những bông hướng dương ngày hôm nay.
Nguyễn Thiên Ngân
Mặt trời chỉ một
Em thầm trách mặt trời sao chỉ một ?
Như tình anh tha thiết nhớ thương em...
Hướng dương nào nở trong đêm ?
Trăng khuya một mảnh bên thềm, quỳnh hương !!
Hướng dương đâu hỡi hướng dương,
Anh về ngâm khúc Sông Tương một mình !..
Quân tại Tương Giang đầu,
Thiếp tại Tương Giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương Giang thuỷ....!   
NM
Cô gái trong vườn hoa Mặt Trời
Miên có hẹn.
Cô đã thay đi thay lại hàng chục chiếc váy mà chưa ưng cái nào. Miên là tuýp người thích sự hoàn hảo và chỉn chu. Nên mỗi lần có hẹn là y như rằng, cô chuẩn bị mất rất nhiều thời gian. Huống chi đây là buổi hẹn hò đầu tiên với một người đặc biệt. Một người chưa từng gặp mặt nhưng rất đỗi thân thương với cô từ rất lâu rồi. *** Chiều nay nắng đẹp. Miên mở toang cửa sổ cho nắng rọi ánh vàng vào căn phòng. Phòng Miên tuy nhỏ nhưng do biết cách bài trí đồ đạc nên rất gọn gàng.
Trên bàn làm việc của Miên có chồng thư dày cộp được đặt bên cạnh lọ hoa hướng dương cô mới mua hồi sáng. Một bản thảo truyện ngắn về tình yêu đang viết dở… Bức tranh “Cô gái trong vườn hoa Mặt Trời” làm từ chất liệu sơn dầu luôn là điểm nhìn đầu tiên khi Miên vào phòng. Quyết định cuối cùng, cô chọn cho mình chiếc váy trắng có đính nơ hình hoa hướng dương. Xoay mình trước gương nhìn lại lần cuối, Miên mỉm cười mãn nguyện.
***  
Công viên. Khóm hoa hướng dương đu đưa theo gió. Miên mở túi xách, lấy tấm ảnh chân dung của Sơn ra ngắm, rồi lại áp nó vào tim. Cũng chính bởi Miên và Sơn đều thích loài hoa hướng dương nên mới chọn hẹn gặp nhau ở nơi này. Sơn là người gửi cho Miên lá thư làm quen từ một truyện ngắn đoạt giải nhất của cô được đăng trên báo. Và sau đó liên tiếp là những cánh thư qua lại giữa hai người. Càng tiếp xúc qua thư với Sơn, cô càng cảm thấy Sơn chính là một nửa mà cô đang tìm kiếm. Qua thư, hai người tâm sự về công việc, cuộc sống và trao cho nhau những lời đẹp đẽ nhất. Và cũng không biết từ khi nào, Miên và Sơn đã yêu nhau. Sơn là một họa sĩ tài giỏi. Bức tranh “Cô gái trong vườn hoa Mặt Trời” ấy cũng chính tay Sơn vẽ tặng Miên nhân dịp sinh nhật. Miên hồi hộp chờ Sơn đến. Cô ngồi vào một chiếc ghế đá và mơ màng nghĩ về những ấn tượng đẹp đẽ, hoàn hảo của Sơn qua từng con chữ trong mỗi lá thư.
Từ phía trước, một người đàn ông tiến lại gần Miên trên một chiếc xe lăn. Nhìn thấy cô, người đàn ông lúng túng cất tiếng hỏi: - Xin hỏi, em có phải là Miên không? Đang mơ màng áp bức ảnh vào tim, Miên trở về thực tại trước câu hỏi của người đàn ông. Cô đáp: - Vâng. Tôi là Miên. Anh hỏi có việc gì?
Rồi bỗng như chợt nhận ra một điều gì đó, Miên giật mình và nhìn lại vào bức ảnh: - Anh… anh… anh là? Sơn vui vẻ và hồn nhiên nói: - Anh là Sơn, vậy có đúng em là…!!! - Vâng, em là Miên. Cô đáp. Là anh Sơn thực đây ư? - Anh đây. Em đợi anh lâu chưa?
Miên bàng hoàng. Ánh mắt cô nhìn chăm chăm vào chiếc xe lăn. Sơn của thực tại không khác nhiều so với Sơn trong bức ảnh nhưng chỉ có điều… Cô hỏi anh dồn dập: - Anh mới bị tai nạn à? Có nặng lắm không? Bao giờ thì anh có thể đi lại được? - Ừ, anh bị tai nạn và… bác sĩ nói, anh sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa. - Sao? Sao anh nỡ lừa dối tôi? Sao anh không nói cho tôi biết là anh bị tàn phế?
Miên cảm thấy hụt hẫng và thất vọng. Sơn bị tai nạn năm ngoái. Lúc đó, Sơn vẽ xong bức tranh “Cô gái trong vườn hoa Mặt Trời” và anh mang nó ra bưu điện gửi đến cho Miên để kịp ngày sinh nhật. Trên đường về nhà, chứng kiến một người đi đường gặp cướp đang kêu thất thanh lạc cả giọng, anh đã ra tay giúp đỡ. Ai ngờ, bọn cướp đã gây tai nạn cho anh. - Tôi không thể gắn bó cả cuộc đời với anh được.
Miên tỏ rõ thái độ của mình với Sơn. Cô cần một con người hoàn hảo như trong thư. Bây giờ cô thấy mình bị lừa dối ghê gớm. Miên đã viện cớ chưa hiểu hết về anh vì chỉ mới quen nhau qua thư mà chưa gặp mặt. Miên thả rơi bức ảnh rồi quay người bước đi.
Sơn thì khác. Anh yêu và coi trọng tâm hồn Miên như những gì cô viết trong truyện, như những gì anh đọc được trong thư. Sơn nghĩ sự què quặt trong tâm hồn còn đáng sợ hơn nhiều so với què quặt thể xác. Vì thế điều anh cần là sự sẻ chia buồn vui trong cuộc sống. Tình yêu của anh đơn giản chỉ là vậy. Anh không nghĩ mình bị tàn tật lại làm cô sợ và muốn xa lánh anh như vậy. “Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương…” lời bài hát bỗng vang lên như kéo Sơn về với thực tại…
Hoa hướng dương luôn hướng tới Mặt Trời. Đó là loài hoa họ yêu nhưng rốt cuộc Miên đang tìm kiếm và theo đuổi một vầng Mặt Trời của riêng cô mà quên mất rằng Mặt Trời thường… chỉ có một.
ST
Texas - Mùa hoa hướng dương
Cơn giận dữ của thiên nhiên đã nguôi ngoai. Mấy ngày qua trời hanh hao, ông Mặt Trời lúc hửng nắng cười tươi, lúc xụ mặt chau mày. Thời tiết cuối xuân chuyển sang hè là thế, đỏng đảnh dễ làm người ta thấp thỏm khi long rong trên những chặng đường dài. Mùa này chương trình dự báo thời tiết đắt sô, tôi đi Austin còn phải chăm chú theo dõi dự báo thời tiết, còn người ngồi ở nhà cũng chẳng an tâm khi nghe tiếng còi hụ tự dưng báo động từng hồi.
Mấy người bạn trước khi về Cali, bảo: “Qua Texas có một tuần mà nghe tiếng còi hụ báo động thời tiết mấy lần. Tiểu bang này đất rộng người thưa, dễ sống nhưng lại có quá nhiều thiên tai trong mùa mưa bão. Dọn qua Cali sống cho có bạn bè”. Sống đâu quen đó bạn ơi. California của bạn đâu có thua gì, động đất liên miên thế mà có mấy người dọn nhà qua Texas. Số người di tản sang đây chẳng qua là vì có đủ điều kiện nhân đôi tài sản. Bán căn nhà, qua đây tậu lại căn khác, số vốn còn dư, tha hồ mở tiệm làm ăn phất lên mấy hồi. Rồi người từ nơi khác lại đến trám cái chỗ trống của người ra đi. Bạn có nhớ hồi hai năm trước, chúng ta tình cờ ghé đến trang trại trồng hoa của một người Việt về hưu từ bờ Đông sang bờ Tây làm láng giềng cùng các bạn. Cho nên California đông dân thì cứ vẫn đông và Texas cũng ngày càng nhiều người đến ở.
Sở dĩ tôi nhắc đến trang trại trồng hoa ở bờ Tây là vì hiện giờ đứng trước cánh đồng hoa hướng dương vàng hơn cả nắng nở rộ bên xa lộ 35 khiến lòng tôi rạo rực cảm xúc y như hồi ghé qua vườn hoa mặt trời và các loài hoa khác của người đồng hương về San Jose an hưởng tuổi già. Khi đó, “ông tiên” tóc sương đạo cốt, chủ nhân mảnh vườn, ca ngợi những bông hoa mặt trời vàng của mình một cách trìu mến và thâm thúy như một nhà hiền triết. “Em đến đây, bằng đôi mắt hồn nhiên / nhìn mầu xanh của pháp thân hiển hiện: dù thế giới tan tành / nụ cười bông hoa cũng không bao giờ tan biến / chúng ta đã được gì hôm qua và sẽ mất gì sáng nay? Em đến đây / theo ngón tay tôi, nhìn thẳng vào thế gian điểm tô bằng ảo tượng: hoa mặt trời mọc rồi / muôn hoa khác đều quay về quy ngưỡng”. Hình như tôi có nghe lời triết lý này đâu đó. Nhưng dẫu sao, những gì “nhà hiền triết” nói cho vui, tôi nghiệm ra chút ít lý lẽ cuộc đời.
Chỉ khác một điều tôi nhận ra một cách hiện thực hơn. Cây hoa hướng dương của vườn ông cao lớn, bông nào bông nấy to bằng ông Mặt Trời nhìn từ dưới đất. Chúng tôi như những chú bé con đi lạc vào xứ sở thần tiên. Hàng trăm bông hoa vàng rạng rỡ xếp hàng thẳng tắp giống những khuôn mặt tươi cười dễ làm lòng người phấn khích yêu đời. Chẳng thế mà trong văn hóa của người châu Á, hoa Hướng Dương tượng trưng cho sự chung thủy, quân trung, hiếu nghĩa vì hoa Hướng Dương luôn hướng thẳng về phía mặt trời. Trồng hoa Mặt Trời quanh vườn, hoa nở mang tới cho căn nhà một màu vàng ấm áp, nguồn năng lượng tốt đẹp, thắp sáng những nơi u tối, tạo cảm giác an tâm và không khí tươi vui tràn đầy sức sống, góp phần mang lại những điều tốt đẹp cho các mối quan hệ trong gia đình. Hướng Dương cũng luôn thể hiện niềm tin yêu hy vọng, luôn hướng về điều tươi sáng nhất. Tình yêu đem đến cho chúng ta sự ngọt ngào, hạnh phúc nhưng nó cũng đem cả những nỗi đau nhưng đừng vì những nỗi đau đó mà bạn tuyệt vọng và đánh mất niềm tin vào tình yêu. Hạnh phúc luôn đến với những người lạc quan và mạnh mẽ như thông điệp “Hoa Hướng Dương luôn hướng tới Mặt Trời”.
Có người bảo hoa Hướng Dương trồng vườn rực rỡ và to quá không dễ thương bằng hoa Dã Quỳ nhỏ bé đơn sơ. Mùa hè khởi đầu cho loài hoa vàng hoang dã nở rực khắp nơi trên những vạt cỏ vệ đường trong thành phố cũng như bên xa lộ sau màu hoa cỏ mùa xuân còn vương vấn. “Màu dã quỳ hoang dại để tôi thương / Vàng đến trăm năm cuộc tình sương khói” (Từ Kế Tường), đọc lên sao thấy Dã Quỳđáng yêu quá đỗi. Hoa Dã Quỳ hay hoa Hướng Dương cùng họ một loài thảo mộc, cùng mang ý nghĩa về sự thủy chung nhưng một đằng thì cứng cáp hiên ngang, một đằng thì e ấp rung rinh trong đám hoa đồng cỏ dại. Đã là hoa thì hoa nào cũng đẹp, chỉ khác cảm nhận của người nhìn ngắm. Tôi nói chuyện này bởi khi nhìn thấy bức tranh “Hoa Hướng Dương” sao chép treo trong nhà của ông chủ vườn làm tôi liên tưởng đến câu chuyện danh họa Van Gogh sinh thời đã từng bị các đồng nghiệp họa sĩ tẩy chay và yêu cầu ban tổ chức rút tranh của ông ra khỏi cuộc triển lãm.
Thú thật, ai yêu nghệ thuật hội họa xin đừng chê trách kẻ dốt nát nhận thức thẩm mỹ này. Tranh “Bình hoa Hướng Dương” của Vincent Van Gogh không phải một mà cả một chùm bảy bức sáng tác với thời gian chưa đầy một tuần lễ. Sinh thời, người họa sĩ nghèo kiết xác phải sống nhờ trợ cấp hàng tháng của người em trai. Tranh của ông vẽ ra chỉ để thỏa mãn sự khao khát sáng tạo, chứ không buôn bán được cho ai như những họa sĩ đồng nghiệp đương thời. Chỉ đến khi chết, người đời mới công nhận Van Gogh là một họa sĩ tài danh và họa phẩm của ông trở thành đắt giá. Những bông hoa hướng dương của Van Gogh là những bông hoa chết, xác xơ như vừa trải qua một trận bão táp mưa sa. Có thể ông nắm rõ ngôn ngữ của màu sắc làm cho bức tranh nổi bật, chứ nghệ thuật miêu tả của ông không thể nào đặt cùng chiếu với những danh họa cùng thời. Sự tẩy chay của các họa sĩ muốn loại “Hoa Hướng Dương” của ông ra khỏi cuộc triển lãm suýt gây nên cuộc ẩu đả lớn.
Chuyện tranh “Hoa Hướng Dương” của ông khởi đầu đã có nhiều trắc trở, nhưng đáng thương hơn là khi có thêm người bạn đến ở cùng phòng trọ với Van Gogh đưa ra nhiều quan điểm nghệ thuật mâu thuẫn khác nhau khiến cả hai lao vào những trận tranh cãi nảy lửa. Kết quả là Van Gogh tự cắt cái tai của mình. “Nghi án” này người ta cho rằng Van Gogh đã quá mệt mỏi khi phải tranh luận về quan điểm nghệ thuật với người cầm cọ không đồng cảm. Thật ra, ông là một con người yếu đuối và đáng thương khi ông nhận được lá thư báo tin của người em trai trước đó. Tin em trai đính hôn đã thực sự khiến Van Gogh suy sụp vì lo sợ em sẽ không còn quan tâm và giúp đỡ mình nữa, trong khi tình cảm anh em và sự hỗ trợ kinh tế của người em lại rất quan trọng đối với đời sống tinh thần và vật chất của Van Gogh. Một sự bi quan hết thuốc chữa! Một người yêu hoa hướng dương đến độ yêu cầu chủ nhà cho thuê sơn lại căn phòng với hai màu vàng và xanh biểu trưng hoa hướng dương của sự lạc quan và hy vọng đến thế, lại có thể bi quan đến cùng cực. Trái ngược tính cách của những đóa hoa mặt trời vàng hiên ngang ngẩng cao đầu trên những cánh đồng mênh mông bất chấp mưa dông gió bão.
Tôi đứng bên biển hoa vàng thả hồn cho những câu chuyện “Bình hoa Hướng Dương” mặc sức lôi kéo xa rời hiện thực của mùa hoa hướng dương đang về miền đất phương Nam. Bạn có thể bắt gặp những cánh đồng hướng dương vàng hơn cả nắng Tháng Sáu trên xa lộ 35, 45 hay 10 hoặc 20 ngang dọc Đông-Tây-Nam-Bắc trên tiểu bang Texas. Người làm nông trồng hoa không phải để bán hoa mà chủ yếu lấy hạt làm thực phẩm cho các loài chim kiểng. Hạt hướng dương từ xa xưa đã được dùng như một loại dược phẩm, thuốc nhuộm và cả là một loại thực phẩm chức năng người ta biết sau này giống như bao loại ngũ cốc, trái cây, rau củ khác. Thậm chí người ta còn nghiên cứu trồng cây hướng dương trên đất nhiễm phóng xạ, nó giúp cải thiện nồng độ phóng xạ trong đất. Và các nhà khoa học thí nghiệm đã thành công dùng cây hướng dương để khử phóng xạ sau thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra ở Ukraine. Chính vì hiệu quả này đã khiến người Nhật kêu gọi các trường học xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima trồng cây hoa hướng dương trên sân trường.
Cứ nghĩ đơn thuần hoa Hướng Dương chỉ là hoa thảo mộc như bao loài hoa khác, thế mà lại có nhiều huyền năng đến như vậy. Tôi càng nghĩ càng ngộ ra câu “hoa mặt trời mọc rồi / muôn hoa khác đều quay về quy ngưỡng”. Chẳng lẽ hoa hướng dương đúng là vua của các loài hoa chứ không phải hoa Mẫu Đơn người ta từng biết.
Bạn có cảm xúc gì khi đứng trước một cánh đồng hoa vàng hơn cả nắng. Nếu bạn chưa từng biết đến biển hoa hướng dương, thì một ngày đẹp trời nào đó đầu Tháng Bảy, hãy lái xe đến Hillsboro trên xa lộ 35S đi Waco, bạn sẽ tận mắt mấy cánh đồng hoa hiên ngang luôn nhìn về phía mặt trời. Hãy dừng xe, bước xuống và để cảm xúc dâng trào đưa bạn đi vào miền cổ tích.
Trang Nguyên