Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Mùa hoa sim thương nhớ

Màu tím hoa sim (ngâm)

Màu tím hoa sim - Hoàng Oanh

Màu sim yêu dấu

Hoa sim tím, tím một màu thương nhớ,
Thuở ban đầu khi ta chớm biết nhau,
Xa rồi xa, xa mãi ước mơ đầu...!
Em vẫn nghĩ đến ngày ta hội ngộ !!

Sim lại nở trên từng triền dốc đỗ,
Em lỡ đò còn anh đánh mất duyên...
Ta cùng nhau quên đi nỗi ưu phiền !
Em mong mãi thời ngày xưa sống lại !!

Hoa sim tím, tím một trời thân ái,
Em đi tìm quá khứ thuở dấu yêu...
Vòng hoa sim, hôm sớm nhớ hắt hiu,
Rồi mơ ước mình lại là công chúa !!
NM
Kết quả hình ảnh cho cây sim tím Đà lạt
Triền hoa sim tím
Hương không khi nào rời xa miền quê này cả, ngay cả khi thanh niên trong làng đã xuống thành phố làm ăn hết. Ngay cả khi mẹ đã giục mấy lần:
- Con gái bây giờ đi ra ngoài cho dễ kiếm tấm chồng tử tế mà lại được đi đây đi đó. Cứ chui rúc ở nhà làm gì cho tối tăm đầu óc.
 
Thì Hương vẫn nhất quyết ở lại quê, mở một hiệu may ở đầu làng, ngay dưới gốc cây đa xum xuê cội rễ. Ở đó, chiều nào cô cũng thấy những người già trong làng ngồi khâu áo cho con cháu. Tiếng điếu cày vang lên trong khoảnh khắc ánh mặt trời chiếu đỏ xuống thửa ruộng nhấp nhô gốc rạ, gợi lên một cảm giác bình yên đến lạ. Tiếng lục lạc của đàn trâu thong thả trở về sau một ngày lang thang khắp trên cánh rừng rộng lớn cùng lũ trẻ con tinh nghịch. Hương nhớ có một thời, vào mùa hoa sim nở tím như thế này, bao giờ anh cũng hái hoa kết thành vòng đội lên đầu Hương và bảo:
- Em xinh như công chúa ấy.
Hương cười hạnh phúc suốt những năm tháng ấu thơ khờ khạo. Lúc lớn lên mới nhận ra rằng đã yêu anh tự bao giờ mà không nhận ra trái tim mình thổn thức. Để rồi khi anh đã trở thành thầy giáo, Hương là cô học trò thì tình yêu mãi chỉ dám giấu kín trong lòng như một thứ tình cảm thiêng liêng không thể san sẻ được, ngay cả với anh.
Anh hơn Hương sáu tuổi. Cái ngày Hương bé xíu, tóc đuôi gà, thi thoảng còn lấy sáp màu bôi lên má cho hồng để làm công chúa thật xinh, thì anh đã lên cấp hai, đã đeo khăn quàng đỏ đến trường. Đến khi Hương thành cô thiếu nữ, mặc áo dài trắng, tết tóc hai bên thì anh đã về trường huyện dạy sau bốn năm học đại học xa nhà. Ngày đầu tiên gặp Hương ở trường, anh dúi tay vào trán, bảo:
- Cô bé lớn thế này rồi cơ à? Có còn thích làm công chúa nữa không?
Hương đỏ bừng mặt, ấp úng bảo:
- Thưa anh… Thưa thầy…
Anh phá lên cười:
- Khi nào ra khỏi cổng trường thì chúng ta lại là anh em nhé! Được không cô bé?
Hương cúi mặt, nghe trong tim mình chộn rộn một niềm vui khó tả, đó phải chăng là chút xao xuyến đầu đời của người con gái… Từ khi anh về trường dạy, Hương dường như yêu thích môn văn hơn sau mỗi giờ giảng của anh. Giọng anh ấm, đôi mắt như lúc nào cũng đang cười hiền hậu và những bài giảng về cuộc đời của anh mới giản dị làm sao. Trong cuốn nhật ký mà đến tận bây giờ Hương vẫn giữ, có một dòng chữ viết bằng mực tím đã nhòe “Thầy ơi! Có khi nào thầy hiểu…?”.
Sau những buổi trên lớp, anh giản dị trở về với những công việc đồng áng hàng ngày. Đôi lúc cũng theo lũ trẻ chăn trâu ngồi thổi sáo trên cánh rừng bạt ngàn hoa sim tím. Cô bé Hương năm nào không còn chơi trò đội hoa làm công chúa, chỉ dám đứng từ xa nhìn trộm anh mà chẳng dám giáp mặt lần nào. Nhà anh ngay cạnh nhà Hương, thi thoảng vào những hôm mát trời, trăng quê sáng vằng vặc, hương hoa cau thơm ngát cả khoảng sân chênh vênh gió, anh lại sang nhà ngồi chơi cùng bố mẹ Hương. Những lúc ấy, ngồi trong buồng học bài mà những con chữ cứ vuột trôi khỏi đầu cô trò nhỏ. Từng lời nói của anh ngấm vào tâm hồn Hương, nuôi dưỡng những ý nghĩ tốt đẹp đầu đời
Nhiều lúc Hương tự hỏi, tại sao anh không chọn một nghề nghiệp khác, là kỹ sư, là công an hay bất kể công việc gì đi nữa mà lại là thầy giáo, lại về đúng trường huyện, lại đứng trên bục giảng hàng ngày để Hương trở thành cô trò nhỏ. Cái ranh giới của tình thầy trò quá lớn, nó giống như một dòng sông ngăn đôi hai bờ thương nhớ. Người đứng ở bên này muốn sang bờ bên kia mà không tìm được một con đò. Lại không dám băng mình qua dòng nước xoáy. Chỉ dám đứng bên này thương nhớ bên kia…
Ngày anh dẫn người yêu về ra mắt cả xóm, ai cũng mừng vui cho thầy giáo trẻ, chỉ có một người buồn. Trăng hôm đó rất tròn, hương cau hôm đó rất thơm, bên cửa sổ có một người con gái ngồi buồn bên trang sách. Anh hàng xóm nhà bên có nàng công chúa của riêng mình, đối với anh có lẽ Hương mãi chỉ là một cô trò nhỏ mà thôi. Hương tự trách mình tại sao không chịu hiểu?
Ngày anh lấy vợ cũng là ngày Hương học xong cấp III. Con gái trong làng đến tuổi ấy mà không đi học ở đâu là lấy chồng được rồi, nhưng cả nhà giục mãi mà nhất định Hương không chịu lấy ai trong số những trai làng đến hỏi. Vì Hương vẫn còn yêu anh lắm… Dù anh đã có một mái ấm gia đình.
Lại đến mùa hoa sim nở tím. Trong chiếc quán nhỏ dưới gốc đa làng, Hương vẫn thường thả hồn theo màu hoa thương nhớ ấy. Tím làm gì cho tái tê lòng? Tím làm gì để mà càng nhung nhớ…
Chiều nào anh cũng về qua đây, đôi lúc ngẩng lên bắt gặp ánh mắt anh, Hương lại vội vàng cúi xuống, để đêm về lại thao thức nhớ khôn nguôi. Những tình cảm đầu đời sao mà khó quên đến thế. Suốt gần chục năm qua, những đứa con gái trong làng đã lấy chồng, con bồng con bế, thi thoảng còn dắt con đến quán Hương may quần áo cho chồng. Đứa tốt số, lấy được chồng giàu như được đổi đời, đứa chẳng ra gì cũng kiếm được tấm chồng mà dựa dẫm. Còn Hương, vẫn quanh quẩn một mình dưới gốc đa đầu làng. Biết bao đêm mẹ phải khóc thầm cho số phận hẩm hiu của đứa con gái vừa xinh vừa nết na, thùy mị, còn bố thì đã quen lắm với những tiếng thở dài nặng nhọc. Đôi lúc Hương cũng muốn lãng quên mọi thứ để sống tốt hơn. Đôi lúc cũng muốn nhận lời một người con trai nào đó để được yêu, được làm vợ để rồi sinh ra những đứa con. Nhưng màu tím hoa sim sao cứ làm người ta nhói buốt, sao cứ mãi soi vào những nỗi nhớ thẳm sâu, nơi có tiếng cười của cô bé vừa được ai kết cho vòng hoa sim tím làm công chúa…
Hôm nay là chủ nhật, anh đến cửa hàng may một bộ quần áo để lên lớp. Anh cười bảo:
- Sao em không chịu lấy chồng vậy cô bé? Cứ muốn làm công chúa mãi sao?
Hương cười chua chát bảo:

- Tại hoàng tử của em đã lấy vợ rồi.
Anh phá lên cười bảo: “Sao mà em vẫn còn mơ mộng vậy?”. Hương nhìn sang rừng hoa sim tím, thấy cay xè mắt. Lòng thì tự hỏi sao khi nào anh cũng coi Hương như một cô bé con, sao không khi nào anh cảm nhận được tình yêu của Hương dành cho anh? Câu hỏi ấy cứ xoáy sâu vào vùng nhức nhối. Biết bao mùa sim tím đã đi qua…
Mẹ đi cắt duyên âm cho Hương. Thầy bói bảo số Hương nặng số, nếu không thờ cúng thì cứ ở vậy suốt đời. Mẹ lại quay đi lau nước mắt. Dưới chiếc gối mà ngày nào Hương cũng ôm ngủ là một túi sổ sách, là gương lược và cái kéo. Những thứ mẹ đã dặn “là vật bất ly thân”, không được cho ai động vào. Hương làm theo lời mẹ, hàng ngày vẫn mang gương ra soi, chỉ thấy nhan sắc mình tàn đi mà nỗi nhớ thương thì không vơi cạn. Biết bao giờ trái tim mới có chỗ dành cho một người đàn ông khác…
Tóc Hương rất dài, cô tự nhủ bao giờ dùng chiếc kéo kia cắt ngắn mái tóc thì sẽ quên hết mọi chuyện, sẽ là một cuộc đời hoàn toàn mới. Mỗi ngày, mỗi sợi tóc ra đi nhưng hình ảnh rừng hoa sim tím vẫn cứ vời vợi trong đôi mắt, trên mái tóc đen dài. Mỗi sớm mai, nhìn anh đèo con đến lớp, Hương lại tự dặn mình “Phải quên đi thôi. Đừng nhớ nhung những gì không thể”. Bởi Hương hiểu ra rằng, mối tình đơn phương ấy chỉ mang lại nỗi buồn, sự héo hon chờ đợi những điều viển vông, không khi nào có thật. Dặn mãi mà sao lòng vẫn cứ mơ… bên gốc cây đa già, chiều nào cũng có một người qua đó.
Anh bỏ vợ. Không! Người ta lại bảo là người vợ đã bỏ anh đi theo người đàn ông khác. Nghe nói người đàn ông ấy vẫn thường tìm lên đây hỏi mua gỗ xà cừ, gỗ tràm của những hộ dân trồng rừng theo dự án. Mỗi sáng anh vẫn chở con đến trường, nhưng đôi mắt buồn hơn, tránh không ngẩng lên mỗi khi đi qua quán may dưới gốc đa già. Hương càng không thể quên anh.
Thi thoảng nửa đêm giật mình thức giấc, mẹ lại hỏi:
- Con vẫn giữ gương lược và chiếc kéo mẹ đưa đấy chứ?
Hương gật đầu, mẹ lại thở dài bảo:
- Sao mãi chẳng thấy hiệu nghiệm gì cả, hay để mai mẹ đi xin lễ khác.
ương vùng dậy, chạy vội ra hiên, cố cắn chặt môi để không bật thành tiếng khóc. Đêm nay không có trăng, khắp nơi là xứ sở của bóng đêm, của cánh dơi đập loạn xạ và của lòng người không biết đâu là lối thoát. Hương muốn được chạy qua hàng rào dâm bụt, bởi phía bên kia là anh, là tình yêu mà bấy lâu nay cô giấu kín nhưng sao không thể cất nổi đôi chân nhỏ bé và những nhịp đập mềm yếu của trái tim mình. Tại sao?
Ở đâu đó trong bóng đêm bỗng vẳng lên tiếng trẻ con khóc đòi mẹ và tiếng vỗ về của một người đàn ông nghe sao xót xa. Hương quay vào giường, nằm kề bên mẹ, cô thủ thỉ:
- Nếu con yêu một người đàn ông đã có vợ rồi thì…
Hương nghe rất rõ tiếng giật mình nhưng không biết là của mẹ hay của chính cô nữa. Đêm ấy mẹ lại thức dậy, ra ban thờ thắp hương và khấn lầm rầm. Sáng hôm sau mẹ lên chùa từ rất sớm, dặn mọi người là đến chiều mới về. Nhìn mắt mẹ thâm quầng, lòng Hương càng thêm rối bời, thương xót. Hương may nốt những đường chỉ cuối cùng trên chiếc áo mà anh hẹn lấy trước ngày khai giảng. Trên cánh đồng, người nông dân đang cặm cụi với những đường bừa cuối cùng để bắt đầu gieo lúa cho vụ mới. Thanh niên trong làng đã kéo nhau xuống thành phố kiếm kế sinh nhai, ở trong làng chỉ còn lại người già và trẻ con. Còn lại Hương, một cô gái lỡ thì và anh, một người đàn ông bị vợ bỏ. Hương bật bản nhạc không lời từ chiếc đài quay băng đã cũ, nghe buồn xa vắng. Hương càng nhớ anh hơn…
Lần đầu tiên Hương chợt nhận ra rằng tình yêu vốn chẳng có một khoảng cách nào, ranh giới nào. Những người không dám lao sang bờ bên kia của dòng sông ngay cả trong mùa nước cạn như cô thì sẽ chẳng khi nào có được tình yêu hết. Cái suy nghĩ ấy khiến Hương bật khóc, không hiểu vì đau khổ hay là niềm hạnh phúc vừa chớm đến. Ngoài kia nắng đã lên cao, rừng sim vào cuối mùa hoa đã không còn ngăn ngắt tím. Thay vào đó những chùm quả non đang dần lớn lên trong sự trù phú của ánh nắng mặt trời và gió trung du. Hương đóng cửa quán, cầm chiếc áo mới may trên tay đi về phía con đường làng. Hôm nay Hương quyết định đi tìm anh, đi tìm tình yêu trong trái tim mà bấy lâu nay cô lẩn trốn. Khi tình yêu đã lên tiếng thì nó sẽ không khi nào phải hối hận cho dù tình yêu đó có được đáp trả hay không
. Cho dù hôm nay, sau tất cả những bộc bạch của Hương, rất có thể anh sẽ trả lời rằng trong trái tim anh không có chỗ nào dành cho Hương hết, thì cô vẫn cứ thấy thanh thản hơn để bước đi một con đường khác. Hương nghĩ, rồi vội vã sải những bước chân rất dài, gió hôm nay rất thơm, nắng hôm nay rất đẹp, Hương thấy lòng vui như cái ngày được anh kết hoa sim đội lên đầu làm cô công chúa nhỏ.
 Tạ Đức An

Những Đồi Hoa Sim 
Mùa sim năm cũ
Thương nhớ quá món quà quê ngày cũ,
Của một thời xa lắc tuổi ấu thơ.....
Ta mãi tìm dĩ vãng chỉ trong mơ,
Màu hoa tím của sắc sim năm ấy ?!
NM
Mùa sim đã qua 
Khi cái nắng đang ở độ oi ả, cơn gió Lào rát bỏng thổi cả hàng cây bên đường cúi rạp xuống, ấy là lúc đồi sim phía sau nhà ngoại đang vào mùa.
Bạn ở thành phố đã từng há hốc mồm khi trông thấy những trái sim tím biếc. Thứ quả mà ở thành phố, bạn chưa nhìn thấy bao giờ. 
Quả sim mọng nước, cho vào miệng nghe ngọt lịm, vị ngọt chẳng thể lẫn vào đâu trong vô vàn thứ quả trái cây ta đã nếm. Cả tuổi ấu thơ êm đềm quay về trong nhung nhớ với vị sim tan êm nơi đầu lưỡi. 
Sau nhà ngoại là những đồi núi trùng điệp. Ngoại thường dọa chị em chúng tôi trên ấy có ông “beo” vì sợ chúng tôi mải mê theo bạn hái sim sẽ bị lạc
Mặc nỗi sợ hãi, chúng tôi dắt nhau lên đồi, cầm chiếc nón của ngoại để đựng thứ quả ưa thích này. 
Cả bọn cứ nhảy từ đám cây này qua đám khác, sim nhiều tưởng như hái miết mà không xuể. Lại còn tranh nhau, thi xem ai hái nhiều hơn. Tôi thường tha thẩn để hái cả những bông hoa sim tím rồi bó từng chùm trông đẹp mắt. Hoa sim tím hồng, từng cánh tỏa đều, không có mùi hương đặc biệt nhưng sắc hoa cứ tươi mãi ngay cả khi rời cây đã lâu. 
Cậu em vừa hái vừa ăn, đến khi cười đùa, nhe ra hàm răng lẫn lưỡi tím lịm, cả bọn nhìn thấy lại cười khanh khách vang vọng cả đồi. Đám con trai còn tranh thủ bẫy chim, những chú chim chào mào, chim khướu say mồi, bị tóm gọn trong những chiếc lồng bé xíu. 
Mùa sim về ngay khi kỳ nghỉ hè vừa bắt đầu thế nên chúng tôi thoải mái la cà trên sườn đồi suốt buổi mà không lo chuyện bài vở. 
Cứ độ chiều về, hoàng hôn thả những tia nắng cuối cùng vắt vẻo trên sườn núi, anh họ dắt bò về chuồng, cái lục lạc đeo tòng teng trước cổ chú bò vang lên từng khúc như bản nhạc nghe vui tai đến lạ. Tôi cắp chiếc nón đầy sim lên nách rồi lẽo đẽo theo đám bạn dung dăng dung dẻ về nhà. 
Ngoại lúc nào cũng chực sẵn ở cổng với cây roi trên tay và khuôn mặt lo lắng. Người đằng hắng: “Bây ăn sim no cơm luôn hả, răng chừ mới về”. 
Ngoại chỉ cầm roi dọa chứ chưa bao giờ  đánh ai. Ngoại hiền nên mấy đứa cháu đều biết, chúng chạy đến ôm lấy chân ngoại rồi thủ thỉ bao điều. Nào là sim mùa này nhiều lắm ngoại ơi, ngọt ơi là ngọt, nào là con gặp cái cây gì có gai là lạ, cây đó tên gì vậy ngoại. Vậy là ngoại quên sạch mới cách đó ít phút đang giận chúng nó lôi đình. 
Ngoại bảo, đồi sim đó mấy đứa trẻ nhà nghèo đen đúa đi hái từ sáng đến tối để bán mua tập vở. Lúc nào muốn ăn, ngoại mua lại của chúng nó cho, chứ đừng lặn lội vô đó, giành mất phần tụi nó mà tội. Anh tôi cười hiền, ngoại lo xa, chứ cả đồi sim như thế,  bọn con hái cả mùa cũng không hết. 
Bây giờ, khi tháng tám đã sang, hè đỏng đảnh vừa hết tiếc nuối trong mắt học trò, mùa sim cũng vừa qua. 
Trẻ con bây giờ cũng chẳng biết vị trái sim thế nào. Có quá nhiều thức ăn  đồ uống ngon ngọt, vị ngọt lẫn chát của sim chẳng còn ngon lành, hấp dẫn. Ngoại lại bần thần, trái cây bây giờ quả gì cũng hóa chất, cứ nằm giữa thiên nhiên như sim có khi lại tốt. Vậy mà đồi sim tím biếc cả đồi, chẳng còn ai buồn hái, trái rơi rụng dưới gốc đến tội tình. 
Ở những nơi khác, sim còn có tác dụng kinh tế như để ngâm rượu, làm mật, làm thuốc chứ ở quê tôi, sim chỉ đơn giản là thứ quả quê mùa của đám trẻ con nhà nghèo. 
Có mệ già ngồi bán ở góc chợ, ngỡ rằng sim vẫn còn là thứ quả ngon nhất trần đời với lũ trẻ như ngày nào, song, từ sáng đến trưa chẳng ai hỏi mua. Mệ nhớ ngày xưa, sim bán được đong trong hộp sữa ông thọ đã dùng hết, mỗi đong như thế chỉ vài trăm bạc, mấy đứa ăn đến tím môi, tím lưỡi vẫn thèm. 
Tôi nhận ra rằng, mùa sim nay đã qua, qua trong ký ức tiếc nuối vời vợi của người ở lại và cả những người chưa từng hay biết đến nó.

Diệu Ái
Hình ảnh có liên quan

Những Đồi Hoa Sim

Tình Sầu Hoa Sim Tím


         ĐỒI VẮNG
Bà lặng lẽ đọc những trang thơ đẫm nước mắt của con – Thơm… Bà đau quá! Bà đau quá! Bà vội chạy ra khỏi nhà, trước mặt bà hoa sim bung nở cả một khung trời vắng. Bà có bao giờ nhìn thấy sim đẹp như vậy đâu? Bà chợt nghĩ đến giấc mơ hoa của đứa con nhỏ. Hèn gì nó thèm được đi học như vậy. Bà gục mặt trên tản đá trước mặt, tiếng nói của người đời văng vẳng trong tai: “Đồ con đĩ”.
Ở một nơi khi ho cò gáy này thì có gì mà tìm chứ? Tiếng than thở vang lên trong lòng bà. Bà đang cố đi tìm mấy của sắn rài cho bữa tối, đi tìm trong vô vọng. Một thân hình kham khổ thấy rõ sự nặng nhọc, cố lê đôi chân bà bước đi, bước đi… Vài con cò sải cánh bay trên trời. Cái thời lả lơi ong bướm giờ rã ra trong kí ức. Bà về…
- Con Thơm, thằng Nậu đâu? Sao nhà cửa bề bộn thế này. Tao đang mệt, đừng để tao nổi điên lên nghe, nghe rõ chưa.
Trong nhà một đứa trẻ mặt lem luốc lọ nghẹ trốn sau cánh cửa lắng lặng trước những lời quát mắng của bà. Thằng cu bên hiên có vẻ chững hơn, đang ho sụ sụ, nó đáp tỉnh bơ:
- Nhà còn gì nữa mà dọn với dẹp. Mẹ đi đâu về thế?
- Tao đi kiếm ăn chứ đi đâu. Rõ khổ. Cái thằng không cha mà dám nói lại mẹ mày hả. Đi ra quán bà Sáu mua chịu ít gọi mì tơm coi. Tao đói lắm rồi.
Với cái mặt quặp quặp, nó vút chạy qua trước mặt bà. Lấy cái tay lau mấy giọt mồ hôi khi nãy vẫn còn, bà đi vào trong nhà, con Thơm vẫn đứng đó, không một lời nào. Nó nhìn vào xa xăm. Cái nhà trơ trọi trên triền đồi đón gió nhiều hơn, hứng nắng nhiều hơn. Thơm ngước mắt nhìn mẹ, một người đàn bà trung niên với sự già sạm trên khuôn mặt, có lẽ nhan sắc đã xuống cấp, không còn một chút mỡ. Ngôi nhà đong đưa màu u buồn đong đếm những bi kịch không nói thành lời. Dù vậy chỉ duy nhất Thơm được đi học. Thằng Nậu phải bu bám tàu xe kiếm tiền về nuôi cả nhà. Không gì đáng thương. Nhưng có vẻ như Nậu thương em lắm, thế nó mới đủ sức gieo cái chữ cho em nó chớ.
Thơm rất thích hoa sim tím, loài hoa gắn chặt với nỗi u buồn trên cái triền đồi hoang vắng này. Mấy tiếng lội bộ xuống thị trấn tìm cái chữ - hoa sim là người bạn duy nhất của nó. Sim bạt ngàn những khung trời nhỏ trong tầm mắt cô bé – sim đưa hồn hoa bay cao trong ước mơ tuổi mộng – sim che chở rẽ đưa những bước chân cho một cuộc hành trình bạc màu thời gian. Những ngày đói, Thơm nếm sim, những quả chín mọng của hoa sim cuối mùa, khắc khoải đợi chờ… Mẹ nó, bà già suốt ngày la mắng, quát nạt nó, bị người đời chửi rủa. Hình như nó hiểu, Thơm vờ như không biết. Nên ba mẹ con phải sống nơi khô khốc cây không mọc nổi này. Một đời “săn” đại gia của bà được kết thúc trong chuỗi ngày u ám, phải giấu thân nơi này. Con Thơm nó lơ mơ biết điều này, biết vì sao nó là Thơm, biết vì sao mẹ nó chửi anh trai nó là “đồ con hoang”. Mẹ nó giờ đáng thương lắm. Nó thương mẹ.
Tối đến, có vài người đàn ông thỉnh thoảng đến thăm bà. Sau vài cái liếc nhìn, vài cái e thẹn, vài cái đẩy đưa họ lại kéo nhau xuống phố. Mà còn gì nữa mà đưa mà đẩy chứ. Bụi hương đã không còn. Tại sao lại thành ra như thế? Trời biết, đất biết, bà không biết. Bà đã không còn là chính mình, sau những cuộc rong chơi bất tận, bà không còn gì. Đến nỗi hai đứa con thơ dại của bà, bà cũng không biết cha nó là ai. Ở nơi đây hầu hết dậy, đã gia nhập đội ngũ ca ve thì phải chấp nhận như vậy thôi. Bảng lảng đi theo mấy gã trai quen, bà nhậu đến say khướt. Nhục tình đâu còn nữa mà “mờ đèn”. Thành phố sương mờ đẹp đẽ này không có chỗ cho bà, người đàn bà của tội lỗi. Gần - năm – mươi – tuổi – lại – kéo – nhau - vào “hu treo”. Bất luận. Bóng đêm cũng từ chối nhìn mặt bà, vũ trụ cũng đẩy bà ra khỏi thực tại… Những chuyến tàu nhanh trôi qua trong sự đau đớn, hoang tàn. Cầm mấy đồng bạc chẵn bà lê đôi chân trần bước về nhà. Cả một đời buôn phấn bán hương cũng đẩy người ta xuống vực thẳm. Cái quá khứ xưa còn khủng khiếp hơn nhiều. Hồi còn cái tuổi như con Thơm bây giờ, bà đã tỏ ra chán đời, thế rồi lại lao vào ăn chơi, khi mà mẹ mình sớm hôn tối hít. Nhanh chóng quăng vở, bà lao vào cuộc chơi. Bà quên mất đời. Mấy con dê trên triền đồi hí hí mỗi chiều làm bà ù tai, đau đớn. Nhưng bà lại như hồ điệp chưa rủ cánh tàn. Không dừng cuộc chơi. Đau đớn bất tận. Hai giờ sáng, bà trở về nhà. Mấy con chó cũng chả thèm sủa lấy một tiếng, bà dụi và ngủ vào như hình nhân rã rời mục nát.
Sáng hôm sau, bà dụi mắt. Nhức nhối hết cả mình mẩy. Bà rặng đứng dậy. Hè rực rỡ, mà như đông chớm tàn. Khói bếp đã thắp lên từ sớm. Có lẽ con Thơm nó nấu cơm ăn đi học lâu rồi. Cũng cái thói liếc ngang liếc dọc bà nhìn quanh nhà. Chật ních. Ngột ngạt. Bà nổi điên. Bất chợt, trên bàn học của con Thơm, những cánh sim phảng phất mùi hương lạ. Hương buồn. Bà lặng lẽ đọc những trang thơ đẫm nước mắt của con – Thơm… Bà đau quá! Bà đau quá! Bà vội chạy ra khỏi nhà, trước mặt bà hoa sim bung nở cả một khung trời vắng. Bà có bao giờ nhìn thấy sim đẹp như vậy đâu? Bà chợt nghĩ đến giấc mơ hoa của đứa con nhỏ. Hèn gì nó thèm được đi học như vậy. Bà gục mặt trên tản đá trước mặt, tiếng nói của người đời văng vẳng trong tai: “Đồ con đĩ”.
Phan Nam
Kết quả hình ảnh cho cây sim tím Đà lạt 
Liên khúc Chuyện Hoa Sim 
Hoa sim tỉnh thức
Chân nhẹ bước trên đồi hoa sim tím,
Lắng lòng nghe nhịp thở của thiên nhiên...
Hãy trôi đi bao phiền toái ưu phiền,
Vô ưu nở trong sát na tỉnh thức !!
NM
Mùa hoa sim thương nhớ 
Thời gian không ngừng trôi chảy. Mới hôm nào người ta rộn ràng bởi giai điệu của tháng tư. Ông mặt trời thoải mái dõi nhìn thế gian bằng tia nắng mai và lau khô những giọt sương đêm trên ngọn cỏ. Những tia nắng vàng ươm hắt trên nhành lá.
Buổi sáng, sau thời thiền tọa tôi bước những bước chân thật nhẹ để đi tìm có hạt sương nào còn đọng trên ngọn cỏ không?! Dường như sự tìm kiếm là một sự bắt đuổi chính bởi những đuổi bắt nên chẳng bao giờ tôi có thể tìm được giọt sương mai trong suốt mùa hè cả. Nhưng đó chỉ là cái cớ để bước nhẹ không vội vàng với nhịp sống, để lắng nghe nhịp đập tinh khôi của một ngày mới. Mình vẫn hay quên cái âm thanh cuộc sống luôn vang vọng, ở miền sơn cước nơi núi rừng thanh tịnh dư ba của cuộc sống càng rõ rệt hơn.
Tháng Tư, có dịp xuống núi đi trên các đại lộ nhận ra vẻ đẹp thơ mộng từ những hàng cây bằng lăng, hàng phượng vĩ, một màu tim tím, hay màu đỏ rực rợp các con đường người ta sẽ dễ dàng lãng quên những tiếng ồn ào của xe cộ trong dòng người qua lại. Nhưng tôi vẫn thích màu vàng ươm của những bông hoa điệp hơn. 
Quanh Thiền viện có những cây Muồng sum xuê tỏa bóng. Thầy nói với cô Dung mùa hè có hoa Sim, hoa Mua và cả những cây Muồng cũng nở bông kheo sắc. Bông Muồng màu vàng tươi. Có lần đi trên nẻo đường ở Thái Lan những bông hoa Hoàng Anh làm tôi nhớ vô cùng. 
Những bông hoa Muồng quanh Thiền viện nở thành từng chùm rủ xuống giống như mái tóc người thiếu nữ Tây Phương đầy óng mượt. Tôi thích những bông hoa phượng tím. Nghe có vẻ lạ khi nói Phượng tím bởi người ta vốn chỉ nghe có hoa Phượng đỏ thôi. Nhưng thật là có phượng tím, ở Đà Lạt có những cây phượng màu tím ấy. Hè năm nay Mai Anh không về Việt Nam nên không thể mang lên Thiền viện cúng dường vài cây Phượng tím như đã hứa. Ở Úc có những nẻo đường vào mùa hè một màu tím rợp cả khung trời. Ở Paris bây giờ cũng thế.
Tháng Tư, ve kêu gọi hè về người ta vẫn sợ cái nắng  nóng oi ả. Nhưng với tôi mỗi mùa đều mang vẻ đẹp riêng cho nên dù khúc nhạc thời gian không ngừng tấu bản tình ca tháng năm thì tôi vẫn bình yên tĩnh tại để ngắm hết vẻ đẹp sự chuyển giao giữa các mùa. Và năm nào cứ đến mùa ve kêu tôi lại ăn mừng bằng những trái sim chín. 
Mỗi khi từ phòng bước lên trai đường hay chánh điện tôi không quên ghé thăm những cây sim ngắm nhìn những trái sim mũm mĩm căng tròn. Tôi cũng không biết chúng ngon  đến cỡ nào nữa, nhưng trái chưa thật sự chín thì có vị chan chat ấy thế mà nó lại hấp dẫn lôi cuốn người ta đến thế. Có vài em sinh viên thi thoảng lại gọi điện hay nhắn tin hỏi: "Sư cô ơi! đã đến mùa sim chưa? Sư cô ơi sim đã chín chưa?" 
Cũng chẳng riêng mình tôi tìm thấy niềm vui từ đồi sim mà những chị công nhân tranh thủ thời gian nghỉ trưa để đi hái đầy một nón sim. Rồi họ ngồi với nhau dưới những tàng cây tỏa bóng mát cười khúc khích cùng nhau thưởng thức thứ quà lạ của quê hương bản địa. 
Có vài người khách lạ đến vãng cảnh chùa cũng bị lạc vào đồi sim như lạc vào thế giới của những câu chuyện cổ tích. Họ mải mê với trái sim chín mọng và những đàn bướm lượn quanh quên đi cái nắng nóng gay gắt của những trưa hè, quên cả bữa thọ trai cùng quý Thầy cô,  quên cả chuông điện thoại đang reo. Những giọt mồ hôi nóng hổi lăn dài trên khuôn mặt ai nấy... 
Tôi dẫn khách về lại khách đường, và những lời hứa hẹn của những vị khách về mùa sim năm sau. 
- Năm sau mùa sim chúng con lên sư cô lại dẫn đi hái sim nữa nhé? 
Tôi cười: 
- Được nếu đủ duyên. Họ ra về với những túi sim chín làm quà cho người thân, bạn bè đồng nghiệp. 
Buổi trưa tiếng những em bé gọi bạn đi hái sim vọng lại. Tiếng nói cười khiến tôi tò mò thức cùng, sự hồn nhiên thơ ngây nơi ánh mắt trong veo. Mấy em bé dưới làng, trưa hè nào cũng vậy í ới bên đồi sim, đôi chân trần và khuôn mặt nhễ nhại bởi mồ hôi. 
- Sư Cô ơi cho chúng con xin nước uống?! 
- Sao các em không nghỉ trưa? 
Chúng nhìn nhau tỏ vẻ  không hiểu ý tôi nói. 
- À sư cô muốn hỏi là trưa nắng sao các em không ngủ? 
Đứa lớn nhất nói: 
- Chúng con không quen ngủ trưa. Chúng con thích được lên đồi hái sim. 
Tôi nói với chúng: 
- Các em uống nước ngồi chơi chút ráo mồ hôi cho sư cô đi hái sim cùng với có được không?  
Đứa bé gái lên tiếng: 
- Được ah! Sư cô cũng thích hái sim ah? 
Tôi cười gật đầu. Tuổi thơ bên đồi sim của chúng khiến tôi nhớ về  tuổi thơ của chính mình. Hồi đó tôi rất thích mùa hè vì được vui chơi thỏa thích,thi thoảng buổi chiều được Bố cho đi thả diều. Bố làm cho tôi cây diều sáo chiều nào tôi cũng rủ mấy đứa cùng tuổi trong xóm thả diều. Nhưng tôi không biết cách làm cho diều bay lên nên khi nào cũng có Bố cùng đi. 
Có lần mấy đứa trong xóm không chịu ngủ trưa đứng ngoài cổng gọi tôi đi chơi trò ô ăn quan bị bố tôi nghe thấy thế là tôi và mấy đứa bị phạt ngủ tới 3 giờ không được đi đâu. Chúng nó rất thích đến nhà tôi chơi vì bố tôi và ông nội có thường bày nhiều trò chơi cho chúng tôi mỗi khi được nghỉ hè.

Bố bắt chúng tôi phải ngủ trưa. Đứa nào cũng nhắm mắt để đấy nhưng rồi ngủ lúc nào không hay. Buổi chiều ông nội dạy tôi chơi cờ tướng. Lúc đầu tôi không thích nhưng rồi mê chơi cờ với nội lúc nào không hay. Nên  chiều hè nào tôi và nội cũng say sưa với những ván cờ mà quên hẳn chuyện thả diều. 
Tôi ít khi thắng nội sau này lớn trình độ chơi cờ của tôi vững hơn nên nhiều ván nội phải thua tôi. Mấy đứa bạn tôi nó không thích chơi cờ nó thích thả diều hơn nhưng tôi lại không thích thả diều nữa thế là chúng ít tới nhà tôi chơi hơn. Có đứa bắt bố làm cho chiếc diều sáo bị bố nó mắng và tôi tặng lại cho các bạn cùng xóm cây diều mà bố tôi đã kỳ công mất mấy buổi trưa làm cho. 
Tôi đưa cho mỗi đứa một chiếc nón rồi cùng chúng đi hái sim. Chúng hỏi tôi rất nhiều như là tôi có thể trả lời cho chúng những gì mà chúng nghi ngờ hay tò mò bấy lâu. Đứa bé gái hỏi: 
- Sao sư cô lại đi tu? Đi tu có được đi học nữa không ah?  Thế đi tu thì làm gì hả sư cô? 
Tôi hỏi lại chúng: 
- Sao các em biết xưng con với sư cô? Sao các em biết gọi chị là Sư cô? 
Chúng thi nhau trả lời: "tại con thấy người lớn vần hay xưng với các Thầy cô là con?" 
Chúng rất nhanh và rất tinh hái được rất nhiều và toàn trái sim bự. Tôi đã thấm mệt vì phải theo chúng cả trưa tôi ngồi xuống một gốc cây và tự tại ăn những thành quả suốt buổi trưa không ngủ của mình. Dường như mấy đứa nhỏ cũng thấy mệt chúng cũng ngồi xuống và tranh nhau nói: 
- Sư cô ăn của con đi 
- Sim con hái to và ngon hơn của nó 
Tôi bảo chúng rằng: 
- Em nào hái sim cũng bự và ngon nhưng sư cô chỉ ăn của sư cô hái thôi, còn sim các em có thể mang về chia cho các bạn dưới làng. 
Tôi thầm phục mấy đứa trưa nắng thế này mà chúng lội bộ từ dưới làng lên tận đây để hái sim. Mà chúng lại còn nói với nhau ngày mai sẽ rủ thêm mấy đứa nữa  cùng đi hái sim. Chúng còn kháo nhau ở đồi bên kia sim chín nhiều hơn và bự hơn. 
Trong tôi lại khởi lên sự tò mò muốn khám phá vùng đất mới. Nhưng ngày mai mà đi vào giờ nghỉ trưa Thầy biết chắc chết. Tôi bảo với chúng: 
- Nếu ngày mai mấy em đi nữa thì lên chỗ của sư cô nghỉ đến chiều mình đi được không? 
Chúng bảo nếu chiều  đi hái thì chiều chúng con phải đi trông em đỡ bố mẹ. Đứa thì nói con phải đi cuốc đất giúp bố mẹ. Đứa nói con phải xuống nhà bà nội con trông nhà giúp. Tôi ngạc nhiên hỏi: 
- Sao em bé thế này mà phải đi cuốc đất? 
- Em nhỏ nhưng em khỏe lắm sư cô ah! - Một em nhanh nhảu trả lời. 
Tôi nhoẻn miệng cười: 
- Các em có biết đi sư cô đi tu thì làm gì không? Sư cô tập ngồi thiền, sám hối những lỗi sai trái của mình. Tập sống cho ngăn nắp gọn gàng và lễ phép với người lớn tuổi hơn mình. Và tập sống trọn vẹn với từng giây phút. 
Tôi sợ chúng bắt bẻ tôi sống trọn vẹn từng giây phút là gì? Nên tôi đứng lên vờ hái trái sim chín trước mặt. Vì tôi không biết phải giải thích với chúng như thế nào vì chúng còn quá nhỏ, đầu của chúng thì quá thơ ngây hồn nhiên để hiểu  sống trọn vẹn từng giây phút là sao?! 
Khuôn mặt tôi nóng bừng vì cả trưa dãi nắng. Tôi rủ mấy đứa lên chánh điện ngồi chơi cho mát. Chúng hỏi tôi thể có thể đem sim cúng Phật được không? Tôi chưa nghe ai đem sim lên để cúng Phật. Tôi ừ đại được các em bỏ vào đĩa rồi dâng lên Phật, Phật sẽ gia hộ cho các em học giỏi. 
Tôi cảm thấy chóng mặt suốt buổi trưa cùng mấy đứa trẻ nhiệt tình quấn quýt bên khu đồi sim. Cũng không còn sức để trả lời những câu hỏi vì sao của chúng nữa nên nói thế các em có phải về giúp bố mệ việc gì không? Chúng bảo:\- Chúng con rất thích ở đây chơi với sư cô? Sư cô tên là gì ah? 
Tôi mỉm cười: 
- Các em gọi sư cô là sư cô được rồi, tên sư cô là gì không quan trọng. 
Có đứa lý luận: 
- Nhưng chúng con muốn biết để ngày mai lên tìm sư cô rủ sư cô đi hái sim cùng. 
Nhìn bọn chúng, tôi đáp: 
- Ngày mai sư cô không đi được nếu đi phải lên xin phép Thầy sư cô đã nhé. Các em có thể gọi sư cô là sư cô mắt kính được rồi. 
Tôi đành cắt ngang cuộc thỏa thuận giữa tôi và mấy đứa nhỏ bằng than thở: 
- Thôi bây giờ sư cô mệt lắm nếu các em muốn ở chơi thì ngồi ghế đá chơi cho mát sư cô phải về phòng nghỉ. 
Tôi bước về phòng bỏ mặc những ánh mắt dõi theo. Có lẽ chúng đang băn khoăn tự hỏi chúng mình làm gì để sư cô mệt nhỉ? Tự sư cô xin đi hái sim cùng tụi mình mà. 
Tôi thầm cám ơn các em đã cho tôi một buổi trưa dù mệt nhưng rất thú vị.  Khi ở gần các em tôi cảm nhận được sự hồn nhiên trong sáng nơi tâm hồn tôi. Suốt buổi đêm hôm ấy tôi băn khoăn không biết ngày mai các bạn nhỏ dưới làng có đến khu nhà lá tìm tôi không? Đáng lý tôi không nên nói với các em mình đang mệt. 
Tháng Tư, bầu trời đêm cao và trong xanh. Những chòm sao thi nhau tỏa sáng có những tiếng dế tiếng ếch dưới cánh đồng gần vẳng lên. Tôi chợt cười thầm đây đích thị là một bản giao hưởng "Đồng Quê". 
Đêm khuya, trăng đang đậu trên một đỉnh núi cao tỏa ra một thứ ánh sáng mát rượi xoa dụi đi những nhọc nhằn của tháng năm. Đêm tháng Năm thật ngắn ngủi. Tiếng gà rừng vọng lên. Nhưng mọi người còn say giấc nồng. Đôi mắt tôi chưa chịu khép lại, có lẽ tại bình trà xanh đã quyến rũ tôi uống hết ly này đến ly khác mà không để dành 3 giờ khuya thức chúng dậy uống. Tôi đành ngồi yên trên bàn làm việc cho đến khi tiếng chuông thức chúng vang vọng khắp núi đồi. 
Cả đêm tôi không chợt mắt chỉ để lắng nghe nhịp thở của cây rừng, của đóa hoa quỳnh dại quên chưa nở. Và trong lòng rất băn khoăn không biết ngày mai các bạn nhỏ hồi chiều hôm có lên gọi tôi đi hái sim không nữa. Không cần đợi đến trưa, buổi sáng khi hừng đông ló dạng qua khỏi ngọn tre làng mấy đứa nhỏ dưới làng đã đi tìm sư cô mắt kính nào đó để đi hái sim với chúng. Mấy em bé lên nhiều hơn hôm qua. Có lẽ khi về nhà chúng đã báo cho nhau về cuộc du hí qua quả đồi bên với ước muốn tìm được thật nhiều những trái sim chín thiệt bự. 
Tháng Bảy, mưa thiệt nhiều, dân gian thường kháo với nhau rằng: Rằm tháng Bảy ông Ngâu bà, Ngâu được gặp nhau và đoàn tụ trong chốc lát nên đã gây xúc động lòng trời vì vậy cho nên cứ vào tháng bảy là trời lại mưa dầm dề không ngớt. Suốt mùa Hạ tôi chỉ quanh quẩn bên những gốc sim mà quên đi việc chính của mình. Quên đi bổn phận của một người con Phật trong 3 tháng mùa hạ:                                        
         Đừng theo dấu quá khứ
 Hay khát vọng tương lai chưa đến
 Cái gì đã qua bỏ lại đằng sau
 Cái gì chưa đến thì chưa đạt được
 Và cái hiện tại
 Hãy dùng tuệ giác soi chiếu khi nó xảy đến
 (Lời Phật dạy)

 Mộc Lan

                    

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Cánh cò trở về

Con Cò 

Cái Cò Đi Đón Cơn Mưa

Album Cánh Cò Quê Hương 2 (Tân cổ)

Kết quả hình ảnh cho cánh cò và dòng sông

Giấc Mơ Cánh Cò 

Cánh Cò Cõng Nắng Cõng Mưa

Cò về bến cũ
Cò bay tìm đến phương nao,
Biệt mù bến cũ biết sao tìm về ?!
Xa rồi một thuở đam mê,
Cũng đành từ giã bến quê ân tình !
Tạ lời duyên nợ ba sinh,
Xin đền đáp bởi tấm tình trẻ thơ...
Cò về bến cũ chơ vơ,
Bên sông mẹ hết mong chờ người xa !!
Cánh cò bay lã bay la,
Bay tìm kỷ niệm tuổi hoa qua rồi....
Giờ con đã đến bên người,
Nụ cười thay nước mắt đời cạn khô !!
NM

Cánh cò trắng… về đâu? - Đà Nẵng Online

Cánh cò trở về

Ở bến Lường, có vợ chồng lão Nguyên làm nghề chở đò ngang, cả hai tuổi đã ngoài 50 nhưng không có con. Ngôi nhà của họ nằm cô độc trên doi đất đâm ra sông, xung quanh là những lũy tre già xanh biếc. Đấy cũng là nơi cư trú của lũ cò.
***
Về mùa hè, vào chiều tối cơ man nào cò bố, cò mẹ, cò con, với đủ màu sắc: Trắng phau như tuyết, đỏ hồng như lửa, vàng tươi như nắng... tới tấp bay về. Chúng chao liệng gọi nhau, cãi nhau, đánh nhau...náo động cả khúc sông như làng quê vào hội.
canh-co-tro-ve
Người ta kể rằng: Vợ lão Nguyên người làng kia sông. Thời con gái, cô nổi tiếng khắp vùng vì xinh đẹp, đảm đang; bao nhiêu con trai mê đắm, theo đuổi. Con đường đất dẫn vào ngõ nhà cô, cứ nhẫn thín như đá mài bởi đếm nào cũng có những tốp con trai tụ tập để chờ xem mặt cô và rồi chòng ghẹo tán tỉnh. Ong bướm dập dìu đến hai, ba năm; bỗng nhiên một sớm, cô chao cha mẹ, bước xuống thuyền hoa sang xóm Trại, lấy anh lái đò hiền lành, khỏe mạnh, đen như củ súng, kém cô ba tuổi, là lão Nguyên bây giờ.
Lại nghe kể, vợ chồng nhà ấy hồi trẻ làm khỏe, ăn khỏe và đẻ cũng khỏe. Người xóm Trại chứng kiến không dưới bảy lần, cảnh ông chồng lo lắng, thận trọng dìu chị vợ bụng chửa to vượt mặt, miệng nhăn nhó vì đau đớn, lần từng bước leo qua con đê cao, sang trạm hộ sinh của xã. Rồi cũng bằng con đường ấy, anh chồng chạy đi, chạy về như con thoi, ngã vấp dúi dụi, ôm nào chăn, màn xô, chậu, quần áo, tã lót...phục vụ vợ "vượt cạn".
Nhưng thật bất hạnh, những đứa con của họ sinh ra, trai có, gái có, lành lặn hẳn hoi, cũng chỉ sống trong vòng tay bố mẹ vài ngày đến vài tháng, lại mắc bệnh hiểm nghèo, lần lượt bỏ đi. Mẹ chúng đau đớn gào khóc, vật vã, chết đi sống lại bao lần. Chị kiệt sức, tàn tạ dần như trái mướp thui. Mới ngoài năm mươi tuổi, tóc bà Nguyên đã bac trắng, mặt nhăn nheo như quả táo khô, cặp vú teo tóp bám trên khuôn ngực gầy guộc; đôi mắt lá răm đã ngả màu đùng đục, nó chỉ sáng lên khi bà Nguyên nhìn thấy lũ trẻ con xóm Trại trần truồng, lấm láp đùa nghịch trên bãi cát bờ sông. Lúc ấy đôi gò má của bà chợt ửng hồng, đôi môi chúm lại run rẩy. Khát vọng làm mẹ của người đàn bà luống tuổi này còn cháy bỏng! Bà Nguyên thôi không làm công việc ruộng đồng, bà nhận lấy mái chèo, ngày ngày chở đò đưa khách sang ngang.
Ông Nguyên hiểu và thương vợ lắm, càng thương tính nết ông càng trầm. Cả ngày ông hùng hục làm, hết việc nhà đến việc đồng. Thậm chí, có việc tất cả đàn ông xóm Trại kiêng kỵ, là giặt quần áo cho vợ, ông cũng không từ. Vào tuổi năm mươi, quen lao động, lam lũ từ nhỏ, nên người ông chắc nịch như cây gỗ lim.
Dân xóm Trại ở bến Lường, ngoài trồng lúa, còn có nghề làm bánh chưng, họ làm quanh năm để bán. Bánh chưng có hai loại nhân ngọt và nhân mặn, chiếc bánh nho nhỏ vừa đủ một bữa ăn sáng, hay làm quà cho trẻ. Người ta ngâm gạo, đôc từ sáng; buổi chiều chọn thịt, rửa lá, tước lạt; chập tối gói và xếp vào nồi luộc; Mờ sáng, vớt, ép bánh rồi quẩy lên thị trấn Cẩm Giàng, bán cho các hàng ăn, các người bán quà rong ở ga, ở trên tàu hỏa tuyến Hà Nội-Hải Phòng.
Ông Nguyên gói bánh chưng rất tài. Nhiều gia đình trong xóm thuê ông gói. Cơm tối xong, ông mặc chiếc quần cộc, cởi trần, áo vắt vai sang nhà hàng xóm. Ông lấy khúc tre làm ghế ngồi, thoăn thoắt đặt lạt, xếp lá, xúc gạo, đỗ,... chỉ ước lượng bằng mắt,không cân đong- rồi gói. Nhanh lắm! Bánh ông gói, trăm cái như một, vuông thành sắc cạnh...đều tăm tắp.
Xong việc, ông lững thững theo triển đê về nhà. Bà vợ đợi ông trước hè, ngọn đèn dầu nhỏ, ấm nước vối nóng hãm lá chi chi ngọt lịm.
Hai người ngồi uống nước bên nhau, không ai nói gì, họ cùng im lặng nghe tiếng các gia đình nhà cò đang trò chuyện lao xao trên dặng tre quanh nhà. Gió mát rượi, thơm mùi bánh chưng đang chín. Khuya khuya, vợ chồng ông bà mới đi ngủ, họ nằm ở chiếc giường kê gian ngoài, sát cửa sổ nhìn xuống bến đò. Sớm mai, thoảng có bóng người dưới bến, bà Nguyên đã dậy, không để ai phải gọi. Ông Nguyên đặt mình xuống giường là ngáy, tiếng ngáy đứt đoạn, nhọc nhằn. Bà Nguyên phe phẩy quạt cho chồng, xót xa ngắm nhìn bờ vai, lồng ngực vạm vỡ của ông mờ mờ hiện trong đêm.
***
Cuộc sống của vợ chồng lão Nguyên vẫn cô quạnh như thế cho đến cuối hè. Năm ấy thời tiết khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, lại kéo dài. Con sông Lường nước đục ngầu, đầy ăm ắp. Bến đò phải dịch lên đến gốc cây sung già, đầu vườn nhà lão Nguyên. Giữa chiều, nắng xiên khoai gay gắt, không khí ngột ngạt oi bức. Bà Nguyên cắm đò dưới gốc cây sung, mắt hấp háy nhìn trời lẩm bẩm:
- Trời đất này, chiều tối thảo nào cũng có mưa giông! Có mưa mới ngủ được. Độ này ông lão hơi sọm. Khốn khổ! Suốt ngày đội nắng, chỉ có hai hàm răng là trắng!
Bà vốc nước sông rửa mặt, ngó mông sang bờ bên kia. Bên kia, sát bờ cát là gò đất cao như lưng con rùa khổng lồ. Trên gò có cây gạo già. Cây có từ bao giờ bà Nguyên không biết, ngày bà sang xóm Trại lấy chồng, đã thấy nó rồi. Cạnh cây gạo là con đường đất dẫn lên thị trấn Cẩm Giàng. Hai bên đường, cánh đồng mênh mông, vừa cấy kín lúa mùa sớm. Lúa đã bén rễ, đang nhú nõn xanh non. Xa nữa, là cánh đồng màu của thôn Nguyên Khê, những ruộng bí đao đã tàn chỉ còn trơ giàn. Xa nữa, mờ mờ trong nắng là lũy tre làng La chạy dài như bức thành, ở giữa có chỗ cao vượt lên mâm xôi, hình như đó là cây đa cạnh sân đình làng. Bà Nguyên sinh ra và lớn lên ở làng La. Mấy năm nay bà không về quê, cha mẹ già đã chết, người em gái cũng đã lấy chồng. Dì ấy đông con, chồng lại bệnh tật, nên quanh năm làm ăn vất vả vẫn đói, vẫn rách. Nơi ấy bà có một người thân thiết, ngày xưa họ đã từng yêu thương nhau, thề thốt nặng lời. Bà đã trao cho ông ấy cái quý giá nhất của người con gái. Nhưng cha mẹ bà không bằng lòng để bà lấy ông, chê nhà ông nghèo. Ông phẫn chí bỏ đi. Bà đau đớn, ê chề, bị cha mẹ ép buộc, đành nhắm mắt sang sông ấy chồng. Nghe nói, sau đó ít lâu người ấy trở về làng. Biết bà đã lấy chồng, ông đi biệt tăm.
Miên man nghĩ, bà Nguyên không hay bên kia sông có tiếng gọi đò; tiếng gọi rụt rè , như da diết:
- Đò...ơ...ơ...ơi! Cho tôi sang với!
Bà Nguyên vội vàng đưa đò sang sông. Khách xuống đò là phụ nữ, dáng mệt mỏi, bộ quần áo cũ loang lổ mồ hôi và bụi. Không nhìn rõ mặt, bởi khách chít một tấm khăn den to, chiếc nón trắng úp sùm sụp trên đầu. Song, ngắm vòng eo nhỏ nhắn, đôi vai tròn và hai bàn tay thon thả rám nắng, bà Nguyên đoán khách là người còn son rỗi và có nhan sắc.
Khách ý tứ ngồi xuống giữa khoang đò, lơ đãng nhìn những xoáy nước nhỏ, tròn xoe hình thành ở những đầu mái chèo đang đuổi nhau chạy ra xa, mất hút trên mặt sông. Hình như đôi mắt của khách loáng nước. Khách kín đáo thờ dài.
Con đò lướt ra giữa sông. Gió đã nổi, khối mây đen ở phía tây lúc nãy, giờ phình to che hết mặt trời, mặt sông Lường chuyển sang màu xám. Bầy cò nối nhau đáp xuống ngọn tre, đôi cánh chấp chới như những mảnh nắng cuối cùng của ban ngày.
Bà Nguyên ái ngại nhìn trời, nhìn khách:
- Em về Nguyễn à?
- Vâng!
- Còn xa đấy! Bốn năm cây số, chả ít đâu!
- Vâng!
- Sao đi muộn thế em?
Không có tiếng trả lời
- Trời tối, lại sắp có mưa to! Khốn khổ! Thân gái một mình...
Khách lơ đãng trả lời, hai bàn tay up vào nhau đặt trên gói quần áo, cô dửng dưng với cảnh vật xung quanh, dửng dưng với cả chuyến đi của mình. Linh cảm của người phụ nữ mách bảo cho bà Nguyên biết: Người đàn bà này đang có hoàn cảnh éo le, u uất lắm, có lẽ cô đang bơ vơ, không nơi nương tựa. Bà thấy thương cô, muốn đưa tay ra giúp đỡ cô.
Mũi đò chạm bờ, bà Nguyên cởi chão buộc con đò vào gốc sung. Rồi không đợi khách có bằng lòng hay không, bà cầm túi quần áo của cô nói dứt khoát:
- Em ơi! Nghe chị bảo: Em vào nhà chị nghỉ đã, mai hãy đi. Em đừng ngại. Nhà chị kia, chỉ có hai vợ chồng già. Nào ! đứng dậy, đi cùng chị. Nhanh lên, kẻo mưa ướt hết bây giờ.
Sau câu nói của bả, mưa ào ào trút xuống như thác đổ. Hai người đàn bà dắt tay nhau líu díu chạy qua khu vườn.
Đêm ấy, ông Nguyên ngủ một mình ở gian ngoài. Bà Nguyên và khách nằm trong buồng. Chiếc giường để không từ khi đứa con sau cùng bỏ đi, nay lại ấm hơi người. Chắc bị mệt, khách trằn trọc một lát rồi ngủ, mái tóc rất đen, rất dài chảy xõa trên gối, tràn lên cả ngực, lên mặt bà Nguyên! Bà thảng thốt: Mái tóc này giống hệt tóc bà ngày xưa, cũng có mùi lá sả thơm mát. Suốt đêm bà Nguyên thao thức, bao kỷ niệm thời con gái ùa về.
***
Sáng hôm sau, khách không đi được. Bà Nguyên dậy chở hai chuyến đò đưa cánh bán bánh chưng đi chợ sớm, về nhà thấy khách vẫn nằm co quắp trên giường, trán nóng như lửa, còn chân tay lạnh giá
- Cứ nói rằng tôi bị cảm ông nhá. Mà phải nhanh nhanh lên!
Ông đi, bà lục hòm quần áo cũ tìm đồng bạc trắng, luộc trứng gà, đánh cảm cho khách. Bà loay hoay dặt khách nằm ngửa, búi gọn tóc, nới khuy áo cổ: Trời đất ơi! Khách đẹp quá: khuôn mặt trái xoan hồng hồng, mắt lá răm khép rợp rặng mi cong. Sống mũi thẳng và cao, cặp môi mọng đỏ như thoa son. Khách thở khó nhọc, vệt gân xanh nổi rõ trên cổ trắng ngần.Bà Nguyên nhẹ nhàng xoa mồi đánh cảm trên mặt khách, như sợ làm đau khuôn mặt kiều diễm. Chợt bà dừng tay khi chạm vào đôi mày nhỏ và dài của khách. Sao nó cứng và thưa thế! Chẳng lẽ... bà khép bơt cửa buồng, lén lút cởi hàng khuy áo của khách. Một khuôn ngực như ngọc, như ngà lồ lộ hiện ra. Chiếc ức đầy đặn mịn màng, hai bầu vú căng tròn, trắng hồng... Nhưng núm vú hơi to đã chuyển màu thâm thâm.
Bà Nguyên run hết cả người, vội vàng cài kín các cúc áo, lại kéo thêm tấm chăn đắp cho khách, rồi bà cứ thế ngồi lặng đi ngắm người khách đang sốt mê man. Cô ta xinh đẹp thật, nhưng không trẻ như bà hồi ấy. – Bà đoán cô khoảng hai nhăm hai bảy tuổi – Chắc cô chưa có chồng, lại "già kén kẹn hom" đây! Cô trót dại với ai để đến nông nỗi này? Người ấy sao không che chở, yêu thương cô, để cô một thân một mình, bụng mang dạ chửa phiêu bạt đến đây? Nay lại ốm đau!.. Nếu như không gặp được vợ chồng ông bà, cô sẽ ra sao? Có phải cô cũng như bà ngày xưa: bị sỉ nhục, bị lừa dối và thúc ép đành nhắm mắt đưa chân, tìm nơi nương tựa? Đời bà may mắn gặp được ông Nguyên. Còn cô... bà Nguyên lo sợ, không dám nghĩ tiếp.
***
Trận ốm đột ngột đã giữ cô Hòa – tên người khách, sau này cô nói với bà Nguyên - ở lại xóm Trại hơn tháng trời. Những ngày đầu, cô hết sốt nóng, lại sốt rét, nằm mê mệt không ăn uống gì. Thỉnh thoảng cô chợt tỉnh. Tỉnh lại khóc rấm rứt hay nói những câu không đâu vào đâu. Vợ chồng ông Nguyên tận tình chăm sóc cô như người ruột thịt. Nhất là bà Nguyên, bà thức trắng đêm xoa bóp, đánh cảm hoặc canh cho cô ngủ, bà lo lắng dõi từng nhịp thở, từng cơn ho của cô. Xâu chuỗi những lời nói mê của cô, bà lờ mờ hiểu ra tất cả. Càng hiểu, càng thương và chăm sóc cô hơn. Liều thuốc mua về, bà cất đi "phụ nữ có mang không dùng những thứ này" bà lọ mọ đi kiếm các cây lá, thuốc nam cho cô uống.
Khỏi sốt, cô Hòa gầy và xanh lắm, suốt ngày cô ngồi thu lu trong buồng, mặt buồn rười rượi. Ông Nguyên vác chài đi đánh cá, chọn những con cá chép còn tươi rói nấu cháo, nấu canh chua cho cô ăn. Bà Nguyên bắt cô nghỉ ngơi, không cho làm gì, kể cả giặt giũ quần áo của mình. Vất và, bận bịu...nhưng vợ chồng ông Nguyên lại vui vẻ. Tự lúc nào, người phụ nữ xa lạ kia trở nên gắn bó thân thiết với vợ chồng ông.
Một buổi tối, sau khi hoàn toàn bình phục, cô Hòa xin phép được thưa chuyện với vợ chồng ông Nguyên. Cô mời ông bà ngồi trên giường, còn mình ngồi dưới chân họ. Cô nghẹn ngào:
- Công lao của anh chị đối với em như trời bể, em không biết đến bao giờ mới đền đáp được. Xin phép anh chị cho em được vái anh chị ba vái.
Cô sụp xuống vái đúng ba lần.
Ông Nguyên vội vàng đỡ cô đứng dậy. Vốn tính thương người ông không đành lòng, nhìn người khác đau khổ, van xin. Nhất là đối với phụ nữ. Ông bỏ ra ngoài, để mặc hai người đàn bả nỉ non tâm sự. Khá lâu bà Nguyên mới hỏi:
- Thế bây giờ em tính thế nà?
- Thưa chị, em định sang thị xã Hưng Yên, tìm một người họ xa của mẹ em, ở đó em kiếm việc làm tự nuôi mình.
- Có chắc em tìm được không?
- Cũng chưa biết chị ạ. Nhưng hoàn cảnh của em bây giờ nó...khó lắm, đành liều.
Bà Nguyên đắn đo một lát rồi chậm rãi nói như bảo ban đứa em mình.
- Em ạ, hoàn cảnh của em, em không nói chị cũng đã biết. Chị cũng trải qua như thế. Theo chị, bây giờ em chưa khỏe hẳn, lại trong thời kỳ phải giữ gìn. Nhà chị ở đây vắng vẻ, neo đơn. Anh chị đều thương quý em. Vì thế, em không ngại cứ ở lại. Khi nào mẹ tròn con vuông, em muốn đi hoặc ở với anh chị tùy em. Chị nói thật, sau này chị coi con em như con của anh chị. Hãy tin chị...Thôi! Nín đi em! Ta đi ngủ, khuya rồi!
Đợi khách ngủ yên, bà Nguyên rón rén trở dậy, bà có việc hệ trọng cần bàn với chồng. Định gọi, không ngờ ông vẫn thức. Hai người thì thào rất lâu. Có điều gì đó, ông chưa ưng, bà cười, khẻ vỗ vai chồng:
- Ông rõ lạ! Người thiệt là tôi chứ đâu phải ông?
***
Dân xóm Trại ít, nhà ở cách xa nhau, lại không có tính soi mói, nên việc nhà ông Nguyên có thêm một người cũng không ai quan tâm. Ai đó vô tình hỏi, bà Nguyên nói đó là ngươi em họ xa, gia đình dì ấy chẳng còn ai, nên sang ở với anh chị cho vui. Người nghe tin ngay. Ừ! Chị em "lọt sàng xuống nia". Hơn nữa, hoàn cảnh ông bà Nguyên như thế, cô emk ở với là tốt lắm, thôi thì con em cũng là con chị. Mà có lẽ thật, vì bụng cô em đã thấy lùm lùm. Mấy ông bạn thợ cày thì đùa:
- Lão Nguyên giỏi!" Mía ngọt đánh carb cụm". Ông nợ bọn này một bữa rượu đấy nhá!
Ông Nguyên cứ lặng thinh...
Qua Tết, sang đầu mùa hè, dì Hòa trở dạ. Bà Nguyên không để chồng dẫn dì đến trạm hộ sinh của xã, bà tự tay đỡ cho dì. Mọi việc tốt đẹp, dì Hòa sinh đôi, hai đưa con gái, ông Nguyên đặt tên cho chúng là con Vân, con Vi.
Hai đứa trẻ hay ăn chóng lớn, lại được ba người lớn chăm sóc, nên chúng rất khỏe mạnh. Đúng "ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi". Đặc biệt chúng giống nhau như hai giọt nước. Cũng da trắng như trứng gà bóc, mắt đen lay láy, chân tay mũm mĩm, hồng hào. Trừ người trong nhà, đố ai biết được đứa nào là chị, đứa nào là em? Bắt chước mẹ Nguyên, chúng gọi ông Nguyên là bố, gọi cả bà Nguyên và dì Hòa là mẹ. Xem ra nó quý mẹ Nguyên hơn, suốt ngày, hai đứa đeo vào sườn mẹ. Có lần khách gọi đò, dì Hòa phải thay mẹ Nguyên cầm chèo.
Cả nhà ai cũng yêu chúng, có thú gì cũng để phần và chia đều cho hai đứa. Nghe bố mẹ gọi: "Cái Vân , cái Vi đâu?" Hai đứa khoanh tay, cúi đầu, dạ rõ to, rồi chạy lại cười ròn khanh khách. Một tối bà Nguyên bảo:
- Trong buồng bức lắm, rôm sẩy mọc đầy người các con đây này! Từ rày, Vân Vi ngủ với mẹ Nguyên ở gian ngoài. Bố Nguyên vào gian buồng mà ngủ.
Dì Hòa cúi mặt vuốt tóc hai con. Ông Nguyên khoác chiếc áo lên vai, không nói gì, ông sang hàng xóm gói bánh chưng thuê.
Ông Nguyên trở về đêm đã khuya. Trên chiếc giường gian ngoài bà Nguyên và hai đứa trẻ đã ngủ. Cái Vân, cái Vi mỗi đứa gối một cánh tay, còn chân gác chéo lên bụng mẹ; trông như hai trái bí mập mạp bám vào thân cây già. Cửa buồng khép hờ.
Ông Nguyên ngồi xuống hè. Trăng mười sáu tròn vành vạnh như chiếc đĩa bạc treo giữa trời cao, trong veo. Gió chạy trên ngọn tre xáo xạc. Tiếng con vạc đi ăn đêm gọi bạn rơi vào trong sương. Yên tĩnh quá, nghe rõ tiếng nước sông Lường đang chảy, nhẹ nhàng vợt lên bờ cát. Một bàn tay mềm mại đặt lên vai ông. Không quay lại, ông cũng biết đấy là dì Hòa.
- Vào buồng ngủ đi anh! Đừng làm chị Nguyên buồn, tội nghiệp! Không có chuyện gì đâu, anh chớ ngại!
***
Một năm sau đêm ấy, dì Hòa bỏ đi, dì mang theo cái Vân, nó vừa trong ba tuổi. Buổi tối lúc đi ngủ dì Hòa rủ cái Vi:
- Vi vào ngủ với mẹ; mai mẹ mua cho cái bánh chưng to nhé!
- Ứ thèm ngủ với mẹ Hòa! Cái Vi chẩu môi lắc đầu – Vi ngủ với mẹ Nguyên cơ!
- Thế Vân vậy, ngoan nào mẹ yêu!
Cái Vân phụng phịu, nó ngủ với mẹ Nguyên quen rồi, mẹ hay xoa lưng cho chị em nó; thích lắm! Nhưng mẹ Hòa đã cầm tay nó dắt vào buồng. Nó nhấm nhẳn:
- Vi được ngủ cả với Mẹ Nguyên! Mai phải đền Vân đấy!
Sáng dậy, bà Nguyên hoàn toàn bất ngờ. Sao dì ấy lại ra đi vào lúc này! Cuộc đời của dì đang yên ổn, hạnh phúc cơ mà? Này nhé, sinh nở mẹ tròn con vuông, không điều tiếng gì. Này nhé, con cái khỏe mạnh, xinh đẹp lại được chồng yêu – dì chả đã ăn ở với ông Nguyên cả năm nay rồi đấy ư? Ông Nguyên cũng hợp với dì, họ chưa bao giờ to tiếng, giận dỗi nhau. Càng nghĩ bà lại càng giận dì Hòa. Con người trông xinh đẹp như thế mà bạc nghĩa! Bà đã mở rộng lòng đón dì, chăm sóc khi ốm đau, khi sinh nở, đỡ đần khi con thơ,con mọn. Bà nhường cả hạnh phúc làm vợ cho dì. Dì có biết, nhiều đêm bà không ngủ, miệng cắn vào tay để khỏi bật khóc? Dì còn mang cả con Vân đi. Nó còn nhỏ, có tội tình gì, mà phải chịu đựng chung vất vả với dì, lênh đênh góc bể, chân trời! Thương con Vân quá, bà cầu mong cho dì Hòa nghĩ lại, mẹ con sớm quay về với bà, bà sẽ xí xóa mọi chuyện.
Chỉ riêng ông Nguyê biết lý do dì Hòa ra đi. Biết từ ngay cái đêm dì dắt tay ông vào ngủ trong buồng. Dì khác hẳn vợ chồng ông, dì xinh đẹp, mạnh mẽ khát khao hạnh phúc thật sự do chính mình tìm được, không phải do ép buộc hay gán ghép. Cuộc đời dì đã một lần lầm lỡ, dì không bao giờ lặp lại, dù biết sẽ vất vả, khó khăn bội phần. Dì quý trọng, biết ơn vợ chồng ông. Nhưng không yêu ông, không chấp nhận sự sắp đặt của bà. Để cuộc đời mình trôi xuôi.
Lúc dì đi, ông thức, nhưng giả vở ngủ, ông không dám giữ. Ông lo sợ dì mang theo cả các con. Dì có quyền làm thế, vì chúng là con riêng của dì. Song là người phụ nữ nhân hậu, dì đã đền ơn, trả nghĩa vợ chồng ông bằng chính giọt máu yêu quý của mình. Ông hiểu dì còn ở lại nhà ông đến tận bây giờ là để chờ con cứng cáp mới giao lại cho vợ chồng ông. Ông biết ơn dì và tin người phụ nữ ấy sẽ tìm thấy hạnh phúc tốt đẹp cho mình, cho con.
***
Năm tháng qua đi. Thấm thoát con Vi đã 11 tuổi, nó học trường làng Nguyên Khê. Tuy cách sông nhưng trường lại rất gần. Đứng ở bến Lường, nhìn rõ lá cờ bay trên mái trường lớp ngói, nghe rõ tiếng trống vào lớp, tan trường hàng buổi. Sáng sáng con Vi đeo cặp sách, đội nón cùng mẹ xuống đò sang ngang, rồi đến lớp. Tầm trưa, những người bán bánh chưng trở về, cũng là lúc cái Vi tan lớp, nó lại lên đò về nhà.
Cái Vi càng lớn càng xinh đẹp và ngoan ngoãn, bố mẹ quý nó lắm, gia đình sống hạnh phúc, những mất mát đau buồn dần dần mọi người quên đi, họ nghĩ nhiều về tương lai. Song, tai họa thảm khốc nhất lại đổ xuống đầu họ.
Đó là hôm cái Vi tan học sớm. Biết giờ này mẹ chưa đưa đò sang đón, nó thơ thẩn đi theo những bờ ruộng tìm bắt châu chấu, cào cào để chiều về thả cho cò ăn. Độ ấy lúa đang đỏ đuôi, cả cánh đồng một màu vàng óng. Những bông lúa trĩu hạt uốn cong quyệt vào người cái Vi. Chiếc nón trắng nhấp nhô, chìm nổi giữa biển lúa mênh mông.
Mải chơi, cái Vi không biết đầy trời mây đen đang vần vũ. Ngay trên đầu nó, vắt qua con sông là chiếc cầu vồng bảy màu rực rỡ; Sau lưng nó, phía làng La mưa đã giăng mờ mịt. Cái Vi vội chạy tới gốc cây gao cổ thụ tránh mưa, chờ mẹ.
Bà Nguyên đã nhìn thấy con, bà quay đò sang sông. Gió to quá, thổi thốc vào ngực bà đến tức thở, cánh tay nhức nhối, bà phải lấy cả thân người để giữ mái chèo, lựa từng con sóng, đẩy đò đi. Chợt một quả cầu lửa khổng lồ, chói sáng đến nhức mắt, bừng lên phía bờ sông, kèm theo nó là tiếng nổ dữ dội, long trời lở đất, không gian khét lẹt mùi lửa cháy. Chớp mắt cây gạo cổ thụ bị chẻ toác, cháy đùng đùng như bó đuốc. Cả vùng lúa quanh gốc cây đổ rạp... Không kịp chờ mũi đò chạm bờ, bà Nguyên nhảy ào xuống nước, chạy về phía cây cháy. Tới chân gò đất bà vấp ngã. Không đủ sức đứng dậy, bà cuống quýt cào hai tay vào nền đất còn nóng, bò đến chỗ con Vi. Con Vi đây rồi! Nó nằm nghiêng, khuôn mặt còn nguyên vẹn, nhưng bạc như vôi; Cặp sách, chiếc nón bay đâu mất. Nửa thân người phía dưới cháy đen. Bà Nguyên ôm con, hét lên một tiếng rồi ngất đi.
Ông Nguyên cùng mấy ông bạn thợ cày đi chôn cất con Vi. Vợ ông đang được bà con trong xóm đưa về cấp cứu ở trạm y tế xã. Bà vẫn mê man bất tỉnh. Ông để mộ con ngay trên gò đất cây gạo cũ, nơi thường đứng chờ mẹ những buổi tan trường. Vừa đắp mộ cho con, ông vừa khóc, nước mắt ướt đãm khuôn mặt đầy nếp nhăn. Từ nay đứa con gái yêu quý của ông bà, sẽ nằm lại ở đây lạnh lẽo một mình. Ông bà không còn được nghe con nói, con cười, con gọi bố mẹ. Con ơi! Oan trái quá...! Con nằm xuống khi còn bé dại, khi chưa gặp lại người mẹ khốn khổ đã sinh ra con. Bố mẹ có lỗi khi không giữ được con, nuôi dưỡng con trưởng thành...
Tiếng sét đánh xuống cây gạo bên sông còn làm cho lũ cò trú ngụ trên lũy tre nhà lão Nguyên kinh động. Suốt buổi chiều, chúng nháo nhác bay lên đậu xuống. Đến tối, chúng kéo nhau bay đi hết. Trên ngọn tre chỉ còn lủng lẳng những chiếc tổ rỗng không. Mấy hôm sau, gió to, ném nốt chúng xuống sông Lường.
***
Bảy tám năm nữa đi qua...
Vùng quê hai bên sông Lường đã thay đổi nhiều, đồng ruộng lúa cấy ba vụ, làng xóm nhà ngói san sát; cuộc sống ấm no vui vẻ. Bến Lường vẫn còn đò ngang, lái đò là lão Nguyên, ông đã gần 70 tuổi, nhưng gân cốt còn vững, tay khoát chèo vẫn mềm mại. Khách qua sông bây giờ ít hơn,nhất là cánh bán bánh chưng. Nguyên do, có vài kẻ lừa đảo – chúng không phải ngườ xóm Trại – làm bánh chưng nhân bằng đất bán cho khách lấy tiền. Khách bị lừa một lần, hai lần vừa đói, vừa bực, bảo nhau không ăn bánh chưng nữa, họ ăn bánh mì, thứ này bán đầy ở gà Cẩm Giàng.
Bà Nguyên đã già, lại lẩn thẩn, thấy ai gọi đò, đều bảo đấy là cái Vi, dục chồng sang đón. Bà thường ngồi một minh nơi gốc sung già, ngó sang gò đất bên sông chờ đợi.
***
Một sáng mùa xuân
Có cô gái trẻ đứng bên kia sông gọi đò. Cô mặc chiếc áo sơ mi màu hồng may chít li, ôm sát cơ thể thanh xuân, thon thả, chiếc quần Âu màu sáng, chân đi dép nhựa trắng. Sau lưng, đeo chiếc ba lô nhỏ, mái tóc đen như mun, rất sài kết thành đuôi sam dài tận kheo chân. Hình như có gì vui mà cặp môi đỏ thắm, đôi mắt đen lóng lánh như cười. Lúc ấy trời rất cao và trong. Vầng dương đang lên. Mặt nước sông Lường phía bên kia rực rỡ như vàng chảy, phía bên này, dưới bóng tre lại xanh biếc. Gió ấm áp thổi trên đồng lúa đang thì con gái, lá ướt sương lấp lánh tạo nên những con sóng nhấp nhô, kéo dài ra xa tít. Cô gái không gọi đò, mà kiễng cả hai chân cầm nón vẫy vẫy.
Ông Nguyên cho đò sát vào bờ cát đón khách.
- Bố ơi! Con chào bố!
Giọng nói rất quen, âu yếm vang lên bên tai ông. Ông Nguyên lặng đi, sững sờ. Trước mắt ông là cái Vi. Đúng cái Vi, đứa con gái yêu quý xấu số của ông. Đúng rồi, khuôn mặt ấy, nụ cười ấy...gợi nhớ về người đàn bà ngày xưa.
- Bố! Cô gái áo hồng nũng nịu. Cô bước tới cạnh ông, nắm đôi bàn tay gân guốc. Bố không nhận ra con à? Con là Vân đây ạ!
Ông Nguyên ngỡ mình đang mơ. Bàn tay con đang nắm tay ông, khuôn mặt con sát mặt ông, ông vẫn chưa dám tin. Ông buông rơi mái chèo, dụi mắt lẩm bẩm:
- Con Vân đấy ư? Đúng rồi!... Vân Vi của bố...
Cô Vân đỡ bố ngồi xuống lòng đò, cầm lấy mái chèo, khoan thai đưa đò sang sông, hướng về gốc cây sung già.
Đò cập bến. Cô nhảy lên bờ ôm lấy bà Nguyên. Linh cảm kỳ lạ của người mẹ, khiến bà Nguyên nhận ngay ra con mình. Bà bám vào vai con gái, mái đầu bạc trắng đổ vào ngực cô. Bà khóc, nhưng không thành tiếng, tấm thân gầy cứ run lên từng đợt rất mạnh, như người bị nấy
Cô Vân xoa lưng mẹ nói dịu dàng:
- Mẹ! mẹ nghe con nói đã! Dì Hòa bảo nay con đã lớn, dì Hòa cho con về ở hẳn với bố mẹ. Bây giờ gia đình mình sẽ mãi mãi sống bên nhau, con sẽ chăm sóc bố mẹ. Dì Hòa khỏe, dì bảo nhớ bố mẹ lắm.
***
Cũng sáng xuân ấy. Những người chờ đò dưới bến, bỗng nghe có tiếng quạt gió rất mạnh trên cao. Nhìn lên, họ thấy mấy cặp vợ chồng nhà cò đang đáp xuống lũy tre nhà lão Nguyên. Có con mỏ ngậm những cọng rơm vàng.
- Cò lại về làm tổ ở đây rồi. Năm nay làng mình làm ăn chắc thuận lắm.
Bùi Quang Nhự
nh, tổ, động vật, cò, hoang dã, chim, chuyến bay, thiên nhiên
Hình Ảnh Con Cò Đẹp, Ý Nghĩa Biểu Tượng Về Người Phụ Nữ
Con Cò Trắng 
Cánh Cò Và Dòng Sông
Thương cò bé bỏng lạc loài,
Không nơi nương tựa tháng ngày bơ vơ...!
Chăm cò trong cả giấc mơ,
Mong cho mau lớn chờ giờ bay cao...
Thời gian rồi cũng qua mau,
Dẫu bay xa vẫn nhớ đâu là nhà ?
NM
 
vườn chim
CÒ GÀ
– Dậy mau, Cọt !  Gió quá !  Tao e cò con lộn cổ xuống đất hết trọi rồi ! 
Thằng Cọt nghe lơ mơ ông Tư Cò gọi, nhưng không sao ngồi dậy được bởi nó đang bơi trong một biển nước đục ngầu, lạnh ngắt …  Tứ bề nước.  Nó thấy cánh tay mẹ nó chới với giơ lên tuyệt vọng rồi bị nước nuốt chửng.  Nó thấy em nó trôi phăng phăng như một chiếc lá …  Nó hét lên, nhưng nước tràn ngay vào miệng thành tiếng ú ớ … 
– Khổ thân thằng bé, lại mơ thấy lụt nữa rồi !  Này Cọt, mày ở trên giường, còn sống nhăn răng đây nè !  Dậy đi cứu cò con 
Ông Tư lay mạnh.  Lần này thì ông kéo được thằng bé ra khỏi giấc mơ.  Má nó đầm đìa nước mắt, tay chân lạnh ngắt như dầm trong nước.  Nằm trong chăn, nó vẫn bị cái lạnh tận tiềm thức ấy bám riết không buông tha.  Vào giường là thằng bé lại sợ nằm mơ.  Nước lũ cứ lạnh lùng, chì chiết dâng ngập giấc mơ dìm mấy mẹ con nó trong làn nước lạnh cóng, đục ngầu. 
– Cứ học ông Tư mày đây nè !  Ngay cả khi ngủ gặp chuyện kinh khủng là lái giấc mơ  bay qua cái vèo 
– Giấc mơ mà lái
– Chứ sao !  Có lần tao mơ thấy bị kẹt trong một đám cháy ở rừng tràm.  “Cháy luộc” chứ chẳng chơi !  Lửa bén nhanh vào lớp bổi, lan nhanh như chớp, lá non, cành cây còn bị luộc chín huống chi con người.  Thế là tao bình tĩnh điều khiển giấc mơ,  bay qua đám cháy, hạ cánh an toàn trên giường  
– Ông Tư nói dóc 
– Không dóc sao con cháu bác Ba Phi mậy ?  Bây giờ, người ta lái giấc mơ bay vèo vèo trên đường phố.  Tau tính sắm một cái bay giựt le trên bờ ruộng
– Bay xuống lạch luôn !  Thằng Cọt bật cười. 
Ông Tư Cò quả có tài lái nó bay qua giấc mơ kinh khủng.  Ông không những cứu nó thoát chết mà còn bao lần kéo nó ra khỏi giấc mơ màu nước bạc 
– Cầm đèn pin ra vườn coi!  Tao nhóm lửa rồi!  Chuẩn bị băng bó sưởi ấm cho tụi hắn. Trự nào nghẻo thành món cò vùi luôn! 
Vườn ông Tư không rộng, không đẹp nhất vùng, nhưng lại được lũ chim cò chọn làm nơi trú ngụ.  Nhiều nhất là cò trắng.  Ngày chúng bay đi kiếm ăn, đêm về ngủ trong vườn 
Thằng Cọt thích ngắm cảnh cò về.  Bầu trời dường như xôn xao bởi vô số chấm li ti xuất hiện, rồi rõ dần những dáng hình mảnh mai lả lướt chao lượn trong vũ điệu hạ cánh tuyệt vời.  Phút chốc,  vườn rung lên trong bản hoà âm điền dã, các cành cây như đồng loạt đơm hoa, rợp trắng thân cò.   Trông đông đúc hỗn độn thế nhưng ông Tư bảo chúng không “lộn nhà” của nhau bao giờ.  
Đầu mùa mưa, cò đẻ nhiều vô kể.  Ông Tư có thể khá hơn nếu bắt cò con bán.  Nhưng ông bảo cò cũng biết “chọn mặt gửi vàng.”  Làm thế khác chi phụ lòng tin của chúng.  Bán ít trứng thì được, bởi chúng đẻ mỗi năm mấy bận, không bán bớt e không còn chỗ cho chúng đậu.  Mà tiền nhiều làm gì ?  Bần cùng sinh đạo tặc, phú quý  sinh … đủ thứ!  “Như tao đây là khoẻ.”  Ông già chịu chơi nhấm nhấm bộ ria hoa râm, kết luận.  Một già, một trẻ, thế mà hợp tính nhau.  Hay đùa, hay dỗi, hay thích ăn vặt, nghe băng cải lương, yêu lũ chim cò … 
Đến kỳ sinh sản, vườn ông Tư trở thành bệnh viện của chúng.  “Sản phụ” tấp nập, “khoa nhi” bận rộn.  Thằng Cọt là một bác sĩ phụ tá mát tay.  Ngững chú cò con bị rơi khỏi tổ đến tay nó thường là được sống.  Nó chăm như chăm con nít.  Mà chúng cũng là con nít cò đấy thôi.  Bé bỏng, hồn nhiên, dễ thương như thằng Còng em nó … 
Nghĩ đến em, cổ họng nó thắt lại.  Chiều ấy, khi chèo xuồng lên Ủy ban nhận hàng cứu trợ, mẹ đã dặn nó nhớ cột chân em vào chõng tre trước khi ngủ để khỏi lăn xuống nước.  Thế mà ham giành ăn “tưởng tượng” với em, nó đã quên …  Cũng tại thằng Còng biết mẹ đi nhận hàng cứu trợ, cứ nôn nóng, cái miệng không yên. 
– Họ có cho cái gói đổ nước vào là thành tô mì không anh ?
– Có.  Cả thùng 30 gói lận.  Nhà thím Ba không còn nóc, không còn giường, được hai thùng.
– Nhưng nhà mình còn nóc, còn cả giường !  Thằng Còng nhìn lên nóc nhà tiếc rẻ, rồi hỏi tiếp :
– Thế má sắp về chưa ?
– Lâu lắm.  Phải sắp hàng chờ gọi tên nghe mậy.  Tao nghe thím Ba kể.  Có khi mai mới dzìa tới nơi.  Mênh mông nước, tối thui mù !  Tao lo má rớt xuống nước !
– Nhưng má có xuồng chú Tám cho mượn mà !  Em đói bụng quá trời nè !  Thằng Còng xoa xoa cái bụng, nuốt ực nước bọt rồi xoè tay, loay hoay chia phần những gói mì tưởng tượng.  Nó đếm từng ngón, từng lóng tay rồi rành rọt 

– Má đi mệt, phần má 4 ngón.  Em 3 ngón, anh 3 ngón.  Còn lại …
– Lỡ họ cho 10 gói thì sao mậy ?
– Thì má vẫn 4 gói, em 3 gói, anh 3 gói.
– Thôi đừng nhắc nữa, sốt cả ruột.  Nằm xuống tao cột chân vào giường, mở mắt ra là thấy 30 gói mì !
– Đợi em ăn khô một gói, giống như lâ”n thím Ba cho mình.
– Đã có đâu mà ăn khô với ăn nước.  Cái thằng !
– Nhưng thèm quá ngủ hổng được.  Aên giả đò mà !  Xé bì ra.  Còn cái gói thơm ngát này tính sao ?
– Mỗi đứa mút một miếng.
– Vụn mì cho em.  Thằng Còng dốc cái bao tưởng tượng ra lòng bàn tay.
– Chia hai!  Thằng Cọt hùng hổ giật “cái bao.”
 

Nhớ đến đó, thằng Cọt ngồi sụp xuống bên bụi tre, ôm mặt khóc oà.  Mưa quất vào mặt nó như tát.  Trời phạt nó mất mẹ mất em là phải.  Đến mấy vụn mì tưởng tượng mà nó cũng không chịu nhường em.  Giá nó biết em nó ra đi không kịp ăn được một gói mì cứu trợ, nó đã cho thằng Còng hết cả “3 ngón tay” phần mình cho em sướng.   Về sau , để an ủi nỗi đau, người ta cho nó cả mấy thùng mì, nhưng nó không ăn gói nào cả.  Cầm lên là quặn ruột quặn gan … 
Đang khóc, nó bỗng nghe tiếng cò con rơi lịch bịch.  Gạt nước mắt, thằng Cọt lom khom rọi đèn pin, săm soi tìm.  Nếu đêm ấy nó cũng nghe tiếng rơi “tỏm” xuống nước như nghe tiếng rơi “bịch” xuống đất này nhỉ !  Khi thức giấc, ngỡ thấy một thùng mì gói trên giường thì nó chỉ thấy trống không.  Quờ tay không thấy thằng Còng.  Thắp đèn lên chỉ thấy nước mênh mông.  Sợ quá, nó vừa khóc vừa gào gọi em.  Đáp trả nó chỉ có tiếng nước chảy.  Hoảng loạn, thằng Cọt nhào đại xuống nước bơi ra khỏi cái chòi bánh ú.  Nước cuốn nó tấp vào nơi ông Tư đang soi bắt rắn.  Còn má nó … sau này ông Tư đoán có lẽ trả xuồng xong, về nhà không thấy hai anh em nó trên giường, đã nhảy ùm xuống nước bơi tìm.  Nước và đêm nuốt chửng má, nhưng những gói mì thì không.  Chúng bập bềnh lang thang trên nước.  
Đêm ấy cả hai ông cháu cứu vài chục cò con.  Những con may mắn bị thương nhẹ được ủ ấm đợi sáng đặt lại vào tổ.  Tụi cò thương binh nặng thì nằm lại khoa nhi của bác sĩ Cọt.  Mấy mống gãy cổ vô phương cứu chữa, ơng Tư quẳng xuống ao cho cá. 
Sáng hôm sau, đi nhặt cá tươi cò tha về rớt trong vườn đút cho cò thương binh ăn, thằng Cọt phát hiện trên lớp lá ẩm ướt một chú cò con đang bị kiến vùi.  Đó là một con cò trắng mỏ vàng.  Tấm thân bé bỏng lịm dần bởi hai nỗi đau, vừa bị thương vừa bị kiến cắn.  Thằng bé nâng sinh vật nhỏ nhoi tội nghiệp ấy lên.  Nó vẫn còn sống.  Nhúm lông tơ beat dính, cái mỏ nhọn hoắt bất lực gục trên tay thằng nhỏ.  Thằng Cọt phủi kiến cho nó, vạch cánh bắt từng con, xem vết thương, và bọc cò trong áo đem vào nhà. 
– Kiến đốt sưng vù!  Xoạc cánh!  Gãy cẳng!  Quẳng cho cá!  “Bác sĩ trưởng khoa” quyết định
– Nhưng nó còn sống mà!  Thằng Cọt không đồng ý
– Chữa lâu lắm!  Phải băng cánh, bó cẳng.  Mà chưa chắc rồi bay được, sống tàn phế thêm tội
– Nếu bay không được thì nuôi dưới đất như gà.  Ông bảo gãy cổ mới quẳng cho cá mà!  Cổ hắn không gãy.  “Bác sĩ phụ tá” khăng khăng
– Thế thì mày lo mà chăm sóc! 
Mấy ngày sau, cò nhóc đã ngóc đầu dậy khi thằng Cọt đút cá cho nó.  Cánh bị băng, chân bị bó, cò nhóc trông thật thê thảm.  Sợ nó thiếu vắng mẹ, thắng Cọt đem bỏ đại vào một tổ cò rồi núp trên cây rình xem.  Chiều về, cò mẹ không chấp nhận sinh vật được băng bó cứng đờ ấy là thành viên trong gia đình, không mớm mồi, lại còn lấy mỏ hất ra.  Thằng Cọt thử ở một tổ cò khác.  Cũng vậy. 
Thế là nó quyết định “làm mẹ” chú cò tội nghiệp.  Thằng Cọt gọi nó là cò-thương-binh, đặt trong lồng để phòng chuột.  Cái lồng được treo bên cửa sổ, gần chỗ nó ngủ.  Lạ thay, trong giấc mơ, nó không còn thường xuyên bị dìm trong nước lụt nữa.  Có khi nó còn mơ thấy cò thương binh lành lặn, chấp chới bay lên trời xanh, đôi cánh thanh mảnh vẽ những nét lượn mềm duyên dáng. 
Cò thương binh mạnh dần.  Đám lông tơ mịn như bông nõn.  Chiếc mỏ màu xoài ửng.  Một bên cánh xệ xuống như vạt áo so le.  Khi đi được, nó luẩn quẩn trong sân như bọn gà, nên ông Tư gọi nó là cò gà.  Cò gà tình cảm đáo để.  Hễ thấy thằng Cọt đâu là khập khiễng xán tới, lấy mỏ mổ mổ, quệt quệt rất âu yếm.  Sáng sáng, nó ngơ ngác nhìn đồng loại bay lả bay la trên bầu trời rồi mất hút.  Chiều chiều, nó ngác ngơ ngỏng cái cổ cò nhìn lên những cành cây trĩu nặng thân cò, rộn ràng tiếng kêu thân thuộc. 
Cò gà lớn mau, chân lành trước cánh.  Bệnh nhân cùng điều trị với nó đã “ra viện” hết trơn mà nó vẫn còn ở lại.  Riết rồi cả bác sĩ và bệnh nhân quen ngủ với nhau, chơi vói nhau.  Ngày cò gà luẩn quẩn ở sân chơi bắt ruồi, nhặt cá, chơi với lũ gà vịt, con cún, thằng Cọt, ông Tư.  Nó đi lại vững vàng trên đôi chân lỏng khỏng như que tăm nhưng vẫn chưa bay được dù vết thương đã lành
  Những ngày mưa, nhìn nó đứng một chân, một bên cánh xệ xuống, co ro như người mang tơi lá, thằng Cọt vừa thương vừa buồn cười.  Nó thắc mắc vì sao đám cò cùng lứa đã bay theo mẹ kiếm ăn mà cò gà vẫn luẩn quẩn dưới đất như … gà!  Ông Tư bảo tại nó quen sống như gà rồi không nhớ mình là chim nữa, hoặc tai nạn đã làm nó bị một trục trặc nào đó ở cánh, tật nguyền suốt đời.  Thằng Cọt không tin.  Nó vẫn nghĩ đến ngày con cò gà biết bay, hoà nhập với bầy đàn.  Thỉnh thoảng, chú cò tội nghiệp của nó vẫn chao liệng trong giấc mơ biêng biếc màu trời. 
Dạo này cò rủ nhau về vườn ông Tư đông vô kể Đôi khi nó và ông Tư nói chuyện phải hét to để át tiếng  kêu của chúng.  Ra vườn cũng phải đội nón, nếu không chúng sẽ ị lên đầu. 
Cò gà lớn hẳn rồi, mượt mà, trắng nõn, nhưng vẫn ru rú trên mặt đất, trong nhà.  Có hôm, thằng Cọt thấy nó đứng ở sân, vỗ cánh nhè nhẹ như bị tiếng gọi của bầu trời thăm thẳm quyến rũ, nhưng vẫn không bay lên.  Nó thích đậu trên vai thằng Cọt, trên lưng con cún, đi theo ông Tư ra đìa tát cá, luẩn quẩn trong vuông sân bắt ruồi.  Thằng Cọt nghĩ đến chuyện tập bay cho nó. 
Một ngày, đợi lũ cò kéo nhau đi kiếm ăn, thằng Cọt  trèo lên một cái cây thâm thấp, ôm theo chú cò gà.  Nó còn cẩn thận trải rơm dưới đất để phòng cò gà không bay được rơi xuống sẽ không đau.  Tụi cò con trong cái tổ gần đó lao nhao ngỏng cổ, há mỏ vì tưởng mẹ về mớm mồi.  Cò gà nhìn chúng, nhìn quanh.  Lần đầu tiên đứng trên cao, nó thấy gì cũng lạ.  Bầu trời như sà xuống thấp, gần xiết bao, thênh thang mời gọi.  Nó làm động tác vỗ cánh rồi bay qua … vai thằng Cọt! 
– Chỗ của mày là bầu trời thênh thang chứ không phải vai tao!  Thằng Cọt giận dữ đặt cò gà lại trên cành cây và trèo xuống đất.  Cò gà đứng trên cây nhìn xuống vai thằng Cọt
– Bay xuống đây!  Đồ gà
Thằng Cọt dợm bước.  Cò gà nhìn theo, và bất ngờ vẫy cánh, rướn người.  Thằng Cọt nghe như một chiếc lá đậu xuống vai mình.  Nó la lên 
– Ông Tư ơi!  Cò gà bay được rồi!  Bay được rồi! 
Nó chạy, còn cò gà bay là đà trên đầu nó.  Vòng liệng rộng dần, cao dần, rồi đôi cánh mỏng mảnh trắng ngần tự tin vút lên thanh thoát.  Nhìn bóng hình thân thuộc của cò gà chấp chới trên nền trời cao rộng mênh mông, thằng Cọt bỗng chảy nước mắt.  Nó mơ hồ thấy trên lưng cò một cái chấm nhỏ, thằng Còng, em nó. 
Suốt ngày hôm đó thằng bé đứng ngồi không yên.
Cò gà không trở lại.  Nó bỗng nhớ cò gà da diết.
Cả ông Tư cũng bần thần đi vô đi ra như người thiếu thuốc. 
Chiều về.  Vườn nghìn nghịt cò trắng.  Thằng Cọt tha thẩn đi dưới những cành cây trĩu nặng thân cò, quên cả đội nón, mặc cho chim ị trên vai, trên áo, trên đầu.  Chẳng biết trong đám cò đông đúc kia có cò gà của nó?  Ba buổi chiều như thế thì ông Tư phát cáu
– Quên hắn đi!  Bay được rồi không trở lại nữa đâu.  Bận sau quẳng cho cá ăn cho khoẻ trí, nhẹ lòng.  Vào nướng cho tao mấy con khô sặc, hái trái xoài tượng, lấy rượu đế ra đây.  Nghìn nghịt cò, thiếu gì mà chờ hắn! 
Bỗng nhiên, thằng Cọt cảm thấy một chiếc lá rụng khẽ khàng trên vai nó.  Một chiếc lá trắng muốt rơi tự trời xanh.  Rồi cái mỏ cưng cứng nhọn hoắt quen thuộc quẹt quẹt vào vai, rỉa vào tóc
– Mày về đó hử?  Thằng bé thì thào như sợ nói lớn cò gà lại bay đi.  Nó đi vào nhà, lòng lâng lâng như mọc cánh.  Cò gà sà xuống bên ông Tư, chào ông bằng mấy cái mổ
– Má mày!  Tưởng không thèm dzìa nữa!  Ông Tư chửi
– Má cò gà là ai, hở ông Tư?  Thằng Cọt thắc mắc
– Là mày chớ ai!  Mà đừng gọi hắn là cò gà nữa nghen!
Quế Hương
 

Con cò bay lả bay la

Nghe thấy những tiếng cuốc đất nằng nặng ở phía sau nhà, tôi liền thức giấc vùng dậy. Tưởng ai, hóa ra ông già Thục, hàng xóm của tôi, bậc trưởng lão trong thôn tôi, đang cặm cụi đào bới ở mấy bụi tre già quanh bờ đầm. Mùa  lũ năm qua, thôn tôi úng nước, các bụi tre tàn lụi cả, giờ nguồn củi đun nấu đã trở nên khan hiếm rồi.
- Bác Thục, bác đào mấy cái gộc tre gai này làm củi à?
-  Chậc! Thì cũng...
Ngẩng lên, bỏ lửng câu nói, ông lão ngoại thất tuần đưa tay cầm chiếc khăn  mặt quàng cổ chạt lên gương mặt đầy vết nhăn của tuổi tác và khổ ải. Tháng bảy ta trời oi nực bí bức. Nghe chừng lại sắp mưa. Bầu trời phía bờ sông Hồng, nơi giáp cánh đồng Mụ làng tôi chỗ trắng nơi thâm sì, vằn vèo như da báo.
- Bác nghỉ tay đi, vào nhà uống nước, lát nữa cháu xin cùng bác một tay. Với lại  mấy cái gộc tre ải mục hết rồi, đun chỉ tổ khói thôi, bác ạ. Bác chuyển sang đun than đi. Nhiều nhà trong thôn mình còn dùng  bếp gas, bếp từ rồi cơ mà.
- Ờ thì...
Lại như lần trước, ông lão bỏ lửng câu nói. Và lại cúi xuống cắm cúi với công việc của mình. Nhưng, lần này chỉ mới đào được một gộc tre to bằng cái tổ kiến,  ông lão đã phải ngừng việc. Cơn mưa từ đằng Đông, phía bờ sông Hồng vào các chiều tháng bảy như quen lệ đã rào rào đổ xuống.
Mưa đổ một hiệp âm như sỏi đá đổ. Rồi như giàn nhạc giao hưởng bè trầm bè bổng hòa quyện, nhưng dấm dẳng lúc ngắt hơi, lúc rền rền, như lên cơn tức hứng. Kiểu này là mưa nước lên  rồi. Nhìn ra ngoài trời hơi mưa trắng xóa, ông lão Thục nói. Và lại giữ thói quen của một lão nông chẳng mấy khi để chân tay rỗi rãi, ông lão rút con dao đeo bên sườn, dựng đoạn tre mới kiếm được, róc đầu mấu rồi bổ làm  đôi. Bác chẻ tre làm cái gì mà nhỏ thế? Tôi hỏi. Ông lão ậm ờ mấy tiếng rồi đáp tiếng được tiếng mất, rằng thì là mưa nước lên là mùa kiếm cua cá và đây là ông lão đang chẻ nan để đan giậm bắt cá bắt cua. Giậm nhất thì cần cầu kỳ một tí, còn giậm cua thì đơn giản hơn cậu ạ. Ông lão nói. Rồi lát sau, tay đang chuốt từng sợi nan, bỗng dừng lại, ông lão đột ngột hỏi tôi: Lát nữa tạnh, cậu có rỗi không? Tôi đáp: Có. Và nhìn ông lão, đợi chờ. Thì ông lão đứng dậy nhìn mảnh sân nhà tôi đã ngập nước, có những chiếc mũ bong bóng đang trôi lừ đừ, nói: Cậu chở tôi ra bờ sông Hồng, chỗ cánh đồng Mụ, tôi cho cậu xem cái này nhé!
*
Ôi, làng quê tôi, một làng quê ngoại thành Thủ đô! Nơi tôi sinh ra, nhưng lớn lên là xa nó, lên thành phố học hành và bây giờ sắp đi du học ở Úc, nên đối với tôi còn xa lạ lắm. Tôi đâu có như ông lão Thục vừa lẫm chẫm biết đi đã biết chăn trâu cắt cỏ, làm ruộng, bắt tôm tép, cua cá. Và trong khi chờ đợi cơn mưa chiều sắp tạnh, chỉ nghe ông lão kể công việc bắt cua bắt cá thôi mà đã thấy trong ông là cả một tình yêu thương lớn lao và gắn bó mật thiết với miền quê yêu dấu đến thế nào! Là bởi vì, chỉ đơn thuần một việc đi cầy mỗi sớm mai thôi, vậy mà khéo ra, theo ông lão kể, thì cũng có thể tóm được vài ba chú trạch chấu ẩn mình trong đất ẩm từ khi lúa mới gặt. Còn như thích thú nhất thì phải kể đến việc đánh giậm và cào sông. Giậm có ba loại. Giậm nhất nan nhỏ, mắt mau. Giậm nhì, mắt thưa hơn tí chút. Còn giậm cua thì nan to, chủ yếu để bắt cua. Để chiếc giậm xuống đoạn ruộng gần bờ xong thì đặt bàn chân lên mõ giậm. Mõ giậm làm bằng tre cái, vì tre cái rỗng ruột và nhẹ. Nào, bàn chân đặt trên mõ rồi thì hãy dập mạnh liên tục! Và có nghe thấy không? Nước ập vào lòng mõ rồi vọt ra, phát thành tiếng ộp ộp rồi đó. Và chẳng hiểu có phải vì sợ hãi không mà các chú cua to béo nghềnh ngàng đang nấp ở bờ cỏ cứ thế là thi nhau lổm ngổm bò ra rồi thi nhau lọt hết vào lòng giậm. Cũng có khi dùng giậm để cào ao. Muốn cào ao trước hết cho trâu đùa khuấy đục lên. Nước đục tôm tép mới nổi hết. Thôi thì chỉ sợ không có sức mà xúc thôi!
Chà! Còn bây giờ, sau cơn mưa, tôi đã đèo xe máy đưa ông lão Thục ra bờ sông Hồng. Trời! Tôi không tin ở mắt mình nữa. Một  hoàng hôn thật bình yên hòa trong niềm hoan lạc bí ẩn đang tràn dâng trên cánh đồng Mụ quê tôi. Cậu xem kìa! Theo tay ông lão Thục chỉ, tôi đã trải qua hết ngạc nhiên nọ đến sửng sốt kia. Và tôi đã tự hỏi, ở đâu có được cái cảnh sông nước đông vui  như hội hè giống vùng quê  tôi?  Kìa đàn vịt giời đang trở về. Không ít hơn ngàn con đâu! Chúng lượn vòng ngay trên đầu ta như một dải lụa mềm. Kỳ lạ hơn, khi chúng vừa hạ cánh, đậu kín một bãi sông bên hữu ngạn, vươn cái cổ dài cất những tiếng kêu hợp đoàn hai âm tiết một thì bên phía đối diện với chúng đã trắng lóa cả một vệt thân cò.
Con cò bay lả bay la. Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng. Con cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non... Ôi những con cò trong lời ru của mẹ, của bà. Nhưng con cò trong thơ của thi hào Nguyễn Trãi: Cò nằm, hạc lặn vui bầu bạn. Ấp ủ cùng ta làm cái con. Cò, đủ loại cả ngàn con, từ các thung xa đang bay về hợp đoàn. Những con cò mỏ dài, chân que, với đôi cánh trắng xóa. Những con cò mảnh mai, gầy gùa một nét đẹp thanh bình thân thuộc nơi đồng quê. Diễm phúc cho những ai được một lần chứng kiến cảnh hội hè sông nước quê hương tôi lúc này! Vì ở thời khắc hiếm hoi này, từ các thôn làng rải rác, những chàng trai trẻ làng quê  với giậm, lưới, vó, nơm đang tưng bừng trong một cuộc hợp đoàn với khí thế nhập cuộc vô cùng hào hứng. Thật là nước non tang bồng đủ chiều kích rộng dài để dang tay đón khách gần xa! Chẳng ai phải chịu phần thiệt thòi cả. Ai có phận nấy. Người  đánh giậm nơi bờ ruộng, cất vó, úp nơm, tung lưới, siếc cá dưới lòng sông. Vịt giời lặn lội ở phần ruộng trũng. Cò mò cua bắt tép ở địa phận quen thân của cò.
- Cậu thấy có thích mắt không?
Ông lão Thục hỏi tôi, rồi ghé tai tôi, khe khẽ và trong tiếng nói cuộn tròn nơi cổ họng ông, tôi nghe thấy những âm thanh của một dự định nao nức vô cùng: Tôi đã có cách rồi cậu ạ. Có cách rồi cậu ạ! Tôi sẽ gọi đàn cò về thôn làng ta. Tôi sẽ gọi chúng về, cậu à.
*****
Dừng xe, gạt cái chân chống, ông lão Thục đưa tay lần tìm sợi dây cao su buông lõng thõng ở bên kia xe. Trên cái giá đèo hàng gắn ở sau chiếc xe đạp cà rịch cà tàng, không chắn bùn, không chắn xích, cả không phanh của ông lão, lúc này đã lổng chổng cả một đống các gộc tre gai già. Lần thứ bao nhiêu trong năm nay rồi,  không kể tôi là kẻ đi học xa, nhưng có lẽ là cả những người làng quê tôi cũng vậy thôi, chắc chẳng ai để ý xem ông lão đi quanh làng đào các gộc tre gai về làm gì.
Thế đấy! Một thân già lặm cặm một mình một việc mình làm mình hay! Cho đến một hôm  đi qua, mọi người  dân trong làng mới dừng chân, ngỡ ngàng vì chợt nhận ra, quanh con đầm mênh mông của làng, từ những gốc tre gai già nọ đã bật lên những chồi măng nhọn hoắt như những ngọn giáo búp đa xanh ngăn ngắt. Những gốc tre gai già đã vào cuộc sinh hóa. Và ngoảnh đi ngoảnh lại, chẳng  để con người kịp nhận ra, các gộc tre gai đã hóa thân  thành từng khóm tre măng tơ xanh um. Cả một vùng tre xanh mênh mang rợp mát, một khoảng không bao la
Tre xanh 
Xanh tự bao giờ 
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh 
Thân  gầy guộc, lá mỏng manh 
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi 
Tôi xa làng đi học ở nước người chốc đã năm năm. Một chiều xuân về thăm quê,  đang thiu thiu, chợt thức tỉnh vì trên không trung vang lộng tiếng cò kêu như những  tiếng kèn đồng. Vùng dậy, tôi chạy ra sân, ngước mắt lên cao.
Trời! Cả một khoảng trời đang giăng giăng phấp phới những cánh cò. Cò trắng cò nâu cò lửa cò bợ, cò bố cò mẹ cò con. Những con cò cổ dài, mỏ nhọn, chân cao,  mong manh một sắc trắng thanh khiết, sau một ngày đi kiếm ăn nơi đồng Mụ bên con  sông Hồng màu mỡ phù sa đang trở về nơi cư trú, dáng vẻ đều thanh thản, yên hòa. Con dang cánh lượn. Con vỗ cánh đảo  vòng tìm ổ. Trên những cành tre mềm mại dẻo dai, con đang rỉa lông, rỉa cánh. Con đang nghênh mỏ ngắm nhìn cảnh trí xung quanh. Gió nhè nhẹ, khóm tre rung rinh lả lướt, vắt vẻo một nhịp điệu êm đềm. Từ dưới nhìn lên, thấy những chiếc tổ cò đan bện đặt thật khéo giữa những thân cành che chắn tua tủa, thấy cả cảnh cò mẹ đang  chúc mỏ bón cho cò con. Rừng tre bao la này là khu chung cư, nơi trú ngụ bình yên muôn thuở của các gia đình nhà cò.
Ông lão Thục đã lên thượng thọ bát thập. Thấy tôi ngắm đàn cò với vẻ thích thú khác thường liền chống gậy trúc lò dò đi tới:
- Cậu  có thấy thích mắt không?
- Cháu nhớ rồi. Hôm ấy, sau cơn mưa tháng  bảy, cụ đưa cháu ra cánh đồng Mụ bên bờ sông Hồng. Nhưng thưa cụ, có được cảnh sắc kỳ lạ này, trước hết phải kể đến công ơn lớn lao phi thường của cụ. Cụ là một nghệ sĩ sắp đặt, một kiến trúc sư tạo nên một cảnh quan tuyệt vời này.
Nghe tôi nói vậy, ông lão Thục lắc đầu:
- Chẳng có công cán gì, tôi chỉ có chút  mẹo vặt thôi. Anh có biết vì sao bọn cò lại tụ hội ở đây đông thế không?
- Vì sao ạ?
- Bí kíp là gì! Là bởi vì cò là một giống chim rất lãng mạn.
-  Lãng mạn?
-  Đúng thế. Bọn chúng rất thích loài  tre gai. Chắc anh nghĩ, tre có gai là sự bảo vệ tuyệt đối an toàn cho chúng nên chúng mới chọn để làm nơi trú ngụ chứ gì? Đúng, nhưng chưa đủ đâu. Anh hãy nhìn xem! Cò đang đậu ở đâu? Trên các cành tre. Ấy thế! Tre gai là thứ tre vừa bền chắc vừa dẻo dai thật lực. Đậu trên đó mà rung rinh nhịp nhàng theo lay động của cơn gió thì còn gì thú vị bằng. Thì còn gì thú vị bằng! Thì tâm hồn ắt hẳn là phải bay bổng lên tận mây xanh. Như đang trên chốn bồng lai tiên cảnh ấy chứ. Mà lại chắc chắn, chẳng sợ gió táp mưa sa, bão bùng gì nữa. Đó! Bây giờ thì anh đã tin cò là giống chim lãng mạn nhất trần đời chưa?
Trời! Sung sướng như vừa phát hiện một chân lý kỳ lạ, tôi liền nắm tay ông lão Thục, rưng rưng cảm động và thầm thì: Vâng. Nhưng thưa cụ, giữa cụ và cò, không hiểu ai là người lãng mạn hơn ai đây ạ!
 Ma Văn Kháng

Những con cò trắng

Tôi không biết mình phải làm gì để chuộc lỗi với Tâm, khi đã quá muộn màng rồi.
***
Quốc lộ hun hút. Xe cộ tấp nập quanh năm. Suốt ngày, xe này tiếp nối xe kia, màu này xen kẽ màu kia cứ lao vùn vùn trên con đường nhựa láng cóng. Dưới nắng chang chang, tôi điều khiển chiếc xa máy Trung Quốc len lỏi trên khắp nẻo đường.
Nghề của tôi là vậy, tôi luôn tất tả trên đường, trong dòng xe cộ ngược xuôi. Không giống như một vài người cùng đi đường với tôi, họ vừa đi vừa ngắm cảnh. Còn tôi vừa lao xe, vừa nhìn chăm chăm nhìn xuống lộ, nhìn chăm chăm những vạch phấn do cảnh sát giao thông vẽ trên mặt lộ. Không những nhìn, đôi lúc, tôi còn đếm số lượng đường phấn ấy trên suốt cả đoạn đường mình đi. Mỗi lần gặp vạch phấn trắng dưới lộ, mỗi lần tôi rùng người. Mỗi lần tai nạn giao thông xảy ra, mỗi lần xuất hiện những đường phấn trên lộ.
Tôi lại nghĩ đến những người chuyên vẽ các đường phấn ấy trên lộ. Những người luôn luôn xuất hiện trong những lúc bi thương, tang tóc. Thế rồi, tôi chợt nhớ đến Tâm. Một anh chàng ít nói hay cười học cùng tôi thuở trước. Chuyện như đã cũ lắm rồi. Vậy mà, tôi cứ ngỡ mọi chuyện mới vừa xảy ra hôm qua. Bởi vì, tôi và Tâm đã cùng học với nhau từ thời phổ thông. Cái thời mà mọi thứ còn trong trẻo, lãng mạn của lứa tuổi mới lớn.
Ngày ấy, Tâm rất khờ khạo và nhếch nhác. Người lại đen đúa. Được một điều, Tâm học rất giỏi, giỏi hơn tôi. Học sinh giỏi toán của lớp, nếu bình bầu, mọi người sẽ tôn Tâm lên bậc nhất. Chứ không như bây giờ, một anh cảnh sát giao thông lạnh lùng và khẳng khái. Tôi không ngờ, dòng thời gian đã làm những người bạn học với cùng mình đổi thay đến vậy. Đôi khi nghĩ đến những ngày ấy, lòng tôi lại miên man buồn. Nỗi buồn vô cớ, không có lời giải thích. Vậy mà, những câu chuyện của một thời vụng dại cứ sống mãi với tôi. Những câu chuyện đã qua đi trên trang giấy học trò. Những chuyện mà tôi luôn luôn tiếc nuối khi đã đánh mất từ thuở còn màu "áo trắng".
Để rồi mỗi khi nghĩ về Tâm, tôi nhớ về những ngày đầu năm học lớp mười. Những ngày ấy, tôi và Tâm nổi đình nổi đám như một hiện tượng lạ của lớp. Nghĩ lại, tôi không ngờ mình gan dạ như vậy. Còn Tâm, tôi cũng không ngờ anh chàng lừ đừ ấy lại anh dũng đến vậy.
Chuyện là thế này. Một anh chàng nông dân chính hiệu, bạo gan viết thư thổ lộ tình cảm lứa đôi với cô hoa khôi của trường. Thế là, lớp học tôi có đề tài để bàn tán suốt ngày. Nguồn tin cung cấp đề tài để lớp thảo luận lại chính là tôi. Tôi thuở ấy tính tình rất ngổ ngáo như thằng con trai. Tôi lại là bà Tám lanh chanh hết chỗ nói. Nơi nào xầm xì to nhỏ chuyện thiên hạ, tôi xuất hiện ngay. Tôi còn được xếp vào loại "top ten" đưa tin giỏi của lớp. Ngoài đường, trong trường vừa xảy ra chuyện gì, lớp tôi nắm đầu tiên là nhờ tôi. Những tin sàm cũng vậy, thường không ai khác ngoài tôi mang về. Cho nên, chuyện của tôi và Tâm luôn được lớp xếp vào chuyện nóng, tin nóng. Ngồi đâu, tôi cũng kể về chuyện Tâm viết thư tình cho mình, vừa mùi mẫn, vừa lãng mạn... Và tôi cũng không quên bắt lỗi chính tả Tâm khi gửi thư tỏ tình tôi...
Không những vậy, hình ảnh tôi trong thư Tâm viết miêu tả tôi đẹp như "Tứ đại mỹ nhân" của sử thi bên Tàu, tôi dại gì không kể lể cho lớp nghe. Mặc cho có đứa nghe, đứa không thích nghe, tôi huyên hoang. Lớp tôi, nhiều nhỏ đối kỵ hay sao, chúng bảo tôi tự ca, tự quảng cáo, tự lăng-xê. Những lần như vậy, tôi như có cơ hội. Tôi vội vã mang thư ra đọc trước "bàn dân thiên hạ" cho chúng nghe. Đám con trai ôm bụng cười hô hố. Đám con gái nhìn tôi tiu nghỉu, cau mày. Tôi biết đám con gái nó ghen ghét nên không chấp. Giả vờ không hay biết, tôi cứ đọc tỉ mỉ những đoạn văn mà Tâm bộc lộc tình cảm với mình. Tâm viết rất tỉ mỉ, từng ánh mắt, khuôn mặt, cử chỉ của tôi đều được vào trong thư. Những đoạn này, tôi đọc rất to mà quên là Tâm đứng đối diện mình.
Lứa tuổi mới lớn như đám bạn tôi, chúng không biết quan tâm đến đề tài tình yêu mới là lạ. Vì thế, mỗi lần Tâm đi ngang qua đám con gái, nét mặt chuyển sang tái mét. Chúng nó cười mỗi đứa một giọng. Có lẽ vậy, Tâm ít khi xuất hiện trong lớp. Có lần, chúng lấy thư tình Tâm viết cho tôi ra soi mói. Cuối cùng, mỗi cô nàng diễn cảm một thư. Nhiều cô đọc chưa trọn một câu, nàng ta đã cười nghiêng ngả. Những lần như vậy, Tâm xông vào giật lại những bức thư. Tôi xuất hiện. Nhìn Tâm bằng ánh mắt triều mến, dịu hiền, Tâm đứng ngường ngượng. Thế là vì yêu, vì mến, vì ngưỡng mộ... Tâm đứng bần thần đến bất động, tay trao những bức thư ấy lại cho tôi.

nhung-canh-co-trang-1
Bước sang năm học lớp mười hai, những cô cậu học sinh cuối cấp của lớp tôi bắt đầu bận rộn. Họ tập trung chủ yếu vào chuyện "sôi kinh nấu sử". Chuyện ai thương thầm nhớ trộm ai trong lớp, cứ mặc kệ ai. Chuyện Tâm và tôi mỗi khi lớp nhắc đến là như để thư giãn.
Rồi đến một ngày, Tâm lại làm tôi bất ngờ. Hôm đó, ngày biết kết quả thi tốt nghiệp cũng là ngày liên hoan lớp. Tâm tặng tôi bức tranh do anh vẻ. Tôi rất sung sướng, vì cứ tưởng anh ta đã quên mình. Tôi nhìn chăm chú vào bức tranh. Bức tranh chỉ là những đường nét vẽ bằng mực tím rất đơn sơ trên trang giấy học trò. Nhìn bức tranh, tôi nghĩ ngay đến thằng Tí nhà mình đang tập tành vẽ tranh. Những bài tập lớp Lá của nó vẽ vội vã để nộp cho cô giáo. Thế là, tôi chạy tất bật vào đưa cho đám con gái cùng phe với mình. Đám con gái lớp tôi đang tụ năm tụ ba bàn tán. Chúng nhận tin này như cá gặp nước. Chúng xúm xít lại, nhìn bức tranh bình luận. Bức tranh là hai con cò màu mực tím với bốn câu thơ do Tâm sáng tác bằng mực tím. Bài thơ có tiêu đề hẳn hoi: Đôi cò rủ nhau tím cá. Chẳng mấy chốc, đám con gái dán bức tranh ấy lên bảng. Lớp lao xao. Không những đám con gái, đám con trai cũng nhiệt tình quan tâm. Trong bức tranh có hai con cò, một con cúi đầu, một con ngẩng đầu nhìn trời đã làm cho đám con trai thắc mắc, cười nói linh tinh :
- Hai con cò này, con nào trống con nào mái?
Đám con gái cười khanh khách:
- Sao lại vẽ hai con cò đang lạnh lùng với nhau.
Tôi nhìn đám bạn sung sướng, khoái chí. Cả lớp vẫn chú tâm vào bức tranh, không ai để ý đến sự hiện diện của Tâm đang ngồi cuối lớp. Tiếng bàn tán xầm xì về bức tranh vẫn vang lên đều đều. Thắng lớp trưởng đang xớ rớ dưới lớp. Chàng ta cầm cây bút mực tím xông lên bục giảng. Đám con gái con trai đứng phía dưới vỗ tay lốp bốp hoan hô anh chàng ngố của lớp. Như được động viên, Thắng quơ quơ, quẹt quẹt mấy đường lên bức tranh. Anh đang quay xuống lớp, hai mắt cười nhắm hít:
- Mình vẽ thêm hoa hồng cho con cò trống, để nó còn có cái gì đó mà tặng cho cò mái khi tỏ tình, chứ không ai thèm?
Lớp lao nhao. Tiếng bàn tán vang lên:
- Hoa hồng gì kỳ vậy?
Thắng nhanh chân rời khỏi bục giảng, miệng oang oang:
- Mình vẽ tranh trừu tượng. Các bạn hiểu làm gì? Cò mái hiểu là đủ rồi.
Mai lớp phó gỡ tay Thắng chộp ngay cây viết. Cô nàng vội vàng leo lên bục giảng. Lớp nhìn theo hành động của Mai, chờ đợi. Mai run run tay. Cô đặt bút un rẩy một lúc, Mai viết ngay câu thơ: Cò trống bứt cỏ, tỏ tình cò mái. Mai chưa viết trọn câu, lớp đã cười rầm lên. Tôi vỗ tay tán thưởng tài năng xuất khẩu thành thi của Mai. Lớp một vài người cứ chạy lên chạy xuống bục giảng, họ cứ thêm này bớt kia vào bức tranh. Người này vẽ, người khác lên chấm điểm. Chẳng mấy chốc, bức tranh của Tâm chỉ còn là một màu tím lịm, tối thui.
Tôi đắc chí. Mắt nhìn quanh quẩn rồi tôi dừng lại ở góc lớp, nơi Tâm đang ngồi chết lặng. Cảm giác sung sướng trong tôi chợt tắt ngay trước nét mặt ngơ ngác buồn của Tâm. Tôi chưa kịp hối hận trước hành động của mình. Tâm đã bật đứng lên rời khỏi lớp. Đám con trai con gái vẫn bàn tán xôn xao. Những chuyện mà họ dồn nén sau một thời gian dài ôn thi tốt nghiệp.
Buổi liên hoan hôm đó, mọi người trong lớp tham dự đầy đủ. Mỗi mình Tâm, tôi không thấy anh quay trở lại. Có lẽ, lớp đang quan tâm đến bức tranh của Tâm quá nhiều nên họ không để ý sự vắng mặt của anh. Chỉ mình tôi, tôi rất mong ngóng Tâm quay trở lại. Mắt tôi hướng ra cửa trông đợi, chỉ gặp những giọt nắng vàng của trưa hè.
Một ngày hè cuối đời học sinh của tôi như chấm hết. Chúng cứ lung linh, động đậy theo chiều gió của hàng cây. Mỗi lần ánh nắng tràn vào cửa lớp, mỗi lần tôi hy vọng Tâm quay trở lại. Lớp nhộp nhịp, cười nói inh ỏi, mũi tôi lại cay xé. Tôi cố nén những giọt nước mắt vào lòng để trông ngóng và hy vọng. Hàng phượng đỏ chói lọi một góc sân trường như một báo hiệu buồn, dù bầy ve ngủ quên, không một tiếng kêu. Tôi chợt thấy mình đơn độc. Cảm giác được yêu, được mến, được ngưỡng mộ... tôi khao khát nắm lấy nó, nhưng tất cả đã tuột khỏi tầm tay. Bất chợt, tôi nếm phải một vị mặn đắng. Vị mặn đắng của giọt nước từ trên mắt mình vừa lăn xuống. Tôi đã khóc, khóc một mình trong tiếng cười nói xôn xao, trong trẻo của bạn bè.
***
Cuộc sống muôn màu, cuộc đời lại muôn ngả. Bạn bè cùng lớp tôi thuở trước, mỗi người mỗi nơi. Tôi giờ đây là cô phóng viên của một tờ báo tỉnh, Tâm trở thành cảnh sát giao thông. Hai người cùng công tác trong một tỉnh, đôi khi lại có mặt cùng lúc trên một hiện trường. Nơi ấy, công việc tôi là ghi chép và chụp ảnh, còn Tâm cầm phấn vẽ, cầm thước đo... trên mặt lộ. Những đường phấn của Tâm trắng xóa, rờn rợn. Tôi như bị ám ảnh những đường phấn ấy của Tâm. Cho nên ở bất cứ nơi đâu trên đường, mỗi khi thấy vệt phấn trắng xuất hiện trên mặt lộ, tôi lại nghĩ đến Tâm, nhớ đến Tâm, nhớ đến nét mực tím anh vẽ đôi cò rủ nhau tìm cá để tặng tôi. Vậy mà những lần đối diện với nhau, Tâm tỏ thái độ như chưa từng quen biết tôi.
Một hôm, trời đêm đã về khuya. Tôi ngồi cặm cụi trước máy vi tính. Mặc dù phải ngồi nghĩ ngợi từng câu chữ, từng vấn đề để đưa vào bài viết, nhưng bất chợt tôi lại nhớ đến Tâm. Giác quan thứ 6 của tôi như báo điềm chẳng lành. Bất chợt, tôi nhớ Tâm đến ám ảnh. Tôi cố xóa tan nét vẽ mực tím vụn vè của Tâm, nhưng không thể. Cảnh vật đã lắng, mọi thứ đã chìm đắm vào màn đêm, chỉ còn nỗi nhớ ở lại với tôi. Đã vậy, đêm khuya vắng lặng mà nghe tiếng di động đổ chuông thì càng lạnh người. Tôi choàng tỉnh. Tôi đặt điện thoại lên tai. Đầu dây bên kia, giọng sếp hối thúc. Tôi phải đến hiện trường gấp để kịp đưa tin sáng mai. Chuyện một cảnh sát giao thông trên đường đi tác nghiệp đã bị tai nạn.
Tôi hối hả đến hiện trường. Tôi như ngất đi. Không ngờ, người đàn ông nằm bất động trên những đường phấn trắng là Tâm. Tôi đau đớn buông rơi chiếc máy ảnh xuống đường. Tôi không biết mình phải làm gì để chuộc lỗi với Tâm, khi đã quá muộn màng rồi. Tâm đã nằm lặng thing. Tôi biết. Nếu có một phép mầu nhiệm nào đó giúp Tâm sống lại, anh vẫn nhìn tôi với ánh mắt dửng dưng, anh vẫn với một thái độ như chưa từng quen biết tôi. Tôi bật khóc. Gương mặt sạm nắng của Tâm đã đi vào cõi vĩnh hằng. Trên gương mặt ấy, nỗi hờn trách, oán hận tôi vẫn còn in rất rõ. Tôi đã hiểu. Tôi không còn cơ hội để chuộc lại lỗi lầm với Tâm. Những hành động quá quắt, ngày xưa, tôi đã gây ra vết thương trong lòng Tâm.
Tôi vẫn vậy, vẫn với công việc ấy. Tôi vẫn là phóng viên cho trang phóng sự về những chuyện trên đường trên phố. Công việc cuốn hút, tôi cứ lao theo. Nhưng tôi vẫn biết, những đường phấn trắng vẽ trên lộ bây giờ, mỗi khi tôi nhìn, đã không còn là của Tâm nữa. Tôi đau đớn. Tôi hối hận. Tôi lại chán ngán nghề nghiệp, nhưng tôi vẫn phải lao xe trên đường. Khi đó, người bạn đường, người bạn nghề với tôi đã ra đi mãi rồi.
Ngày lại qua ngày, những đường vẽ bằng mực tím của Tâm ngày xưa bao trùm lấy tôi. Nó xuất hiện khắp nơi: trong tâm trí, trên bàn ăn, trước màn hình máy vi tính... và ngay cả trên mặt lộ.

Huỳnh Mẫn Chi