Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2018

Nhạc - Thơ - Văn TRONG NỖI NIỀM CỦA HẠ

Hoa Khế

Chùm Bông Hoa Khế 

 

Lưu luyến

Em lưu luyến kỷ niệm rồi sẽ mất,
Gió biển về đêm, hoa khế bay bay...
Nhớ ngày qua sao thương tiếc lắt lay,
Và nơi ấy biết bao giờ trở lại !?
NM

TRONG NỖI NIỀM CỦA HẠ

 Đó là ngôi nhà gần biển tới mức lúc nào ở đó cũng nghe thấy tiếng sóng, lúc thì ì ầm giận dữ lấn lướt xô đẩy nhau, lúc lại nhẹ nhàng mơn man như hơi thở trẻ thơ... Nhà có khoảng vườn nhỏ. Chính giữa sân, ông lão chủ nhà đã trồng một cây khế cành lá nom sum suê. Không biết cây khế đầy những quả ngọt kia có từ khi nào, lúc Hạ quen Thuyên, cô đã thấy nó đứng ở đó vươn dài những cành lá xanh đung đưa cơ man nào là những chùm trái tròn căng mọng. Người ta hay bảo khế ngọt thường ít nõn nà hơn khế chua, thế nhưng cây khế nhà Thuyên thì ngược lại: Nó vừa mướt mát mà vừa ngọt thanh dễ chịu. Thủa còn đi học, mỗi bận Hạ đến nhà chơi, Thuyên thường làm quà và lấy lòng Hạ bằng những trái cây vườn nhà Thuyên trồng. Vườn cây ấy nhỏ thôi, song cha Thuyên đã trồng khá nhiều cây ăn trái: Những quả ổi xanh cắn vào giòn rụm, lựu thì ngọt lịm hạt lại đỏ hồng trông thật hấp dẫn. Có cả những quả mảng cầu to tướng nên Hạ khó lòng mà...từ chối. Thế nhưng chẳng hiểu sao cho đến khi Hạ và Thuyên đã cưới nhau rồi cô vẫn còn mê mãi với cây khế nhà Thuyên.
 Hồi bé Mi còn nhỏ xíu, những buổi chiều mùa hè có gió nồm mát rượi, Hạ thường treo võng, hai mẹ con nằm ru nhau dưới tán cây tỏa bóng xanh dịu, che khuất hẳn cái nắng chói chang. Một cơn gió thoảng qua cũng làm hoa khế rụng tím trùm lấp cả mặt sân. Rồi những đêm rằm, trăng sáng phả màu vàng lấp lánh xuống mặt biển. Phía sau nhà Thuyên, từ trên gác qua cửa sổ, cô mới thật sự tận hưởng vẻ đẹp của biển về đêm. Tiếng gió lùa xào xạc vào những nhánh lá thoáng qua tóc Hạ, càng làm tăng thêm hương vị đặc biệt của đêm trăng ở ven biển. Mùi tanh nồng pha vị mặn chừng như hòa quyện với hương hoa khế thơm dìu dịu làm cho Hạ như ngây ngất lâng lâng...
Thời gian Thuyên còn dạy học ở Mỹ Thắng, nhờ hương biển, hương cây giúp Hạ cảm giác lúc nào cũng có Thuyên bên mẹ con Hạ. Ngôi nhà đó, sân vườn đó đối với Hạ khắc đậm biết bao là kỉ niệm. Thế rồi sau khi bé Đa ra đời được ba hôm thì ba Thuyên mất. Ông lão chăm sóc vườn cây tận tình không còn nữa. Hạ nghe má Hạ nói rằng người chủ cây chết mà không cho cây để tang thì trước sau gì cây đó cũng sẽ chết theo! Không hiểu má Hạ nói đúng hay do thiếu bàn tay chăm bón của cha chồng Hạ mà dần theo thời gian: cây ổi tàn héo, cây lựu trụi lá, rồi cây mảng cầu đang độ sung sức cũng biến mất khỏi khu vườn nhỏ nhà Thuyên. Tuy nhiên điều Hạ lo lắng nhất cho số phận cây khế đã không xảy ra. Cô xiết bao vui mừng khi từng ngày trôi đi, cây vẫn xanh tốt, không có biểu hiện gì chứng tỏ nó sẽ rời xa nơi nó đã từng đâm chồi nãy những nhành lá đầu tiên.
Hai đứa con gái lớn của Hạ đã bao lần đùa chơi dưới bóng cây thân quen ấy. Những ngày nhà Thuyên có đám giỗ, xong đám, cánh đàn ông ung dung ngồi uống trà trong ánh nắng nhảy nhót xuyên qua bóng lá, mấy người phụ nữ cùng quây quần ngồi núp dưới gốc cây tránh nắng vừa trò chuyện vừa rửa chén bát.
Hạ nhớ như in có một đêm khu vực nhà Thuyên bị cúp điện, bầu trời hôm ấy không có trăng, ngay cả chút ánh sao nhấp nháy cũng chẳng thấy. Mấy đứa cháu gọi Thuyên bằng chú, tụi nhỏ nhát gan có tiếng, cùng cả nhà xúm xít lại bên nhau. Chính giữa là rổ khế đầy nhóc, bên cạnh còn có một chén muối ớt đâm nhừ- mới nhìn đã muốn chảy nước miếng! Ngoài sân trời tối đen, cây khế với cành lá bỗng trở nên xám xịt và mờ ảo, chừng như rờn rợn...tất cả như bao trùm lên những con người bé nhỏ đang cố thu mình lại. Gương mặt chị Giao, chị ruột của Thuyên, phảng phất khi tỏ khi mờ qua ánh sáng leo lét của cây nến nhỏ, càng làm tăng vẻ ghê sợ: Chị đang kể chuyện... ma! Những hình người máu me, những chiếc răng nanh nhọn hoắt, những cái đầu lâu treo lơ lửng đầy kinh sợ. Câu chuyện kết thúc đã lâu thế nhưng mấy đứa cháu và Hạ vẫn không sao chợp mắt. Cành lá đu đưa nhập nhoạng trong đêm làm mọi người cứ tưởng tượng đến gương mặt méo mó đẫm máu của con ma trong câu chuyện chị Giao kể. Đêm cứ thế trôi dần chậm chạp, tưởng như có tiếng bước chân ai đang lướt nhẹ ngoài sân. Ngoài xa những con sóng nhỏ xô nhau vào bờ nhẹ nhàng liếm cát.
Tất cả và tất cả những hình ảnh xung quanh cây khế: Bao lần vợ chồng Hạ và gia đình ngồi ăn cơm, bao lần mấy đứa con Hạ chạy đuổi nhau dưới vuông sân ấy đã trở nên quá thân quen đến sâu đậm. Khi đứa con út ra đời, nhóc này lúc nhỏ nghịch và quậy hết biết! Nó từng một mình leo lên gác nhà để vươn tay ra ban công hái khế, công việc mà trước đây chỉ có mình Thuyên thường làm. Đến tuổi đi học, có chút thời gian rảnh rỗi, mấy đứa nhỏ còn rủ bạn về nhà nội để ăn khế. Theo suy nghĩ của tụi nhỏ, chắc không nơi nào có khế ngọt như nhà nội. Những điều đã diễn ra, Hạ tưởng như sẽ và vẫn còn tiếp tục. Cho đến một ngày... Chiếc xe hai vợ chồng Hạ vừa dừng trước cổng, chị Giao từ trong nhà đã lên tiếng trước:
- Nhà mình ở trong diện giải tỏa, có giấy ở phường mời đi họp kìa!
Rồi tiếp theo đó là ở ngay đầu ngõ xuất hiện một cột ghi rõ ranh giới phần đất nằm trong khu vực giải tỏa. Cái cột vôi nhỏ màu trắng chữ đỏ lạnh lùng và dửng dưng trước những ánh mắt của bao người qua lại, soi mói vào nó. Con đường Nguyễn Lạc chắc chắn nằm ngoài ranh giới bị san phẳng, đột nhiên được nới rộng. Những ngôi nhà sửa sang lại, xây cao thêm. Từng ngày Hạ về lại mỗi đổi thay. Từng lớp nhà nhỏ nằm sát biển trước đây lần lượt biến mất. Hạ, cho tới bây giờ khi mà thằng em Thuyên đã chuẩn bị nhận đất nhận tiền đền bù, cô vẫn khó có thể hình dung trên vùng đất quá quen thuộc này lại chẳng có sự hiện hữu ngôi nhà của gia đình Thuyên, càng không tưởng tượng nỗi nơi đây về sau, cô sẽ mãi mãi mất đi hình ảnh cây khế mà bao lâu nay nó vốn đã in đậm trong tâm trí cô.
Con Phai cháu Thuyên đã nhận tiền đền bù và giấy tờ nhà. Nghe chừng nó sẽ đi lên xóm Tiêu. Hạ nghe em Thuyên nói nhà mình chắc sẽ chuyển tới vùng đất mới trên đường Võ Thị Sáu. Nơi này rồi sẽ như thế nào? Chắc chắn sẽ được thay vào đó là một cảnh quan đẹp hơn, thoáng đảng hơn phù hợp với du lịch biển hơn. Thẳng đường tới nhà Thuyên có trường tiểu học- trước kia là Trần Phú giờ là Ngô Văn Sở- trường có vẻ như được giữ lại. Hạ thấy sau thông báo qui hoạch, trường vẫn giữ nguyên thậm chí còn xây lầu cao thêm, khang trang và đẹp hơn nhiều. Mai này khi đến đoạn đường Nguyễn Huệ, đoạn có nhà thờ Hòa Ninh, nếu có ai hỏi thăm nhà, câu trả lời sẽ như thế nào? Có còn cái điệp khúc quen thuộc: đi thẳng đến trường Trần Phú, rẽ trái thấy nhà có cây khế đích thị là nhà Thuyên...Và cái giếng nước lâu nay cả xóm vẫn dùng chung, mỗi năm cứ cận Tết lại có một ngày cảo giếng. Những cánh tay vung lên rồi hạ xuống. Những cái gầu được sử dụng hết lực, tiếng gầu va đạp xen với tiếng đùa ghẹo của mấy anh chàng miền biển cứ oang oang...Cây khế hiền lành dễ tính, cứ thế che chắn bóng râm cho bao con người dưới cơ thể khỏe mạnh lực lưỡng của mình, cho cả cái giếng nước ngọt ở sát bờ biển mặn ấy.
Hạ không sao hiểu được cô có thể thản nhiên nói với mọi người rằng: Hôm nay là lần giỗ cuối cùng của ông nội các cháu ở trong chính ngôi nhà này. Ngôi nhà cũ với sân vườn bé xinh đã lưu giữ trong cô bao điều ấm áp. Mai rồi Hạ sẽ tìm ở đâu được chứ? Hết thảy: ngôi nhà ngói nhỏ cũ kỹ và cây khế dịu dàng ấy, nơi Thuyên và Hạ đã từng sống qua thời son trẻ đẹp đẽ nhất.
Mọi thứ chỉ còn lại qua vài tấm ảnh hiếm hoi và trong trí tưởng của Hạ mà thôi. Hạ thoáng một tiếng thở dài...
Đào Thanh Hoà (Bình Định)

Thuyền rời bến ra khơi theo sóng vỗ,
Mang bên mình ước vọng của tình yêu....
Vượt qua bao trở ngại vẫn cô liêu,
Trong thoáng chốc chợt tiếc thời hoa mộng !

Bạn thoả sức vẫy vùng trong biển rộng,
Ta ngồi đây thương nhớ khoảng trời xưa..
Hội ngộ nhau ấm áp buổi chiều mưa,
Cà phê đắng nhưng mang bao vị ngọt ?!

Quay tìm lại thuở bình minh chim hót,
Thật giản đơn, thanh thản lẫn vô tư...
Luôn bên nhau như muôn thuở bấy chừ,
Tâm trong sáng ta cùng vui bến đỗ
NM
Kết quả hình ảnh cho Miền ký ức
 
 

Tôi là một đứa nhà quê đúng nghĩa, được chuyển lên thành phố học khi bước vào cấp phổ thông trung học. Vào lớp với bao bỡ ngỡ vì lạ bạn, lạ trường, cái cảm giác lạc lõng trong đám bạn thành phố vừa xinh đẹp, vừa sành điệu làm tôi thấy mình muốn bật khóc. Bổng “rầm”…một vật thể nhỏ nhắn xinh đẹp va vào tôi và hắn ngã nhào.
Dù thấy hắn lần đầu nhưng sao cảm giác thân quen đến lạ, trông hắn giống tôi nhiều thứ, cũng vóc dáng nhỏ bé, cũng điệu bộ quê mùa và hình như hắn cũng lạc lõng (tôi đọc được trong mắt hắn). Tôi như mở cờ trong bụng vì giống như tình yêu sét đánh, tôi nhận ra đây là người tôi có thể chọn để làm bạn, để chia sẻ trong suốt thời phổ thông nhàm chán và dài đằng đẵng này (lúc đó tôi nghĩ vậy).
Tôi và hắn như có duyên trời định, đều là những đứa sống nội tâm và có chút lãng mạn, đặc biệt lại thuộc tuýp người không chịu thay đổi. Với hắn dù là người thành phố, nhưng gia đình hắn cũng là gia đình công nhân viên chức nên hắn cũng giản dị như tôi và hắn cũng không quá đề cao đến vẽ bề ngoài của mình. Tôi thì khỏi phải nói, một buổi học, một buổi chạy hàng cho mẹ. Nhà tôi cách trường gần 20km, mà cứ học xong là tôi phi thẳng ra chợ với chiếc xe đạp cà tàng, mua tất cả các thứ hàng hóa mà mẹ cần nào nước mắm, miến, tép khô và thậm chí cả mắm tôm. Có hôm đi học thêm tôi còn buộc nguyên cả một can nước mắm loại 20l để kịp chở về vì sợ nếu để sau khi học mới lấy hàng thì sẽ về muộn (mà về muộn thì trời tối, tôi sợ nhất phải đi khi trời tối vì tính tôi sợ ma chứ không sợ xấu hổ).
Rồi có lần giờ học kéo dài, trời đã về chiều, mặt trời đã bắt đầu tắt dần, nhìn mặt tôi lúc đó chắc lo lắng lắm nên hình như hắn thương tôi, hắn bảo tôi về nhà hắn để xin phép bố mẹ cho hắn về quê cùng tôi. Hai đứa đánh liều về nhà hắn, tôi nhớ mãi gương mặt nghiêm khắc của bố mẹ hắn, nhưng tôi cũng hiểu ẩn sau trong đó là tấm lòng nhân hậu…và tôi nhớ, đó là lần đầu tiên tôi khóc trước những người không phải là bố mẹ mình vì tôi cảm nhận được tình yêu thương từ họ.
Đó cũng là lần đầu hắn về quê tôi, và tôi biết cái tâm hồn lãng mạn của hắn được thỏa lòng khi cùng tôi rong ruổi đạp xe trên triền đê bên dòng sông Lam xanh trong, thơ mộng. Hắn và tôi mang theo tập vở về để làm bài, nhưng khổ nỗi hắn không ngăn được cái cảm xúc đang dâng trào trong hắn khi hắn được ngắm trăng lên trên dãy tre xanh ven bờ sông, trăng lấp ló sau khóm tre rọi xuống in hình những chiếc lá xinh xinh lên mặt sông gợn sóng. Quê tôi ở một vùng eo rất đặc trưng là vừa gần sông lại vừa gần núi, nên vào những đêm trăng thì tuyệt đẹp, mà tôi biết bọn bạn thành phố của tôi hơn tôi tất cả nhưng lại thua tôi ở điểm đó. Nhiều khi không có gì để so sánh, tôi tự an ủi mình bằng hạnh phúc được sinh ra ở một làng quê thanh bình và mộng mơ đến thế. Hai đứa tôi đã hầu như không ngủ vì mãi chuyện trò và cùng nhau đọc những bài thơ tình. Tôi yêu thơ tình và truyện ngắn từ hồi cấp 2 nhưng nhóm bạn thân của tôi chẳng đứa nào giống tôi nên một mình tôi đọc thơ đến thuộc lòng, một mình tôi ngâm nga cho đến khi hắn xuất hiện, hắn khiến tôi được thể trãi lòng mình, hắn lắng nghe tôi và tôi cũng bị hấp dẫn bởi nhiều bài thơ hắn thuộc, những bài thơ tôi chưa từng biết đến. Ghen tỵ hơn là hắn biết rất nhiều bài thơ tình của các tác giả nước ngoài. Hắn đọc tôi nghe bài “Mùa hè rớt” của Olga Berggoltz, lòng tôi se lại khi hắn đọc đoạn
Ôi cái mùa độ lượng rất thân thương
Ta tiếp nhận vì người sâu sắc quá
Nhưng ta nhớ, trời ơi, ta vẫn nhớ
Tình yêu đầu. Rừng lặng… bóng sao im
Sao ơi sao, sao sắp rụng vào đêm
Ta biết lắm thời gian đang tiễn biệt
Nhưng mãi đến bây giờ ta mới biết
Yêu thương – giận hờn – tha thứ – chia li…
Cứ như thế rồi hai đứa chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay…
Sáng hôm sau chị tôi gọi dậy, mơ màng như vẫn còn đang đàm đạo về thơ, tôi quay sang thì hắn đã không còn đó nữa. Chị bảo hắn đã dậy từ sớm, từ khi mẹ dậy chuẩn bị hàng ra chợ, trời ạ! Mẹ bao giờ chả dậy từ 5h sáng kia chứ, thế là hắn gần như không ngủ? Tôi hỏi chị, chị bảo hắn đi ra bờ sông từ lâu rồi. Sau nay tôi mới biết, hóa ra đó là thói quen của hắn, dậy sớm và lang thang một mình đâu đó. Tôi ra bờ sông thấy hắn ngồi bên khóm lau trắng, hắn đi hái bông lau vì hắn bảo hắn mê nét uyển chuyển dịu dàng và màu trắng tinh khiết của loài hoa đồng nội này. Sao hắn giống tôi đến thế, càng ngày tôi càng thấy hắn giống như chị em sinh đôi với tôi vậy. Cảnh sông thanh vắng êm đềm, hai đứa bắt đầu thấy hứng chí như trẻ lên 5, chạy đuổi nhau trong các khóm lau và cười khúc khích cho đến khi tiếng chị tôi réo gọi. Đã đến giờ phải đi rồi, còn phải ăn cơm và đạp xe 20 cây số để kịp giờ học buổi chiều. Hai chiếc xe đạp chạy song song cùng nhau, thỉnh thoảng tôi liếc nhìn hắn và tôi thấy hình như hắn không nhìn đường mà mãi nhìn những hàng rào có dàn hoa tím trãi dài dọc đường đi. Người quê tôi rất cầu kỳ trong việc chăm tỉa hàng rào, nhà ai cũng trồng hàng rào bằng cây có hoa và cắt ngang tầm mắt trông rất gọn và đẹp. Tôi biết hắn đang ước ao điều gì đó, rồi bất chợt hắn lại cất tiếng ngâm nga :
“Những đàn sếu bay qua. Sương mù và khói toả.
Matxcơva lại đã thu rồi!
Bao khu vườn như lửa chói ngời,
Vòm lá sẫm ánh vàng lên rực rỡ
Những tấm biển treo dọc trên đại lộ
Nhắc ai đi ngang dù đầy đủ lứa đôi
Nhắc cả những ai cô độc trong đời:
“Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng”
Tôi cười và hỏi hắn “Bà yêu rồi à?” Hắn không trả lời mà im bặt từ đó, đôi mắt hắn không nhìn ngang nhìn dọc nữa, tôi thấy hắn chú ý nhìn đường đi. Cảm giác hơi lạ, nhưng lúc đó với tôi thế lại hóa tốt, dù sao cũng phải kéo hắn về với thực tại để tránh tai nạn rủi ro…
Rồi cái vụ yêu đương của hắn bị lộ tẩy vào năm lớp 11, khi một lần gã bạn cùng lớp của tôi dại dột đốt pháo trong sân trường. Đoàn trường phát hiện người thực hiện vụ đốt pháo là từ lớp tôi, họ tập trung vào lớp để khám xét, tôi chợt thấy gã bạn thò tay xuống gầm bàn và đưa cho hắn cái gì đó, mặt hắn biến sắc, tái nhợt nhưng cũng nhanh như cắt hắn ném nó ra ngoài cửa sổ, vụ đó gã bạn tôi thoát thân. Hết giờ học tôi bắt hắn khai và hắn đã không thể nào dấu tôi, rằng hắn đã có cảm tình với gã bạn đó từ lâu, còn cái vật mà hắn ném ra là cái bật lửa gây ra vụ nổ pháo. Bây giờ thì tôi đã hiểu lý do vì sao hắn buồn cả tuần vào tháng trước khi mà gã bạn tôi ốm nằm viện, tôi cũng hiểu lý do vì sao có lần hắn đã đòi chuyển lớp, tôi hiểu vì sao hắn cần mẫn chép bài lên cả hai quyển vở…Vậy mà tôi đã không mấy nhạy cảm trong chuyện của hắn, thay vì nhận lỗi về mình, tôi quay qua giận hắn, tôi giận vì hắn đã giấu tôi, giận vì cho rằng hắn đã không coi tôi là bạn thân, cứ như thế tôi giữ gương mặt lạnh tanh khi gặp hắn. Hơn nữa, lúc này tôi cũng đã có thêm vài ba người bạn thân khác trong lớp, tôi cười đùa và chơi với các bạn đó nhiều hơn. Tôi chỉ trả lời nhanh gọn khi hắn hỏi, chứ không nhiều lời như trước kia. Rồi một ngày hắn nhận ra, hắn gửi cho tôi một lá thư đầy cảm xúc kèm trong đó là một đoạn thơ hắn sáng tác, hình như hắn cũng đang ghen tuông, hay là tiếc nuối nhỉ?
“Trâm có còn là của riêng tôi
Để tan học có chung con đường nắng
Để đôi lúc nhìn nhau và nín lặng
Một khoảng trời mây trắng ngủ quên trôi”
Nước mắt tôi chợt chảy dài trên má khi đọc thư hắn, hắn chạy đến bên tôi ôm lấy tôi thật chặt như thể xa nhau lâu ngày gặp lại. Từ đó tôi và hắn càng gắn kết nhau hơn. Mà cũng như định mệnh, vào thời điểm này bố tôi được cơ quan cấp đất và gia đình tôi xây một ngôi nhà nhỏ ở ngay gần trường. Bố mẹ hắn về quê có việc nên lên nhà tôi gửi hắn để đảm bảo việc học hành được liên tục. Tôi và hắn như mở cờ trong bụng, còn gì bằng khi hai đứa bạn thân được học hành cùng nhau, ăn ngủ cùng nhau trong suốt một tháng trời. Bao nhiêu kỷ niệm đếm sao cho xuể, kỷ niệm cũng như cuốn tiểu thuyết, như những bài học để rồi khi buồn ta giở ra xem, xem những trang vui để cười, những trang buồn để khóc, nuối tiếc cho một thời đã qua. Ngày đó bọn học trò chúng tôi không như bây giờ, dù rất tinh nghịch nhưng không có nhiều tệ nạn xã hội để bố mẹ phải lo lắng. Hai đứa tôi dù cũng đủ trò để phá, nhưng đến giờ học vẫn mỗi đứa một góc rất cần mẫn, hoàn thành bài tập rồi mới bắt đầu vẽ ra chuyện để mà trêu chọc nhau.
Nhớ những ngày cuối tuần bố tôi về quê (vì mẹ và anh chị tôi vẫn chưa chuyển lên thành phố) hai đứa bắc thang leo lên sân thượng ngủ và hàn huyên. Hắn nghe đâu ra câu chuyện về một người ngủ trên sân thượng bị ngã chết vì có bệnh mộng du, vậy là hắn bắt tôi tìm dây cột chân tôi với chân hắn lại với nhau. Có lần đến nửa đêm, muỗi tấn công tôi và hắn, tôi đỗ lỗi cho hắn ở bẩn, vậy là hắn giận tôi ôm gối leo xuống nhà. Hắn biết tôi sợ ma chẳng dám ngủ một mình nên hắn làm vậy, mà tôi cũng không đủ gan nên đành lẳng lặng đi theo hắn. Hắn vào giường nằm quay lưng lại với tôi, tự dưng tôi ghét hắn kinh khủng. Người đâu mà hâm hâm, lúc nào cũng giận, không phân biệt đùa hay thật. Tôi quyết không xuống nước lần này, tôi cũng nằm quay lưng lại với hắn và ngủ luôn. Sáng ra tôi tỉnh bơ khi nhìn thấy hắn dưới bếp đi lên, tôi quyết tâm giận hắn lâu dài. Thế mà hắn lại cười toe toét, ghét thế không biết! Thấy bộ dạng tôi lạ lắm hay sao mà hắn cười ra tiếng rồi nắm lấy tay tôi lôi xồng xộc xuống bếp. Hóa ra, hắn dậy sớm nấu cơm nếp để làm lành với tôi, nhưng khổ thân hắn chưa bao giờ làm việc đó nên cơm nếp hắn nấu nữa trên thì như cháo mà nữa dưới lại khê. Tôi không nhịn được cười vì sự vụng về của hắn, vì hắn chúng tôi đành gặm tạm bánh mì đi học.
Thời gian hắn ở với tôi có lẽ là thời gian để hắn – một đứa con gái thành phố hiểu được sự vất vả của một đứa bạn nhà quê, kể ra thì nhà tôi cũng quê nữa vời thôi vì bố tôi là giáo viên dạy trong trường, còn mẹ là công nhân nhà máy nghỉ hưu. Nhưng môi trường sống đã tạo nên chất quê và tính ham thích lao động thấm đậm trong con người tôi. Đất thành phố dù không rộng, nhưng tôi vẫn cố trồng rau để có cái ăn, hơn thế nữa là để bán kiếm tiền. Có thời gian, quả mướp đắng đang còn hiếm và đắt đỏ, tôi trồng và cho leo bất cứ chỗ nào có thể. Tôi chăm chút tưới nước, bắt sâu cho cây những khi không phải học bài. Đến khi quả lớn, tôi thu hoạch và mang ra chợ bán từ tờ mờ sáng. Tôi kiếm được kha khá nhờ vào vườn rau. Hắn thấy tôi làm, hắn cũng muốn làm, có lần hắn theo tôi vãi hành tăm. Nhưng tội nghiệp, thời tiết đã không ủng hộ hắn, hành mới nhú mầm thì một trận mưa kéo đến, sáng ra hắn nhìn hành trồi hết lên mặt đất mà buồn rười rượi. Hắn thất bại, nhưng hắn kiêu hãnh rằng hắn không sinh ra để làm nông dân, đời hắn sẽ mãi gắn với bảng đen phấn trắng. Ôi, cái ước mơ giản dị đó của hắn cũng giống tôi luôn.
Quay lại chuyện tình yêu của hắn, tôi biết hắn thích gã bạn cùng lớp kia vì gã học khá và lại có vẻ ngoài điển trai. Tình yêu thuở học trò thật đẹp và trong sáng, chỉ những cử chỉ nhỏ thể hiện sự quan tâm đến nhau cũng có thể giúp nhau học tốt hơn. Bây giờ nghĩ lại tôi nuối tiếc cho mình, vì tôi đã không có được những phút giây như vậy, tôi già ngay từ khi còn trẻ đó chăng? Nhưng dù sao tôi cũng đã có những giây phút hạnh phúc cùng hắn, khi hắn vui tôi cũng vui lây. Tôi còn nhớ cái lần đoàn trường tổ chức thi đá bóng nữ, hắn đăng ký tham gia chỉ vì hắn biết gã là một trong những người hướng dẫn. Có lần, một cậu bạn trong lớp vô tình đá mạnh vào tay hắn trong giờ tập bóng làm tay hắn bong gân, tôi biết hắn đau điếng nhưng vẫn hạnh phúc vì thấy gã bạn luýnh quýnh chạy đi tìm lá ngãi tướng quân về cho hắn, và nhìn mặt gã hậm hực với cậu bạn kia mà hắn đã bật cười dù nước mắt đang giàn giụa.
Cứ như thế mà ba năm học cũng trôi qua, ra đi một cách nhanh chóng khiến chúng tôi ngỡ ngàng tiếc nuối. Tôi những tưởng thời trung học sẽ dài đằng đẵng và chán ngắt, vậy mà giờ đây đứng trước thời khắc chia tay tôi như người mất thăng bằng, tôi tự chất vấn mình vì sao không dành thời gian để kết bạn nhiều hơn, vì sao không sống thật vô tư cho đúng tuổi học trò và hình như có chút luyến tiếc về một mối tình đầu tự mình đang thêu dệt. Như tất cả các bạn bè mình, tôi và hắn bắt đầu làm sổ lưu niệm, chúng tôi muốn lưu lại những kỷ niệm về từng thành viên trong lớp A2 thân yêu này. Tôi trang trí sổ của mình bằng chữ màu tím, học trò mà, ai chẳng yêu mực tím. Tựa đề sổ lưu bút của tôi là hai câu thơ :
“Tuổi 19 phượng hồng chừng sắp tắt
Tiếng ve đầu như xé nát lòng ai”
Tôi cần mẫn ép cánh phượng thành hình con bướm và ghi thêm phía dưới một dòng chữ “Sắp qua rồi thời để nhớ, để thương”
Người đầu tiên tôi đưa sổ lưu bút là hắn. Vẫn cái tính khác người, hắn không viết đầu sổ mà hắn chọn giữa sổ để viết, những dòng lưu bút đầy tình cảm, hắn viết đến phút cuối cùng hắn vẫn không tin là sẽ phải chia tay, rằng với hắn tôi là người đã khắc dấu ấn trong tim hắn sâu sắc nhất chứ không phải gã bạn kia. Tôi biết thừa hắn nói dối, nhưng tôi đã khóc thật to ngay giữa lớp, tôi không ngờ rằng tiếng khóc của tôi lại mở đầu cho dàn hợp xướng. Tất cả bạn bè ai cũng cố kiềm chế trong lòng cho đến khi nhìn tôi và hiểu rằng thời khắc chia tay thực sự đã đến, ai cũng muốn níu giữ nó cho riêng mình và ai cũng luyến tiếc những điều chưa làm được. Một số bạn khóc vì rồi đây sẽ phải xa người đã đánh thức trái tim mình, dạy cho nó biết rung động. Có bạn khóc vì phải xa người bạn thân yêu nhất của mình, có bạn khóc vì lo lắng về hành trang mang theo vào đời chưa đầy đủ, có bạn ân hận vì đã lỡ có những trò tinh nghịch thái quá khiến thầy cô buồn lòng….tất cả cảm xúc ấy trộn lẫn vào nhau, nhưng ai cũng có chung một nỗi buồn khi biết rằng mình phải chia tay với tuổi thơ, chia tay với thời cắp sách đầy mộng mơ.
Ngoài sân trường những cành phượng hồng nở rộ, cánh bằng lăng tím ngắt một khoảng trời, tiếng ve kêu hòa cùng với những tiếng sụt sùi khiến lòng người càng xao xuyến lạ. Mắt tôi sưng húp, hắn cũng thế, hai đứa đang cố dấu đi những giọt lệ cuối cùng thì bất chợt tôi thấy một cành phượng tuyệt đẹp nằm nguyên vẹn trên bàn hắn, gã bạn vừa đi hái về tặng hắn, mắt hắn đỏ hoe mà vẫn kèm chút long lanh của niềm hạnh phúc, nhưng hỡi ôi, hắn chưa kịp nói lời cảm ơn với gã bạn thì một đám con trai xông tới, hái từng cánh hoa ăn một cách ngon lành. Hắn nhìn cành phượng trơ lại còn mỗi một bông với vẻ mặt đau khổ, đành ngậm ngùi ngắt nốt cánh hoa dấu vội vào cặp. Tôi biết hắn buồn lắm, vì thường khi hắn buồn đôi mắt luôn hướng về phía cửa sổ với ánh nhìn xa xăm.
Buổi học cuối cùng đầy ắp kỷ niệm, ai cũng muốn hưởng trọn những giây phút này với tất cả tấm chân tình, những dòng lưu bút ghi vội thật ý nghĩa, các bạn đã cho tôi hiểu rằng tập thể này đã thực sự gắn bó với nhau dù đã có lúc tôi nghĩ mình lạc lõng. Lưu bút của những đứa bạn thân thì nhắc nhiều đến kỷ niệm đã có với nhau, nhắc về những buổi trốn tiết ra ngoài ăn quà vặt, về những hôm đến nhà tôi nấu chè, làm bánh, hay những buổi lừa mẹ đi học nhóm chỉ để đến nhà ngủ cùng tôi. Còn một số bạn bè khác chỉ ghi lại những gì chúng nghĩ về tôi, một cô bạn hiền lành, thùy mị nhưng hơi nhút nhát. Khác hơn cả là vài dòng lưu bút viết vội của cậu bạn cùng tổ, tôi đọc mà thấy sao giọng văn của cậu ta già dặn đến thế, rất triết lý. Cậu ấy gọi tôi là “Trâm hâm”
"Trâm hâm à!
Năm kỉa năm kia đọc sổ lưu bút của chị, mình còn cười mấy ông bà này lắm chuyện. Nay cầm sổ Trâm mới giật mình ngoảnh lại hay rằng mình đối diện với mình rồi.
Xem nào, ba năm học là cái gì?
Năm thứ nhất đứa nào cũng ngơ ngác, mắt trong veo (nói rứa chơi hồi nớ ai dám nhìn)
Năm thứ hai đứa nào cũng ngây ngây thơ thơ
Năm thứ ba ai cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mắt quầng như trăng tháng 6.
Mới hay, càng nhỏ càng thích Trâm nhỉ?
……còn ngày mai???

Ai chắc thắng thì đã thắng một nửa cộng với một nửa ở mình là hai. Gom hai nữa đó vào những cửa ải sắp qua để mãi mãi giữ màu trong Trâm nhé"
Tất cả những dòng lưu bút đó đến nay tôi vẫn còn lưu giữ như một kỷ vật của đời người bằng tất cả tình cảm tôi dành cho bạn bè mình.
Chia tay rồi mỗi đứa một nơi, mỗi đứa một lựa chọn. Tôi và hắn đi đúng con đường mà hai đứa từng mong ước, hắn sinh viên khoa toán còn tôi học ngoại ngữ. Hai đứa ở hai trường khác nhau nhưng vẫn trong cùng một thành phố, tuy vậy chúng tôi khó có cơ hội gặp nhau thường xuyên như trước vì lịch học ngày một dày, hắn và tôi chỉ còn cách trao đổi bằng thư, những bức thư hắn viết cho tôi da diết như thư tình. Hắn kể với tôi về trường, về lớp, về những người bạn mới của hắn và đặc biệt lá thư nào cũng có bóng dáng của gã bạn kia. Thỉnh thoảng khi lịch nghỉ của hai đứa trùng nhau hắn rủ tôi xuống biển không kể hè hay đông, đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu được vì sao hắn yêu biển đến kỳ lạ, chỉ nhớ có lần hắn nói hắn thích nghe tiếng sóng vỗ bờ và thích nhìn chân trời nơi mây và nước gặp nhau. Trong hắn có điều gì đó thuộc về một miền ký ức tôi không chạm tới được nhưng tôi không giận hắn như trước mà giờ đây tôi cảm nhận ở hắn một thứ tình cảm lớn lao hơn, sâu sắc hơn.
Hắn ra trường khi tôi học năm thứ 3, rồi quyết định cưới chồng khi mới 21 tuổi. Tất nhiên là tôi mừng cho hắn vì hắn lấy được một người chồng tốt bụng, chững chạc đủ để lo cho cuộc đời hắn. Thế nhưng đôi khi tôi tự hỏi chuyện gì đã xẩy ra giữa hắn và gã bạn? Có lẽ tình yêu đầu khó ai giữ được giống như bài thơ “Hoa Sữa”
“Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa tan trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan theo sương gió mong manh
Tại vầng trăng ,tại em hay tại anh
Hay tại mùa đông không còn hoa sữa
Tại siêu hình , tại gì không biết nữa
Tại con bướm vàng có cánh nó bay”
Giống như tình yêu đầu của hắn, tôi và hắn đã lạc mất nhau vì cuộc sống, vì gia đình, vì nhiệm vụ làm vợ làm mẹ. Đến một ngày như bao ngày bình thường khác, gặp lại hắn trong quán café, ngồi một mình với đôi mắt xa xăm ấy. Hắn vẫn vậy, khi buồn hắn vẫn thích một mình trầm tĩnh…và tôi, stress trong công việc cộng với chút chênh vênh trong cuộc đời đã dẫn tôi đến đây – cũng một mình.
Chúng tôi quay lại với nhau như ngày đầu, trong sáng và giản dị. Dù hơn nữa đời người đã trôi qua nhưng lúc ta gặp lại tình bạn thuở học trò thì lòng ta trở nên thanh thản và vô tư đến lạ. Tôi và hắn tìm về với nhau để lúc vui buồn có thể neo bến đỗ trong nhau.
Sưu tầm
Kết quả hình ảnh cho tiếng rao đêm

 Tiếng rao đêm
Thương thay những tiếng rao đêm,
Cô đơn lạnh lẻo qua thềm trong mưa...
Dẫu khi trăng lặn sao thưa,
Một mình một bóng vẫn chưa quay về...
Đôi vai quang gánh nặng nề,
Quản gì mệt nhọc ê chề một thân....
Đôi khi ao ước một lần,
Giờ nầy ấm áp quây quần bên con !
NM

Một tiếng rao đêm canh cánh một nỗi lòng

Ai biết được đằng sau xe hàng rong ấy là cả một gánh nặng trên vai, có thể là những đứa con đang học hành dang dở, có thể là người nhà bệnh tật, có thể là nỗi lo cơm áo, gạo tiền hằng ngày. Thế nên
mới có những tiếng rao đêm.
- Ai xôi lạc, bánh khúc đây?
- Chắc tiếng rao này là đặc sản của Hà Nội chị nhỉ? – Con bé cùng phòng với tôi cất tiếng hỏi.
- Ừ, tiếng rao đêm...
Đã 12h30 đêm rồi, tiếng rao quen thuộc của các cô chú lại vang lên đều đặn. Chúng tôi nghe nhiều đến mức như cái gì đó quen thuộc. Có những đêm thức đến tận hơn 1h sáng vẫn nghe xuất hiện tiếng rao ấy. Ban đầu tôi còn thắc mắc với đứa bạn cùng phòng là:
- Ê mày! Ở Hà Nội có kiểu rao hàng đặc biệt thế? Mày có nghe người ta rao “Tôi là bánh khúc đây không?
Nhỏ bạn nhìn tôi phì cười:
- Xôi lạc, bánh khúc đây, con ngố ạ! - Rồi hai đứa bật cười.
Thấm thoắt gắn bó với Hà Nội 4 năm, đó là những ngày tháng nuôi dưỡng tâm hồn tôi không còn ngây dại, bâng quơ như hồi mới từ quê ra. Tôi chứng kiến nhịp sống nơi đây tấp nập, hối hả, bon chen,… Nhưng giờ thì tôi thấm thía hơn nữa cái nhịp sống về đêm ở Hà Nội – im lặng, yên ắng và cực nhọc mưu sinh.
Rồi một ngày tôi bắt gặp câu hỏi: “Thế nào là miền đất đáng sống?”. Tôi chợt nghĩ ngay đến những tiếng rao đêm của Hà Nội – tiếng rao mà theo bé cùng phòng tôi bảo là đặc sản của Hà Nội.
Tôi chưa vội nói thế nào là một miền đất đáng sống, tôi ngẫm một chút về tiếng rao đêm, ngẫm một chút về những người bán hàng rong nơi phố phường tấp nập, nơi thủ đô phồn hoa này.
Về đêm, con người ta dường như ước muốn được về nhà, ăn bữa cơm với gia đình, được ngả lưng vào chiếc giường nghỉ ngơi sau ngày dài mệt nhọc. Thế nhưng những con người ngoài kia vẫn lặng lẽ với chiếc xe chở xôi, bánh khúc, ngô luộc, bánh rán đi khắp mọi ngõ ngách phố phường Hà Nội.
Về đêm, con người ta nhà nhà ấm cúng, chốt cửa cài then như thể đoàn viên. Vậy mà những người bán hàng rong vẫn lặng lẽ, âm thầm đạp chiếc xe 
trên con đường tĩnh lặng.
 
Ai biết được đằng sau xe hàng rong ấy là cả một gánh nặng trên vai, có thể là những đứa con đang học hành dang dở, có thể là người nhà bệnh tật, có thể là nỗi lo cơm áo, gạo tiền hằng ngày. Thế nên mới có những tiếng rao đêm.
Những đêm đi dạy thêm về, ngồi đợi xe bus, có cô lại mời gọi:
- Cháu ơi! Mua giúp cô mấy cái bánh với để cô còn về”.
Nhìn hình ảnh cô ấy gầy guộc, giản dị, ăn mặc chân phương và khuôn mặc khắc khổ, lòng đột nhiên se lại. Trộm nghĩ: “Làm thế nào để không còn những con người khắc khổ như này nữa đây?”
Rồi ngày lễ 8/3, con đường tràn ngập sắc hoa và quà. Đó là ngày mà tất cả phụ nữ trên thế giới được tôn vinh, được nhận những món quà tuyệt vời. Tôi cũng xúng xính váy áo đi chơi, đang mải miết phấn khởi với cuộc vui, đột nhiên nhìn qua lớp kính xe bus, thấy bóng dáng người phụ nữ tầm 40 tuổi gì đấy đang cầm chiếc xẻng xúc từng xẻng đất bồi vào đường. Có gì đó nhói trong lòng, thiết nghĩ: “Cái quan tâm của người phụ nữ ấy đâu phải là hoa, là quà, mà đó là sự ấm no, bình yên cho gia đình họ”.
Có một tối trời mưa tầm tã, tôi vội vã cầm chiếc ô phi nhanh ra bến xe bus về nhà kẻo muộn. Vừa chạy, tôi đột nhiên khựng lại khi thấy trên cầu đi bộ Nguyễn Chí Thanh có một người phụ nữ thân hình bé nhỏ, gầy rộc đang gánh một gánh ổi đi rất nhanh, không áo mưa, không ô, chỉ có độc chiếc nón cũ kỹ nhuốm màu sương gió. Trái tim tôi như có gì đó chặn lại, cổ họng nghẹn ứ. Tôi nghĩ về số phận những con người bé nhỏ kia.
Rồi có những sáng đi học thể dục rất sớm, 5h30 đã lọ mọ đi mua xôi còn lấy sức học. Gặp cô bán xôi cười nói xởi lởi:
- Ôi! Các con đi học sớm thế?
Thiết nghĩ: “Cô dậy để chuẩn bị xôi còn sớm hơn bọn con nhiều mà”.
Và còn nhiều lắm những khuôn mặt khắc khổ mà tôi gặp trên đường hàng ngày, tất cả như phơi bày ra một cuộc sống mưu sinh đầy vất vả.
Tôi chẳng phải chính trị gia, chẳng am hiểu nhiều về chính trị, chẳng vội bận tâm đến những chính sách vĩ mô mà nhà nước đề ra.
Tôi chỉ biết rằng miền đất đáng sống là nơi không còn những con người lầm lũi, mưu sinh trong đêm đông lạnh giá, trưa hè oi ả. Là nơi không còn những con mắt ráo hoảnh dành cho nhau.
Mỗi ngày trôi qua, tiếng rao đêm tôi vẫn nghe đều đặn, có lẽ những người cất lên tiếng rao đêm vẫn cứ âm thầm và đầy cam chịu. Cứ nghĩ đến cảnh mình được cuộn tròn chăn ấm, nệm êm giữa mùa đông lạnh giá, còn những con người ngoài kia chân tay ê buốt vẫn phải lăn lộn để bản thân, gia đình được ăn no, mặc ấm. Họ chẳng quan tâm đến cái gì gọi là “ăn ngon, mặc đẹp” như người ta vẫn nói về cuộc sống của thế kỷ hiện đại cả. Ấm cái thân, no cái bụng nghe tưởng chừng như đơn giản nhưng nhiều người vẫn còn không có được điều đó. Nghe mới bi ai làm sao?
Nhiều lúc sực nghĩ mình có trái tim ấm nóng nhưng có làm được gì cho những con người ngoài kia không? Trong khi mình cũng đang vất vả làm việc lo cho chính bản thân và gia đình. Chỉ khác biệt với những con người khắc khổ kia đó chính là mình không phải cất lên những tiếng rao đêm…
Chẳng có một ai muốn đêm đông lạnh giá phải lọ mọ đi rao hàng kiếm tiền cả, chẳng ai muốn giữa cái nắng gắt gỏng đến bỏng da, bỏng thịt phải ngồi ngoài đường để kiếm kế sinh nhai cả. Mồ hôi rơi, nước mắt rơi, dáng người cứ thế hao mòn, liệu bạn có muốn mình có cuộc sống như vậy hay không? Hiện thực vẫn là hiện thực, trốn tránh hiện thực nghiệt ngã chỉ tội làm cho bản thân mình thêm vô cảm và ích kỷ hơn thôi. Ta ấm no, người khác cũng muốn ấm no. Ta hạnh phúc, người khác cũng muốn hạnh phúc. Nhưng đó lại là khát khao cháy bỏng của cơ số người ngoài kia.
Một tiếng rao đêm canh cánh một nỗi lòng...


Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

Nhạc - Thơ - Văn Con dốc mù u

Hình ảnh có liên quan
Thương con dốc nhỏ 
Về thăm con dốc mù u,
Tuổi thơ xa lắc, tình thu vẫn còn...
Đường đời trăm dạ héo hon,
Dốc Mù u đó đâu còn như xưa !?
Nhớ khi sáng nắng chiều mưa,
Hàng tre dốc cũ sớm trưa vui đùa...
Hỏi lòng ta đã quên chưa,
Chìm trong ký ức ngỡ vừa thương vay !
Thương sao tro trấu bụi bay,
Lấm lem mà cứ mê say vô ngần...
Liu xiu nghiêng ngã bước chân,
Biết bao cơ cực tủi thân nhọc nhằn...? 

Đường trần giờ lấm bụi trần,
Ngỡ quên sao lại muôn phần vấn vương ?!
Ơi, con dốc nhỏ bên đường,
Vẫn luôn còn đó tình thương ngày nào !!
NM

Con dốc mù u

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
 Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Con dốc mù u, con dốc mù u. Lâu quá rồi không ai nói với tôi về con dốc ấy. Tôi cũng sắp quên cái tên ấy rồi, dù nó cách nhà tôi có mấy bước chân, lần nào về quê, tôi cũng dắt cậu nhóc con của mình lên đầu dốc hái hoa, bắt bướm.
Con dốc mù u, mà chẳng có cây mùa u nào dọc theo dốc. Chỉ có rặng tre già rợp bóng bên ni đường, bên kia là bờ đất cao ngút mắt đứa trẻ tôi bảy tuổi. Men theo rặng tre là tuổi thơ tôi với những trưa hè trốn ngủ đi bẻ vít quay chơi. Chẳng biết có lứa trẻ thơ nào ở đâu đó trên dải đất nhiều tre này cũng chơi vít tre như chúng tôi ngày đó. Quay sao cho vít không đứt mà càng dẻo càng dai, sẽ thắng. Trò chơi ấy có gì mà vui thế, thắng cũng có được quà gì đâu. Mà giữa phố phường đông đúc, nhiều khi thèm đến run người một bờ tre, để rúc vào, bẻ một cái vít. Và nắn nót quay.
Con dốc ấy, là cao lắm, với đôi chân trẻ con lũn cũn. Ngỡ như vo mình lại, thả từ đầu dốc, sẽ lăn cù tới tận giếng Đàng Truông. Dốc cao thế, nên mỗi khi xuống dốc cứ vừa đi vừa chạy, khi ngược dốc thì… vừa bò vừa thở, muốn đứt hơi.
Ấy thế mà có phải đi không đâu, anh em tôi phải khiêng một thùng nước đầy từ giếng Đàng Truông về. Khi anh Hai tôi đi học xa, tôi lại thế chỗ đứng sau, phía trước cây đòn gánh là con bé Nhỏ. Những mùa hè khô hạn, chị em tôi phải thức thật khuya mới mong múc được nửa gàu nước trong mà đổ thùng khiêng về. Đường tối đen, ánh đèn pin hiu hắt, hai chị em cứ bặm môi leo dốc. Leo đến đầu dốc coi như có thể thở phào.
Đầu dốc mù u là nhà chú Hào máy gạo. Nhà chú Hào ở trên bờ đất cao thật cao, phải leo mười mấy bậc tam cấp mới tới. Chị em tôi hầu như ngày nào cũng leo lên những bậc tam cấp, sục vô buồng trấu, tranh giành từng mẻ trấu với lũ trẻ cùng xóm.
Nhiều khi, chúng tôi cứ hồn nhiên giành nhau khi trấu từ máy gạo cứ phun ra không dứt, mặt đứa nào đứa nấy dính đầy hoa trấu. Trẻ nhà quê mà, ngại chi mấy chuyện xót ngứa cỏn con đó. Trấu xúc được, cho vào bao hay mủng nén chặt, lại còng lưng vác về. Không cẩn thận là ụp luôn cả trấu cả người xuống đất, coi như bữa đó khỏi nấu ăn. Nhiều khi bị té, tôi giậm chân, ấm ức khóc, nhà chú Hào chi mà cao thiệt là cao.
Tôi ngỡ đã xếp gọn những ký ức về con dốc vào ngăn quên của lòng, khi dòng đời đẩy vào tôi bao nhiêu điều lo nghĩ khác. Mà có lẽ tôi cũng sắp quên thật, chỉ là một con dốc thôi mà. Nhưng cứ mỗi độ đông về, giữa những giấc ngủ chập chờn hay những giấc mơ sâu êm đềm trong chăn ấm, tôi lại thấy mình quẩn quanh bên những bao than to, rón rén nhặt những cục than rơi vãi.
Đó là những buổi chiều đông, dốc mù u nhộp nhịp tiếng nói cười. Người lớn lớp đi lớp đến, họ gồng người cân những giỏ than to trên chiếc cân đòn, rồi giở than ra, xếp vào bao chất lên xe bò. Con nít chúng tôi thì chờ những vụn than rơi xuống, lựa những cục không quá nát cho vào bao.
Cũng có khi tôi vớ được cục than to cỡ bắp chân, mừng khôn xiết. Trời mùa đông, chưa chi đã sập tối. Tôi hí hửng chạy về nhà giữa tiếng ếch rộn vang khắp xóm làng, tay giữ khư khư bao báu vật của riêng mình, lòng vui như vừa làm được điều gì to lớn lắm.
Niềm vui trẻ thơ, giản dị là vậy. Chị em tôi mang những bao than vụn ra, cho vào nồi tro, nhen lửa rồi phùng má lên thổi. Vậy là có ngay một nồi than hồng đặt dưới gầm giường, tha hồ mà ấm áp dù mưa đêm tỉ tê hay gió rít qua khe cửa, dù áo con nhà nghèo thì sao đủ ấm, đủ dày.
Con dốc mù u. Con dốc của tuổi thơ tôi hớn hở chạy theo xe bắp bung để chăm chú nhìn chiếc máy thần kỳ hô biến vốc hạt bắp trộn đường thành dây bánh dài thơm, hay những ngày giáp Tết, tôi chàng ràng bên nồi gang của thím Trà để nhặt những hạt nổ trắng như bông. Con dốc mỗi lần đi xe đạp, cả xuôi hay ngược dốc, tôi đều phải trèo xuống dắt bộ. Con dốc tôi đẩy xe bò cho ba chở lúa về nhà.
Vậy mà tôi suýt nữa quên tên nó. Chỉ vì lâu không nghe ai nhắc đến? Hay vì con dốc tôi dắt con trai đi chỉ lá chỉ hoa không còn là con dốc cao với đất mềm cỏ ướt dưới chân mà đã là đường bê-tông thẳng tắp?
May mà, còn những giấc mơ, dịu dàng lay gọi tôi giữa đường đời mê mải. Để tôi lại nghe như tiếng ai thì thầm bên mình đầu con dốc mù u. Rằng những hòn than nhỏ, sưởi ấm cả chặng đường thăm thẳm gập ghềnh…

NGÔ THỊ THỤC TRANG
Kết quả hình ảnh cho Mù u trên sông
  Nỗi buồn mù u
Mù u hoa trắng nhuỵ huỳnh,
Gió lay hoa rụng linh đinh sông buồn !
Chiều quê con nước sầu tuôn,
Nhớ người viễn xứ tha hương chưa về...
Còn đây một tấm chân quê,
Mù u soi bóng lê thê nỗi buồn !!
NM
Dưới cội mù u 
Mấy dòng này tôi viết cho bà ngoại, cho má, cho những người thân yêu nhất đời tôi, và cho những miền ký ức đã xa. Đó là miền ký ức có cội mù u nghiêng mình dưới dòng kinh xáng, có những mùa nước nổi linh đinh trái mù u chín rụng và có những đêm leo lét dưới ánh đèn mù u thuở khó nghèo. Chuyện đời, chuyện tình dưới cội mù u.
Hồi còn sống, thỉnh thoảng ngoại lấy gói đồ gói trong chiếc khăn tay được giữ kỹ trong lòng chiếc lư hương lâu đời, lau chùi cẩn thận. Đó là đôi bông mù u nghe đâu đã truyền 3- 4 đời. Giờ, ngoại để lại cho má tôi, má vẫn thiêng liêng gìn giữ. Tôi cứ thắc mắc hoài sao gọi là bông mù u khi mà làm bằng vàng y 2 chỉ. Và rồi nhìn những trái mù u rụng trắng sân nhà, tôi tự trả lời cho mình. Mấy hôm rày, con dâu út về thăm má, má lụi hụi lấy đôi bông mù u trao lại cho vợ tôi, dặn kỹ: “Cất nghe con, cất cho kỹ. Nghèo khổ tới đâu cũng phải giữ”. Dâu út vừa mừng vừa lo, cái mà má kêu giữ là giềng mối, gia phong của dòng họ.
Tôi lớn lên, cây mù u đã cao lớn trước nhà, gie ra mé kinh. Giờ, mấy mươi năm sương gió đời người, về lại quê, mù u vẫn đón tôi bằng những chùm hoa trắng ngần, hương đưa ngào ngạt. Tôi gọi đó là mùi của quê hương. Xứ tôi có điện hơn chục năm nay, trước kia phải thắp sáng bằng đèn dầu nhưng không phải lúc nào cũng có tiền để mua dầu. Tôi được má cắt cử đi lượm trái mù u già chín rụng trôi trên dòng kinh. Má và các chị đem về đập vỏ, lấy ruột bên trong giã nhuyễn, trộn với bông gòn, “xỏ lụi” thành từng xâu, đem phơi khô để dành đốt. Đèn mù u cháy, tỏa ra mùi dễ chịu chính là ánh sáng má dành cho tôi trong những buổi tối ê a con chữ, trong những câu chuyện cổ tích quê mình. “Lục lăng” như tôi thì mê nhất là trò bắn đạn “cu li”. Thật ra, đạn cu li làm bằng thủy tinh, bán nhiều ở chợ nhưng thằng nào có trong tay chục viên đạn được coi là “đại gia” trong nhóm. Tôi cùng thằng Cò, thằng Thanh… rủ nhau đi vớt mù u già làm đạn. Những ngón tay thuần thục, dẻo quẹo bắn đạn mù u xa phải biết. Đạn mù u còn được lũ trẻ chúng tôi dùng để làm đạn ná bắn chim, ai bắn giỏi được mấy cô bạn gái đi chung để ý ít nhiều. 
Nhắc đến cây mù u, tôi lại nhớ da diết tấm thớt mù u của ngoại, nhớ dáng ngoại liêu xiêu trong khói bếp chiều tà. Tấm thớt mù u có từ năm nào chẳng rõ mà ngoại dùng riết lên nước bóng ngời. Ngoại nói, thớt mù u không lên dăm, xài hoài tốt hoài, tốt nhứt trong các loại thớt. Từ tấm thớt mù u, ngoại vun vén cho con cháu những bữa cơm ngon, những âm ba dư vị mà giờ chỉ con trong ký ức. Ngoại xa rồi…

Trẻ quê với trò bắn đạn mù u. Ảnh: DUY KHÔI 
Dưới cội mù u trước nhà, mỗi bận tôi đi học xa ở huyện về đều thấy cô nàng gánh nước mỗi chiều. Hỏi má, má nói cô Hai, cháu của bà dì kế bên, cha mẹ rủi sao bị bệnh mất hết nên về ở với ngoại. Cô gái có nụ cười duyên, gương mặt đượm buồn. Mỗi đêm, chẳng biết cô đọc sách gì mà ngồi chăm chăm dưới ngọn đèn mù u. Tôi thương rồi hình dáng ai đó mỗi chiều gánh nước ở bến sông bên gốc mù u già. Hồi còn sống, ngoại hay nói vui mấy câu này
 “Đèn mù u khi lu khi tắt 
  Đèn cầu sắt khi đỏ khi xanh  
Anh có thương em đừng dỗ đừng dành  
Gái ngoan thì chọn trai lành, lo chi” 
Những buổi chiều về, tôi cắt tỉa mấy cây kiểng của cha, cô gái lại gánh nước, vẫn nụ cười duyên làm xao xuyến lòng tôi. Vậy mà sao một đợt đi học nữa về, nghe tin cô đã có chồng, lấy anh Sến chủ nhà máy chà gạo bên kia sông. Tôi buồn mà chẳng đau bởi đó chỉ là những mộng mị tuổi học trò. Má tôi thấy con buồn buồn, liền dỗ dành: 
“Mù u bông trắng, lá quắn, nhụy huỳnh 
  Người ta không nghĩ tới mình thì thôi” 
Cha tôi thì tánh hay cà rỡn: 
“Mù u bông trắng, lá quắn, nhụy huỳnh  
Thấy em gánh nước một mình anh thương” 
Mới hay, đi hết cuộc đời, cha má vẫn hiểu tôi ngọn ngành hơn cả. Hơn năm sau, tôi đã là sinh viên năm nhất, về quê, buổi tối ngó sang nhà bà dì, vẫn leo lét ngọn đèn mù u, nhưng cô Hai không còn đọc sách mà nằm đưa võng ru con, chẳng biết giọng buồn hay vui: 
“Bướm vàng đậu đọt mù u  
Lấy chồng chi sớm tiếng ru thêm buồn” 
Mối tình đầu của tôi là vậy, dưới cội mù u dậy hương bông trổ. Mối tình đi theo tháng năm dần quên lãng mà gốc mù u và cô gánh nước năm nào vẫn là hình ảnh đẹp trong tôi.
* *  * 
Nhà tôi ở một doi đất, cây mù u già tôi kể không biết có tự khi nào. Bà tôi nói thời còn con gái đã thấy cây mù u cao lớn; bà dì hàng xóm còn lớn tuổi hơn, nói khi về làm dâu xứ này đã lượm mù u dưới gốc cây. Rồi không biết hồi nào, doi đất ấy gọi là doi Mù U. Nhà tôi ở doi Mù U, đi đâu xa về nhác thấy bóng mù u vờn khuất là biết đã đến xứ nhà. 
Dân xứ tôi có câu đố rất hay về loài cây này: 
“Một mình hai tật đành cam
Trời sinh phải chịu biết làm sao đây”
 

Chẳng thể nào lý giải được cái tên mù u: “đã mù mà còn u”- bọn trẻ chúng tôi thường nói vậy. Tôi nhớ linh đinh mùa nước nổi quê mình, cùng các bạn trèo lên cây mù u rồi nhảy ùm xuống kinh, dòng nước đỏ phù sa như tưới mát tâm hồn tuổi thơ. Vì suốt ngày vào rừng, tắm sông, lội sình nên chúng tôi thường bị ghẻ nhọt. Những lúc ấy trái mù u như cứu tinh. Má lấy ruột trái mù u đâm nhuyễn lấy nước thoa lên vết thương, vậy là một hai ngày vết thương ráo mặt rồi lành ngay. Những lúc gặp mùa mề đay, má đốt bếp un trước nhà, bỏ lá và trái mù u vào đốt cho ra khói rồi hơ lên người. Hay thật, lúc sau những mụn mề đay “lặn” mất tiêu. Những tri thức dân gian đó giờ được khoa học ghi nhận, đã có nhiều nhà máy ra đời chỉ để chiết xuất tinh dầu mù u quê nhà. 
Ông ngoại tôi thường đốn mù u để đóng xuồng, xài dưới nước rất bền. Xuồng mù u cũng là loại rẻ tiền nhưng 5-7 năm vẫn chưa thấm tháp gì. Ngoại nói cây mù u có chất dầu nên mối mọt “ngán”. Những gốc mù u quê tôi chằng chịt thẹo vết vì bom đạn chiến tranh, những vết hằn thời gian của một thời khói lửa. Ông ngoại còn kể cho tôi nghe chuyện đời xưa, hồi trào Tự Đức, khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã Tắc, lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Bọn giặc té sấp úp sấp ngửa, chạy tán loạn. Bởi thế mà có câu ca rằng: 
“Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó lên Xã Tắc hai hàng mù u”
Mù u theo tôi bằng câu chuyện ngày xưa ông ngoại kể, thân thuộc với người miền Tây đến đỗi đi đâu cũng thấy. Cây mù u chẳng ai trồng mà vẫn xanh tốt, thẳng đứng giữa bão tố phong ba. Vậy rồi chẳng hiểu lẽ nào, cái tên mù u lại gợi chút nỗi niềm, một sự bẽ bàng, lỡ làng nào đó. Thử chiều chiều ra đứng hàng ba, ngó đám ong bầu vờn đọt mù u, nghe hương đưa trong gió trong mưa mà lặng lòng đến lạ. Nỗi u hoài chắc chỉ có ở người lữ thứ, tha phương. 
Miền Tây một thuở mà cái gì nhiều, đông cũng được ví như mù u rụng. Cố nhà văn Sơn Nam từng có những ví von rất hay trong truyện ngắn của mình: “Cá sấu nhiều như mù u chín rụng”, “Cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù”… Mù u quê tôi giờ đi vào câu ca, điệu hát, vào những vần thơ, dòng văn như hình ảnh đẹp của ký ức quê nhà, của hoài niệm chuyện xưa tích cũ. Tôi thì vẫn nhớ cội mù u trước nhà, nhớ doi Mù U quê hương và nhớ cô Hai gánh nước thuở nào, xin gửi trôi theo mù u chín rụng, tan quyện vào hương bông trắng nhụy huỳnh.
Dưới cội mù u, chuyện đời miền Tây tôi xin kể…

ĐĂNG HUỲNH

Ca dao Me
Mù u nhỏ rễ ăn lan
Sợ mình nói gạt qua đàng đấy thôi
Phụng hoàng chấp cánh bay xuôi
Liệu bề thương đặng, mình ơi, tôi chờ.
Nước lên khỏi bực tràn bờ,
Thương mình thương vậy, biết chờ đặng không?
Đặng không tôi cũng gắng công
Đợi cho con cá hóa rồng sẽ hay
Gặp mình may quá là may
Trông cho trời tối bắt tay đặng về
ST
MÙ-U NĂM NGOÁI
Trái gì bằng trái cau mà lại đau hai tật?
Là trái mù u: vừa mù lại vừa u! Mù u! Cái tên thật nôm na, bình dân, có gì nói nấy, phơi bày không một chút giấu giếm hình ảnh của một sự tối tăm, mùa lòa, bệnh tật.
Nhưng xin đừng tưởng cây mù u là một cây tầm thường. Một anh bạn của tôi, bác sĩ Nguyễn Hy Vọng, cho biết ở Huế có câu tục ngữ:
Văn thánh trồng thông, võ thánh trồng bàng
Sơn hà xã tắc hai hàng mù u.

Nghĩa là cây thông và cây bàng được dùng để trồng trước cái miếu thờ quan văn và quan võ, còn cây mù u thì lại được trồng ở cung điện của vua chúa. Cái lý do sâu xa thì không ai rõ, chỉ biết rằng cây mù u có tên khác rất đẹp là bạch mai. Nhà văn Nguyễn Văn Ba cho biết ở Hà Tiên có loại mù u bạch mai này và ngay trước lăng Mạc Cửu có trồng một cây bạch mai cổ thụ (Chính phu nhân của anh Ba là nhà văn Nguyễn Bạch Mai cũng đã dùng cái tên đẹp của mù u làm bút hiệu).
Gọi là bạch mai có phải vì bông mù u có những cánh nhỏ bao quanh nhụy vàng ở giữa giống bông mai chăng? Dù sao, ngoài màu trắng tinh khiết, bông mù u còn tỏa ra một hương thơm nhè nhẹ. Trong một chùm bông mù u, bên cạnh những bông còn hàm tiếu và những bông đã mãn khai là những trái mù u nhỏ, mỗi trái tròn bằng đầu ngón tay út, xinh xắn. Với thời gian, những trái mù u ấy dần dần trưởng thành, vóc dáng nẩy nở, tròn trịa hơn, lớn bằng ngón chân cái hay hơn, nước da xanh mơn mởn pha chút màu vàng khi trái mù u sắp chín.
Thật không có trái cây nào tròn như trái mù u. Nhãn, dâu ta và bòn bon cũng tròn, nhưng mù u vượt tất cả về điểm này. Nó tròn như một quả cầu kỷ hà học. Ẩn dưới lớp vỏ mỏng của mỗi trái mù u là một cái hột cứng (có thể gọi là cái sọ như sọ dừa) cũng tròn không kém. Phía trong cái hột cứng là cái nhân tươi, giòn, màu vàng xanh, chứa nhiều dầu. Chính nhờ ở chất dầu này mà trái mù u được nhiều người biết và nhớ tới.
Dầu mù u tên tiếng Anh là tamanu, cây mù u tên là Poon tree (theo tiếng Mã Lai là Punna). Tên khoa học của cây mù u là Calophyllum Inophyllum. Cây mù u là một loại đại mộc cao tới 20 thước, có họ hàng với cây măng cụt (lá mù u giống lá măng cụt, dày và có nhiều gân). Tên theo sách thuốc Đông y là Hồ Tòng Lệ.
Thân cây mù u cũng chứa nhiều mủ màu xanh thường thấy rịn ra ở vỏ. Cũng nhờ thân cây mù u có nhiều dầu nên gỗ mù u khó thấm nước và được dùng đóng ghe, xuồng. Tôi có một người dượng ở làng Nhơn Nghĩa cả ngày chỉ một mình cặm cụi cưa một thân cây mù u thật lớn và xẻ ra thành từng miếng ván mỏng, để rồi sau đó, cũng không nhờ ai giúp, đóng ra cho được một chiếc xuồng xinh xắn.
Mủ mù u có dược tính là có thể chữa được các bệnh ghẻ, nhọt, nhất là những mụn nhọt nổi từng cục lớn như cục u trên đầu. Không biết có phải tại vì mủ cây ấy trị được u nên gọi là cây mủ u rồi lâu ngày đọc trại ra mù u chăng? Cũng có người gọi cây mù u là cây dầu u, và cũng không biết có phải dầu cây ấy trị được các cục u nên gọi là cây dầu u hay không. Dù sao đó cũng chỉ là những phỏng đoán, không bằng cớ đích xác. Điều chắc chắn là mù u là một loại cây rất quen thuộc và thông dụng với người Việt miền Nam.
Ở thôn quê miền Nam, mù u thường mọc theo bờ sông, rạch. Có lẽ từ một bờ rạch nào đó một trái mù u rụng xuống nước rồi theo dòng sông trôi đến đây để nảy mầm, mọc rễ. Các sông rạch ở nước ta đa số theo thủy triều lên xuống mà có nước lớn và nước ròng mỗi ngày hai lần. Vì vậy nên khi nước lớn, có những trái mù u từ ngoài sông cái trôi vào và khi nước ròng có những trái mù u khác từ trong các ngọn ngành trôi ngược trở ra. Những trái mù u này, nếu gặp thuận duyên thì trôi ra đến tận biển và biết đâu trong số đó chẳng có những trái sẽ viễn du qua các xứ Mã Lai, Nam Dương...
Ở vùng Hậu Giang, chẳng những trái mù u trôi lênh đênh để mặc sóng nước đẩy đưa, người ta còn có thể vớt được những trái mù u do những chiếc "bè súc" đem đến.
Bè súc là những chiếc bè bằng tre cặp theo những thây cây đủ loại thật lớn đã cắt bỏ nhánh và ngọn gọi là cây súc. Tre dùng làm bè là loại tre rừng rất lớn, đường kính rộng bằng cái chén ăn cơm hay lớn hơn, ruột bộng, tre khô thả xuống nước nổi phêu như một cái phao. Nhiều cây tre như vậy kết lại thành một cái bè. Mỗi cây súc được hai bè tre cặp hai bên để cho khỏi chìm. Một chiếc bè súc lớn do tàu kéo trên sông có khi gồm vài chục cây súc. Những bè súc này từ những khu rừng rậm ở thượng lưu sông Hậu được tàu sà-lúp kéo theo hướng Đông Nam về Cần Thơ, để rồi từ đó phân phối cho các trại cưa ở ven các sông rạch nhỏ hơn như Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền hay là xa hơn nữa như Cầu Nhiếm, Ba Xe, Rạch Gòi v.v...
Những buổi trưa nắng, một mình tung tăng chạy nhảy trên một bè súc cặp dưới bến một trại cưa để lượm mù u là một cái thú. Dưới chân là thân những cây súc đã lột vỏ, bóng láng, mặt trời chiếu nóng như nung. Lấy tay vớt những trái mù u lên ngửi, một mùi chua chua, thiu thiu đặc biệt của lớp vỏ mục nghe thoang thoảng. Có những trái mù u còn nguyên vỏ, có những trái bị tróc hay dơi gậm một miếng vỏ lớn để lộ cái sọ mù u bên trong. Có những trái ngâm mình dưới nước ướt sũng, những trái khác bị sóng đánh nhảy vọt và vướng vào dây mây dùng cột bè trên cao, vỏ đã khô đen, nhăn nhúm. Mà chẳng những lượm được mù u không thôi, người ta còn có thể lượm được nhiều thứ trái cây khác trôi tấp vào bè: bần, cam, bưởi, cau v.v... Cũng có nhiều thứ bông như bông sứ, bông chúa, bông phù dung, bông tra, bông cây sao với hai cái đuôi, bông gòn với những sợi lông mịn giống như tai của một con mèo con. Có những chiếc lá rất lạ, hình dáng kỳ dị, chiếc còn xanh, chiếc đã vàng úa, lốm đốm những vết nâu. Rồi còn bèo nữa. Những cánh bèo lớn nhỏ đủ thứ bị giạt vào bè giờ đây nằm phơi nắng, những bông tím rung rinh và héo dần dưới làn gió sông có lúc nóng hừng hực.
Mù u lượm từ những chiếc bè như trên có khi vừa lượm vừa chơi một lát đã đầy rổ. Kể cũng là nhiều rồi đó, nhưng không bằng lượm ngay dưới gốc cây mù u mọc ven sông. Chỉ dưới một gốc cây mù u thôi, người ta có thể lượm được vài chục trái. Nhiều khi trái mù u rụng do nước mưa chảy hay nước sông dâng lên làm cho trôi và lăn lại nằm gần nhau như những cái trứng trong một ổ trứng, tha hồ mà hốt! Ngoài ra cần phải nhớ tìm lượm thêm những trái đã rụng từ lâu nhưng nằm khuất dưới lớp lá mục
Mù u lượm về được đem đổ ra phơi ở sân như phơi lúa. Ở thôn quê, nhà nào cũng có một cái sân phía trước, nền đất nện cứng, quét dọn sạch sẽ, và thường thì nhà nào cũng có mù u, trải phơi ở sân.
Trẻ con chơi trong sân hay quanh nhà cứ ra chỗ phơi mù u lựa lấy những trái thật tròn và thật lớn để làm đồ chơi. Muốn làm một món đồ chơi nào đó, trước hết phải lấy một con dao nhỏ cạo cho sạch lớp vỏ bao bọc chung quanh cái sọ mù u. Đoạn mài cái sọ ấy xuống nền xi măng hay dùng giấy nhám đánh cho láng. Thế là có một hòn đạn (hòn bi) dùng chơi bắn đạn. Một đứa trẻ có thể có hàng chục hòn đạn như vậy. Muốn làm một món đò chơi khác như làm một cái ống điếu chẳng hạn thì lấy dao cưa phần trên của sọ mù u rồi moi cho hết cái nhân ở bên trong, xong khoét một lỗ nhỏ bên hông và gắn vào đó một cái ống trúc dài độ bảy, tám phân là thành cái ống điếu. Cũng có thể làm một cái chong chóng bằng một miếng tre mỏng, trục chong chóng là một cọng tre cho đâm xuyên qua trái mù u đã moi ruột. Đoạn dùng một sợi dây nhỏ quấn vào trục rồi kéo mạnh làm chong chóng quay tít.
Trẻ nhỏ thì chỉ chơi với mù u đại khái như trên, nhưng người lớn thì dùng trái mù u để làm một món đồ thực dụng: một cái gáo nhỏ dùng múc nước mắm. Lựa một trái mù u thật tròn và thật lớn, gáo còn tươi màu vàng, cưa miệng và moi ruột như vừa nói, đoạn khoét hai lỗ nhỏ gần miệng để tra vào một cái cán tre là xong. Cái gáo mù u giống hệt cái gáo dừa thường dùng để múc nước, nhưng nhỏ xíu và trông thật dễ thương. Hình ảnh một cái gáo mù u nhỏ xinh xắn do một cô bán hàng rong dùng múc chút nước mắm tỏi ớt chan lên dĩa thức ăn trước khi trao tận tay mình một buổi trưa hè là một hình ảnh không thể quên được.
Nhưng mà trái mù u không phải chỉ được dùng để chơi hoặc để làm đồ dùng trong việc ăn uống thôi đâu. Còn nhiều công dụng khác nữa. Ở nhà quê không có đèn điện, nhà nào nghèo không có tiền mua dầu lửa đốt đèn thì dùng đèn dầu mù u. Mù u phơi khô đập lấy ruột rồi dùng máy ép để ép lấy dầu. Máy ép dầu mù u rất đơn sơ, cốt yếu chỉ là hai khúc gỗ lớn ép lại với nhau, có khi hai khúc gỗ ấy lại chính là gỗ mù u!
Cây đèn dầu mù u lắm khi thật là giản dị: một cái chén hay một cái dĩa đựng dầu có cọng tim nằm vắt lòng thòng ra vành miệng để đốt. Đèn dầu mù u có lẽ hưởng tâm lý của tên gọi nên ánh sáng lúc nào trông cũng có vẻ lù mù. Vả lại dầu mù u khi đốt lên có khói xanh bốc lên bay khắp nơi làm không khí đục mờ. Một căn nhà lá nghèo nàn trống trước hở sau mà đêm đốt lên một cây đèn dầu mù u càng làm tăng thêm vẻ nghèo khổ, cơ cực. Tuy nhiên, nếu bên cạnh ngọn đèn có vài mái đầu trẻ thơ cặm cụi tập đọc, tập viết thì đó là một cảnh tượng cao đẹp, trông thật cảm động.
Ngoài cách đốt đèn bằng dầu, người ta có thể làm những cây rọi để đốt. Mù u ép xong, lấy xác còn lại trộn với một chút bông gòn, tẩm vào một chút dầu mù u rồi quấn vào một cọng tre như làm một cây nhang lớn: đó là được một cây rọi. Một buổi tối nếu đi ngủ sớm chỉ cần đốt một hoặc hai cây rọi là đủ. Cũng có thể đập lấy ruột mù u phơi cho héo rồi xắt ra từng miếng mỏng, đoạn xỏ xâu vào một cọng tre: thế là có một cây rọi kiểu khác. Gặp những năm kinh tế khó khăn, dầu lửa khan hiếm, nhà khá giả ở nơi không có điện thì đốt đèn với mỡ heo, dầu phọng; còn nhà nghèo thì thường đốt với dầu mù u hay dùng cây rọi.
Ngoài việc dùng để đốt lấy ánh sáng, dầu mù u còn được dùng để xức các loại ghẻ, nhọt, mụn u. Đốt một trái mù u cho cháy thành than, đoạn tán than ấy cho nhuyễn và trộn vào một chút dầu mù u là có được một thứ thuốc xức ghẻ hoặc nhọt hay tuyệt.
Nhà nghèo thiếu phương tiện, ăn ở kém vệ sinh, lại gặp lúc xà-bông thiếu thốn không đủ để tắm giặt như trong những năm trước 1945 thì ghẻ chốc tràn lan, nhiều khi cha mẹ con cái ai cũng bị nổi u nổi nhọt đầy đầu đầy cổ. Nhưng không sao, đã có thuốc làm bằng than mù u trộn với dầu mù u để xức! Những mụn nhọt sưng lớn mà chưa bể thường làm nhức nhối, nhưng sau khi xức thuốc như trên thì tụ mủ rất nhanh và mụn nhọt sẽ bể, cái cùi được tống ra ngoài và sau đó vết thương được lành chóng vánh.
Ngoài ra và sau hết, xin nói thêm là trái mù u còn được dùng trong việc hết sức đặc biệt, về quân sự: rải xuống đường cho quân giặc đạp nhằm và trượt té! ai cũng biết là trái mù u tròn và rất cứng, ban đêm đi đạp nhằm những trái mù u phơi ở sân, nhất là khi chân mang guốc, thì trợt té dễ dàng như đi giày trượt có bánh xe! Một anh bạn giáo sư nhắc lại là trong lịch sử kháng chiến chống Pháp, nghĩa quân miền Nam đã rải mù u ngoài đường rồi nằm chờ lính Pháp đi qua trợt té để ào ra bắt sống! Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng, người đã cho tác giả hai câu tục ngữ trích trên đây, cũng cho biết thêm là ở vùng Huế có lưu truyền một bài vè gọi là Vè thất thủ trong đó kể việc quân của triều đình ta đã rải trái mù u ở cửa Ngọ Môn khiến lính Pháp té ngã.
Xem như trên, cây mù u và trái mù u thật là phổ cập, dính liền với đời sống dân Việt, nhất là ở thôn quê hay miệt vườn miền Nam. Người ta có thể tưởng tượng ra một căn nhà cột bằng gỗ mù u, trong nhà đốt đèn dầu mù u, ngoài sân phơi một đống trái mù u và có một đám trẻ chơi với trái mù u, cạnh đó là một thanh niên vạm vỡ đang cưa cây mù u để lấy ván đóng xuồng, và chiếu xuồng đậu ở đầu cầu dưới bến sông cũng làm bằng gỗ mù u! Cái gì cũng là mù u cả! Cho đến trên một chiếc ghe chở hàng đi buôn nào đó cặp bến chờ con nước, người khách thương hồ nằm trong ghe cũng nghe trong lùm cây mù u trên đầu tiếng cánh đập lạc xạc của con dơi bay tìm cạp những trái mù u chín, hoặc thỉnh thoảng nghe được tiếng trái mù u rơi "bộp" xuống khoang thuyền hay "tõm" xuống mặt sông. Và người khách thương ấy bỗng cảm thấy một nỗi buồn nhớ mênh mông dâng lên trong lòng, cảm hứng cất giọng khẽ hát một bài hát theo điệu lý, lý mù u:

Trăng đã lên chơi vơi rừng u
Mù u đã chín ơ
Soi bóng trong khoang ghe rường ơ
Mù u đã rơi...

Đến đây quý bạn độc giả đã thấy nói nhiều về mù u nên chắc hẳn muốn biết tại sao bài này lại có tựa "Mù u năm ngoái".
Xin thưa là nguyên gần đây, trong một chuyến viếng thăm Á châu, người viết có dịp đến dưới một gốc mù u để tìm lượm trái. Lúc đó tôi chợt nhớ lại câu thơ bất hủ trong truyện Kiều: "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Sở dĩ có sự liên tưởng đó vì tôi thấy hoa đào trong câu thơ và trái mù u có một cái gì phảng phất giống nhau. Hôm ấy thật không thấy một trái mù u nào rụng quanh gốc cây cả. Có lẽ vì những người đi trước lượm hết hoặc vì chưa tới mùa có trái chín rụng. Tuy nhiên theo kinh nghiệm, tôi bới tìm trong bụi cỏ và dưới những lớp lá mục thì tìm ra được vài ba trái mù u còn đang nằm ẩn trong đó. Đó là những trái mù u đã rụng từ lâu, từ những mùa năm trước, năm ngoái, và vì liên tưởng tới những cánh hoa đào năm ngoái trong câu thơ Kiều nên người viết xin được gọi những trái mù u ấy là mù u năm ngoái cho có phần thi vị.
Và nói rộng ra, người viết nhận thấy những trái mù u lượm được dưới gốc cây hôm ấy mang hình ảnh của thời ấu thơ ở quê nhà, và có cảm tưởng là chúng đã nằm chờ người bạn cũ tìm đến lượm lên. Vì vậy, nếu trọn câu thơ trong truyền Kiều là "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" thì tại sao đây không phải là "Mù u năm ngoái còn chờ cố nhân", phải không quý bạn?

Huỳnh Hữu Cửu
                         Mù U quê tôi
Ong bầu vờn đọt mù u
Lấy chồng chi sớm lời ru thêm buồn...

Không biết những hàng cây mù u soi bóng bên dòng sông quê tôi có tự bao giờ, có lẽ từ thuở người xưa đi mở đất đã gieo trồng rồi cây bám đất sinh sôi.Thú thật với cán anh chị em rằng , mù u chả ăn được , chả làm gì hết…mà không hiểu sao nó lại đi vào thơ ca , đi vào cuộc sống ngọt lịm và chứa chan tình người như thế , nó len lỏi vào cuộc sống chúng tôi , lủ trẻ chỉ biết ăn rồi chơi không lo toan phiền muộng với cơm áo gạo tiền
Nhánh mù u con bướm vàng không đậu
Anh bao chiều về thờ thẫn qua sông
Sông quê trường làng con đò bên cát lỡ
Chỉ vì em sang mà thành điệu nhớ nao lòng…

Ông nội tôi kể thời ông mới đến cù lao này, ngọn mù u đã cao xấp xỉ mái đình. Thân cây tròn thẳng, có thể cao trên chục mét; lá mọc đối, thon dài, phía gần cuống hơi thắt lại. Hàng năm cứ vào đầu tháng hai, lẩn trong vòm lá xanh rộng là những chùm hoa trắng tinh nở rộ. Hoa mù u lớn, thơm dịu và có nhiều cánh như hoa mai. Lúc ấy, lúa cũng vừa vàng đồng, thế là hương hoa, hương lúa cùng hoà quyện theo làn gió xuân lan toả khắp nơi nơi…
Hình ảnh có liên quan
Rồi khoảng giữa tháng mười, quả mù u bắt đầu ửng chín. Quả căng tròn cỡ quả nhãn. Lúc này vỏ của chúng không xanh mà dần ngả sang màu vàng nhạt, và mỗi khi gió giật, quả lặng lẽ xa cành… 
Gặp những năm cơ khổ, ông nội tôi cùng những người dân trôi nổi, tìm nhặt quả mù u đem về giã nhuyễn, đắp dính vào mảnh tre khô, thắp sáng thay đèn. Lợi ích khác là gỗ mù u còn dùng để đóng ghe, làm cột nhà…rồi làm cái thớt , vì gổ mù u rất chắc . Chất dầu trong quả nếu nấu cô đặc lại sẽ là thứ dùng thay xà phòng hay làm thuốc trị ghẻ lở, thấp khớp… ở những nơi xa thầy, xa chợ…
Nghe ông kể vậy nhưng mãi về sau, khi lần đầu về thăm quê nội, tôi mới có dịp ngắm kỹ càng cây mù u và còn nhặt trái nhờ nội làm đèn. Đêm ấy bên ánh đuốc chập chờn, bốc khói cay xè… Tôi không hiểu ông bà và cha tôi nghĩ gì, nhớ gì hay là do chất cay nồng ấy mà khoé mắt ai nấy đều đọng lệ…
Cây mù u , lá mù u
Vợ chồng cắng đắng , thằng cu làm hòa...

Đã bao nhiêu năm rồi , tôi lại về thăm quê , mái đình ngày xưa vẩn còn đó , cây mù u sát đình vẫn còn , nhưng nó đã mang hơi hướng của hiện đại , bê tông đã trải dài trên sân , không còn nền cỏ ngày xưa , nơi chúng tôi hay chơi nhảy , chơi nhảy dây , bắn cu li…và nằm dưới tán lá mà kể chuyện tây tàu . Tôi rón rén bước chân khẻ nhẹ để tìm lại kí ức như ngày xưa , nhưng cảnh củ thì đây mà kí ức ngày xưa không tài tình nào quay lại
Dưới cội mù u già này đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đời , biết bao nhiêu kiếp lầm than , để rồi vẫn hiên ngang theo năm tháng…..không hiểu sao biết bao nhiêu phận gái chồng xa và biết bao nhiêu kí ức buồn man mác lại gắn vào cây mù u ấy , vào thơ ca . tôi hỏi nội sao lại vậy , nội nói không biết nữa con …chắc tại cái tên của nó kết bằng chữ u , u của u buồn , u của u sầu con à
Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn chặt với ruộng đồng nơi có dòng nước mát lành, ruộng vườn xanh ngát với những con người thật thà, cần mẫn lắm lúc chỉ là nỗi nhớ mông lung…
Mấy hôm rày không hiểu sao chị bà chị hai hay đt về , út ơi gần tết , chị nhớ nhà quá xá ?.....lòng tôi như quặn lại , mắt cay cay….giờ tôi mới nghĩ ở phương trời xa xuôi ấy , chị ở một mình , nhớ gia đình , nhớ quê là phải ……. và trong kí ức của tôi cây mù u kia nó ngọt lịm như những quả mận , quả xoài để rồi khi xa nơi ấy tôi luôn nhớ về quê nhà , về quê hương , nhớ vê cội nguồn…bạn nhỉ
U Trang