Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Đáo Bỉ Ngạn

Riêng tặng cho những ai điên đảo vì danh lợi tiền tài, tất cả đều "Đáo bỉ ngạn" mà thôi !!
 
Đáo bỉ ngạn
Lung linh đóm lửa lung linh,
Cuối đời hoa đến chực chờ đón đưa.
Bao nhiêu ân oán ngày xưa,
Giờ xin trả lại như chưa một lần...!
Nhẹ bay thoát khỏi hồng trần,
Đến bờ bên ấy bâng khuâng nẻo về.
Thôi thì thoát khỏi bến mê,
Bên kia bờ giác mới là quê hương !
Đoá hoa bỉ ngạn như sương,
Hoa vàng rồi trắng đỏ dường giấc mơ...
Bây chừ bay bổng hồn thơ,
Hồng trần một kiếp vật vờ tựa mây...
Đáo bỉ ngạn chính là đây,
Đoá hoa đỏ thắm sáng nay nở buồn !!
NM

 
Giấc mơ cuộc đời 
Tôi mơ thấy em ngồi lặng yên bên khung cửa sổ nhỏ
Mái tóc thuở nào giờ bạc trắng hai vai
Đưa bàn tay đếm những tháng năm phai
Chải bụi đường trần ru từng ngọn đời đổ gãy...


Và buồn biết mấy...
Giữa dòng đời được mất, tôi vẫn mơ thấy mình lạc lối ở nơi đây
Trơ trọi, chùng chình, cô đơn, ngoài hiên từng giọt bay lất phất
Rồi chợt mơ tiếng rao rơi rất thật
"Ai ơi lòng người nhỏ bé đến mênh mông..."


Tôi mơ thấy mình chìm xuống giữa dòng sông
Hai bên bờ là rừng hoa cỏ mọc
Mơ thấy tôi nằm trong nôi òa khóc
Cuộc đời này ngắn ngủi biết bao nhiêu

Và tôi mơ thấy cơn nắng chiều
Lặng lẽ tỏa hương trên con đường vội vã
Có ai quen, và có ai xa lạ?
Có ai đi về tìm một bóng hoàng hôn..

Đỗ văn Điệp 
  Đáo bỉ ngạn
Người khách cuối ngày vẫn chưa chịu về dù ông đã từ chối cuộc viếng thăm bằng im lặng. Hắn tới "xin ý kiến anh" nhưng thật ra để thăm dò ông còn bao lâu mới chết. Mặt hắn phủ đầy bóng mây buồn bã nhưng không che giấu được tia nắng nhảy nhót trong đáy mắt khi sắp được thay ông làm giám đốc.
- Mẹ thằng Nhất!
Ông gọi vợ bằng cái giọng của đứa trẻ buồn ị gọi mẹ khiến hắn phải ngừng lải nhải, lải nhải, đứng dậy:
- Em về! Gắng anh nhé!
Vợ ông tất tả lấy bô nhưng ông mệt nhọc khoát tay bảo đừng và nhắm mắt lại.
Lượng khách đến thăm ông giảm dần theo thời gian. Ban đầu đông như hội. Sau lác đác. Có người ông tiếp bằng nụ cười héo hắt. Có người ông nhắm mắt lại. Ông nói ít, hầu như chỉ trả lời có - không. Cái nhìn trống rỗng. Bước chân ai ra cửa cũng nhẹ nhõm vì không phải mình sắp chết. Ngay cả bà vợ tận tụy của ông giờ cũng đã quen với chuyện ông sắp ra đi, và những đứa con đến thăm đã hồn nhiên nói cười như thể việc ấy chẳng can dự gì đến cuộc sống chúng nó.
Khi mở mắt ra, ông bực mình thấy một vị khách ngồi trên chiếc ghế bên giường. Lão ta trông lạ hoắc, vào khi nào không hay.
- Mẹ thằng Nhất!
- Gì thế mình?
- Mời khách ra!
- Có ai đâu? - Bà ngạc nhiên.
- Đui à?
- Có ai đâu? - Bà lặp lại.
Lão ta vẫn ngồi trên ghế, giương mắt nhìn ông. Một gương mặt lạ lẫm, không gian hoạt, đớn hèn khúm núm hay vênh vang tự đắc như những khuôn mặt ông thường gặp mà bình lặng đến phẳng lì.
- Ông là ai?
Im lặng.
Kẻ im lặng là kẻ yếu hoặc mạnh.
Vợ ông hoảng hốt khi thấy ông không bình thường.
- Mình nói với ai thế?
- Không có ai trong phòng thật sao?
- Thật.
Ông quay mặt vào tường. Một luồng khí lạnh phả ra làm lưng ông lạnh buốt. Ông quay ra. Lão vẫn ngồi đó .
 - Ông là ai? - Ông hoảng hốt.
- Bạn.
- Tôi không biết ông.
- Ta đồng hành với ngươi từ khi sinh ra. Có khi gần đến nỗi giơ tay là chạm...                                                      

- Ông là...?
- Không dám gọi tên ta ư? Có khởi đầu là có kết thúc. Không kết thúc mới là bi kịch. Mọi người sinh ra để biết nỗi kinh hoàng khốc liệt này - ai cũng phải chết. Chịu khó thôi!
Lão quét cái nhìn lạnh như nước đá lên người ông khiến ông đông cứng trong sợ hãi. Vẫn biết cái chết sẽ ập đến với mọi cuộc đời nhưng khi người khác chết, điều ấy ở ngoài ông, mơ hồ xa xôi. Giờ đến lượt ta - ông nhắm mắt lại.
Khi mở mắt, ông vẫn còn sống mà lão đã đi. Ghế trống trơn. Ông không nhìn thấy gương mặt trơ lì cảm xúc của lão nữa. Nhưng thấy nó - cơn đau lì lợm, dai dẳng, quen thuộc. Nó đang thong thả dạo bước trong xương thịt ông. Giữa nó và lão, ai dễ chịu hơn?
***
- Đêm bà có nghe thấy gì không?
- Thỉnh thoảng ông rên.
- Tôi mơ chuột gặm ngón chân mình và giọng ai đó hát đều đều bên tai.
- Hát gì?
- Một bài vè tôi nghe ở Đồng Tháp mấy mươi năm trước: "Cái đồ gặm nhấm. Cắn hủy cắn hoài. Mặt dạn mày dày. Cắn hoài cắn hủy...".
- Tại tâm ông bất an đó thôi!
Giấc ngủ ông giờ cũng bệnh, đầy ác mộng. Chân dài thơm phức, ngực vun như núi hễ kéo vào lòng là da thịt nõn nường mọc lông mọc lá. Sơn hào hải vị hễ bỏ vào mồm biến thành đất cát. Những tòa nhà lẩy bẩy như âm binh không đủ ngày tháng đổ ập xuống người ông... Không ngủ, càng khổ. Tiếng chuông gọi hồn của lão cứ rõ mồn một dọc hành lang bệnh viện. Gọi ai hôm nay. Gọi ai ngày mai?
Giờ thì ông đã nhận ra lão qua những hồi chuông báo tử vọng từ xa thẳm. Có lúc chuông rung khi tiếng cười chưa dứt, cái chết xé gió mang hình nụ cười, không kịp đớn đau, kinh ngạc. Có khi cái chết đến từ mọi phía, dữ dằn gớm ghiếc, chuông gióng giả từng tràng át cả tiếng con chim sắt xé nát bầu trời, tiếng bom nổ, cây đổ, đất đá rào rào... Diện mạo cái chết khác nhau nhưng chuông gọi hồn bao giờ cũng thế. Mồn một và đĩnh đạc. Suốt ngày ông nghe văng vẳng tiếng chuông. Từ quá khứ vọng về. Hiện tại vọng đến. Nhét bông vào tai vẫn nghe.
- Tôi muốn về nhà - ông thều thào.
Vợ ông chưng hửng. Rồi chiều. Vả lại, bệnh viện ung bướu trong nước và cả bệnh viện Thái Lan đều đã lắc đầu trước lá gan mục nát. Từ khi thấy lão, ông biết cuộc chiến đấu với thần chết đã vô vọng. Tiền và sự tiến bộ của khoa học vẫn không cản được bước chân lạnh lùng của lão. Về thôi!
Kẻ đón ông cuồng nhiệt đến ứa nước mắt ngay từ ngõ là con Vàng. Nó rên ư ử như giận dỗi vì sao ông đi lâu thế, rối rít chạy theo cáng, chui tọt xuống giường, đánh đuổi cũng không chịu ra.
Lão cũng có mặt. Áo choàng đen tối hơn huyệt mộ. Cái bị bắt hồn phồng to.
"Người này thế mà đi trước ngươi!". Lão ngó người em họ hồng hào khỏe mạnh mới trên bốn mươi.
"Còn gã này cũng theo ngươi - vì nhậu!"- lão chỉ tay trưởng phòng kế hoạch vừa ló mặt.
Lão vuốt con Vàng bằng bàn tay xương xẩu khiến hắn như bị điện giật sủa ổng lên: "Không thể sống thiếu chủ!".
Căn phòng lạnh và tối hẳn khi có lão. Nắng vàng vọt. Gió lẩy bẩy. Nỗi sợ hãi làm tóc tai ông dựng đứng. Không, ông không muốn chết. Ông có trong tay mọi thứ - quyền lực, tiền bạc, những mảnh đất đẹp như mơ "ăn" từ các dự án, những em chân dài xinh như mộng...
"Ta đi rước năm thằng nhóc chán sống đèo nhau trên một xe. Sinh tử như hơi thở vào ra của vũ trụ nên lúc nào ta cũng có việc". Lão vụt ra như làn khói còn ông nhìn tay trưởng phòng kế hoạch đang nói huyên thuyên, hình dung hình hài béo tốt ấy rồi sẽ dán vào giường như mình. Cuối cùng lão chộp được tất. Có ai thoát đâu! Lão đến để kết thúc mọi cuộc đời, chỉ sớm hay muộn. Sợ cũng vô ích. Nhưng còn mẩu thời gian bé tẹo này, nó vẫn là của ông, không phải của lão. Ông sẽ mút nó như mút viên kẹo cuối cùng. 
Đúng là lão đã đi. Ông cảm thấy đỡ buốt giá. Nghe tiếng thở của con chó dưới gầm giường. Tiếng lá rơi ngoài cửa sổ. Có nhẹ nhàng không nhỉ lá ơi!
Xôn xao một đỗi rồi lặng im. Vợ ông đút cho ông vài muỗng sữa Ensure nhưng ông đẩy ra.
- Tôi muốn ăn bánh nậm bà làm!
Người vợ ngẩn người vì kinh ngạc. Ở bệnh viện về mấy hôm nay ông không ăn được, chỉ uống sữa hoặc truyền dịch, làm sao ăn được bánh nậm? Cũng dễ đã trên hai mươi năm, ông không ăn món ruột của bà. Các món bánh lá, bánh canh ấy đã nuôi sống gia đình những năm khó khăn nhất rồi bị lãng quên không thương tiếc khi cuộc sống thay đổi. Đúng là chồng bà sắp ra đi. Cứ cho ổng ăn, ông ngửi những gì ổng thích còn hơn sau này cúng ruồi.
Bà tất tả đi chợ mua lá, bột gạo, tôm tươi, chuẩn bị tỉ mỉ từng chút như để tặng ông món quà cuối cùng. Đích thân bà chấy tôm, làm chả, dáo bột, gói bánh, sống lại một quãng đời cũ, vừa làm vừa chặm nước mắt. Bà biết ông sắp ra đi. Những kẻ sắp chết thường rất lạ lùng.
Mùi bánh lá hấp chín nhẹ nhàng đưa vào tận phòng người bệnh khiến ông ứa nước bọt. Đã lâu lắm rồi mới ngửi lại mùi hương thanh đạm rưng rưng của quá khứ. Xa xăm như từ kiếp trước, tiếng rao lanh lảnh của bà dội vào tim ông: "Bánh canh, bánh lọc, bánh nậm nóng hổi đây...!".
Lúc ấy lão đến.
Lão tò mò nhìn chiếc mẹt tre mới toanh còn thơm mùi đồng nội. Trên mẹt để đĩa bánh lá sắp theo hình rẽ quạt, châu đầu vào quả ớt đỏ tỉa hoa. Đầu mỗi chiếc bánh đội một miếng chả tôm hồng nhạt cắt theo hình trăng khuyết trông như chiếc vương miện. Chén nước mắm vàng nhạt trong vắt điểm mấy lát ớt đỏ thắm. Đúng kiểu quà Huế, thanh đạm mà tinh tế. Bà đỡ ông ngồi tựa vào gối, mở lòng lá bánh nóng hôi hổi, xắn đút cho ông từng mẩu nhỏ như đút cho em bé.
- Ăn cái cho biết! Không ai qua mặt bà ấy về món này - Ông buột miệng mời.
- Mình nói với ai thế?
- Với tôi.
Lão nhón một miếng chả tôm hình trăng khuyết bỏ vào cái mồm tối thui không răng, say mê nhóp nhép.
Thấy lão ăn ngon lành, ông thều thào:
- Chả...
 Kệ, thích cứ chiều. Bác sĩ bảo không còn hy vọng nữa. Bà tự nhủ rồi xắn đút cho ông mẩu chả tôm nhỏ. Ông ngậm trong miệng nhưng mùi cuộc sống vẫn không đánh dạt vị ốm đau nhàn nhạt. Đắng nghét.
Lão vừa đi. Ông nôn thốc nôn tháo.
***
Ông đối mặt với cái chết đang nhích lại gần với vẻ tò mò. Ông từng chứng kiến nhiều cái chết - nóng hổi, tươi rói, dịu dàng, bạo liệt... Với ông, lão sẽ múa lưỡi hái như thế nào?
Một người bạn năm xưa tới thăm, khuyên ông tập thở bụng. Phình bụng hít vô. Thóp bụng thở ra. Gác mọi phiền não, chỉ kiểm soát hơi thở vào ra để biết mình đang sống. Khi cơn đau quen thuộc bên sườn trỗi dậy, lì lợm, bướng bỉnh, ông làm theo bạn, chuyên chú vào nhịp thở. Hớp một ngụm không khí, đẩy vào tận ngóc ngách, đối đầu với cái đau và có khi đánh dạt được cả nó. Đúng là gần chết mới biết thở. Gần chết mới nhận ra cái đẹp lạ lùng của trần gian mà mình sắp xa lìa. Cây bàng bên bờ tường đối diện cửa sổ phòng ông ở đấy từ lâu mà tâm hồn hoang mạc của ông có bao giờ nhìn thấy? Giờ nằm đợi chết mới có dịp ngắm. Sắc vàng nâu trầm tĩnh chuyển qua đỏ lộng lẫy như trút hết sinh lực đẹp lần cuối rồi nhẹ nhàng lìa cành để nhường cho chồi biếc, mầm non. Kết thúc cái này là để bắt đầu cái khác... Không kết thúc mới là bi kịch. Lão đã bảo thế.

Cái chết xâm chiếm ông từng ngày, nhưng cũng theo từng ngày, một mầm sống khác lại quẫy cựa, trồi lên. Dường như có một thằng bé chui ra từ hình hài mục ruỗng của ông, đái lên trái tim khô của ông làm nó ướt đẫm. Hắn dẫm lên tâm hồn băng giá của ông khiến băng tan chảy thành buồn thương, xấu hổ. Hắn nhìn mọi thứ bằng cặp mắt ngạc nhiên và lạ lẫm. Hắn nhảy nhót và hát: "Ta bị nhốt quá lâu. Trong tấm thân máu lộn mỡ. Trong cái đầu ma quái. Đầy mưu ma chước quỷ. Trời xanh trong thế này ư? Hoa đẹp thế này ư?...".
Ông khước từ mọi thăm viếng, quà cáp. Chiến đấu với đớn đau bằng sự dũng cảm và trầm tĩnh. Trên gương mặt in dấu thần chết, đôi mắt lại sống, da diết thiết tha. Sự bình thản của ông làm bầu không khí nặng nề của ốm đau chết chóc vơi nhẹ. Ngôi biệt thự mang dáng dấp một mái nhà bình yên. Không tiếng đóng sập cửa xe, tiếng giày nện quyền uy, tiếng quát tháo, tiếng thì thầm xin xỏ, biếu xén. Cổng đóng. Chuông điện tắt. Cây cỏ im lặng xanh. Con Vàng gần như túc trực trong phòng. Hơi thở của nó hòa với hơi thở người bệnh, và ông lắng nghe với sự thương cảm.
Gần chết ông mới hiểu tấm lòng của một con chó. Hắt hủi, quát tháo mà vẫn lăn xả vào thương. Gần chết mới biết dịu dàng với người vợ hiền tận tụy. Dịu dàng đến nỗi bà khóc một cách âm thầm. Đúng là chồng bà sắp ra đi. Bà không còn nhận ra ông trong những ngày này. Ai đó đã nhập vào người chồng độc đoán của bà, người mà mỗi cái liếc mắt, quát tháo, ra lệnh đều thể hiện quyền lực tối thượng của một chủ nhân ông. Người đã chê bà già rồi, không xứng đầu ấp tay gối, không xứng cùng đi, không cùng chia sẻ... Người ấy hôm nay lại cầm tay bà, dịu dàng săm soi bàn tay đầy vết chai sần, lổm ngổm gân xanh. Cái nhìn day dứt, ấm áp...
- Sao bà không sai bọn nó, tự làm chi cho khổ?
- Người khác làm sao tôi yên tâm. Chỉ tôi mới thành thuộc những gì ông thích.
- Bà có oán tôi không?
- Tôi chỉ ước mình đau thay ông. Đàn bà chịu đựng giỏi hơn đàn ông.
- Người ta chỉ được sống một lần, sai không làm lại được.
- Cũng có thể chết và sống lại trong từng khoảnh khắc, ông à! Lúc này ông cũng đang sống lại đó thôi. Ông như ông ngày xưa, của tôi...
Người đàn ông mạnh mẽ, quyền uy giờ bất lực, yếu ớt như một đứa trẻ và hoàn toàn của bà. Bà bón cho ông từng giọt sống, vỗ về ông khi đau, lau mình mẩy ông nhẹ nhàng như lau em bé - tẩn mẩn từng vết sẹo, từng nốt ruồi, nốt ghẻ thân thuộc.
- Có bà bên tôi, cái chết bớt đáng sợ hơn. Da tôi vàng thêm nhưng hồn tôi thì xanh lại, phải không?
- Có. Xanh ngắt - Bà  nhìn sắc da vàng nghệ, ứa nước mắt.
- Bà lại khóc! Đừng khóc! Những phút quý giá này đừng dành cho nước mắt... Này, bà mua cho tôi một con chó cái...
- Làm gì?
- Để con Vàng có bạn, khuây khỏa. Có những con chó chủ chết nó nhịn ăn chết theo bà à! Nó thương tôi lắm đó!
Nghe nhắc tên, con Vàng đang nằm dưới chân đứng dậy vẫy đuôi kêu ư ử...
***
Lão tạt qua, ngạc nhiên thấy ông có vẻ nhẹ nhõm, bình tĩnh. Lão bảo: "Tốt. Chết cũng phải học. Quẳng hết. Về tay trắng. Giờ ngươi như đứa trẻ tập đi, phải tự bước, không ai bước thay. Đừng sợ ngã. Không ngã nữa. Chỉ bay, nếu nhẹ như hạt bụi".
Và ông đã bay trong những cơn mê. Tấm thân nặng nề khi quẳng hết hỉ nộ ái ố, thoát khỏi những trò chơi khốc liệt của cuộc đời, nhẹ như phù vân. Ông bay vào những đám mây xốp màu sáng bạc, màu của hư vô bát ngát. Tắm gội linh hồn thanh sạch bằng tiếng ngân dài bay bổng của sơn ca, giọng rừng nguyên thủy mang theo tiếng suối reo, thác đổ của chích chòe lửa. Bay qua tán rừng xanh lục, nơi ông gửi lại một chặng đời trong trẻo tươi xanh khi lòng còn tinh khôi chưa lốm đốm u sần của tham vọng gian dối. Tuổi trẻ ông nhìn ông xa lạ còn đồng đội không nhận ra ông. Họ nằm lại giữa màu xanh và tiếng chim, linh hồn nhẹ như mây, làm sao nhận ra cái lão bụng phệ ăn đất và sắt thép này là anh chàng thủ kho xanh rớt ngày nào sẵn sàng ăn sắn nhường cơm cho đồng đội?
Ông bay qua nơi mình tạo ra dâu bể - khách sạn, nhà hàng, quán nhậu mọc như nấm sau mưa trên dải đất trước kia là thôn xóm, ruộng vườn yên ả. Những ngọn lúa, ngọn rau bị vùi dưới lớp xi măng cốt thép ngóc dậy nhìn theo. Bay qua hội chợ phù hoa - phòng VIP, rượu ngoại, cờ bạc, chân dài như ngọn lửa dịu êm thiêu đốt nhân cách và làm mục nát lá gan mình.
Ông đảo lại lần cuối trên tòa nhà ba tầng, công ty xây dựng và phát triển nhà ở. Phòng giám đốc, hắn ta đang ngồi. Hắn có ngồi tù thay ông, kẻ hạ cánh an toàn xuống cái chết? Ông cố tìm trong lô xô, bé tẹo dưới kia những mảnh đất mình "ăn" qua các dự án nhưng tất cả như những mảnh ghép hình trong thành phố đồ chơi. Người ông chợt sà xuống như diều đứt dây và ông nghe  lão quát: "Về thôi!".
Ông rơi vùn vụt xuống hố thẳm không đáy, muốn mở miệng kêu mà không kêu được. Thân xác này không còn của ông nữa. Nó đã bị cái chết xâm chiếm. Ông nghe vẳng vẳng tiếng khóc gào, tiếng tụng niệm. Thấy mình bị nhấc bổng lên và tiếng lão dõng dạc hô to: "Đáo bỉ ngạn !"(*)
***
Theo ước nguyện sau cùng của người đã khuất, di chúc mở ra có sự chứng kiến của gia đình và đại diện chính quyền. Trong đó có đoạn:
"Đến cuối đời tôi mới nhận ra lương tâm là quyền lực lớn nhất.
Dưới quyền lực ấy, tôi xin để lại cho vợ và hai con những gì do sức lực, trí tuệ mình làm ra trong mấy mươi năm gồm...
Xin trả lại những gì do mưu ma chước quỷ tôi chiếm đoạt được gồm...
Xin tha thứ cho tôi...".
Vừa qua giỗ đầu, thằng Nhất bảo:
- Mẹ bán nhà chia cho tôi! Nhà này tôi cũng có phần.
- Bán rồi ở đâu?
- Ra nghĩa địa mà hỏi ổng. Trâu chết để da, người ta chết để của. Tự dưng đem khai ra rồi đem trả. Ngu! Cha mẹ ngu thì con khổ! Tui còn sống là còn oán ổng. Vì ổng mà con cái xuống đời! Người ta ăn đầy ra đó có ai tự nguyện trả đâu! Miếng đất ở ngã tư giờ phải mấy tỉ, nếu xây khách sạn ba sao tui đâu có thành thằng ma - cà - bông! Còn miếng ở khu trung tâm, xây nhà hàng cho con Thanh làm chủ, hắn đâu có đi làm cực khổ mà lương chỉ hơn triệu bạc. Cha mẹ ngu con mới khổ!... Ngu! Ngu! Đại ngu!
Cứ rượu vào là cậu quý tử đem chuyện ấy ra nhấm nháp, liên miên...
Bà nuốt nước mắt ngước nhìn trời. Bà tin đám mây trắng nhẹ thênh bay ngang qua nhà là ông. Hình hài tan rã, tham sân gửi lại, chỉ còn linh hồn lãng du theo mây trắng.
Từ khi ông mất, bà bỗng sinh chứng nhìn mây, nói với mây, khóc với mây. Chuyện con cái xâu xé nhau của cải. Chuyện chúng đã quen làm cậu ấm cô chiêu, tiêu xài như nước, gì cũng có người lo sẵn, giờ không tự đi được.
"Bay đi ông ơi! Đừng nhìn! Đừng nghe!", nhưng giọt nước mắt vô hình vẫn nhỏ trúng tâm hồn bà. Bà thì thào: "Ông khóc đó ư?".
***
Năm sau ngôi nhà vườn tuyệt đẹp biến thành quán Hương Huế chuyên bán bánh nậm, bánh lọc, bánh bèo, bánh canh. Khách ngồi dưới bóng cây râm mát, ăn những món dân dã nóng hổi, trình bày tinh tế đẹp mắt. Bánh nậm xếp theo hình quạt, mười cái một dĩa. Mở lòng mỏng mảnh, phơi dạ trắng ngần, điểm nhụy tôm hồng, chấm nước chấm ngọt thanh, ăn kèm chả tôm cắt hình thoi, xếp thành đóa hoa vàng, đưa đũa lên, cứ tần ngần vì quá đẹp. Dĩa bánh ướt nhụy tôm cũng mười cái, uốn cong thành mười cánh hoa. Bánh bèo chén để trên mẹt tre, rắc nhụy hồng, điểm tóp mỡ giòn, ăn bằng chèo tre vót mảnh... Bắt mắt nhất là tô bánh canh Nam Phổ. Tô nhỏ để vừa say, chưa ngán, hòa quyện tinh tế sắc màu và hương vị. Rẻ, ngon, đẹp mắt, lịch sự, khách vô ra quán nườm nượp, làm không kịp bán.
Cuối ngày, khi xong việc, bà lại thắp lên bàn thờ ông một cây nhang, thì thầm kể chuyện: "Hôm nay thằng Nhất có phụ tôi đôi chút ở quán! Nó hết đòi bán nhà rồi! Tôi đang tập cho nó đi. Khi nào nó bước đi vững vàng rồi, tôi sẽ về với ông, ông ơi...!".
Tàn hương uốn cong như lời đáp. Đốm lửa như mắt người, lung linh đỏ, đỏ lung linh...
(*) Đáo bỉ ngạn: Tới bờ bên kia
Quế Hương
Bỉ ngạn hoa
Ngàn năm vĩnh viễn xa nhau,
Dẫu gần cho đến bạc đầu vẫn xa...!
Thương hoa tinh khiết kiêu sa,
Bỗng dưng tình luỵ thắm hoa máu đào.
Từ xưa cho mãi ngàn sau,
Tình ta còn đó dễ nào sánh đôi ?
NM 

TRUYỀN THUYẾT HOA BỈ NGẠN

Truyền thuyết hoa bỉ ngạn được nhiều quốc gia lưu truyền trên thế giới với nhiều ý nghĩa sâu sắc với nhiều biến thể, chúng ta cùng tìm hiểu truyền thuyết về hoa bỉ ngạn qua câu chuyện tình cảm động này bạn nhé:
Thuở xưa trên thiên giới có một cặp tình nhân yêu nhau thắm thiết. Chàng trai vốn là võ tướng tên Hoa, cô gái là công chúa tên gọi Châu Nhi. Vốn hai người đã định xin Thiên đế ban hôn, nhưng vì lúc đó xảy ra loạn lạc, Hoa đành phải gác tư tình sang bên, cầm quân đánh giặc.
Khi trở về, chàng biết tin Thiên đế muốn đem gả Châu Nhi cho Tiên tôn để kết tình hữu nghị. Hoa bèn vào cung thỉnh cầu, ngờ đâu Thiên đế nghe xong thì nổi trận lôi đình, giam chàng vào ngục.
Châu Nhi lén vào thăm Hoa, hai người bàn kế vượt ngục. Hoa vốn dòng Thiên tướng, pháp thuật tinh thuần, rốt cục đã vượt ngục thành công, dẫn theo Châu Nhi chạy trốn.
Thiên đế biết chuyện, giận dữ phái thiên binh thiên tướng đuổi giết. Hoa và Châu Nhi lâm vào tình cảnh ngặt nghèo, tiến lui đều không có lối. Giữa lúc tuyệt vọng, hai người vì muốn trọn đời bên nhau không chia cắt, Hoa thi triển bí thuật, tự biến hai người thành một loài hoa. Châu Nhi hóa thành nụ hoa trắng trong tinh khiết, Hoa biến thành tán lá xanh mịn màng ôm lấy nụ hoa. Đám thiên binh thiên tướng đuổi giết thấy thế ngỡ ngàng, bèn đặt tên loài hoa này là Mạn Châu Sa Hoa.
Mọi việc tưởng đến thế thì kết thúc, nào ngờ Thiên đế lòng dạ hẹp hòi, muốn cho đôi tình nhân vĩnh viễn phân ly, bèn trớ chú cho loài hoa này một trớ chú vô cùng độc ác:”Mạn Châu Sa Hoa, hoa ngàn năm nở, ngàn năm rụng, lá ngàn năm sinh ra, ngàn năm chết đi. Hoa lá vĩnh viễn không thể gần nhau, dù cùng sống trên một thân cây.”
Thời gian cứ thế trôi qua…. Cả ngàn vạn năm sau, lời trớ chú cũng trở nên yếu ớt trước ái tình đằm thắm khắn khít của hai người. Cuối cùng hoa lá cùng bung nở trên thân cây, đôi tình nhân chung thủy sắt son rốt lại vẫn có thể tương kiến giữa con sông dài thời gian chia lìa sinh tử.
Thế nhưng trớ chú cũng bị thời gian bào mòn, vậy mà lòng hẹp hòi của Thiên đế vẫn không thay đổi. Sau khi y biết Mạn Châu Sa Hoa bừng nở, liền sai binh tướng đuổi giết, bắt về.
Mạn Châu Sa Hoa sau khi cùng nở cùng sinh, pháp lực khôi phục, vội vàng chạy trốn. Trời đất bao la nhưng không chốn dung thân, Mạn Châu Sa Hoa cuối cùng đành phải trốn xuống địa ngục.
Thiên binh thiên tướng đuổi sát không tha. Chính thái độ hống hách tàn ác của chúng đã khiến cho người Ma vực nổi lòng oán ghét, lại thêm câu chuyện tình Mạn Châu Sa Hoa càng khiến họ nổi mối thương tâm, cuối cùng người Ma vực đứng ra bênh vực cho Mạn Châu Sa Hoa, dẫn đến một trường Thần Ma đại chiến.
Trong khi hai bên chiến đấu, máu tươi của binh sĩ hai bên chảy tràn mặt đất, không ngờ lại bị hút hết vào cây Mạn Châu Sa Hoa. Máu tươi nhiều đến nỗi nụ hoa vốn trắng trong tinh khiết cũng trở thành đỏ tươi như máu, yêu dị và diễm lệ vô cùng.
Cả Mạn Châu Sa Hoa cũng không hay biết chuyện gì xảy ra, đột nhiên huyết quang từ cây hoa xông vọt lên tận trời, tất cả binh sĩ hai bên đang chiến đấu thảy đều bị biến thành tro bụi.
Biến cố đột ngột này oanh động cả tam giới, Thiên đế, Ma vương, Quỷ vương, Tiên tôn đều tự thân đến xem xét. Thiên đế vẫn không cam lòng, quyết bắt Mạn Châu Sa Hoa trở về, bất quá thông qua Thiên nhãn kính cả 4 người bọn họ đều biết Mạn Châu Sa Hoa đã vượt khỏi tam giới, siêu thoát ngũ hành, không chịu câu thúc của các quy tắc thông thường nữa. 
Vì Mạn Châu Sa Hoa tiền thế đã chịu nhiều oan ức, lại thêm oán khí chưa tan, thích hợp để dẫn độ các vong linh lầm lạc trở lại luân hồi, cho nên cuối cùng 4 người quyết định để Mạn Châu Sa Hoa lại bên Nại Hà, suối Hoàng Tuyền hầu dẫn độ vong hồn oán khí trên thế gian.
Từ đó, bên bờ Hoàng Tuyền, dưới cầu Nại Hà, cây hoa đỏ rực, yêu dị diễm lệ vô cùng cứ bừng nở, sinh sôi, dẫn đường cho các đôi tình nhân chia cắt, cho những vong hồn còn nhiều oán khí quay lại luân hồi, nhận lấy nhân quả mà số phận chú định. Đời sau gọi loài hoa này là hoa bỉ ngạn. 
 
-NTNT-ST-

Ý nghĩa hoa Bỉ Ngạn  

Hoa Bỉ Ngạn có 3 màu chính: Trắng, đỏ và vàng. Bỉ Ngạn màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa (mandarava), Bỉ Ngạn màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa (Manjusaka). 

Hoa và lá của Bỉ ngạn hoa mặc dù chung một rễ, thế nhưng đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn không gặp gỡ. 

1. Tên gọi

  • Tên tiếng Trung:
  1. Bỉ Ngạn hoa
  2. Mạn Châu Sa Hoa
  3. Hồng hoa Thạch Toán
  4. Thạch Toán
  5. Long Trảo hoa
  6. Vô Nghĩa thảo
  7. San Ô Độc
  8. U Linh hoa
  9. Địa Ngục hoa
  10. Tử Nhân hoa
  11. Vong Xuyên hoa
  • Tên khoa học: Lycoris Radiata

2. Đặc điểm

Cây hoa bỉ ngạn thuộc loại cây thân thảo lâu năm, chiều cao khoảng 40  – 100cm. Hoa tạo thành chùm sắp xếp lạ mắt. Hoa bỉ ngạn có ba màu chính: Đỏ, trắng và vàng. Phổ biến nhất là hoa màu đỏ. Hoa có màu đỏ rực rỡ như máu, cành hoa dài vươn lên từ mặt đất, trên đài gồm một cụm hoa khoảng 5 đến 7 nụ, khi nở xòe tròn ra mọi hướng, trông như con chim công đang múa, khi có hoa thì không có lá.
Hình ảnh: Cây bỉ ngạn mới mọc
Mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa. “Củ” của loài hoa này rất độc vì chứa lycorine, một chất độc thuộc nhóm alcaloid, gây tổn hại đến hệ thần kinh. Truyền thuyết kể rằng có người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn “củ” của loài hoa này trong lúc đói.
Trong một năm có 2 ngày mặt trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo, vào thời điểm đó độ dài của ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày xuân phân và thu phân. Bỉ ngạn nở hoa trùng với tiết thu phân. Đây cũng là thời gian mà theo lời dạy của Phật trong thời gian 7 ngày của mùa thu, người sống có thể đi vào thế giới của người chết để gặp gỡ ông bà tổ tiên.
Bỉ ngạn không thích nhiệt. Nó thích một môi trường ấm áp. Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Bỉ ngạn sẽ chết. Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hai và phát triển bình thường. Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông.
Ba ngày trước và sau xuân phân gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày trước và sau thu phân gọi là Thu Bỉ Ngạn. Hoa Bỉ Ngạn nở vào Thu Bỉ Ngạn, thời gian rất chính xác cho nên mới gọi là hoa Bỉ Ngạn.

3. Truyền thuyết

  1. Truyền thuyết 1
Theo truyền thuyết người ta hay kể rằng hoa bỉ ngạn là loài hoa duy nhất mọc dưới đường xuống hoàng tuyền, nở bên cạnh Vong Xuyên hồ ở Minh giới. Hoa có màu đỏ rực rỡ như máu, phủ đầy trên con đường thông đến địa ngục, mà có hoa thì không có lá. Trên con đường Hoàng Tuyền nở rất nhiều loài hoa này, nhìn từ xa như một tấm thảm phủ đầy máu, màu đỏ đó như là ánh lửa nên bị gọi là “hỏa chiếu chi lộ”, đây cũng là loài hoa duy nhất mọc trên con đường Hoàng Tuyền, và cũng là phong cảnh, là màu sắc duy nhất ở nơi đấy. Khi linh hồn trước khi đi qua cầu Nại Hà bắc ngang bờ Vong Xuyên, sẽ gửi toàn bộ ký ức của mình cho hoa Bỉ ngạn. Dù là đau khổ tột cùng hay yêu thương thắm thiết, hoa bỉ ngạn đều thu nhận những hồi ức đó.
Thông thường cho rằng đây là loài hoa tiếp dẫn, sanh trưởng bên bờ sông Tam đồ. Theo truyền thuyết, mùi hương của hoa có ma lực, có thể gọi ký ức thuở còn sanh tiền của người chết trở về.
Bỉ Ngạn là đóa hoa trong truyền thuyết tình nguyện đi vào địa ngục, bị chúng ma quỷ bắt quay về nhưng vẫn ngập ngừng trên con đường Hoàng Tuyền, chúng ma quỷ không nhịn được nên đều đồng ý cho nàng nở trên con đường này, cho những linh hồn đã rời khỏi nhân giới có một sự chỉ dẫn và an ủi.
Bỉ Ngạn hoa nở ở bờ bên kia thế giới, chỉ là một khối đỏ rực như lửa; hoa nở không lá, lá mọc không hoa; cùng nhớ cùng thương nhưng không được gặp lại, chỉ có thể một thân một mình ở trên đường cực lạc.
Hoa lá không bao giờ gặp gỡ, đời đời dở lỡ. Bởi vậy mấy có cách nói: “Bỉ Ngạn hoa nở nơi Bỉ Ngạn, chỉ thấy hoa, không thấy lá”. Nhớ nhau thương nhau nhưng vĩnh viễn mất nhau, cứ như thế luân hồi hoa và lá không bao giờ nhìn thấy nhau, cũng có ý nghĩa là mối tình đau thương vĩnh viễn không thể gặp gỡ. Cũng vì thế mà người ta dùng nó để làm ví dụ cho những chuyện tình không có kết quả.
Trong Phật kinh có ghi “Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử.”
  1. Truyền thuyết 2 
Rất lâu rất lâu trước đây, ven thành thị nở một dải lớn hoa Bỉ Ngạn – cũng chính là Mạn Châu Sa Hoa. Bảo vệ bên cạnh hoa Bỉ Ngạn là hai yêu tinh, một người tên là Mạn Châu, một người tên là Sa Hoa. Bọn họ đã canh giữ Bỉ Ngạn suốt mấy nghìn năm nhưng trước giờ chưa từng tận mắt nhìn thấy đối phương… Bởi vì lúc hoa nở nhìn không thấy lá; khi có lá lại không thấy hoa. Giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp nhau, đời đời lầm lỡ. Thế nhưng, bọn họ điên cuồng nhung nhớ đối phương, và bị nỗi đau khổ hành hạ sâu sắc. Cuối cùng có một ngày, bọn họ quyết định làm trái quy định của thần, lén gặp nhau một lần.
Năm đó, sắc đỏ rực rỡ của Mạn Châu Sa Hoa được sắc xanh bắt mắt bao bọc lấy, nở ra đặc biệt yêu diễm xinh đẹp. Thế nhưng vì việc này mà Thần trách tội. Mạn Châu và Sa Hoa bị đánh vào luân hồi, và bị lời nguyền vĩnh viễn không thể ở cùng nhau, đời đời kiếp kiếp ở nhân gian chịu đựng nỗi đau khổ. Kể từ đó về sau, Mạn Châu Sa Hoa chỉ nở trên con đường Hoàng Tuyền, hoa có hình dạng như những cánh tay hướng về thiên đường để cầu khẩn, mỗi khi Mạn Châu và Sa Hoa luân hồi chuyển thế, trên con đường Hoàng Tuyền ngửi thấy mùi hương của hoa Bỉ Ngạn thì có thể nhớ lại bản thân ở kiếp trước, sau đó thề không bao giờ chia lìa nữa nhưng vẫn lần nữa bị lời nguyền kéo vào vòng luân hồi.
  1. Truyền thuyết 3
Thuở xưa trên thiên giới có một cặp tình nhân yêu nhau thắm thiết. Chàng trai vốn là võ tướng tên Hoa, cô gái là công chúa tên gọi Châu Nhi. Vốn hai người đã định xin Thiên đế ban hôn, nhưng vì lúc đó xảy ra loạn lạc, Hoa đành phải gác tư tình sang bên, cầm quân đánh giặc.
Khi trở về, chàng biết tin Thiên đế muốn đem gả Châu Nhi cho Tiên tôn để kết tình hữu nghị. Hoa bèn vào cung thỉnh cầu, ngờ đâu Thiên đế nghe xong thì nổi trận lôi đình, giam chàng vào ngục.
Châu Nhi lén vào thăm Hoa, hai người bàn kế vượt ngục. Hoa vốn dòng Thiên tướng, pháp thuật tinh thuần, rốt cục đã vượt ngục thành công, dẫn theo Châu Nhi chạy trốn.
Thiên đế biết chuyện, giận dữ phái thiên binh thiên tướng đuổi giết. Hoa và Châu Nhi lâm vào tình cảnh ngặt nghèo, tiến lui đều không có lối. Giữa lúc tuyệt vọng, hai người vì muốn trọn đời bên nhau không chia cắt, Hoa thi triển bí thuật, tự biến hai người thành một loài hoa. Châu Nhi hóa thành nụ hoa trắng trong tinh khiết, Hoa biến thành tán lá xanh mịn màng ôm lấy nụ hoa. Đám thiên binh thiên tướng đuổi giết thấy thế ngỡ ngàng, bèn đặt tên loài hoa này là Mạn Châu Sa Hoa.
Mọi việc tưởng đến thế thì kết thúc, nào ngờ Thiên đế lòng dạ hẹp hòi, muốn cho đôi tình nhân vĩnh viễn phân ly, bèn trớ chú cho loài hoa này một trớ chú vô cùng độc ác: Mạn Châu Sa Hoa, hoa ngàn năm nở, ngàn năm rụng, lá ngàn năm sinh ra, ngàn năm chết đi. Hoa lá vĩnh viễn không thể gần nhau, dù cùng sống trên một thân cây.”
Thời gian cứ thế trôi qua… Cả ngàn vạn năm sau, lời trớ chú cũng trở nên yếu ớt trước ái tình đằm thắm khắng khít của hai người. Cuối cùng hoa lá cùng bung nở trên thân cây, đôi tình nhân chung thủy sắt son rốt lại vẫn có thể tương kiến giữa con sông dài thời gian chia lìa sinh tử.
Thế nhưng trớ chú cũng bị thời gian bào mòn, vậy mà lòng hẹp hòi của Thiên đế vẫn không thay đổi. Sau khi y biết Mạn Châu Sa Hoa bừng nở, liền sai binh tướng đuổi giết, bắt về.
Mạn Châu Sa Hoa sau khi cùng nở cùng sinh, pháp lực khôi phục, vội vàng chạy trốn. Trời đất bao la nhưng không chốn dung thân, Mạn Châu Sa Hoa cuối cùng đành phải trốn xuống địa ngục.
Thiên binh thiên tướng đuổi sát không tha. Chính thái độ hống hách tàn ác của chúng đã khiến cho người Ma vực nổi lòng oán ghét, lại thêm câu chuyện tình Mạn Châu Sa Hoa càng khiến họ nổi mối thương tâm, cuối cùng người Ma vực đứng ra bênh vực cho Mạn Châu Sa Hoa, dẫn đến một trường Thần Ma đại chiến.
Trong khi hai bên chiến đấu, máu tươi của binh sĩ hai bên chảy tràn mặt đất, không ngờ lại bị hút hết vào cây Mạn Châu Sa Hoa. Máu tươi nhiều đến nỗi nụ hoa vốn trắng trong tinh khiết cũng trở thành đỏ tươi như máu, yêu dị và diễm lệ vô cùng.
Cả Mạn Châu Sa Hoa cũng không hay biết chuyện gì xảy ra, đột nhiên huyết quang từ cây hoa xông vọt lên tận trời, tất cả binh sĩ hai bên đang chiến đấu thảy đều bị biến thành tro bụi.
Biến cố đột ngột này oanh động cả tam giới, Thiên đế, Ma vương, Quỷ vương, Tiên tôn đều tự thân đến xem xét. Thiên đế vẫn không cam lòng, quyết bắt Mạn Châu Sa Hoa trở về, bất quá thông qua Thiên nhãn kính cả 4 người bọn họ đều biết Mạn Châu Sa Hoa đã vượt khỏi tam giới, siêu thoát ngũ hành, không chịu câu thúc của các quy tắc thông thường nữa.
Vì Mạn Châu Sa Hoa tiền thế đã chịu nhiều oan ức, lại thêm oán khí chưa tan, thích hợp để dẫn độ các vong linh lầm lạc trở lại luân hồi, cho nên cuối cùng 4 người quyết định để Mạn Châu Sa Hoa lại bên Nại Hà, suối Hoàng Tuyền hầu dẫn độ vong hồn oán khí trên thế gian.
Từ đó, bên bờ Hoàng Tuyền, dưới cầu Nại Hà, cây hoa đỏ rực, yêu dị diễm lệ vô cùng cứ bừng nở, sinh sôi, dẫn đường cho các đôi tình nhân chia cắt, cho những vong hồn còn nhiều oán khí quay lại luân hồi, nhận lấy nhân quả mà số phận chú định. Đời sau gọi loài hoa này là hoa bỉ ngạn. 
(Sưu tầm)


Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Nếp tranh xưa

Kiếp Nghèo


Kiếp nghèo,
Thương thay số phận hẩm hiu,
Mái tranh vách đất sớm chiều lo toan..
Cũng vì số kiếp đa đoan,
Gian nan vất vã lầm than một đời !
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại khóc người, thương thân !!
NM

Nhà nghèo 
         Đang mùa nắng, đột nhiên có đêm trời trở lạnh,  rồi một cơn mưa trái mùa ào ào đổ xuống. Con đường khuya như co mình lại. Xa xa, tiếng chó sủa lẫn vào tiếng rao hàng run rẩy của ai đó. Mẹ tôi bảo tôi ra xem cổng rào đã khoá kĩ chưa, tiện thể đóng luôn các cửa còn lại và nhìn xem cái mùng của con Lu có bị hở chỗ nào không. Tôi bước ra đúng vào lúc nghe tiếng chân người chạy thình thịch trên con đường đất lầy lội, rồi tôi thấy thằng Sang đang vác một vật gì khá nặng trên vai nó, sau lưng là cả đám người chạy theo. Tôi chạy qua xem, thì ra là chú Hồng, ba của thằng Sang, chú đã bất tỉnh, da xanh như tàu lá… 
           Người ta đặt chú lên cái chõng tre mục nát, cũng là chiếc giường duy nhất trong nhà. Sau đó kẻ đấm gió, người thoa dầu, vợ chú thì đi lấy gừng giã nhuyễn vắt lấy nước đổ cho chú. Chú còn đứa con gái, nhưng nó không thể lo gì được, nó vừa mới sinh xong hôm qua. Nghe tiếng nó khóc thút thít, tôi chạy vô xem. Thảm cảnh thứ hai phơi bày trước mắt tôi, mẹ con nó nằm trên tấm chiếu mục nát, trải ngay dưới đất trong chiếc mùng vá tứ tung, kế bên là lò than rực lửa …Tôi lặng người đi. Tôi biết nhà chú Hồng nghèo nhất xóm, nhưng nghèo đến thế này thì tôi chưa bao giờ tưởng tượng được. Không biết làm gì hơn, tôi quay qua hỏi nó “Mày ăn gì chưa?”. Nó lắc đầu rồi thều thào “Nhà em hết gạo rồi, đợi ba em về mua gạo...” rồi nó khóc…chỉ ra ngoài nơi ba nó đang nằm. Tôi nói với nó “Mày nằm đây đợi đi, tao về xem có gì không đem qua cho mày”. Tôi bước ra và thấy mẹ tôi đang đưa cho vợ chú Hồng nồi cháo thịt. Mẹ tôi nói : “Hồi sáng tôi thấy mệt, nên nấu nhưng ăn đến giờ vẫn còn. Chị đừng chê, nếu có thứ khác thì tôi đã đem qua rồi. Người bệnh ăn cháo tốt lắm”. Tôi nói xen vô: “Dì nhớ cho con Giàu ăn, tô của nó dì để nhiều tiêu hén. Nhớ bớt lò lửa than, coi chừng mẹ con nó thành heo quay”. Vợ chú Hồng nhìn mẹ tôi thật lâu, thật âu yếm, rồi hai hàng nước mắt cứ thế tuôn trào…
    Khi mọi người đã tản đi, mẹ con tôi cũng ra về. Tôi thấy mẹ thở dài một tiếng rõ mạnh rồi lắc đầu nhè nhẹ. Mẹ không nói gì thêm nữa, đi thẳng vô nhà, buông mùng xuống và tắt đèn. Nằm kế bên, tôi biết mẹ đã ngủ với tiếng thở đều từng nhịp. Còn tôi, đêm đầu tiên tôi biết thế nào là trằn trọc, là mất ngủ. Tôi cố gắng nhắm mắt và dỗ dành mình. Nhưng làm sao ngủ được khi cứ nhắm mắt lại là cảnh nhà chú Hồng lại hiện ra trước mắt, nhất là đứa bé đỏ hỏn nằm cọ quạy yếu ớt ngay dướt nền đất trên manh chiếu rách. Tôi nhớ đến con Lu, ngày nó đẻ, mẹ tôi lót cho nó một cái hộp giấy thật to, trong đó toàn là khăn lông mới mua vì mẹ sợ con của nó sẽ bị lạnh mà chết. Mẹ còn mua thêm cái mùng chụp dành cho người lớn để mẹ con nó ngủ được yên giấc. Nghĩ đến đó, hai hàng nước mắt tôi rơi. Tôi cứ nhớ cảnh con Giàu và con của nó. Kiếp người - kiếp chó, ai sướnghơn ai?
                             * * * * *
         Mẹ tôi kể, chú Hồng là người xứ khác lưu lạc đến đây một mình. Chú siêng năng và rất tự trọng. Với hai bàn tay trắng, chú làm thuê, làm mướn cho người ta. Công việc thường là cày ruộng, cắt lúa, vác lúa, phơi lúa vào các vụ mùa. Nếu không có vụ mùa thì chú chạy xe lôi, giăng lưới bắt cá ngoài đồng, trên sông…Nói chung là hễ không có việc này chú sẽ tìm việc khác để làm. Sau một thời gian, chú Hồng mua được miếng đất khoảng 15 mét vuông để cất mái nhà tranh nho nhỏ. Rồi chú lấy vợ, một phụ nữ câm mà chú để lòng thương trong những ngày cả hai cùng đi cày thuê, cắt lúa mướn. Họ không có đám cưới, chỉ dẫn nhau về góp gạo nấu cơm chung trong túp lều của chú. Nhưng chưa bao giờ ai thấy vợ chú Hồng khóc hay nhăn nhó. Trên khuôn mặt bà, luôn là nụ cười với ánh mắt rạng ngời hạnh phúc. Rồi họ sinh đứa con gái đầu lòng, chú đặt nó tên Giàu, có lẽ chú Hồng mơ đến một ngày kia, chú sẽ sớm thoát khỏi cảnh nghèo khó này. Nhưng từ khi con Giàu ra đời, chú thêm một gánh nặng, nó lại khó nuôi, bao nhiêu tiền bạc đều dành dụm thuốc men cho nó hết. Căn nhà chú ngày càng tồi tàn hơn. Tệ nhất là vào mùa mưa, Chú và vợ phải qua hàng xóm mượn thêm thau, nồi để hứng nước mưa rơi xuyên qua mấy lỗ thủng mái nhà. Hàng xóm thấy vậy thương quá, hùn nhau mua lá về lợp lại mái nhà cho chú. Từ đó, hễ ai trong xóm có nhờ vả gì, chú Hồng cũng đều làm không lấy công để trả ơn cho họ. 
          Khi con Giàu được hai tuổi, thiếm Hồng sinh thêm một đứa con trai, lần này chú Hồng đặt nó tên Sang. Thằng Sang ra đời cũng không làm thay đổi được gia đình nó…Một ngày kia, vợ chú Hồng ngã bệnh suốt 2 tháng, bao nhiêu tiền dành dụm đội nón ra đi. Sau cơn bạo bệnh, bà không làm được việc gì nữa, chỉ ở trong nhà lo cơm nước. Người ta thấy chú Hồng ngày càng già đi, vóc dáng ngày càng héo mòn. Nhưng chú Hồng không bao giờ hỏi mượn tiền hay xin tiền của bất kì ai. Chú cũng không bao giờ than thở về cái nghèo của mình. Chú lẳng lặng làm việc nuối vợ và hai đứa con. Năm thằng Sang 12 tuổi, chú Hồng bị ho ra máu và đưa đi bệnh viện, người ta chẩn đoán chú bị lao lực, không thể làm việc nặng nhọc được nữa. Cũng từ đó, không ai chịu mướn chú Hồng trong những mùa vụ. Chú chỉ còn biết cùng thằng con ra đồng giăng cá, và đi bán vé số . 
         Còn thằng Sang, sau khi ba nó mất khả năng lao động nặng, chiếc xe lôi là người bạn trung thành luôn theo sau thân xác còm cõi của nó. Miếng cơm manh áo gia đình đè nặng lên vai nó. Năm nay nó đã 18 tuổi, nhưng tôi trông thân xác nó chỉ như đứa bé trai 14 tuổi. Chỉ có khuôn mặt là già đi. Tôi ít khi nào thấy nó nói cười, khuôn mặt nó lúc đi đường cứ cuối gầm xuống. Mấy đứa trong xóm gọi nó là thằng “âm binh”, vì trông nó lạnh lùng như một thằng lính trong đội binh của diêm vương mà chúng vẫn xem trên phim. Vậy mà nó làm việc rất giỏi. Mẹ tôi nói nó rất giống chú Hồng thời trẻ, làm việc không biết mệt mỏi và không hề tham của ai vật gì. Mẹ tôi kể, có lần mẹ tôi đi xe lôi của nó xuống chợ, mẹ tôi hỏi nó bao nhiêu tiền, nó xin một ngàn đồng, mẹ tôi đưa nó hai ngàn đồng và quay đi cố tình cho nó một ngàn đồng còn lại. Vậy mà nó nhất quyết chạy theo mẹ tôi và dúi vào tay bà một ngàn đồng tiền thối. Mẹ tôi nói cho nó, nó cười gượng “Con không dám nhận đâu, con chở cô ăn một ngàn đồng là được giá hơn chở mấy người khác rồi. Nếu cô thương con, từ đây về sau cô đi đâu kêu con chở là được rồi”. Từ hôm đó, hễ mẹ tôi có muốn đi đâu hay chở cái gì, bà nhất định phải đi xe của thằng Sang mới chịu. Thằng Sang chưa bao giờ dám nhìn đứa con gái nào trong xóm. Nhưng có lần tôi thấy nó chở một cô gái trên chiếc xe cọc cạch của nó trong mấy ngày tết. Nghe đâu, đó là đứa con gái đi làm mướn chung với con Giàu, có lần thằng Sang đem cơm vô cho chị nó, rồi tụi nó để ý nhau. Nhưng sau lần tết, không còn thấy thằng Sang và đứa đó đi chung nữa. Mẹ tôi nói gia đình đứa con gái không chịu vì thấy nhà thằng Sang nghèo quá nghèo!  Từ đó, thằng Sang càng lạnh lùng hơn. Một ngày của nó là dẫn chiếc xe lôi ra khỏi nhà và về lúc chiều tối. Nó vẫn sống và làm việc bằng tất cả sức lực vì nó bíêt, nếu không có nó, ba mẹ của nó biết nương nhờ vào ai? 
         Con Giàu thì sướng hơn thằng Sang một chút. Chú Hồng rất thương yêu và chăm chút cho nó. Có lẽ vì nó là con gái. Tôi nghĩ, nếu nó được sinh trong một gia đình khá giả, chắc nó rất xinh. Dù dầm dãi nắng mưa mà da nó vẫn trắng, khuôn mặt sáng, đôi mắt trong veo. Chỉ có bàn chân và đôi tay là rất thô kệch và không sạch sẽ. Vì có bao giờ thấy nó mang dép đâu. Nó cứ để chân không mà đi cùng làng khắp xóm gánh nước cho người ta, lội ruộng băng đồng trong những ngày cắt lúa mướn. Có lần tôi hỏi nó “Sao tao không thấy mày mang dép? Nhìn cái chân mày kia, thấy mà ghê!”. Nó cười nói “Em ghét mang dép lắm. Từ nhỏ em đã quen đi chân không rồi. Lúc trước em có đôi dép lào mang đi ruộng, để trên bờ đê bị thằng quỷ sứ nào lấy mất nên em ghét không mua nữa. Sao chân chị nhỏ xíu vậy? Đẹp hén. Hèn gì chị mang giày cao gót không hà. Em mà mang giày cao gót như chị chắc té học máu quá”. Nói xong nó vô tư cười như một đứa con nít..Hình như những đứa con nhà nghèo là như vậy đó, nếu không già trước tuổi, không lạnh lùng thì sẽ là những đứa rất vô tư, hồn nhiên đôi khi ngây ngô. Chúng lành như đất. 
         Một hôm, tôi nghe chú Hồng quát rất lớn tiếng, kèm theo đó là tiếng khóc thút thít. Chẳng lẽ chú Hồng và vợ chú cãi nhau? Hỏi ra thì mẹ tôi nói “con Giàu nghe lời người ta dụ dỗ, có chửa hoang mà không hay. Đến khi thiếm Hồng thấy cái bụng nó ngày một to lên, dẫn đi khám bác sĩ thì mới bíêt cái thai đã ba tháng. Khổ thiệt, “nhà sập bìm bịp leo”. Đã nghèo thế, còn gặp đứa con gái hư, nuôi thêm một đứa cháu. Tội nghiệp chú Hồng qúa”. Đó là lần đầu tôi nghe chú Hồng lớn tiếng từ khi tôi biết chú. Và cũng từ hôm đó, chú không la mắng gì con Giàu nữa. Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua, chú Hồng và thằng Sang cứ làm việc quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mới về nhà. Mấy người trong xóm thường nói “Nhà chú Hồng chỉ nghèo tiền thôi, chứ về tình cảm thì không ai giàu bằng gia đình đó đâu.”. Ngẫm lại tôi thấy họ nói đúng lắm. Có hôm chú Hồng đi làm về, chú đứng thật lâu và thở dốc ngoài đường cho đến khi nào hết mệt chú mới vào nhà. Chắc chú không muốn những người thân nhìn thấy. Còn thằng Sang, có hôm nó chạy xe về tối quá, nhà đóng cửa ngủ trước, nó đành nằm ngoài xe lôi ngủ luôn chứ không dám kêu vì sợ ba mẹ nó thức giấc rồi sẽ không ngủ lại được… 
* * * * *
         Buổi sáng ngay sau đêm chú Hồng bất tỉnh, tôi trở dậy khi mặt trời còn nhập nhoà trong sương sớm. Mẹ tôi đã thức tự bao giờ nhưng không nghe tiếng bước chân bà đi lại trong nhà như thường ngày. Có tiếng râm ran trò chuyện vọng ra từ phía đối diện, tôi cố lắng tai nghe, có cả tiếng khóc …Thoáng qua đầu tôi là suy nghĩ về chú Hồng, tôi bật dậy ra khỏi giường chạy thẳng về phía cửa rào. Có cái hòm gòn để ngay trước cửa nhà chú Hồng, nhang khói đầy nhà. Thằng Sang mặc đồ tang trắng toát, mặt mũi đỏ hoe tay cầm cái trang trên dó có cái chưng hương. Thiếm Hồng thì dựa vào một người hàng xóm, nước mắt ròng ròng.. Tôi đứng lặng như không tin vào những điều mình thấy. Còn con Giàu đâu? Nghĩ đến đó, tôi vội chạy qua và đi thẳng vô nhà bếp. Tôi thấy nó đang ngồi ôm con bên lò than rực hồng, khóc nức nở. Tôi hỏi “Sao mày còn ngồi đây? Ra đó mà phụ đưa ba mày đi chôn chứ.” Nó mếu máo “Người ta cử không cho con nít ra chỗ mồ mả. Em đâu bỏ con của em được, để lại ai mà giữ dùm?”. Tôi nói “Mày đưa đây tao giữ cho, mày đi đi”. Nói xong tôi đưa tay bế đứa bé và trở về bên nhà. Mẹ tôi đã về nhà trước, nhìn thấy tôi bà nói “Con đem nó vô phòng, buông mùng xuống và đắp mền cẩn thận. Mẹ pha sữa cho nó uống”. Tôi hỏi “Mẹ ơi, sữa đó của mấy con cún nhỏ mà, nó uống được không?”. Mẹ tôi liếc yêu tôi và nói “Sao lại không? Sữa này tuy là mẹ cho cún con uống, nhưng là sữa hạng nhất dành cho em bé mà. Con đừng lo.” Tôi im lặng nhìn đứa bé, chút nữa nó sẽ được uống thứ sữa mà con Giàu phải bỏ ra cả tháng trời cắt lúa mướn mới mua được. Tự dưng khoé mắt tôi cay cay..và giọt lệ nào rơi lên khuôn mặt bông sữa của đứa bé, chảy xuống khoé môi nó, nó tưởng là sữa và chu miệng mút…  
         Tôi trở ra khi mẹ đã cầm sẵn trên tay bình sữa. Mẹ cẩn thận để vào khuôn nước lạnh cho mau nguội. Tôi hỏi mẹ “Đêm qua chú Hồng bị gì vậy mẹ? Sao sáng nay lại như vậy?”. Mẹ nói “Chú Hồng đi bán vé số về muộn, trời đổ mưa bất ngờ, chú chạy xe vội quá mà chiếc xe đạp của chú đâu có thắng, chỉ thắng bằng chân thôi, nên chú bị ngã trên đường. May không có xe chạy ngang. Mà may mắn gì chứ, cũng đâu qua khỏi. Chú Hồng bệnh nặng lắm, mẹ và mấy người hàng xóm cứ khuyên ở nhà đi, rồi xóm mình sẽ hùn tiền giúp đỡ chú làm ăn tại nhà. Chú ấy không chịu mang ơn ai. Biết làm sao bây giờ…”. Mẹ nói vậy và cầm bình sữa đi vào buồng. Tôi ngồi lại nhìn qua nhà chú Hồng. Chú Hồng đã đi rồi, thật lạ, tôi không cảm thấy buồn cho chú. Tôi nghĩ ở thế giới bên kia, chú sẽ được sống thoải mái hơn, ít ra cái nghèo không đè nặng lên cuộc đời chú như ở đây. Nhưng trong lòng tôi có một thứ cảm giác lo sợ đè nặng tâm can mình. Căn nhà rách nát ấy vẫn sẽ là nơi náu thân của bốn con người, những người còn sống và cái nghèo cứ quấn lấy cuộc đời họ từ ngày này sang tháng nọ…từ đời cha đến đời con rồi bây giờ là đến đời cháu, không biết bao giờ dứt…. 
Vân Lam ĐH1C3

 
Hồn quê,
Thương hoài một mái tranh quê,
Mát khi hè nóng , ấm ngày gió Đông...
Tuổi trời sắp bước qua sông,
Vẫn luôn hoài niệm khói lèn mái tranh !
Vô Thường tựa khói mong manh,
Tiếng kèn réo rắt âm thanh đêm buồn...
Mà sao càng nhớ càng thương,
Mái tranh xóm cũ vấn vương tâm hồn.
NM
Nếp tranh xưa
Buổi chiều, cỏ tranh dựng đứng lên xếp thành một lũy ở bìa làng. Ngay khi rễ cỏ còn vương dấu đất, loài tranh đã tự biết làm phên chắn gió cho một cõi linh thiêng tục gọi cồn Mai. Trong ý nghĩ của người quê, cỏ tranh biểu thị cho sự ấm áp và đôn hậu.
Hồi ấy, trẻ con chúng tôi vẫn hay rủ nhau xuống cồn Mai chơi trò trốn tìm. Nơi trú ẩn kín đáo nhất chính là giữa lùm cỏ tranh. Ở làng, người ta đồn nhau rằng trong những bụi rậm thường hay có ma, trẻ con trốn vào đó rất dễ bị ma thu. Thế mà có lần quên, chúng tôi đã nhảy vào ngay giữa lùm cỏ tranh và nằm yên rất lâu. Tưởng như không còn sự yên lành nào hơn thế. Xung quanh, cỏ tranh phủ che hết những thân hình bé bỏng. Đến khi trở dậy để ra về thì trời đã xế chiều, nắng cuối ngày vàng cháy khiến màu đỏ của ngọn cỏ tranh như được rưới thêm dầu để tía đi. Nét độc đáo của cỏ tranh là ở chỗ nó tự biết trang điểm cho mình.
Ông cụ họ Võ ở làng Võ Thuận hay ra cồn Mai cắt cỏ tranh. Nhiều lần tôi gặp cụ lưng gùi một cái trác tre, tay cầm liềm, tản bộ lặng lẽ như cái bóng của người muôn năm cũ còn sót lại. Cụ bứt một trác tranh đầy rồi gùi về nhà.  Thời điểm ấy, người quê hầu hết đã lợp ngói, riêng cụ vẫn giữ mối thủy chung với mái tranh. Cụ nói đi loanh quanh cho giãn gân cốt chứ ngồi một chỗ, không vận động là chết liền. Lại nữa, nằm nhà mái tranh hay lắm, mùa hè thì mát, mùa đông lại ấm áp. Tuổi này gọi là tri thiên mệnh, phải biết tự thương mình chứ trời không ngó ngàng tới nữa. Đấy là một kiểu kinh nghiệm trường thọ của người già. Hơn thế, cụ đã cho tôi được chứng kiến thêm một hình ảnh, một tấm lòng nặng nặc neo giữ hồn quê.
*****
Năm 2004, tôi theo chú vào dựng mái ngói cho ngôi nhà mới xây của cụ. Cụ đã yếu đi nhiều nhưng vẫn ngồi trước sân, sắp từng tấm tranh nhẹ nhàng như thể sợ làm chúng đau. Người tôi gặp buổi ấy đã thành thiên cổ, cỏ tôi về bữa ấy đã hóa thiên thu, riêng hồn cỏ thì như còn mang hơi thở của Thiên Thai thuở Lưu, Nguyễn gặp tiên. Thuở ấy, tất cả những loài cỏ còn ngủ, riêng cỏ tranh (bạch mao) thì dựng lên làm nhà cho hai chàng chung sống với tiên nữ. Có lẽ đấy là túp lều tranh lý tưởng đầu tiên của nhân loại. Và căn nhà của cụ Võ là túp lều tranh cuối cùng của vùng quê này.
Cỏ tranh sau khi cắt về được trải ra phơi cho nó hơi tiu tiu lại rồi mới đem bện. Người ta chẻ tre chuốt thành những sợi lạt dài chừng một sải tay. Sau đó gập đôi sợi lạt lại và nhét từng nhúm nhỏ cỏ tranh vào để đan. Vừa đan vừa dùng một cái dùi cui đánh vào lạt để cho tranh được chặt, vì thế thao tác bện tranh còn được gọi là đánh tranh. Ngày trước, khi làm nhà thì mái tranh được chú trọng hơn cả. Phải bện sao cho sau khi lợp lên, qua mưa nắng tranh vẫn phải khít kín. Ngay ở lúc mới dựng nhà, tranh đã gắn liền với một nghi thức tín ngưỡng. Đó là trong lễ thượng lương (tức đặt cùi đòn tay chính giữa), người ta phải treo lên cùi đòn tay ấy một tấm tranh bện tốt nhất. Ngụ ý rằng căn nhà của mình được bảo hộ ngay từ khi mới hình thành.
Tôi vẫn giữ lại cho mình hình ảnh làng quê thuở ấu thơ, khi mà chưa có viên ngói đất nung đỏ thì cả xóm đều rợp mái tranh, tường nhà là phên trát bùn trộn phân trâu. Mỗi căn nhà đều có một màu xám
bình dị mộc mạc. Màu xám tuy cũ nhưng không buồn, như kiểu màu lông chim sẻ. Những hôm có trăng, tôi thường ra sân ngồi chơi hóng gió, ánh trăng vàng rót xuống mái tranh chảy từng đường như chuốt tóc.
Đến bữa nấu ăn, khói bếp lèn qua mái tranh và vắt ra bên ngoài một màn trắng phả lên trời. Đấy chính là cái bảng lảng mà thơ xưa thường lấy để ví cho nỗi niềm vấn vương quê cội, hay Hàn Mặc Tử đã mượn để minh họa cho sự nồng nàn nhất buổi mùa xuân chín:  

Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

 Chú gà trống thấy khói giỡn cũng thích đùa cùng, thế là nhảy tót lên mái lều thỏa chân bươi bươi rồi vỗ cánh khiến vài sợi tranh run run. Thỉnh thoảng vài loài chim đồng vẫn ghé vào chui dưới mái tranh làm tổ, đẻ trứng xong lại thản nhiên ấp nở.
Nằm dưới mái tranh, ngó lên, ngó lên… ta gặp ngay ca dao:  

Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. 

Trẻ con bây giờ đi học chắc sẽ khó hình dung để hiểu được câu ca dao này. Chỉ có mái tranh mới dùng nuộc lạt để buộc nối với đòn tay, thanh rui. Nuộc lạt thường dùng là nuộc dây mây vì nó bền, khó bị mưa nắng làm mục.
Mùa mưa, nằm ngủ dưới căn nhà tranh chẳng lo bị đánh thức, mưa rơi trên mái tranh không gây ra tiếng ồn như mái tôn hay mái ngói. Tôi vẫn nhớ như in bao nhiêu kỷ niệm về căn nhà tranh dột thuở nhỏ. Nắng lọt qua chỗ mái thủng và đâm thẳng xuống nền đất như một sợi cước trong veo ánh vàng. Buổi trưa nằm ngủ có khi sợi nắng ấy chiếu ngay vào mắt, người Quảng Trị gọi là hen. Đêm mưa thì nước cứ lòng thòng chảy như ai đang khóc, ròng rã suốt. Mạ lấy cái thau đặt giữa nền hứng nước mưa, nằm một chốc lại phải thức dậy đổ thau nước đi.
Rồi những lần cởi truồng tắm mưa, tôi đều đứng ngay trước hiên nhà hứng những giọt nước chắt qua mái tranh nhỏ xuống. Đưa lưỡi ra nếm nước mưa ấy lại thấy mằn mặn. Cỏ tranh khi tươi có vị ngọt của thực vật, đến lúc khô thì hàm lượng muối natri clorua tăng lên. Các bộ lạc cổ xưa đã từng dùng cỏ tranh khô ngâm nước để chắt ra nước muối nấu ăn, hoặc các thú rừng thường liếm cỏ tranh mục làm gia vị mặn để sống Sang thế kỷ hai mốt, ở làng không còn một mái tranh nào nữa. Tôi cứ ngỡ sẽ chẳng bao giờ được gặp lại hình ảnh thân thương ấy. May thay, thời ở Huế có một nơi cho tôi tìm lại, đó là quán cà phê Vô Thường chỗ ngã sáu. Cả ba anh chủ quán là anh Hải, anh Luân, anh Quang đều có chung nỗi niềm hoài cổ nên muốn làm quán theo phong cách xưa với tường xếp gạch mái lợp tranh. Quán nằm ngay sát đường Hà Nội, chính quyền buộc phải dùng panô che phía mặt tiền, không để những sợi tranh thòi ra, có vào trong quán mới nhìn thấy mái tranh. Những đêm ngồi ở quán Vô Thường, vài cây đèn dầu leo lét, tường gạch giản đơn. Tiếng saxophone réo lên giai điệu trong bài Xóm đêm của Phạm Đình Chương khiến tôi như được quay về cái xóm cũ của mình. Một chút bụi tranh rơi xuống, rưng rưng trong miền nhớ.
Hoàng Công Danh

Hồn quê xưa
Ước gì ta còn giữ,
Một chút hồn quê xưa...
Mái tranh nền đất cũ,
Cùng tiếng gà gáy trưa !
NM

             Nhớ nhà tranh vách đất 
Tôi sinh ra ở một làng quê ven đô, nơi mà những năm tháng ấu thơ tôi vẫn được chứng kiến rất nhiều những ngôi nhà tranh, vách đất, bởi làng quê tôi rất nghèo, người nông dân quanh năm chỉ trông vào ruộng đồng với hai mùa lúa thường xuyên thất bát, lúc thì chiêm khê, khi lại mùa thối… 

Ảnh minh họa
Làng tôi có cả thảy hơn trăm nóc nhà thì chỉ có độ gần chục nhà xây được nhà tường gạch mái ngói, còn đại đa số đều là nhà tranh vách đất. Nhà tôi cũng không phải là một ngoại lệ, khi đời ông bà nội tôi cũng nghèo, đến đời bố mẹ tôi cũng vậy, lo miếng cơm, manh áo còn khó khăn huống hồ lấy đâu ra tiền bạc để xây nhà kiên cố.
Ngôi nhà tranh vách đất của nhà tôi được ông bà nội dựng lên từ khi ông bà còn trẻ. Bố mẹ tôi thừa hưởng ngôi nhà ấy và cũng chỉ thi thoảng đại tu, sửa chữa lại cho chỉn chu vững chãi mà thôi.
Nhà dựng ở khoảng giữa miếng đất hình chữ nhật, trên nền cao cỡ gần nửa mét. Ngôi nhà 3 gian, 2 chái có khung toàn bộ là các đòn cây tre, từ dui, mè, cột, kèo cho tới các nan dọc đan ken làm vách ngăn.
Ông nội tôi kể rằng, trước khi dựng nhà ông đã phải kén chọn những cây tre già và nhất thiết phải là tre đực, bởi tre đực mới dày mình và chắc khỏe. Những cây tre đó phải thẳng, dài đủ cho chiều dài của ngôi nhà 5 gian.
Ông cho biết, để làm đủ cho ngôi nhà tranh vách đất 5 gian ấy phải mất đến hơn 50 cây tre các loại. Tre được chọn, khi chặt xuống phải mang ngâm xuống ao cho ngập nước với thời gian khoảng 1 năm để tránh mối mọt. Khi vớt những cây tre lên phơi cho khô rồi mới tới công đoạn đo đạc để cưa, cắt, đục cột, kèo…
Ngày dựng nhà hầu như cả xóm tới ăn mải (làm giúp) mà không lấy tiền công. Có hôm tới cả vài chục người và bà nội tôi phải vất vả lo nấu nướng sửa soạn cơm nước cho những người tới làm giúp đó ăn. Nhà dựng toàn là tre như vậy nhưng độ bền thì ngay cả một số loại gỗ cũng khó bì được.
Chẳng vậy mà theo như tôi được biết ngôi nhà ông bà nội tôi dựng từ thập kỷ 50 của thế kỷ trước, mà mãi cho tới khi bố mẹ tôi phá bỏ để xây nhà gạch vào cuối thật kỷ 90, nó vẫn còn vững chãi, cột kèo vẫn chắc khỏe.
Ngày tôi còn nhỏ, cứ khoảng 2 năm là bố mẹ tôi lại phải đảo mái tranh một lần, vì khoảng thời gian 2 năm luôn khiến mái tranh bị mục nát, khi mưa xuống sẽ bị dột. Để thay mái tranh cũ bằng mái tranh mới thường mất khoảng 2 ngày và thời gian thay mái tranh luôn diễn ra vào mùa cuối năm, bởi lúc này mới có gốc dạ dài của lúa nếp cốm hoa vàng.
Sở dĩ mái tranh ở quê đều được lợp bằng loại gốc dạ của lúa nếp cốm hoa vàng là vì, đây là loại lúa có thân dài, ống thân cây tròn, to, cứng vì vậy độ bền qua mưa nắng sẽ cao, không như thân cây lúa tẻ mềm mại. Khi gặt lúa người ta thường chừa phần gốc dạ dài khoảng từ 40-50cm để lấy nguyên liệu lợp nhà. Gốc dạ được phơi khô, sau đó mới mang lên mái lợp nhà.
Khi lợp, thông thường người ta chằm lại từng manh dài để xếp lên lần lượt theo chiều cao dần. Cũng có nhà cứ rải gốc dạ trực tiếp lên mái rồi mới lấy một thanh tre nẹp lại bằng các sợi dây lạt mỏng cho chắc chắn. Những buổi nhà tôi lợp nhà như vậy thì hầu như các thành viên trong gia đình ai ai cũng phải vất vả. Bố mẹ thì lên nóc nhà lợp. Mấy anh chị em chúng tôi thì ở dưới dùng sào đưa các bó dạ lên mái cho bố mẹ lợp.
Những năm tôi lớn hơn chút xíu, do bất lợi của việc lợp nhà bằng rơm dạ là cứ 2 năm phải lợp lại một lần, rất tốn công, nên bố mẹ tôi đã chuyển qua mua lá cọ từ Phú Thọ về lợp cho bền. Nhà lợp bằng lá cọ mát không kém lợp dạ, mà độ bền có khi phải tới cả chục năm mới phải lợp lại…
Với tường vách quanh nhà thì tùy theo thiết kế chất liệu của từng nhà mà độ bền được ngắn hay dài. Thường là nhà nào cũng chát tường xung quanh, hay các vách ngăn bằng đất. Đất dùng chát nhà nhất thiết phải là đất bùn ao được vớt lên và nhào chộn với mùn rơm băm nhỏ. Sau khi có được nguyên liệu đất nhào rơm như vậy thì mới đến công đoạn chát lên tường.
Tường bao được làm từ các thanh tre đan ngang, dọc hình mắt cáo có lỗ to bằng nắm tay. Khi chát đất vào thì chính chất liệu rơm nhào lẫn có tác dụng giữ cho bùn đất không rơi xuống. Việc chát nhà phải chát cả phía trong lẫn phía ngoài cho nhẵn nhụi và phải kín các lỗ. Khi tường chát khô thì độ cứng cũng có thể chống chọi với thời gian khá lâu. Nếu không bị mưa hắt vào tường gây xói lở thì tường vách đất cũng có độ bền cả trên chục năm…
Ở nhà tranh vách đất là cực kỳ mát mẻ về mùa hè nóng bức và ấm áp về mùa đông giá rét. Chẳng vậy mà nhiều buổi trưa hè, trời nắng tới gần 40 độ, nóng như thiêu như đốt, chỉ cần bước qua cửa vào ngôi nhà tranh vách đất là ai đó đều cảm nhận được sự mát mẻ đến lạ kỳ.
Hay như nhiều năm, bước vào mùa đông lạnh giá, có khi nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 10 độ, vậy mà sống trong ngôi nhà tranh vách đất ta luôn cảm nhận thấy một không khí ấm nồng dễ chịu…
Cùng với sự phát triển của xã hội và đà đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, ngôi nhà tranh vách đất của gia đình tôi nói riêng, cũng như hết thảy các gia đình ở thôn quê tôi nói chung đều mai một và mất hẳn vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước.
Nhắc nhớ và hoài niệm lại những mái tranh vách đất không phải là muốn níu kéo lại cái nghèo, cái khó, nhưng quả là sự mất đi của những mái nhà tranh vách đất ấy là đáng tiếc, vì ước gì nền kinh tế của người dân vẫn phát triển, nhà tầng, nhà ngói vẫn mọc lên, nhưng đâu đó nơi thôn quê vẫn còn giữ được một vài nếp nhà tranh đơn sơ làm vốn quý, làm cái… hồn quê thì hay biết mấy (?!)… 
 Lê thị Hương
 
Ngày xưa, dựng mái nhà tranh vách đất thật kỳ công. Kỹ thuật dựng nhà chứa đựng nhiều giá trị tri thức dân gian.
Nhà tranh vách đất là kiến trúc nhà ở phổ biến ở các vùng nông thôn Quảng Nam trước đây. Bây giờ đi khắp các vùng nông thôn, nhà tranh vách đất đã vắng bóng, thay vào đó là nhà xây, nhà đúc… san sát nhau. Nhiều lúc đi giữa đường quê mà thèm lắm hình ảnh một mái nhà tranh vách đất, không biết sau này mấy ai còn biết đến những mái-nhà-ký-ức ấy.

Còn nhớ trước đây, khi gia đình chuẩn bị làm nhà, ba mẹ tôi bàn bạc kỹ lắm. Đi xem tuổi, xem ngày rồi mới bắt đầu mượn người đốn tre, chẻ hom đem ngâm bùn từ 5-7 tháng để mối mọt không ăn. Cắt tranh, giũ rạ phơi khô rồi chất trên phía chuồng bò chuẩn bị lợp mái. Đến ngày làm nhà, ba tôi đi mượn bà con anh em trong xóm tập trung phụ giúp. Làm theo hình thức mượn qua mượn lại, nấu cơm ăn chứ không tiền nong gì cả. Lúc đó làm nhà vui lắm, người “có tay nghề” việc gì thì giúp làm việc đó. Mà hầu như đàn ông trong xóm việc gì họ làm cũng được nên thuở bé tôi rất ngưỡng mộ họ. Từ khoét kèo, gác đòn tay, dựng mầm trỉ, chẻ lạt, đánh tranh, đưa tranh, đưa tre, buộc lạt đến đào lỗ cột, chẻ tre, nhồi đất, dọn dẹp, trét vách, đắp nền, đóng cửa..., người nào việc nấy nhịp nhàng.
Khác với nhà xây bây giờ (làm vách trước, dựng, lợp sau), nhà tranh vách đất thì dựng và lợp nhà xong mới bắt đầu làm vách. Người thì chẻ tre ra thành miếng nhỏ, buộc làm khung theo lối đan nan mốt (gọi là mầm trỉ). Người đào lấy đất thịt pha sét tốt mịn, đổ vào lượng nước vừa phải, nhồi nhuyễn, trộn rơm khô vào. Sau đó, tấp đất sét đã trộn với rơm lên mầm trỉ từng lớp một, đắp đến đâu thì dùng tay vuốt chặt đến đấy để các lớp đất sét kết dính vào nhau. Sau cùng là làm nền, gánh đất đổ vào san bằng, đầm chặt; lớp trên cùng đổ một lớp đất thịt, rưới ít nước cho hơi ướt, rắc tro bếp đều lên rồi đầm tiếp chỗ nào còn ướt thì cho tro vào đầm cho đến khi nền ráo đều thì thôi. Tro bếp có tác dụng giúp cho nền nhà không bị ẩm vào mùa mưa và không bị nứt vào mùa nắng.

Nhà tranh vách đất cũng có cột kèo, đòn tay… tương tự như nhà gỗ, nhưng tất cả vật liệu làm nhà đều bằng tre, tranh và vách bằng đất ép trên mành tre. Chủ nhân những ngôi nhà tranh vách đất thường là nông dân và được làm theo nhiều quy mô khác nhau. Có nhà trên, nhà dưới, nhà bếp... Nhà trên thường làm kỹ nhất: cửa vào nhà trên trổ ở giữa vách phía trước, hai cửa sổ ở hai bên, chái bên có thêm cửa sổ, nhà trên có cửa thông với nhà dưới. Nhà trên chủ yếu để thờ cúng, tiếp khách, đàn ông hay người lớn mới được ngủ. Nhà dưới dùng để sinh họat chung, ăn uống, đàn bà con gái ở, nhà này còn có buồng để tích trữ nông sản. Nhà bếp để nấu ăn, đựng các vật dụng của bếp núc. Nhà nào chưa đủ điều kiện thì đầu tiên chỉ làm nhà trên và nhà dưới, còn nhà bếp làm sau. Nhà tranh vách đất thường làm thấp để phòng tránh gió bão; giọt tranh trước nhà thấp đến mức người hơi cao bước vào nhà nếu quên cúi xuống là bị đụng đầu.
Nhà được cho là đẹp là nhà có hè đắp ngay thẳng, vách trát phẳng lì không nứt nẻ, mái tranh không lởm chởm, giọt tranh dày được cắt bằng; bên trong nhà, cột kèo cấu kết với nhau vững chắc, lỗ đục láng, sắc, khít khao. Nhà tranh vách đất nhanh xuống cấp, khoảng chừng 2-3 mùa mưa dầm thì lở hè, rã vách, dột mái… Cho nên chủ nhà luôn để ý nếu bị hỏng là sửa chữa ngay. Mái  bị dột thì mượn người dọi lại (thay tranh một chỗ bị hỏng). Nếu nhà lâu năm tranh bị cùn thì thay tranh mới, lấy tranh cùn lợp chuồng heo, chái để củi…
Hôm nay, nhìn “bức tranh” nhà ở khang trang, thấy được sự thay da đổi thịt của quê nhà, lòng lại nhớ mái tranh vách đất năm xưa. Tôi cố công đi tìm để ghi lại vài hình ảnh làm tư liệu sau này. Thế nhưng, hiện nay dạng nhà này chỉ còn lại trong ký ức của các vị cao niên. Vừa rồi có anh bạn nảy ra ý tưởng làm ngôi nhà tranh vách đất để làm phòng khách tại Tam Kỳ, nhưng tham khảo vật liệu và công làm nhà chi phí quá cao nên dự định đã dừng...
TRẦN VŨ