Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Pleiku Ôi Tháng Ba, nỗi nhớ quay về

Giã Từ Vũ Khí

Kỷ Niệm Nào Buồn


      Pleiku của Anh

( Cảm tác từ bài viết "Pleiku nắng buị mưa bùn" của Nguyễn Dân và những hình ảnh về Pleiku của Hoa Phạm). 
Pleiku của anh những ngày nắng bụi,
Trên con đường dài vắng chuyến xe qua,
Đường đất hoang sơ không phố, không nhà,
Chỉ có trời mây, hàng cây rất thấp.
              Bụi Pleiku, bụi một màu đỏ gạch,
              Anh đi qua thị trấn buồn ngẩn ngơ,
              Chiều chơi vơi sương mù mịt biển hồ,
              Hồ không đáy? nước không bao giờ cạn.
Anh lính mới, vừa về vùng lửa đạn,
Đóng quân ở đây phố lạ, người dưng,
Thành Pleime heo hút gíó xa xăm,
Phi trường Cù Hanh, ai đi ai đến?
             Những ngày Pleiku mưa dầm rả rích,
            Thị trấn buồn ảm đạm ngủ trong mưa,
            Mới hôm qua nắng gió cuốn bụi mờ,
            Hôm nay đường phố mưa bùn tội nghiệp.
Anh lính trẻ lang thang trong phố ướt,
Qua mái hiên che, qua vũng nước buồn,
Chiếc xe nhà binh đậu ở ven đường,
Người ta sống giữa chiến tranh và chết chóc.
               Pleiku phố nhỏ, những con đường ngắn,
           Đầu đường cuối đường không đủ mỏi chân,
               Đường Hoàng Diệu anh qua đã bao lần?
               Bụi đất đỏ theo anh về quen thuộc.
Bụi theo anh đường hành quân xuôi ngược,
Thôn xóm xác xơ hay những buôn làng,
Cô gái Ê Đê thấp thóang nhà sàn,
Anh mơ một đêm rượu cần chếnh chóang.
                Pleiku của anh một thời chinh chiến,
                Đi đâu về đâu vẫn nhớ nơi này,
                Ai trách Pleiku tẻ nhạt, lưu đầy?
                Ai lưu luyến khi chia tay phố núi?
Đầu sóng ngọn gió anh còn ở lại,
Trận địa Pleiku có lúc kinh hoàng,
Vẫn yếu mềm ngơ ngẩn một dáng em,
Sống và chết, Tình yêu và nỗi nhớ.
              Bao nhiêu năm, bao mùa rừng thay lá,
              Bụi thời gian không che khuất bụi đường,
              Vẫn còn trong anh nắng bụi mưa bùn,
              Thành phố núi một góc đời trai trẻ.
                     Nguyễn Thị Thanh Dương
                             ( April, 2011)
Nỗi nhớ tháng ba,
Còn trong tim quê hương
Là hãy còn nỗi nhớ...
Đời dẫu có vô thường
Mênh mang sầu vấn vương
Xin tạ lỗi quê hương,
Những gì không làm được !
Để mãi hoài nhớ thương
Một Pleiku phố núi. 
 Dẫu mai lá có lìa cành, 
Xin làm chiếc lá trên cành quê hương
NM
Pleiku: Tháng Ba, nỗi nhớ quay về
Pleiku, vùng cao nguyên đất đỏ, giao điểm của những con đường Quốc Lộ 19, 14 nối liền Duyên Hải, vùng Hoàng Triều Cương Thổ đến cùng tận Tây Nguyên.
Pleiku còn được gọi là thành phố Lính, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, nơi đồn trú của Sư Đoàn 6 KQ, Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, 8 Liên Đoàn Biệt Động Quân, nhiều đơn vị Bộ Binh và Tiểu Khu Pleiku.
Pleiku cũng là nơi có những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc.
Pleiku còn mang tên Phố Núi thơ mộng, một địa danh đã được dệt nên nhiều áng thi ca bởi những nhà thơ nổi tiếng một thời sống ở Pleiku hay chỉ một thoáng ghé qua Phố Núi: Vũ Hữu Định, Cao Thoại Châu, Nguyễn Bắc Sơn, Kim Tuấn, Nguyễn Mạnh Trinh, Võ Ý..
Tháng Ba 1975, Pleiku trời bỗng đổ những cơn mưa, giọt mưa như những dòng nước mắt đầm đìa khóc thương cho những người bỏ đi và cho cả những người ở lại để đón chờ một cuộc đổi đời oan nghiệt.
Tháng Ba, những đám mây la đà như những vành khăn tang phủ trên đầu Phố Núi.
Những người lính chiến bao nhiêu năm trấn thủ sống chết với vùng địa đầu tam biên, giờ phải hốt hoảng ra đi, không kịp nói với Pleiku một lời giã biệt, kéo theo những người dân hiền lành và cả những cô cậu học trò đã từng lớn lên bằng hơi thở của núi rừng, một thời tuổi thơ được vỗ về bằng tiếng đạn bom và cả những bài thơ rất tình ngợi ca Phố Núi.
Chính hơi thở của các nàng thiếu nữ Pleiku, cùng dư âm đạn bom và cả những bài thơ của những nhà thơ lính bị lưu đày, đã dệt thành những mảng mù sương giăng giăng trên Phố Núi, như muôn đời ôm lấy trái tim của những người Pleiku lưu lạc, để cho lòng lưu luyến mãi khôn nguôi...
Tháng ba 1975, Pleiku đứt đi từng đoạn ruột. Từ trời cao nhìn xuống, dòng người “di tản” kéo dài bất tận trên Tỉnh Lộ 7B, trông như những khúc ruột đứt ra từ Phố Núi. Và có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết con đường tỉnh lộ kinh hoàng này. Thân xác gởi lại nơi nào giờ cũng đã trở thành tro bụi. Bao nhiêu đứa con thơ lạc mất vòng tay của mẹ, nếu có còn sống đến hôm nay cũng đã trở thành xa lạ. Những người may mắn sống sót, hầu hết đã ra đi, tản mác khắp bốn phương trời.
Tháng ba, Phố Núi phủ lên một màu ảm đạm, hoang tàn, chia ly,chết chóc, tù đày.
Pleiku đã chết. Người thắng cuộc đã tô son trét phấn trên thi thể của Pleiku để Phố Núi dù có rực rỡ đèn màu, có vang dậy tiếng cồng chiêng trong các bản làng, Phố Núi cũng sẽ chẳng bao giờ là Phố Núi của ngày xưa, của chúng ta, những người có mặt hôm nay.
Tháng Ba, nỗi nhớ có quay về Phố Núi, thì vẫn là một Phố Núi ngày xưa. Mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng, ký ức của mỗi người trong chúng ta hôm nay.
Không biết có bao nhiêu nước mắt nào đổ xuống để có thể giải oan cho cuộc biển dâu này của những người Phố Núi.
Hôm nay, Tháng 3, đúng 40 năm, ở một nơi xa xăm, muôn trùng cách biệt với quê nhà, những người Pleiku xa xứ từ khắp nơi qui tụ về đây. Từ các anh phi công , các anh lính chiến Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Bộ Binh, những công chức, thầy cô giáo, những cô cậu học trò và cả những người từng sống, từng lớn lên từ Phố Núi. Tất cả đang ngồi quanh đây với biết bao nỗi nhớ đang quay về.
Nhớ bầu trời một thời bay bổng, nhớ núi rừng, nơi các chiến trường của một thuở tung hoành ngang dọc, cùng sống chết với anh em đồng đội, nhớ những con đường góc phố bám đầy đất đỏ, nhớ những mái trường Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc…, nhớ Thành Pleime, phi trường Cù Hanh, căn cứ Biển Hồ, nhớ Đồi Đức Mẹ ... và nhớ rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, rạp Diên Hồng, những quán cà phê Lính, cà phê Văn, Dinh Điền, Bắc Hương , Thiên Lý...
Những người lính Pleiku ngày nào bây giờ đã trên tuổi 70 và những cô học trò Phố Núi ngày xưa bây giờ cũng đã là bà nội bà ngoại.
Xa Pleiku đã nửa đời
Sao như vẫn ngỡ hôm qua hỡi người !
Chào em còn một nụ cười
Sao trông như khóc bên trời nhớ nhau
Chào Pleiku trước và sau
Trong tôi còn đó nỗi sầu thiên thu
Chào Pleiku sương khói mù
Chính là chào phiến lá thu lìa cành.. (*)
Thời gian như những ngọn gió làm cho các phiến lá vàng lần lượt lìa cành. Ta gặp nhau hôm nay, để thấy trong ta vẫn còn có những vết thương không bao giờ thành sẹo, và để thêm một lần cho nỗi nhớ quay về. Để nếu mai này có là một chiếc lá lìa cành thì xin không rơi giữa hư không mà rơi xuống giữa lòng Phố Núi. Phố Núi mênh mông, huyền thoại trong tâm tưởng của mỗi người...
Pleiku ơi ! Tháng Ba , xin hãy cho những người đã không giữ được Phố Núi ngày nào được nói một lời tạ lỗi. Và xin Pleiku ghi lấy tấm lòng của những người xa xứ, cứ mỗi độ tháng Ba, là bao nỗi nhớ lại quay về, với tấm lòng da diết những yêu thương !
Phố núi
(*) Trích thơ của người lính Biệt Kích Túy Hà

Vòng Kí Ức Tháng Ba
Trước mắt tôi là các chiến sĩ – những chàng trai nước Việt – nắm tay nhau làm cột mốc. Những gương mặt ánh lên lòng tự hào, sẵn sàng hy sinh vì biển đảo. Tôi như nghe đủ giọng nói của mọi miền Tổ quốc. Giọng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, giọng Khánh Hòa, Quảng Nam… Bắc, Trung, Nam có cả. Tôi như nghe họ hát.
Hai tay của Hải không còn. Trước mắt anh sừng sững lá cờ Tổ quốc cùng đồng đội. Mắt anh vẽ một khoảng không. Biển. Đảo. Đồng đội. Cờ Tổ quốc!...
       Hải bặm môi, trở mình. Mấy hôm nay trở trời, nằm trên giường nệm, anh vẫn thấy ê ẩm cả người. Vết thương ngày nào, giờ, tái phát. Nhưng anh gắng gượng. Anh phải cố sức để vẽ cho xong bức tranh về đồng đội anh ngày nào, về một thời đã ám ảnh anh trong từng hơi thở, trong từng mảng màu, nét cọ mà anh thao thức.     
       Anh khó nhọc chống cùi ngồi dậy. Miệng khô khốc. Anh nuốt nước bọt. Chỉ có sự rát đau ở họng. Anh đưa miệng ngậm chiếc ống nhựa, hút nước ở ly.
       Uống nước xong, anh lại định thần, gắng hít thở thật mạnh. Tựa lưng vào chiếc gối, anh nhìn bức tranh còn dang dở. Hình ảnh đồng đội của anh lại hiện về.

       Nhớ lại ngày ấy, anh cùng đồng đội xây dựng đảo. Chiến dịch CQ88 được phát. Nhận lệnh là đi. Chỉ có trái tim vì biển, vì đảo. Không phải là những câu khẩu hiệu tuyên truyền mà chính là mệnh lệnh của trái tim, của tình yêu biển đảo đã đưa anh cùng đồng đội đến với Gạc Ma.

       Nhìn bức tranh, anh như thấy từng người. Này là Quân, lính trẻ nhất đơn vị, thích nghe anh nói chuyện về những cô gái ở làng biển quê Quảng Nam. Này là Nhơn, người lúc nào cũng thích ca bài chòi. Cựa một tí là ca. Dù chẳng có hơi xuống giọng xề. Thế nhưng, mỗi lần rảnh là ca. Anh em trong đơn vị thích cái tính xuề xòa của Nhơn nên cũng thích luôn những lời ca dân dã ấy. Này là anh Phương, chỉ huy, coi anh em như ruột thịt. Còn biết bao nhiêu người nữa. Họ trong tranh như cười động viên anh vượt qua cơn đau.

       Nhìn tranh, anh nhớ lại ngày ấy...

       Trời hửng sáng. Biển vẫn trong xanh. Cả đơn vị đang ra sức xây dựng đảo. Yên bình trên từng lời bông đùa của đồng đội. Yên bình trên từng con sóng. Hải như nghe được lời của Nhơn ca: “Đảo này là của chúng ta. Ngàn năm ta giữ nước nhà Việt Nam...”. Tiếng vỗ tay vang lên. Chưa kịp cười đùa cho thỏa thích, Hải bỗng nghe tiếng loa. Lởn vởn tàu của giặc. Chúng bắt loa gọi đơn vị anh rời đảo. Nhưng lời của bọn giặc chẳng là cái quái gì. Cả đơn vị phớt lờ lời của giặc. Anh em được lệnh của anh Phương: “Phải bình tĩnh. Đảo là của ta, ta quyết giữ. Chúng ta giữ đảo là giữ đất Mẹ Việt Nam. Quyết không rời đảo!”. Lúc ấy, Hải như thấy tất cả đều có tâm niệm: “Quyết không rời đảo!”. Bọn giặc tìm cách khủng bố tinh thần của anh em. Rồi bất thần, bọn chúng xả súng về phía đơn vị anh.

        Hải không ngờ tình thế như vậy. Chỉ tiếng súng nổ. Và đạn bay... Chợt tiếng của Phương vang lên: “Tất cả nắm chặt tay nhau, kết thành vòng tròn. Quyết tâm bảo vệ đảo, bảo vệ cờ Tổ quốc!”. Đó cũng là mệnh lệnh của trái tim. Trong làn đạn của giặc, Hải và đồng đội siết tay thật chặt, kết thành vòng tròn, giữ cờ Tổ quốc. Lá cờ ngạo nghễ giữa biển trời. Giặc vẫn xả súng. Hải một tay nắm tay Nhơn, một tay nắm tay Quân. Và cứ thế vòng tròn vẫn vững trước đạn thù. Bỗng, Nhơn á lên một tiếng. Giọng Nhơn đứt quãng. Máu Nhơn! Nhơn bỏ tay Hải, quỵ xuống: “Anh Hải!... Hãy… trả thù… cho… em!”. Đạn giặc trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái… Đạn giặc bao vây đồng đội anh. Rồi, Quân cũng bị trúng đạn. Quân ngã trên người Hải, giọng phều phào: “Anh đưa… em… về quê… nghe!... Nói… với Mẹ… là em… em… nhớ Mẹ… lắm!... Còn chuyện… mấy đứa… con gái… làng chài quê anh...,… em xin… nói lời… vĩnh… biệt… với họ… Mẹ!... ”. Quân hy sinh trên tay anh. Anh chưa kịp nói lời nào thì lại nghe tiếng gào to. Đó là tiếng Phương. Tiếng của Phương hòa trong tiếng sóng: “Thà hy sinh, chứ không chịu mất đảo”. Đạn giặc bắn không ngừng. Hải thấy hai tay mình như có ai chém.

       Hai tay của Hải không còn. Trước mắt anh sừng sững lá cờ Tổ quốc cùng đồng đội. Mắt anh vẽ một khoảng không. Biển. Đảo. Đồng đội. Cờ Tổ quốc!...
                                                  *
                                               *      *
       Hải được giải đặc biệt về Biển đảo Quê hương, nhiều phóng viên đã đến tìm hiểu về cuộc đời anh. Bấy lâu nay, có ai biết đến Hải Trường Sa là ai đâu. Nhưng giờ đã khác. Bút danh Hải Trường Sa khẳng định với công chúng về tài năng hội họa.

       Tôi được Hội Văn học Nghệ thuật thành phố gửi giấy mời tham dự buổi khai mạc và trao giải thưởng. Vì bận việc đột xuất, nên tôi đến trễ. Chỉ được xem tranh là chính. May mắn cho tôi là được thưởng thức một số tranh dự thi đoạt giải cùng với một số tranh khác của những họa sĩ nổi tiếng trong nước.

       Sau khi xem từng bức tranh, tôi giành thời gian bên bức tranh đạt giải đặc biệt. Trước mắt tôi là bức tranh mang tên “Vòng ký ức Tháng Ba”. Và điều làm tôi ngạc nhiên là, bên cạnh bức tranh, một người không còn hai bàn tay. Đó chính là Hải Trường Sa, tác giả bức tranh ấy. Một số phóng viên đang phỏng vấn anh. Anh chỉ cười. Đứng cạnh Hải, tôi nghe anh trả lời:

       - Có gì đâu! Tôi không vẽ là tôi còn nợ với chính tôi. Tôi chỉ là người lính giữ đảo năm nào, giờ là như thế này đây - Anh cười và đưa hai cánh tay cụt - Cũng may cho tôi là chất lính một thời trong tôi giúp tôi vẽ. Còn đời tư tôi, xin các bạn thông cảm, tôi không muốn nói về mình. Chỉ thế thôi! 

       Nghe những gì anh trả lời, không hiểu anh ta khiêm tốn hay kiêu. Nhưng rồi, nhìn nụ cười hiền với tiếng nói đặc sệt chất giọng Quảng Nam, cùng với ánh mắt sáng tự tin, tôi tin lời anh nói.

       Và rồi, người xem tranh cũng bớt dần. Tôi đến làm quen Hải. Tôi tự giới thiệu về mình, là thầy giáo, nhà văn, thích xem tranh vẽ. Hải nhìn tôi cười. Và đưa cái cùi chỏ đụng vào bàn tay tôi lắc lắc.

       Từ đó trở đi, chúng tôi thành bạn của nhau. Những khi rảnh, tôi thường đến thăm Hải. Hoặc trao đổi qua facebook. Càng ngày chúng tôi càng thân nhau. Biết tính Hải không muốn nói về mình, nhưng tôi cũng hỏi chuyện riêng tư của Hải. Vì thân, mà đã là bạn thân cần gì phải dấu nhau điều gì, nên rồi Hải cũng tình thật kể cho tôi nghe.

       - Cậu biết không, hồi thanh niên, mình thích vẽ lắm. Nhìn những tranh của Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, rồi đến Đinh Cường, Bửu Chí, Rừng… là mình mê tít. Mình có một tập ảnh chụp lại các bức tranh mình thích. Nhìn những bức tranh ấy, nhiều lần, mình tưởng tượng các sắc màu trong các tranh ấy như muốn nói với mình: “Bạn cứ tin vào khả năng và tình yêu của chính mình thì mới có thể vẽ những tranh đẹp được”. Mình tin lời sắc màu nói với mình. Từ đó, ngoài chuyện học, mình lại lao vào việc mày mò, tìm hiểu về hội họa. Nào là cách tìm chủ đề, tìm bố cục, cách pha màu… Thú thật, mình thích vẽ từ nhỏ, lại có chút năng khiếu, nên mình vỡ lẽ ra là mình có thể vẽ những gì mình thích, những gì in đậm dấu ấn trong lòng mình.

       Hải nói như trút hết tâm trạng của mình. Tôi cầm cùi tay Hải, xoa xoa, nói:

       - Hèn gì! Phần thưởng cậu nhận xứng đáng với công sức của cậu.

       Hải kẹp ly nước lên uống. Rồi để xuống bàn. Tôi nhìn căn phòng xinh xắn, đầy những tranh. Có bức đã hoàn thành. Có bức chưa xong. Bên cạnh giá vẽ nào là những hộp sơn, lọ màu… Đủ cả. Tất cả đều gọn gàng. Nhìn căn phòng một hồi, Tôi khen:

       - Họa sĩ như cậu có khác! Nghiêm túc dữ.

       Hải nhìn tôi cười:

       - Sao cậu lại nói thế? Tại cái tính mình giờ nó thế. Quen rồi. Để mọi thứ lộn xộn, ngổn ngang, mình không chịu được. Cũng tại chất lính một thời tạo cho mình cái tính ấy. Thật ra, khi còn trẻ, trước khi vào lính mình cũng a-ma-tơ lắm.

       - Hồi trẻ, cậu nghệ sĩ lắm thì phải? Kể cho tôi nghe cậu tập như thế nào mà được như rứa?

       Hải cười to, tiếng vang như sóng biển:

       - Ừ, thanh niên đa phần là thế mà cậu. Bộ cậu không có à? Nhưng giờ, như cậu thấy đó, mình phải tự nghiêm túc với chính mình mà. Cũng nhờ làm lính đó.

       Như được dịp kể cho tôi nghe, Hải cho biết những năm tháng ở quân trường, anh phải tự điều chỉnh ghê lắm. Chớ thằng con trai nào không có chút máu nghệ sĩ? Cái máu ấy tạo ra những biểu hiện để gọi là chút tài tử, chút chịu chơi. Hải nói rằng con trai mười tám, đôi mươi có tính như con chim trống rướn cổ hót phô bày bản lĩnh trước lỗ tai của những chim mái; như gà trống, rướn cổ gáy, phô diễn khả năng trước sự cương trứng của gà mái; như công trống xòe sự rực rỡ, phơi sắc màu tình yêu trước ánh mắt của chim mái. Hải cũng tâm sự, hồi chưa vào lính, anh thường thức khuya, đàn hát như khoe cho hàng xóm biết tài của mình, hoặc để bọn con gái chú ý. Có lẽ, hầu như đàn ông trai trẻ đều có một thời như vậy! Nhưng rồi, khi vào lính, dù tính đàn ông con trai vẫn thế, nhưng sống có quy củ hơn. Ăn có giờ, học có giờ, tập có giờ. Chệch giờ giấc là bị kỷ luật ngay. Không một hai gì cả. Còn quần áo, mùng mền, chiếu gối đâu vào đó. Ngay ngắn, sạch sẽ, ngăn nắp. Giường nào cũng như thế, cũng răm rắp.    

       - Còn bức tranh được giải vừa rồi, cậu vẽ khi nào? Do đâu?

       - Khi nào à? Mình chỉ nhớ là mình nhớ biển, nhớ con sóng ở Trường Sa. Không biết làm gì để đỡ nhớ, mình lên mạng tìm những bài hát về biển đảo, về tháng Ba. Tình cờ mình xem một video về trận Hải chiến ở Gạc Ma. Xem mà mắt mình rưng rưng. Như có ai bóp tim mình. Như ai đó làm mình nghẹt thở. Vòng tròn ấy cứ ám ảnh mình từ đó!

       - À, ra vậy!

       Từ khi đạt giải, mỗi lần Thành phố có triển lãm tranh về chủ quyền biển đảo, Hải đều được mời gửi bức tranh đạt giải tham dự. Và lần nào cũng vậy, tôi tìm cách dàn xếp công việc, thời gian để chở Hải đến phòng triển lãm. Như mọi lần, tôi cùng Hải đứng trước tranh ngắm nghía. Hải nói như thấy Nhơn, Quân, anh Phương cùng đồng đội hiện về. Còn tôi, lần này, như thấy trong tranh, trước mắt mình, hiện lên là vòng lửa bất diệt, vòng của sự sinh tồn của đất nước, vòng của sự sinh sôi, nảy nở lòng yêu nước, vòng của sự kết đoàn toàn dân tộc. Trước mắt tôi là các chiến sĩ – những chàng trai nước Việt – nắm tay nhau làm cột mốc. Những gương mặt ánh lên lòng tự hào, sẵn sàng hy sinh vì biển đảo. Tôi như nghe đủ giọng nói của mọi miền Tổ quốc. Giọng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, giọng Khánh Hòa, Quảng Nam… Bắc, Trung, Nam có cả. Tôi như nghe họ hát. Tiếng hát của họ hòa vào sóng biển vang mãi ngàn năm cho con cháu Việt Nam biết một thời bi tráng của dân tộc.

       Đứng trước bức tranh “Vòng ký ức Tháng Ba” là mọi người và tôi. Nhìn sâu vào trong tranh, tôi nghe từ tiếng vọng từ bức tranh: “Thà hy sinh, chứ không chịu mất đảo!”
.
   

Tháng 02/2016 Phan Trang Hy

Chờ đợi
Hạnh phúc thật giản đơn,
Như những lần chờ đợi...
Cho dù anh không tới,
Hạnh phúc cũng vô ngần !

Đêm tháng ba vô tận,
Như tình em vô biên...
Bao nhung nhớ ưu phiền,
Tan theo cơn giông bão

Em ngồi đây trông ngóng,
Trong nỗi nhớ cô đơn...
Dù người xa vời vợi,
Ôi hạnh phúc nào hơn ?!
NM

Như tháng ba
Vài tháng trước…. 
Tôi ngồi bó gối ở lan can lầu ba, nhìn xuống là thấy phòng học Anh văn của tôi buổi tối. Tôi đợi Nguyên. Chỉ là đợi thôi, chứ chưa bao giờ tôi đủ dũng cảm để gọi Nguyên, vẫy tay tíu tít với cậu ấy từ trên cao và rồi lao xuống như một con chim sẻ ồn ào để cùng cậu ấy vào lớp. Chưa bao giờ tôi làm như vậy, dù đã trăm lần cái ý nghĩ ấy trở đi trở lại trong tôi. Một người chị của tôi đã nói “Biết chờ đợi cũng là một hạnh phúc”, và ngày này qua ngày khác, tôi nhâm nhi cái hạnh phúc ấy và nhận ra, đôi khi, nó cũng là hạnh phúc thật sự. Bạn có tin không, nếu nhìn một ai đó mình yêu thương từ trên cao, cảm giác yêu thương sẽ tăng lên nhiều nhiều lần lắm đấy. Yêu thương cái dáng đi, yêu thương khuôn mặt và nụ cười nhìn nghiêng, yêu thương cái cách cậu ấy nhìn loanh quanh rồi thong thả bước đi. Tôi luôn đợi Nguyên theo cách đó, cách yêu thương và nhìn theo cậu ấy của riêng tôi. 
Hôm nay, tôi cũng đợi cậu ấy. Trời về chiều đã dịu đi cơn nóng, và gió bắt đầu mơn man trìu mến lạ lùng. Tôi vừa nghe Avril Lavigne, vừa nhâm nhi ly sinh tố trộn lẫn không biết bao nhiêu thứ trái cây. Bên cạnh tôi, quyển tiểu thuyết “Hội hè miên man” của Hemingway để dở dang, từng trang sách cứ theo nhịp gió lật giở một cách hững hờ và vô tình. Tôi nghĩ miên man về mọi thứ. Tôi nhìn mấy đứa bé chơi đùa dưới sân, và nhớ lại mình một ngày đã rất xa nào đó. Tôi nhìn chúng cười, và thảng hoặc nhận ra, một khi những đứa trẻ ấy lớn lên, cuộc sống khó khăn này liệu có còn để chúng mãi cười vô lo như thế không ? Tôi nhìn một cô lao công, mỉm cười khi nghĩ đến những giá trị lặng thầm trong cuộc sống. Tôi nhìn lên trời, và đoán thử xem những đám mây ngày hôm nay có hình dạng gì. Tôi đã luôn chơi trò này từ những ngày còn bé, và may mắn thay nó là thứ thuộc về tuổi thơ ít ỏi mà tôi còn giữ đến tận bây giờ… 
Và rồi tôi nghĩ đến Nguyên. Cùng lúc với suy nghĩ ấy, bóng dáng cậu ấy xuất hiện dưới sân trường. Nhưng… tôi không thấy vui mừng và hạnh phúc như mọi hôm nữa. Cậu ấy đi với ai đó, và ai đó đang cười rất tươi với cậu ấy. Một vài lần, tôi nghe một cậu bạn bảo rằng, có một người bạn gái rất thân thiết với Nguyên, luôn luôn ở bên cạnh cậu ấy và làm cậu ấy vui. Một vài lần, khi đứng trên lầu năm của trường nhìn xuống, tôi thấy Nguyện và bạn ấy trò chuyện rất hạnh phúc. Một vài lần, tôi chợn nghĩ, đó là bạn gái của Nguyên. “Chẳng hề gì”. Chỉ cần mỗi tối học Anh Văn, tôi vẫn có thể tự do đợi chờ cậu ấy, vẫn cùng cậu ấy thỉnh thoảng chia sẻ vài bản Rock, như thế là đủ. Tôi đã luôn biết, hạnh phúc nhiều khi chỉ nhỏ nhoi vậy thôi.
Nhưng bây giờ…
Chỉ thế thôi đấy. Chỉ là hạnh phúc của hai người họ thôi, thế mà nó giáng những trận mưa ầm ĩ và u tối xuống tôi. Ly sinh tố buông lỏng trong tay chực rớt lênh láng xuống nền nhà. Những ca từ của “Keep holding on” chợt trở nên ầm ĩ và vô hồn, giai điệu cứ thế trôi tuột qua tai tôi, hững hờ… Tôi lặng lẽ vác ba lô xuống lớp, bỏ quên quyển tiểu thuyết trên lan can – món quà mà tôi đã định sẽ tặng Nguyên nhân dịp sinh nhật. “Tựa đề nghe bay bổng, hệt như con người của cậu ấy vậy” – tôi đã nghĩ như vậy đấy… 
Keep holding on…  
Lớp học từ dạo ấy, đối với tôi, như mang một sắc thái mới. Tôi bắt đầu vào học khi mọi người đã yên vị, và luôn là đứa đầu tiên nhào ra khỏi lớp ngay khi thầy vừa nói “Goodbye”. Tôi không còn ngồi chỗ cũ nữa, mà thay vào đó là một vị trí ở phía dãy trong cùng, ở đó thì tôi sẽ không cảm nhận được sự hiện diện của cậu ấy – và cả người bạn ấy của cậu ấy. Tôi không còn liến thoắng như một con ngốc trong lớp học nữa, con người ta không thể sống vui khi thật sự họ đang cảm thấy đau và chỉ muốn khóc. Có đôi lần, trước khi chìm vào giấc ngủ,  một vài giọt nước mắt nhỏ ra. Và sau mỗi lần như vậy, giấc ngủ bao giờ cũng trở nên đầy mộng mị. 
Nhịp sống của tôi bắt đầu lặng đi. Tôi học nhiều, và làm việc nhiều. Tôi viết nhiều, và những câu văn không còn mang nhiều màu sắc tươi vui như trước nữa. Nói cho cùng, viết văn cũng chỉ là một trong nhiều cách để bộc lộ cảm xúc. Tôi đã viết, như thể đó là cách duy nhất cho tôi biết, tôi vẫn đang đi qua mọi chuyện theo cách ổn nhất mà tôi có thể. 
Tháng Ba vẫn đang sống, hiện diện trong tôi… Đau đến mấy, tôi vẫn phải bước về phía trước. “Khi bạn bước về phía trước, thế giới dường như nhỏ hơn”. Tôi vẫn mong thế giới nhỏ hơn thì cuộc sống sẽ bớt khó khăn hơn. Tôi vẫn mong như thế… 
2. Tháng Ba  
Tôi không thích cái tiết trời tháng Ba. Nóng bức. Mọi thứ như chỉ chực chờ đợi đến lúc được nổ tung, thoát ra khỏi những suy nghĩ ngày một căng phồng như một quả bong bóng bị thổi quá mức. Tháng Ba đến – tôi có cảm giác cuộc sống của mình trở nên gấp gáp và vội vã, bao kế hoạch dở dang trong khi những cái đã hoàn thành rồi lại bỗng chốc không ổn thỏa, khiến tôi chạy đi chạy lại giữa những lằn ranh bấp bênh.  
Dạo này, tôi trở lại thói quen nghe Rock. Tất cả những bản Rock hỗn loạn và pha tạp của mọi ca sĩ, nhóm nhạc Rock được tôi nén rồi đặt gọn gàng vào mp3. Một lần, tôi tình cờ chia sẻ sở thích âm nhạc với Lưu An – cô bạn học cùng lớp Anh văn buổi tối với tôi. Đó là một cô gái lạ lùng và phức tạp, mọi thứ thuộc về cô ấy lúc trầm lặng đáng sợ, lúc lại sôi nổi hào hứng đến mức, cô ấy khiến người xung quanh cảm giác cuộc sống này đáng tận hưởng biết dường nào. An hét lên, đầy vẻ phấn khích khi nghe tôi cùng chung sở thích âm nhạc với cô ấy.  
– Tớ thích Bon Jovi. Thích điên lên ấy chứ ! Lưu An nói, cả khuôn mặt hếch lên một vẻ khiêu khích kì lạ và đáng yêu.  
– Thế còn Avril Lavigne ? Tôi hỏi, ngụ ý rằng tôi thích cô ca sĩ tóc vàng hát Rock cực đỉnh này.  
– Avril Lavigne ? Cậu thích ?  
Tôi khẽ gật đầu. Lưu An mím môi, đầu nghiêng về một bên, dáng vẻ suy ngẫm điều gì đó. Vài phút sau, cái vẻ hào hứng lại trở về : 
– Tớ sẽ về nghe. Để xem thế nào… Tớ sẽ thử nghe chất Rock mà cậu thích. 
Tôi đã ngạc nhiên, pha lẫn thích thú khi nghe Lưu An nói như thế. Câu nói này có ý nghĩa gì ? Phải chăng cô ấy muốn thử khám phá dần dần những ý thích của tôi, và tập tành làm quen với chúng ? Nhưng để làm gì ? Cô ấy thích tôi sao ? Hay chỉ đơn giản là thói quen tò mò của một cô nhóc 19 tuổi, muốn tỏ ra mình biết thật nhiều, hiểu thật nhiều. Vậy thôi? 

Dù gì đi nữa, cuộc sống này đôi khi cũng dành cho chúng ta những cảm xúc trái mùa thật đặc biệt. Trong cái hanh hao và ngột ngạt của tháng Ba, tôi bắt đầu thầy yêu những giây phút bên cạnh Lưu An. Không hẳn là một cô gái xuất sắc và xinh đẹp, nhưng Lưu An biết cách làm tôi cười, và lắng nghe tôi. Lắng nghe và không bao giờ vặn vẹo – đó là điều ở Lưu An khiến tôi luôn thấy thoải mái. Đôi khi, cái ý nghĩ mình đã thích Lưu An xuất hiện trong tôi, nhưng rồi tôi nhanh chóng quét sạch nó. Tôi không muốn vướng bận gì vào lúc này, một cô gái khó hiểu như Lưu An lại càng không. Mọi thứ chỉ đẹp khi đứng xa để nhìn. Tôi luôn tin là thế. 
Cuộc sống đôi khi cũng dành cho chúng ta những cảm xúc trái mùa thật đặc biệt… 
Tôi luôn biết Lưu An ngồi đó, trên lan can tầng ba. Cô ấy đợi ai, đợi chờ điểu gì đó, tôi không biết. Nhưng cái dáng ngồi bó gối cô độc và buồn bã toát ra từ Lưu An luôn hiện lên sắc nét trong tôi, tựa như một bức chân dung tự họa bằng thứ màu nước sắc sảo và khó gột rửa. Tình cảm không đơn giản như một bài toán, đôi khi những thứ hiển hiện trước mắt lại không hẳn là những giả thiết đúng đắn để dựa vào nó, ta đi tìm đáp số. Tôi không tỏ ra quan tâm Lưu An, nếu không muốn nói tôi đối xử với cô ấy nhiều lúc lạnh lùng và dửng dưng đến mức tàn nhẫn. Thế nhưng tự sâu thẳm trong tôi, dường như những suy nghĩ về Lưu An chưa bao giờ thật sự bình lặng. Luôn có một cái gì đó trỗi dậy, lúc thương xót, lúc nhớ nhung, lúc lại cảm thấy phiền toái. 
Dạo này, Lưu An không còn chí chóe ồn ĩ như một con sẻ non trong lớp học nữa. Nếu vô tình chạm mắt nhau, cô ấy vội lảng đi, hờ hững. Cô ấy làm mọi việc lặng lẽ, cũng không còn ưng ửng hát thầm trong cổ họng những bản Rock của Avril Lavigne. Lưu An vào lớp muộn hơn mọi người, và chọn cho mình một chỗ ngồi trong góc. Hệt như một con nhím đang xù lông giận dữ với cuộc đời, cô ấy trở thành một người khác. Ý nghĩ ấy khiến tôi đau lạ lùng, như thể có ai đó vừa thoi mạnh vào bụng tôi, vì vô tình và cả lẫn vô tâm, tôi đã không hề nhìn lại phía cô ấy, dù chỉ một lần… 
Tháng Ba vẫn đang sống và hiện diện trong tôi… Những kế hoạch dần dần đi vào vạch đường dành cho chúng, không còn những bất an xuất hiện giữa những giấc ngủ của tôi lúc nửa đêm. Đôi lúc, giữa những bận rộn, tôi nghĩ tới Lưu An, nghĩ tới những gì ngắn ngủi cô ấy mang đến cho tôi. Cuộc sống dành cho ta nhiều sự lựa chọn, và tôi đã chọn cách sống như thế để quay lưng lại với cô ấy. Nếu như có thể lựa chọn lại, tôi sẽ làm khác không ? Tôi vẫn luôn tự hỏi như thế. 

“Có một người luôn luôn nhìn về phía anh, đến khi không còn nữa, anh bắt đầu cảm thấy trống trải, em ạ!” 
Có một người luôn luôn nhìn về phía anh… 
3. Và… tháng Ba. 
Lưu An 
Chiếc xe buýt cuối ngày đông đúc và ồn ào. Cuộc sống thu nhỏ hiển hiện trong chiếc lồng khổng lồ đang chuyển động khiến tôi thấy thú vị và ngạc nhiên. Đủ mọi buồn vui hỉ nộ ái ố, đằng kia hai anh chàng sinh viên đang cười đùa toan toác vì một câu chuyện vui nào đấy; phía bên này, một cô gái ngồi đơn độc, chống cằm nhìn ra đường phố bên ngoài mà đôi mắt như muốn thu hết tất cả cuộc sống vào cho mình. Cuối xe, tiếng trẻ con khóc lóc inh ỏi, người mẹ mệt nhọc với một ngày lao động gắt lên nặng nề, nghe đáng thương nhiều hơn là đáng trách. Chừng ấy con người, chừng ấy âm thanh, chừng ấy tâm trạng… Xe bus vẫn cứ chạy, cuộc sống vẫn cứ từng ngày trôi qua và tiếp diễn… Bài vở ở trường, những giờ học thêm dày đặc cùng công việc part-time lôi tôi vào một cuộc sống mới. Không nhiều thời gian để nhìn lại phía sau, tôi tìm niềm vui và ý nghĩa trong bận rộn. Và nhận ra, đôi khi, cuộc sống dành tặng cho chúng ta những điểu nhỏ bé và giản đơn, ví như được sống và làm những điều mình đam mê. Trong một góc khuất, tình cảm với Nguyên vẫn tròn vẹn. Tôi chờ đợi từng ngày cậu ấy nhận ra tôi, và bước về phía tôi. Tôi chờ đợi, và nhâm nhi cảm giác đó như một quy luật khiến con người ta trường thành. Tôi chờ đợi, và tin mạnh liệt rằng những điều tươi đẹp sẽ tới sau khi dông bão đi qua. 
“Nguyên này, cậu biết không, đến một lúc nào đó, tớ nhận ra, tình yêu không phải là một sự phiền toái. Tình yêu – rốt cuộc cũng chỉ đơn giản là yêu thương mà thôi. Nếu tớ yêu thương cậu nhiều, tớ tin là cậu sẽ nhận ra. Không hiện diện trong cuộc sống của nhau theo cách tớ vẫn mong muốn, không có nghĩa là tớ ngừng nhìn theo cậu, và yêu thương cậu, Nguyên ạ!” 
Đêm tháng Ba như dài ra, dài ra mãi trong tâm trí tôi… 
Nguyên 
Cuối cùng thì tôi cũng hiểu, rằng có những thứ đến và đi trong cuộc đời mình nhiều lúc không theo một quy luật nào. Nó đến khi cần phải đến, cần cho những đứa như tôi biết thế nào là sống và khi đã thấy thế là đủ, nó đi như chưa hề tồn tại. Điều cuối cùng còn lại, đó là cảm giác hụt hẫng và chờ đợi. Có hàng trăm khuôn mặt ngày ngày lướt qua tôi, tôi cố gắng tìm ra một nụ cười hay đơn giản là lắng tai nghe một âm thanh ưng ửng trong họng, ngâm nga Rock của Avril Lavigne. Trong những lần tìm kiếm như vậy, tôi nhận ra, được yêu một ai đó là hạnh phúc, được bước về phía một ai đó cũng là một hạnh phúc. Hạnh phúc giản đơn đến lạ lùng. 
“Lưu An này, tớ nhớ lắm… Cậu vẫn còn đâu đó, và đợi tớ một chiều tháng Ba, đúng không?”
Ý NHIÊN

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Tết quê nhà

Liên khúc mẹ và mùa xuân 

Hôm nay đã hạ nêu rồi, Tết đã qua nhưng tháng giêng vẫn còn lại, mùa Xuân chỉ mới bắt đầu, chủ đề về Tết đáng lý xong sớm nhưng thật sự vừa lu bu dọn dẹp "chiến trường" rồi theo thông lệ cúng sao, vía Trời, vía Thần tài cũng như đi những chùa xưa vẫn đi từ thuở nhỏ nối tiếp truyền thống xưa của gia đình, cảm thấy vừa vui vừa buồn vì chùa ngày nhỏ hay đi vẫn ...nghèo hoạ chăng thay đổi đôi chút, chùa Thích Ca vẫn khg có thùng "công đức", còn lại chùa mới giàu thật giàu !
Đi viếng cho biết nhưng cũng tự an ủi, khg biết sư trụ trì là ai, tâm như thế nào nhưng thà rằng dân đổ tiền vào xây dựng chùa có chỗ để mà ngắm hơn là giúp cho quán nhậu mọc lên như nấm
             Thú nhàn
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
Gõ nhịp lấy, đọc câu 'Tương Tiến Tửu'
"Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi"
Làm chi cho mệt một đời.

Cao Bá Quát
Nhớ Xuân
Tiếng pháo giao thừa rộn  trước sân,
Cành mai hé nụ chớm bâng khuâng...
Tiếc Đông, mừng đón Xuân hồng đến,
Thắm thoát Xuân qua biết mấy lần ?
Mai vàng, cúc đỏ hoa hồng thắm,
Đời đã bao lần vui đón Xuân ?
Ta vẫn chưa quên Xuân dĩ vãng...
Thanh bình mộc mạc mái tranh xưa !
NM

Tết Quê Nhà
 TỦ SÁCH TUỔI HOA
Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa xuân Quý Sửu, 1973

Tết Quê Nhà 

1 – Mùa xuân hồng này ta thêm một tuổi mới bao dung. Một chút bâng khuâng xa đưa qua hồn chim phiêu du về đậu trên cành hương xưa của khu vườn tuổi ấu thời.
Ơi chừ có nghe trăm nỗi thương nhớ ngút ngàn, những kỷ niệm của tháng ngày hồng xưa trở về thật đầy ắp trong một đời mộng tưởng của trí nhớ hoài niệm.

2 – Mười mấy năm rồi, hồi còn niên thiếu nơi quê ngoại. Thuở còn là cậu học trò lớp ba thơ dại hồn nhiên cắp sách đến trường làng, nghe thật xa vời.
Nhớ những mùa xuân xưa lúc ta còn bé, trong lòng rộn rã vô cùng một niềm vui mới chớm : Tết đến ! Thật nhiều mong đợi của tuổi nhỏ từ ngày rằm tháng chạp với lần đứng nhìn chú ba suốt lá cây mai trước sân nhà. Cây mai già trụi lá trơ những cành gầy guộc khẳng khiu trong nắng chiều và trong những ngày sắp tới sẽ trổ nụ nở đầu xuân.
3 – Rồi những ngày trong nhà nhộn nhịp hẳn lên, mẹ và chị hai bận rộn với mãng cầu, dừa, bí, gừng, me mà mẹ mua ngày chợ phiên. Chừ ta vẫn còn nhớ mãi hương vị mứt mới đậm đà biết mấy. Những tràng mứt phơi dưới nắng như những vòng tròn xanh đỏ vàng bày khắp sân, những buổi trưa ngồi học bài ở hiên nhà len lén chạy ra bốc một nắm cho vào túi. Thích nhất bao giờ cũng là mứt gừng ngọt dịu dàng pha một chút cay the.
4 – Ông thầy giáo già của ngôi trường làng cho bọn học trò liên hoan từ hôm hai mươi tháng chạp. Thuở nhỏ Tết đến ta thường đi tết thầy. Cành mai, hộp trà, chai rượu gói trọn tấm lòng kính mến của học trò nhỏ. Bao tục lệ cổ truyền đáng yêu của dân tộc vẫn tồn tại mãi trong lòng người dân quê. Chiều hăm ba pháo nổ vang vang trước ngõ đưa tiễn ông Táo về trời tâu nhỏ tâu to cùng Ngọc Hoàng, những chuyện trong năm từ tết năm xưa cho đến bây giờ.
5 – Cu kêu ba tiếng cu kêu
Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè

Từ những ngày đầu tháng chạp ta đã chờ đợi và lắng nghe tiếng chim kêu để được ăn chè. Ôi một tuổi ấu thời ngát hương hồn nhiên thơ ngây. Thật hớn hở bước chân sáo theo chú ba ra lũy tre làng chặt một cây tre già về dựng nêu ngày Tết. Buổi chiều ta ăn chè đứng nhìn ngọn nêu mới trồng trước sân nhà cao ngất nghểu, lá bùa đỏ viết mấy chữ nho phất phơ trong gió chiều. Trí óc non nớt của tuổi nhỏ vẫn có một sự tin tưởng thành kính ở lá bùa có quyền lực xua đuổi ma quỷ.
6 - Ở trong làng từ hôm đưa ông Táo đã có một không khí tết nhất bao phủ. Mọi nhà bắt đầu sửa sang sơn phết đón Tết, lòng người dân quê đượm một chút nao nao. Chú ba làm vườn đem bộ lư đồng ra hiên nhà cặm cụi đánh bóng. Màu đồng xám xịt trở nên sáng choang phản chiếu gương mặt của “cậu học trò trường làng” đang đứng trầm trồ khen ngợi. Cha ta kính cẩn dán trước cửa nhà hai câu đối chữ nho – màu đen nổi bật trên nền giấy hồng – mà cụ đồ Nhiêu đem tài họa phả vào ngọn bút lông như rồng bay phụng múa.
7 – Ngày cuối năm không khí buổi sáng thật êm dịu và thoang thoảng mùi Tết. Cây mai trước nhà ươm đầy những nụ hàm tiếu màu xanh non thật dễ thương. Vài cánh hoa nở sớm lung linh theo gió mai. Liếp vạn thọ ra bông thật nhiều vàng ối cả một góc vườn sau. Lá chuối xanh thật xanh – màu xanh hiền hòa thanh bình của quê hương – được rọc ra trải trên bộ ván. Nếp, đậu xanh, những sản phẩm thuần túy dân tộc nhất của ngày Tết, được mẹ và chị hai gói thành những đòn bánh tét xinh xắn, đậm đà tình quê hương thiết tha. Ơi ! Chừ ta vẫn còn nghe thật nhiều bâng khuâng.
8 – Tối ba mươi trời đen như mực ta ngồi cắn hạt dưa bên cạnh bếp lửa nấu bánh chờ đón giao thừa. Ngọn lửa tí tách reo vui. Giọng chú ba đều đều say mê theo pho truyện Tam Quốc. Ông ngoại nằm trên võng đong đưa nhâm nhi chén trà mạn sen bốc khói kể cho con cháu nghe những ngày Tết xa xưa. Hương yêu gia đình đoàn tụ thơm ngát ấm cúng vô cùng.
Giao thừa, năm hết Tết đến, người người hân hoan trăm nỗi vui mừng. Ông ngoại đốt một tràng pháo dài trước hiên nhà mừng năm mới. Tạch đùng, tạch đùng, tiếng pháo nổ vang khắp nơi. Ta vỗ tay vui cười thích chí lẫn trong làn khói trắng và tia chớp vàng rực xác pháo rơi đỏ tươi cả sân gạch tàu.
9 – Sáng đầu năm ta dậy thực sớm, xúng xính quần áo mới theo bà ngoại đi lễ chùa. Hương trầm bát ngát, người đông như hội. Ta ngoan ngoãn bên cạnh bà lễ lộc khấn vái nguyện cầu một năm mới được mùa sung túc. Lễ xong hai bà cháu ra sân chùa hái một nhánh lộc non xanh, sự may mắn thịnh vượng trong năm mới.
Pháo chuột, pháo tre nổ đì đùng, xác pháo rơi đỏ khắp làng xóm. Người dân mình thích màu đỏ cho những ngày Tết nhất – màu đỏ là sự sung túc của năm mới.
Ta quỳ lạy nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên khói hương nghi ngút, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân. Tuổi nhỏ thật ngây thơ ngoan hiền câu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, cô bác họ hàng. Và thật vui mừng với những đồng bạc cắc xóc xóc trong túi nghe vui tai, những phong giấy đỏ đựng tờ bạc mới còn thơm mùi giấy lì xì cho con cháu ngày Tết.
10 – Ngày mùng một cử quét nhà hốt rác, giờ ta thấy tập tục đó đáng yêu vô ngần. Mai nở rộ vàng óng ả giữa bầu trời xuân quyến rũ thật nhiều ong bướm xôn xao. Ngọn nêu cao vòi vọi bay bay theo gió, trong sắc nắng xuân sớm ngại ngần.
Ôi mùa xuân thanh bình cho quê hương ta đơn sơ mộc mạc thiết tha và đậm đà thâm tình dân tộc.
11 – Thật nhiều rộn ràng ba ngày Tết no đủ với thèo lèo, bánh mứt. Ta cắn hạt dưa đỏ hồng cả đầu ngón tay, lâu lâu hớp một ngụm trà tầu nhâm nhi ra vẻ người lớn.
Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo, bánh chưng xanh

Ngày Tết quê ta không thiếu thức gì. Cũng thịt kho, dưa giá bùi bùi, cũng bánh tét cắt từng khoanh bằng sợi lạt thơm ngon. Bánh chưng chỉ có ở những nhà người Bắc mà thôi. Dưa hấu da xanh mịn màng, xẻ đôi xẻ năm ruột đỏ đậm đà. Xôi vò, cơm rượu, rượu nếp than thơm nồng ngát hương xuân.
12 – Ngày xuân trong làng có hội hè đình đám nhộn nhịp vô cùng. Thiên hạ quần áo mới lượt là vui chơi ngày Tết. Những đám cờ bạc, xóc đĩa, bầu cua tụ năm tụ bảy từng đám đông ồn ào dọc theo bên lề con đường làng trải đá. Tiếng pháo chuột của bọn trẻ trong làng nổ đì đẹt vui tai suốt cả ngày. Ta cùng với mấy đứa bạn rủ nhau đi xem múa lân ở đình làng, chiêng trống thùng thùng náo nhiệt vui vô kể.
Tối đến đình làng có hát bội. Người đông như nêm, chú ba chen mãi mới giành được một chỗ đứng gần nơi diễn tuồng. Cuộc vui thường kéo dài đến khuya và ta đã ngủ gật trên lưng chú ba.
Gió xuân phảng phất trên làng xóm, lòng ai ai cũng nhẹ nhàng thư thái, hân hoan một nỗi reo vui. Ta theo cha đi xông đất bà con bằng hữu trong làng. Những lời chúc tụng vang vang, tiếng cười đùa rộn rã.
13 – Những ngày Tết trôi qua thật vội vã, thấm thoát mà đã mùng bốn rồi. Không khí Tết nhạt dần. Bánh mứt đầy vơi. Trong làng ngày mùng bảy hạ nêu, chú ba đốt một phong pháo tiễn xuân. Người dân làng trở về với cuộc đời bình dị hiền hòa bên lũy tre xanh. Ta đứng trông theo, bao luyến tiếc thật đầy ắp trong lòng, vẻ ngẩn ngơ in hằn trên khuôn má thật thà của cậu bé học trò trường làng ngày xưa.
Mười mấy năm trôi qua, hương yêu cũ ngút ngàn, chừ nhớ lại ta thấy tiếc những ngày xưa còn bé, những ngày niên thiếu ngát hương ấu thời như một chỗ nghỉ chân chim đậu. Bây giờ là mùa xuân hồng trên quê hương yêu dấu, bước chân chim gõ xuống cuộc đời, thật nhiều bâng khuâng, đôi chim sẻ hồn nhiên ríu rít đón chào mùa xuân mới trên ngọn cau đầu làng. Ôi làng quê thanh bình mộc mạc, lũy tre bờ giậu và những ngày Tết quê nhà yên vui xa xưa. Nắng tháng giêng đong đầy trong đáy mắt nhớ thương…
TRANG VY
(Trần Thượng Thái)

Bút Nhóm Hoa Nắng
Mẹ
Mẹ tôi cười lặng lẽ,
Hạnh phúc dâng tràn đầy...
Qua rồi Đông buồn tẻ,
Mẹ không rượu mà say !
NM

Mẹ và mùa xuân
Mẹ tôi làm nghề nấu, bán rượu. Nói phải tội, chứ nghề này như bán niềm vui cho thiên hạ mà mua buồn bực về cho mình. Tôi to gan nói vậy vì tôi thấy mẹ chẳng còn thời gian, mà cũng chẳng có bụng dạ để cười. Có khi mẹ đã quên cười rồi cũng nên.
Nghề nấu rượu rất cực, giỏi lắm cũng đủ mắm cá và lo cho chị em tôi đi học. Ba tôi có nhiệm vụ kiếm củi, còn chọn gạo, mua men, nấu rượu là việc của mẹ. À, giới thiệu với các bạn, nhà ngoại tôi ở Bình Định, có nghề gia truyền nấu rượu. Mẹ tôi là “con nhà tông”, lại thêm thích tìm tòi nghiên cứu nên kiến văn về rượu của mẹ cũng gần bằng… chuyên gia.
Nghề nấu rượu không có tết. Để ra lò và bán 10 lít rượu mỗi ngày thì gần như mẹ đã không còn thời gian để ngủ. Còn tết ư? Nghèo khó gì thì ngày tết cũng phải có rượu. Lại thêm cái lệ “Tháng Giêng là tháng ăn chơi” nên rượu cho ba ngày tết thì càng nhiều càng… ít. Mà nấu rượu đâu có dễ như nấu… cháo. Nghề này lắm công phu, đòi hỏi phải tỉ mỉ ở tất cả các khâu. Mẹ rất đầu tư cho một mẻ rượu có chất lượng, làm riết rồi “võ công” của mẹ cũng lên mức thượng thừa. Đến nỗi chỉ cần nghe tiếng giọt rượu rớt xuống hũ sành là mẹ có thể biết được chất lượng của mẻ rượu ấy. Nên tôi cũng chẳng lạ gì chuyện nhà mình lúc nào cũng có khách, thì rượu mẹ nấu chỉ khiến người khác “say” thôi mà.
Lần quần chuyện rượu mà quên chuyện tình tầm… huyền thoại của mẹ. Mẹ kể, hồi í mẹ học xong trung cấp thì vào Nha Trang làm việc cho một xí nghiệp chế biến thực phẩm. Ba không nhiều chữ nghĩa, bán hàng ở quầy mỹ nghệ dưới chân tháp Bà. Chỉ việc gã trai nghèo đèo trên chiếc xe đạp cà tàng về tới nhà khi gã đi làm về gặp mẹ ngồi dưới chân tháp nhăn nhó vì chân bị trật khớp mà mẹ hoàn toàn tin rằng, đó là một gã trai tốt. Tình yêu bắt đầu, đơm hoa, kết trái - như mối lương duyên tiền kiếp. Chuyện tình tưởng đã kết thúc có hậu với sự dâng hiến và chiếm đoạt theo nghĩa đẹp nhất của từ này. Giọt máu đang tượng hình trong bụng mẹ tưởng trái ngọt của tình yêu lại là lý do để bắt đầu cuộc chiến lựa chọn.
Thì ông bà ngoại làm sao chấp nhận chuyện “cành vàng lá ngọc” của mình lại đi trao thân cho một tên nhà nghèo ít học. Còn ông bà nội thì nổi xung vì thấy bị xúc phạm, từ tự ti, sang tự ái rồi đổ quạu. (Ba không được đi học nhiều, lại thêm cái vụ bác Năm, bác Chín từng ra vô chốn ngục tù). Vậy là ba mẹ đành chấp nhận cái giá từ bỏ gia đình để bảo vệ tình yêu. Đưa nhau về vùng kinh tế mới, không có công ty, xí nghiệp để xin làm công nhân, lại không có “kỹ năng” phá rừng làm rẫy, xóm núi heo hút, dân di cư là chủ yếu, lại thêm có nhiều người nghèo lười biếng và nghiện rượu. Trong hoàn cảnh ấy, để tồn tại thì nấu rượu là lựa chọn hoàn toàn sáng suốt.
Quay lại chuyện nấu rượu nhé. Vì rượu của mẹ chỉ khiến người ta “say sưa” nên mấy ông lưu linh hay ghé nhà. Nhiều lúc muốn bỏ nhà đi quách. Biết sao không, làm nghề buôn bán thì khách hàng đương nhiên là “thượng đế”. Khổ nỗi, nhà tôi toàn là những “thượng đế”… say. Thấy khổ chưa? Mà bạn biết rồi đấy, rượu vào thì ai mà tỉnh táo cho được. Buông lời sỗ sàng, có khi còn hành xử lỗ mãng, ngỗ ngược. Mẹ cắn răng chằng mắt chịu, chị em tôi thì tức cành hông. Đấy là chưa nói chuyện mấy ông vô nhà mua rượu, bày ra uống tại chỗ rồi chèo kéo ba tôi lại. Mà rớt xuống bàn rượu rồi thì “vào ba ra bảy” chứ đâu dễ dàng được đứng lên, vậy là trễ công trễ việc. Mẹ phải nai ra làm hết, tối mặt tối mày. Ba tôi có tính xấu là hễ rượu vô thì nhớ bài lai, hay lôi chuyện tận đẩu tận đâu ra ca cẩm. Mà chuyện này đâu phải chuyện năm thì mười họa, nó diễn ra gần như ngày một mới chết chứ. Giờ thì bạn hiểu vì sao tôi nói mẹ hình như quên cười chưa? Khổ lắm, mẹ có than thân trách phận, có đòi hỏi chi đâu. Mẹ lại càng không thích chuyện cãi cọ, hục hặc nên lầm lũi như chiếc bóng. Không nổi đóa là may chứ bụng dạ nào mà cười.
Không phải sự im lặng nào cũng cần thiết cho một gia đình. Căng quá! Chị em tôi nhiều lần nói tới chuyện nhà mình đừng nấu rượu nữa, mà nếu nấu thì không nên bán ở nhà. Không được, không còn sự lựa chọn nào khác. Khu này dân cư ít ỏi, quán xá ở đâu mà đi bỏ mối, đó là chưa nói, nấu rượu lời lãi bao nhiêu, đi bỏ quán họ kiếm hoa hồng, mình còn chút gì để ăn. Khổ nỗi nhà mình mọi thứ đều ngó chừng vào lò rượu của mẹ.
Mẹ không nói tôi cũng biết nỗi khổ của mẹ. Nhưng tôi cũng phải nói để mẹ biết nỗi khổ của mình. Chán, chán và chán! Đi học thì thôi, về tới nhà đằng nào cũng nghe mùi rượu lẫn với mùi hành, mùi sả. Cái mùi của mấy ông say rượu nôn mửa tới mật xanh mật vàng thật chỉ khiến người ta muốn… chết ngợp. Đó là chưa nói, mấy ông uống rượu cứ ra hè vô mấy bụi cây trong vườn mà xả nước. Chết mất thôi! Tôi tin là không có nỗi phiền nào lớn bằng nỗi phiền một người tỉnh phải “cộng nghiệp” với một người say.
Ở trong xóm, nhà chú Mĩ cũng nấu rượu nhưng khách bên nhà tôi lúc nào cũng nhiều hơn. Người ta tấm tắc khen rượu mẹ nấu. Tôi không biết uống rượu, cũng chưa nếm thử bao giờ nhưng tôi tin là người ta nói đúng. Tôi lấy món cơm rượu của mẹ để xác thực.
Dù bận rộn thế nào thì tết đến mẹ tôi cũng không quên làm cơm rượu - là món nửa cơm, nửa rượu. Nó là cơm nếp ép thành miếng, phủ men lên rồi bọc kín bằng lá chuối đem ủ. Một ngày, hai ngày, ba ngày…, cơm rượu bắt đầu dậy, thơm điếc mũi luôn. Từng miếng cơm rượu vuông, tươm nước được bóc lên, cho cẩn thận vào thẩu. Nhìn mà nuốt nước miếng ừng ực. Mùi thơm ngọt của nếp, mùi thơm nồng của rượu hòa vào nhau, quyến rũ đến mê mệt. Với chị em tôi thì món cơm rượu của mẹ là hương vị tết. Chị em tôi trông tết một mà trông món cơm rượu của mẹ đến… mười.
Còn nhớ, năm tôi học lớp 8, tết năm ấy, nhà tôi có một sự kiện trọng đại là phía nội ở Nha Trang ra chơi. Cái vụ bên kia thấp kém, bên này kiêu căng, chắc đã quên rồi. “Giận gần chết ngày tết cũng thôi” mà. Mẹ tôi vẫn một lòng tôn kính gia đình chồng, năm nào mẹ chẳng gửi thẩu rượu nếp vào Nha Trang. Mười lăm năm thử thách rồi còn gì, phía bên nội quay lại nhận con, nhìn cháu. Niềm vui quả là to lớn.
Phía nội bây giờ còn bác Năm, bác Chín. Hai bác đưa gia đình ra thăm thằng Út - ba tôi. Bữa cơm đầu năm thật ấm áp, có bánh chưng, giò chả, củ kiệu, cuối bữa còn có thêm đặc sản cơm rượu. Hai bác niềm nở, không khí thật nồng ấm. Ba tôi thấy vui quá, bèn lôi cây guitar ra, ai cũng hào hứng với tiết mục đờn ca sáo thổi. Hai bác gái hát trước. Ba sai tôi xách ra chai rượu. Mẹ tỏ ý không muốn nhưng ba bảo, hát hò mà không có rượu nó “nhạt” lắm.
Một đĩa thịt quấn lá mãng cầu nướng sực nức mùi thơm cộng với chai rượu mang thương hiệu mẹ thì còn gì bằng. Vậy là một chai, hai chai… Ba tôi rất máu mê đàn hát nhưng cuộc sống cơm áo đâu có chỗ để đờn ca. Được mấy khi nuông chiều cảm xúc, ba ôm đàn, đắm đuối gõ bập bùng. Rồi mẹ hát, giọng mẹ nhẹ xốp, ngọt lịm. Bỗng “ầm”, chai rượu nát mem dưới thềm nhà. Bác Năm gào:
- Cái đồ đàn bà hư hỏng mà mở miệng hát lời thanh cao. Ngon lành gì cái thứ được sinh ra trong lò rượu. Bán rượu cho đàn ông được thì bán thân cũng không khó đâu! Mày cao đẹp mà có chửa rồi bắt chồng? Vậy mà gia đình mày khinh miệt nhà tao thấp hèn. Tao phỉ nhổ cái thứ đàn bà mất gốc, lai căng!
Bác Năm gái tái mặt, chạy lại bụm miệng bác trai, cuống cuồng xin lỗi mẹ tôi: “Ổng say quá rồi nên nói xàm đấy, cái tật đánh chết cũng không bỏ! Thím đừng buồn nha!”. Ba tôi vụt cây đàn xuống, dỗ mẹ đang thút thít. Mấy anh chị con bác Năm vội lại ôm chặt, lôi bác vô giường, đè xuống cho bác ngủ.
Gia đình nhà bác Năm, bác Chín về, bữa ấy mới mùng hai tết nhưng nhà tôi cũng chính thức hết tết. Sau cái tết ấy, mẹ tôi bỏ nghề nấu rượu. Bỏ hẳn. Ba xin làm bảo vệ ở trường mẫu giáo, mẹ làm tạp vụ ở ủy ban xã. Không có “thượng đế” ra vô, không có mùi nồng của rượu, không còn tiếng lải nhải của mấy ông say, nhà tôi bình yên, đúng nghĩa của từ đó. Nhưng cũng chẳng thể vui.
Mấy cái tết qua, mâm cơm đầu năm thật đầy đủ. Nào bánh chưng, giò chả, dưa kiệu… Nhưng cuối bữa, không còn bát cơm rượu nồng nàn nữa. Thấy thiếu thiếu, nhạt nhạt. Tôi lỡ miệng nói:
- Lâu lắm rồi, nhà mình không còn tết!
- Mẹ tới tuổi tri thiên mệnh rồi, có biết tết nhứt chi đâu!
Mẹ nói trơn tru, không chút cảm xúc nhưng tôi nghe rất đau. Mẹ không thở dài nhưng tôi nghe mùa xuân trôi qua nặng nề, như tiếng lòng của mẹ…
* * *
- Tết này mẹ đưa vợ chồng thằng Khánh vào chỗ con ăn tết, con gái có đón mẹ không?
Là điện thoại của bà ngoại tôi đấy. Mẹ mừng đến sửng sốt. Tiếng “dạ” buông ra nghèn nghẹn, hạnh phúc có niềm vui lẫn tủi hờn. Trả lời bà ngoại xong, mẹ hớn hở chạy tìm ba báo tin. Ba không có trên bàn trà, không xem ti vi. Đố bạn biết ba tôi đang làm gì? Tin không, ông đang loay hoay dưới bếp. Mẹ thấy ba làm cơm rượu thì kinh ngạc, hỏi có chuyện trọng đại gì, ba cười hê hê nói, không có gì, chỉ là muốn có một mùa xuân trọn vẹn. Tết mà thiếu cơm rượu thì hương vị mùa xuân sẽ thiếu.
Mẹ cười, im lặng ngồi làm cơm rượu cùng ba. Tôi biết, mẹ không thắc mắc chuyện lần đầu ba tự tay làm cơm rượu mà muốn hỏi lý do bà ngoại thay đổi, chấp nhận ba. Mẹ cũng ngờ ngợ nghĩ, hình như ba đã biết chuyện tết này nhà tôi sẽ có “khách quý” nhưng hỏi thì ba đánh trống lảng. Thì tôi với ba âm mưu bí mật nên đâu để mẹ biết chuyện tôi tình cờ hay cậu Út bị bệnh, đang tìm người hiến thận, nghe tôi kể xong thì ba vui vẻ đi làm xét nghiệm và tặng quả thận cho cậu Út. Ba bảo, nó là lễ vật ba cưới mẹ. Rồi chuyện bà ngoại với ba lên kế hoạch cho bữa cơm đầu năm cũng được bảo mật.
Sáng mùng một tết, bà ngoại, cậu mợ với cháu Bo vào xông đất. Mẹ tôi mừng rỡ, ôm chầm lấy ngoại, bồng cháu Bo hun hít… Chao ôi, đẹp làm sao những hạt mưa mùa xuân đọng trên đôi má xương xương của mẹ, đôi má ấy sáng nay bỗng hồng hào, đằm thắm. Mẹ mừng đến nỗi cứ loay hoay bên bà, bên cậu… Ba tôi thấy mẹ vui nên một mình xuống bếp, thi thoảng đưa mắt lên nhìn mẹ rồi lỏn lẻn cười.
Mâm cơm đầu năm sung túc, ăn xong bánh chưng, củ kiệu thì ba giới thiệu tới tiết mục thưởng thức món cơm rượu. Ba vừa mở nắp hũ cơm rượu thì có tiếng xe dừng trước cửa nhà. Bác Năm, bác Chín nói từ ngoài sân:
- Dân Nha Trang đánh hơi được mùi cơm rượu nên đến nhà chú thím kiếm tết nè!
Mùi cơm rượu nồng nàn làm ngôi nhà nhỏ bừng sáng, ấm cúng lạ thường. Mẹ tôi cười lặng lẽ, chưa khi nào tôi thấy mẹ hạnh phúc đến vậy, chưa bao giờ tôi thấy mùa xuân đẹp đến thế…
NGUYỄN THỊ BÍCH NHÀN

Xuân Trên Non Cao (Y Vũ)


Bắt vợ trên núi mùa xuân

Đêm qua nằm trong chăn chàm ấm mới nhuộm, nghe cây mận bên chái nhà trình tường lợp ngói âm dương đã nở ra lách tách những bông hoa đầu tiên. Sáng ra mở cửa đi lấy cháo ngô cho ngựa trong chuồng, sương giá ùa vào nhà như suối. Sùng Thị Say bước ra ngỡ ngàng nhìn những cánh mận trắng muốt rung rinh trong gió lạnh. Hoa mận báo tin mùa xuân đã về. Thế là mùa xuân đã về trên núi. Mùa con chim queng quy bay đôi. Mùa con hươu nai gọi bạn tình. Mùa con trai cầm khèn đi bắt con gái về làm vợ.
Ngựa ăn xong, Sùng Thị Say cời hòn than đỏ trong bếp tro ấm, dùng cái ống thổi cho lửa cháy bùng lên, rồi ngồi khâu lại cái xà cạp cũ. Lửa giãn mấy nếp nhăn trên khuôn mặt Sùng Thị Say, lửa che mấy sợi bạc trên mái đầu Sùng Thị Say. Có cháu nội, cháu ngoại rồi thì cần gì cái mới, dùng váy cũ với xà cạp cũ cũng được mà, mấy tết trước đã bỏ không xem đi đánh yến, ném pao, có sao đâu.
Tiếng khèn ai gọi bạn lửng lơ bay qua bờ rào đá, bay qua khe vách nứa, lọt vào tai Sùng Thị Say khiến mũi kim đâm vào đầu ngón tay buốt nhói, người lâng lâng say như rơi tõm vào chum rượu ngô.
“…Khèn thơm như hơi thở
Khèn ngọt như lúa đòng
Chưa gặp mà đã nhớ
Chưa hẹn mà đã mong

Khèn sánh như mật ong
Khèn vàng như nắng mới
Quẩy tấu đầy nhớ mong
Mà chân người chẳng tới…”

Tiếng khèn tha thiết, bồi hồi làm Sùng Thị Say nhớ lại mùa xuân trước. Ngày ấy, Sùng Thị Say còn trẻ lắm, như trăng mười sáu, xinh lắm như hoa mận chái nhà. Thứ bảy, mặc váy hoa, địu quẩy tấu đi chợ phiên Cán Cấu bán tam thất trồng trên núi. Đường dốc vừa đủ hai bàn chân bước, nhỏ như sợi lanh đông Sùng Thị Say đang xe thoăn thoắt trên tay. Trời rét như dao cứa mà tự nhiên Sùng Thị Say thấy nóng gáy. Ngoái đầu lại, thấy ánh mắt của một thằng trai như hai hòn than đỏ đang đốt phía sau. Mắt nó truyền hơi ấm làm cho má Sùng Thị Say ửng lên thẹn thò như hoa đào gặp rét. Sùng Thị Say dừng, nó dừng. Sùng Thị Say đi, nó đi. Cứ thế cho đến tận chợ phiên. Mấy phiên rồi vẫn thế. Chắc nó rình cả đêm, chờ gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, đợi Sùng Thị Say bước ra khỏi nhà là đi theo. Nó là Giàng Mí Lầu, nhà bên Thào Chư Phìn, cách nhà Sùng Thị Say mấy chục quăng dao, đi một lần con ngựa nghỉ chân. Nhà xa lắm mà nó rình giỏi thế, bao nhiêu phiên là bấy nhiêu lần đi theo, cứ như mùa xuân về là hoa mận nở, chẳng sai hẹn bao giờ.
Đến phiên chợ thứ năm, thì Sùng Thị Say không thấy Giàng Mí Lầu đi phía sau nữa. Cứ bồn chồn, lo lắng không yên. Hay là nó ốm nhỉ. Không, nó khỏe thế cơ mà, mắt sáng sao hôm, ngực vồng đá tảng. Hay là nó lấy vợ rồi. Tuần trước, bên Thào Chư Phìn chẳng có đám cưới là gì, có lẽ nào chứ. Cái chân Sùng Thị Say thì vội vã mà cái lòng thì trông ngóng. Thôi kệ đi, hơi đâu mà nhớ người dưng chứ, rõ buồn cười.
Gần đến chợ rồi, Sùng Thị Say rẽ vào bụi cỏ tranh ven đường thay váy áo mới, cuốn xà cáp mới, chải đầu, vấn tóc chặt hơn một tí. Cái gương be bé, xinh xinh cất trong quẩy tấu đem ra soi. Trong gương, mắt ai mà trong như sương mai, môi ai mà hồng như đào phai, da ai mà nõn như măng vầu thế nhỉ. Sùng Thị Say tự hỏi rồi mỉm cười rõ tươi. Bọn con trai, dù cưỡi ngựa thồ hay đi xe máy, dù đi với vợ hay tay không, nhìn thấy Sùng Thị Say thì cứ phải liếc trộm một cái đã. Sùng Thị Say lấy làm thích lắm. Có thằng mải liếc quá, bị vợ đi cạnh véo cho vào hông một cái thật đau mới tỉnh, kêu “ối” lên rõ to.
Chuẩn bị rẽ vào cổng chợ, Sùng Thị Say bất ngờ bị một thằng từ phía sau tháo tuột quai quẩy tấu đang địu, cùng lúc đó một thằng khác ở đâu chạy ra ôm lấy bắp chân rồi bế thốc lên vai, lại còn một thằng nữa lấy dây vải điều buộc tay Sùng Thị Say trong lúc thằng kia vừa vác vừa chạy. Sùng Thị Say hiểu ra mình đã bị bắt về làm vợ, làm con ma suốt đời, trọn kiếp của dòng họ cái thằng đang vác mình. Sùng Thị Say giãy giụa và kêu khóc, mọi người đi chợ nhìn thấy cả, nhưng thật lạ chẳng ai ngăn cản đám trai để cứu lấy Sùng Thị Say yếu đuối, bé nhỏ, và tuyệt vọng. Lúc úp mặt vào vai áo thằng đang vác mình, Sùng Thị Say thấy mùi chàm hăng hắc thuốc lá, thấy mùi mồ hôi nồng nồng quả vả, hai thứ mùi sánh đặc như mật ong, tỏa ra ngây ngất như bùa mê. Ý nghĩ xoẹt ngang đầu Sùng Thị Say như tia chớp, thôi phải rồi thằng bắt mình chính là Giàng Mí Lầu, thằng hay đi theo sau mỗi buổi chợ phiên. Sùng Thị Say vui cái bụng quá, quả tim trong ngực cứ đập rộn ràng theo mỗi bước chạy của Giàng Mí Lầu. Sùng Thị Say chợt nhớ ra, có lần bà nội bảo, nếu yêu nhau thật lòng thì mới bắt vợ, bắt được vợ thì phải bắt được cả trái tim nó và nếu trong cuộc bắt vợ, cô gái nào khóc càng to và phản ứng càng quyết liệt thì sau này vợ chồng sẽ càng hạnh phúc. Và, có bắt vợ thì thằng trai mới chứng tỏ được với đứa gái về tình yêu và lòng dũng cảm của mình. Vì vậy, Sùng Thị Say mặc dù rất thích nhưng giả vờ giãy giụa và kêu khóc to hơn cả lúc bị bắt ở ngoài cổng chợ nữa. Hai thằng trai chạy phía sau thở hổn hển như ngựa thồ vượt dốc, một thằng đeo quẩy tấu, một thằng xách giày thêu tuột ra của Sùng Thị Say. Giàng Mí Lầu cướp được vợ nên chạy nhanh quá, chạy khỏe quá làm cho hai thằng bạn không đuổi kịp. Đến gốc cây pơ mu cạnh chợ trâu, Giàng Mí Lầu bế Sùng Thị Say lên con ngựa đã đóng yên cương, thắt nơ đỏ đợi sẵn. Sùng Thị Say ngồi nghiêng, váy như hoa nở xòe rực rỡ đón nắng. Giàng Mí Lầu ngồi sau, một tay giữ cương, một tay đặt nhẹ vào vòng eo con kiến của đứa gái mới bắt. Ngựa chạy một đoạn, Giàng Mí Lầu khẽ thì thầm vào tai Sùng Thị Say: “Làm vợ anh nhé!”. Lời thương như gió thổi. Lời thương như mây bay. Lời thương như suối chảy. Lời thương như núi đầy. Sùng Thị Say khẽ cúi đầu không nói. Trong lòng có chim hót. Trong lòng có hoa nở. Trong lòng có hội mở. Trong lòng có bướm vờn. Ngồi trên ngựa, mà cảm tưởng vó ngựa không hề chạm đất, trôi bồng bềnh trong sương.
Sùng Thị Say bị bắt về nhà Giàng Mí Lầu ba ngày. Ba ngày không phải cõng nước, chẻ củi, thái cỏ, dệt vải. Đến bữa ăn, mẹ Giàng Mí Lầu đưa cơm canh qua ô cửa sổ lỗ vuông mờ trắng hơi sương. Cửa buồng khóa trái để Sùng Thị Say không thể trốn về nhà, mà nếu không khóa trái thì Sùng Thị Say cũng chẳng thích trốn nữa, chỉ thích làm ma nhà họ Giàng, đẻ cho nhà họ Giàng một đàn con, để con trai lớn lên lại đi bắt vợ như bố, để con gái lớn lên lại đi chợ phiên như mẹ.
Nhà Giàng Mí Lầu cũng nghèo, không đủ bạc trắng, rượu tăm, lợn béo thách cưới theo tục lệ người Mông, nên Giàng Mí Lầu không vội ngỏ lời thương với Sùng Thị Say mấy phiên chợ trước. Lời thương ấy nói bằng mắt, bằng tim chứ không nói bằng lưỡi. Ba ngày sau, Giàng Mí Lầu đưa Sùng Thị Say về nhà bố mẹ vợ xin cưới. Tiền thách cưới được giảm đi một nửa. Bố mẹ vợ ưng con rể lắm, khen mắt nó sáng, mặt nó hiền. Bố vợ bảo nó không bắt con Sùng Thị Say, đến nhà xin cưới tao cũng chỉ thách thế thôi. Mẹ vợ tủm tỉm nói, ngày xưa ông bắt vợ, bố mẹ vợ cũng giảm cho một nửa tiền thách cưới còn gì. Tiềng cười làm tan giọt sương đầu lá quế rơi xuống kẽ đá sau nhà nghe thánh thót, gọi mặt trời lên lấp ló trên đỉnh Quan Thần Sán băng tuyết. Rượu ngô hâm nóng để bố vợ thết con rể. Rượu rót tràn bát sóng sánh, khói xanh bay lên đọng vào mái ngói âm dương, ngấm sang cột gỗ trình tường thứ men xuân ngây ngất.
Sùng Thị Say nhớ lại, vẫn phơi phới như thời còn trẻ. Ngoài đường tiếng khèn gọi bạn bay vào đậu trên cành hoa mận trắng muốt. Mưa bụi giăng khắp trời mỏng tang nét mày sơn nữ đánh thức búp chồi xanh biếc. Con trai út của Sùng Thị Say là thằng Giàng Mí Vàng đang chuẩn bị xách khèn đi chợ phiên, sắp tết rồi. Sùng Thị Say sẽ nói với con trai lời dặn của bà nội khi xưa về phong tục bắt vợ để nó biết, nó lớn rồi mà, biết đâu chợ phiên này…
Lại một mùa bắt vợ đã về trên núi mùa xuân…
Hoàng Anh Tuấn

Tháng giêng,
Tháng giêng xanh non chồi mới nhú,
Con về thương nhớ dáng xuân xưa
Bình yên đi dưới cơn mưa,
Nhớ bao hình bóng mãi chưa phai mờ !
NM
Xanh miền tháng Giêng quê
Tháng Giêng về hiền như nụ cười của mẹ. Buổi sáng bước ra đường đã nghe từng giọt nắng xuân ùa về trong vắt. Giọt nắng ấm cả những lời chào của mọi người lúc chạm mặt nhau. Dang tay đón những giọt nắng ấm của tháng Giêng trong veo, lòng lại khấp khởi những miền ký ức trong xanh.
Ta bước thật chậm cùng tháng Giêng cứ như bước vội thêm một chút, ta sẽ đánh mất tháng Giêng trong từng khoảnh khắc. Mùa về thật bình yên, trên lối vắng những cơn gió lồng lộng thổi qua vai. Tháng Giêng cứ bình yên đến lạ. Những cơn mưa phùn dùng dằng trước hiên nhà, những giọt mưa làm ướt mềm hoa cỏ, cho vạt áo ai cũng chùng chình qua ngõ. Những cơn mưa chợt đến rồi chợt đi như cái chớp mi hững hờ của người con gái nhà bên, nhẹ nhàng mà xao xuyến. Đi giữa cơn mưa phùn bất chợt, những vòng xe ngày xưa giờ đã trôi theo những cũ càng của quá khứ. Con đường ngày ấy vẫn thăm thẳm dáng hình của em. Ta lơ đễnh đánh rơi nhịp tim mình trong một miền tháng Giêng năm nào, để mỗi lần chạm mặt tháng Giêng, lòng ta lại bồi hồi về những ngày xưa xanh biếc.
Tháng Giêng xanh như chồi non mới nhú. Qua từng vạt cỏ xanh rì, ta nghe lời cỏ cây thầm thì năm tháng. Câu hát ru vọng về lấp lánh cả mặt sông quê, níu bước chân của người xóm nhỏ. Dòng nước đỏ chở đầy phù sa váng vất cả mặt sông vẫn lặng lẽ bên đời chẳng bao giờ vơi cạn. Giề lục bình trôi tím cả một triền sông, tiếng bìm bịp vẫn âm thầm theo từng con nước. Ta đứng giữa miền tháng Giêng quê nhà, nghe từng nhịp thời gian trôi rất khẽ như gieo vào lòng người những khoảng trắng bình yên…
Bao lần ta trở về với xóm nhỏ ven sông. Những bờ lá phía bến sông vẫn xạc xào trong gió. Con đò bao bận đưa người qua sông, giờ đã khảm lên mình mưa nắng phủ quanh. Trên chuyến đò chở ánh hoàng hôn về xóm nhỏ, có những dáng người mang nặng những ưu tư. Ký ức cứ như lá trong vườn nhà, hết lớp này rồi đến lớp khác theo thời gian mà không bao giờ phai cũ. Phía bên bờ kia, có người dõi mắt trông theo con nước lớn ròng trườn lên bờ bãi.
Tháng Giêng về trong mắt em tôi. Câu chuyện cổ tích ngày xưa của bà vẫn vỗ về năm tháng theo chân ta đi suốt cả cuộc đời. Để khi những khó khăn làm ta chùn bước, ta vẫn có một thứ để vịn vào mà vượt qua những ngày giông bão. Đám trẻ trong xóm lại nghiêng tai nghe những tiếng chim vút lên giữa xóm nhỏ bình yên, chúng kể cho nhau nghe về những vùng đất mới, về những giấc mơ viễn du miền sông núi. Tiếng cười của lũ trẻ cứ giòn tan trong nắng tháng Giêng.
Dáng mẹ vẫn quanh quẩn trước sân nhà với những chiếc nia phơi đầy cá khô, chuối ép, lạp xưởng, củ kiệu làm dưa. Những thứ vốn dĩ thuộc về mẹ mỗi khi tháng Giêng vừa chạm ngõ. Những món ăn bình dị mà vẫn đọng lại trên vành môi của những đứa con xa quê. Cho nên mỗi tháng Giêng về, ta lại khao khát cho những cuộc trở về bên mẹ, được cùng gia đình ngồi bên mâm cơm rộn rã tiếng cười. Mật nắng tháng Giêng cứ thơm lừng trong tấm lòng thơm thảo của người nhà quê. Cho những chiếc chân đi cứ rộng dài nỗi nhớ.
Tháng Giêng về, ta thu xếp lại lòng mình, dưới hiên nhà, ta đưa mắt nhìn những cánh chuồn nâu chuồn đỏ bay chấp chới đường về. Đâu nghĩ mình đã từng rời đi với ước mơ phố thị. Mái nhà quê có ngọn khói vờn trên mái lá làm cay xè đôi mắt tháng Giêng xanh…
Nguyễn Chí Ngoan