Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Chào tháng bảy

Nỗi Nhớ Tháng 7

Tháng Bảy Chưa Mưa

Cơn mưa lớn

Cơn mưa lớn như giòng đời giông bão,
Trót một lần lầm lỡ dạ khôn nguôi !
Thân đơn côi lẻ bóng cả một đời,
Có thương nhớ chỉ là trong dĩ vãng...
 
Cơn mưa lớn nhưng ngoài trời không gió,
Chợt thấy lòng lạnh lẽo giữa hoàng hôn.
Nỗi cô đơn gặm nhấm cả linh hồn,
Có ai thấu cho một đời vô vọng ?

Mưa vẫn lớn giữa trời cao đất rộng,
Người trở về lầm lũi giữa cơn mưa...
Người ra đi bao ngày tháng trông chờ ,
Người quay lại khóc thầm trong lặng lẽ !!
NM














Mưa dầm tháng bảy
Mấy ngày nay trời mưa dầm. Mưa không lớn, nhưng một lát tạnh, một lát mưa, mưa day dẵng từ sáng đến chiều làm trời đất âm u, làm con sông như chìm trong màn nước. Bên bờ sông, một mái nhà nhỏ nép dưới tàng cây trứng cá ướt sủng, tàng lá run rẫy sau làn gió thu bất chợt thổi qua.
Ông Hai Khá ngồi trong nhà nhìn ra sông, nghe tiếng mưa rì rào mái lá, thở dài:
- Mưa dầm … buồn chết mẹ!
Ông nhìn trời mưa, nhìn con sông nhỏ với ánh mắt đượm buồn làm như đang nhìn vào cõi xa xôi nào đó, tìm kiếm điều gì đó không biết. Cảnh vật chung quanh không còn ý nghĩa với ông Hai Khá, kể cả tiếng kêu của bà Tư Giá vừa bước vào mái nhà vắng vẻ:
- Ông Hai à! Ông Hai ...
Lại có tiếng loẹt xoẹt của áo mưa bà Tư vừa cởi ra, máng lên tấm phên tre.
Ông Hai Khá nghe loáng thoáng có tiếng ai đó, day lại nhìn, nhận ra bà Tư hàng xóm:
- À! Bà Tư đó hả? 
Bước vào nhà, bà Tư hỏi:
- Ngồi cú rủ vậy ông Hai. Mưa mắc gì buồn? Tháng bảy mà…
- Mưa quá … bà hỏng đi bán sao?
- Ối… bán buôn gì hỏng biết. Có con cá lóc mần rồi nè. Đem qua cho ông nấu cháo ăn… - Bà Tư xách con cá lóc bước vào chái bếp. Chái bếp nhỏ xíu, thấp chủm phải khòm lưng – Hỏng ấy tui nấu cháo luôn cho rồi…
- Ờ..! – Ông Hai ờ rồi bỏ lững câu nói thường ngày ông nói với bà Tư Giá “Bà lo cho tui chi dữ vậy? Hàng xóm người ta dị nghị…”. Lúc nào ông nói vậy, bà Tư cũng cự - Người ta dị nghị thây kệ. Chuyện ai nấy lo. Vài lần sau bà thêm câu “Kệ tía nó. Ai nói gì thì nói. Miễn là …”. Lần nầy ông Hai không nói câu đó nữa.
Mưa lớn hơn, nặng hột. Bong bóng nước nổi trên mặt sông rõ hơn, dày hơn và nổi thành dề ở mép nước sát bờ, dưới hàng dừa nước.
Mưa lớn thì không có gió.
Nhưng ông Hai thấy lạnh!
- Củi ướt nhẹp nhúm lửa khó quá trời!– bà Tư Giá cằn nhằn một mình, lui cui một mình vo gạo nấu cháo, nhúm lửa, khứa cá… trong chái bếp úng khói, ngộp ngạt.
Ông Hai Khá nhìn, thây kệ, việc nầy quen rồi. Lâu nay bà Tư thường qua chăm sóc ông Hai, nấu cho ông miếng cháo, nồi cơm. Ngày nào cũng qua, làm như bà mắc nợ ông vậy. Có lúc bà đem qua mấy lít gạo ngon, nói gạo nàng Thơm chợ Đào, miệt Cần Đước Long An.
- Có nợ nần gì đâu? Chẳng qua là cám cảnh … - bà Tư thở dài nhìn ông Hai Khá ngày càng héo hắt. Bà biết ông Hai mang nỗi buồn từ ký ức xa thẳm của ông. Buồn quá sanh bệnh! Vợ ông Hai Khá – cô Sáu Nga – bỏ đi dắt theo đứa con gái, tính đến giờ ba chục năm rồi. Ông Hai Khá sống một mình, rượu chè, chán sống, lần hồi mà ra nông nỗi. Nhà ngoài chợ bán đi, mua nhà trong ấp, rồi cũng bán. Mấy năm nay, ông Hai Khá cất mái lá cuối xóm bên bờ sông nầy, sống một mình với cái tuổi ngoài sáu mươi, tóc bạc trắng, thân hình gầy còm.
Về phần bà Tư thì thú thiệt nhiều năm nay bà có tình cảm với ông Hai Khá. Bắt đầu từ sự thương hại hoàn cảnh đơn chiếc của ông Hai Khá, rồi chuyển thành thứ tình cảm khác không nói ra được. Hoàn cảnh bà Tư Giá ai cũng biết, là gái ở giá lâu nay chẳng ai thèm dòm tới, nhưng trong sâu thẳm thì không ai biết được, từ hơn chục năm nay, sự cô đơn đã làm nước mắt chảy dài trên gò má khô ráp của bà đêm hôm trời mưa, gió rít hàng tre vi vút.
Tên bà là Nguyễn Thị Tư nhưng chết tên Tư Giá từ hồi bà bước qua tuổi bốn mươi lăm mà chưa lấy chồng. Người ta gọi bà Tư là bà Tư ở giá, nói tắt là bà Tư Giá, làm bà thấm thía hơn về nỗi cô đơn.
- Buồn muốn chết! – Có lần bà Tư nói với ông Hai lúc ông là đà cơn say – Nhiều đêm nằm một mình, thấy chiếu giường nó trống trải, rồi khóc mình ên! Ông có thấy buồn vậy không?
Ông Hai lắc đầu, nói như tránh né:
- Không! Buồn là tôi uống xị rượu, rồi lăn ra ngủ bất biết.
- Ông thì vậy cho nên thân thể héo queo.
- Kệ!
Đôi lần, chiều mưa tạnh đã lâu mà nhà ông Hai không có khói bếp, bà Tư lật đật qua coi. Qua thì thấy ông Hai nằm co như con tôm kho trên vạt tre, mép chiếu bị đẩy ra ngoài. Ông say rượu, ngủ mê mệt. Ly chén lăn lóc dưới nền đất. Bà Tư dọn dẹp xong, kéo mềm đắp cho người bạn già, rồi về.
- Ổng uống rượu vậy… mau chết đó! – Bà cằn nhằn ông- Ai đời uống rượu với… mấy trái trứng cá!
Bên sân nhà cây trứng cá rụng những trái chín đỏ. Trái chín là có sâu. Những con sâu đó có vô tình chui vào bụng ông Hai trong dòng chảy nóng hổi của rượu đế nếp hay không? Ông Hai uống rượu à? Không phải rượu. Đó chỉ là nước lã pha với một viên cồn thành thứ nước đục ngầu cay nồng, gọi là rượu. Ông Hai uống, cả xóm đều uống thứ rượu đó, mua ngoài quán bà Sáu Méo.
Ông Hai ngồi trong mái lá hẩm hiu, uống rượu một mình, nhìn ra con sông nước chảy xiết. Ông ngẫm nghĩ cuộc đời như dòng nước kia, cứ chảy đi không dễ gì trở lại. Rồi ông lại nghĩ nỗi buồn của ông sao không chịu trôi đi mà cứ vướng vào trái tim ông khô héo? Tháng bảy mưa dầm cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, còn ông và bà Sáu Nga sao cứ xa nhau mãi vậy?
- Đánh vợ! Không thể chấp nhập được một thằng đàn ông đánh vợ - Ông Hai Khá hối hận lắm, có lúc ông càm ràm một mình rồi lớn tiếng một mình, với chính mình. Lần đó sau canh bạc thua rất nhiều tiền, ông Hai Khá vùi đầu trong men cay cho lãng quên chuyện đời. Ông về nhà lúc nửa đêm, cự nự vợ con, gào thét và đánh Sáu Nga một bạt tai. Hậu quả là hôm sau vợ ông dắt con bé gái ra đi trong màn mưa dầm tháng Bảy cũng lạnh lẽo như hôm nay.
Ông Hai đã đi tìm vợ con cả chục năm, mệt mỏi quá, chán chường quá, đành thôi. Bóng chim tăm cá!
Mỗi lần mưa dầm như vầy là lòng ông nặng trĩu. Nỗi buồn, nỗi đau và sự ân hận đã gậm nhắm lòng ông ba mươi năm rồi chớ ít đâu! Hỏi sao không lạnh?
Mưa chợt ngưng rồi có gió. Nước đầy sông. Dòng chảy mạnh.
Bà Tư Giá về lúc nào ông Hai không biết. Bếp đã tắt lửa. Nồi cháo nóng hổi, nấp đậy he hé. Con cá lóc và miếng ruột để trên dĩa. Nắm rau đắng đất mới rửa trên mâm. Chén đũa có sẵn rồi. Nhìn thấy thèm.
Ông Hai rót một xị rượu, cầm cái ly mắt trâu, bưng mâm ra bàn, ngồi bên cửa sổ. Không chờ ai cả. Uống rượu một mình, rồi ăn cháo một mình, đêm vẫn ngủ một mình  … Miếng ruột cá day day, chấm nước mắm, đưa cay là ngon lắm.
- Bà Tư giỏi hết sức - Ông Hai khen thầm bà Tư rồi lại nghĩ đến Sáu Nga và đứa con gái lúc mẹ nó dắt đi, mới hai tuổi đầu - Giờ nầy hai mẹ con nó sống ra làm sao? Trôi dạt phương trời nào? Dư dả hay xơ xác như mình? Hồi đó là vợ mình, còn bây giờ Sáu Nga là vợ của ai ? – Ông Hai tự hỏi mà thấy lòng đau nhói- Sáu Nga bây giờ chắc cũng già rồi, trẻ trung gì nữa. Bà Hai Khá ơi! Tui nhớ bà, nhớ con lắm  …!
Từng ly rượu ấm chảy vào cuống họng, thấm vào mạch máu ông Hai Khá làm nỗi buồn hình như có vơi đi. Uống một mình, ông cũng nói chuyện một mình:
- Ú quạ, ông bà nói hay thiệt. Cái tuổi… Ất Dậu của mình! Ất là phải cô độc lúc cuối đời. Còn con mẹ… à không, bà Tư ở giá …tuổi Canh Dần, số cũng quạnh hiu. Tuổi Cọp ai dám cưới. Hứ! Mà mình còn sức nữa đâu mà…
Ông Hai rót không đầy ly rượu vì rượu trong chai xị không còn. Ông ực một cái rồi đi chiết thêm rượu. Miếng ruột cá đã hết, con cá đã dẽ hết phần thịt một bên, rau đắng đất còn năm sáu cọng. Kệ! Mần xị nửa cho quên sầu đời…
Đêm đó trời lại mưa. Cơn mưa day dẵng buồn thấu trời đất.
Lúc bớt mưa thì gió lao xao, xô qua giựt lại làm cho những giọt mưa tạt vô mái lá, rồi hất ra sông vắng.
Sáng sớm, bà Tư Giá bước qua nhà ông Hai thất thần kêu “Trời đất ơi, ông Hai sao vầy nè?” Bà Tư chạy ra ngoài la lớn, kêu mấy người hàng xóm ở mấy căn nhà lá xa xa. Họ kéo tới! Rồi trở lui, thở dài:
- Ông Hai đi rồi!
Ông Hai Khá nằm co ro trên chiếc chiếu trải nửa tấm vạt tre, mép chiếu xô lệch ra ngoài như lần trước bà Tư Giá nhìn thấy. Nhưng sáng nay thì người ông đã lạnh!
Có lẽ ông đi lúc con nước giác sáng vừa đầy bến sông quê.
Chiều hôm đó, người trong xóm đưa tang ông. Chiếc quan tài rẻ tiền, đám tang ít nhang khói, ít người đưa. Bà con chôn ông Hai Khá trên gò đất là nghĩa địa của ấp. Chỉ có một mình bà Tư Giá khóc, nhưng giọt nước mắt chảy ra rất lặng lẽ.
Mọi người ra về. Bà Tư Giá cũng về.
Lúc vắng vẻ, có một cô gái tuổi ngoài ba mươi bước tới nấm đất, cầm theo bó nhang. Cô gái thắp hết bó nhang, quỳ bên mộ ông thì thầm:
-Tía ơi! Mẹ hết hận tía rồi. Trước lúc mất, mẹ dặn con về đây nhìn tía. Nhưng mà… - Cô gái nấc lên, nghẹn ngào – Con về … muộn rồi tía ơi! 
Diệp Hồng Phương'

Trở về chốn xưa
Tháng bảy trôi qua ngỡ nhẹ nhàng,
Mà sao đau đáu tận tâm can...
Trở về nương náu gian nhà cũ,
Ngậm ngùi thương nhớ thuở gian nan
Thoảng đây hương lúa nồng nàn,
Tưởng như mẹ gặt vội vàng chiều qua !
Tôi về ươm lại mùa hoa,
Cho xanh hi vọng chan hoà niềm vui,
NM

Tìm về tháng bảy xưa

Tháng bảy về từ những cơn gió phủ vàng góc phố bằng những chùm lá me bay. Những chùm lá vàng mỏng manh, chấp chới, bay lả lơi trên những ngả đường giữa xô bồ nơi phố thị, nhắc tôi tìm về nương náu nơi thềm nhà cũ kỹ, nghe hương lúa còn nồng nàn như vừa được mẹ gặt về tựa mới hôm qua.
Nhưng thẳm sâu sau những cuộc trở về nhẹ gánh bon chen, là những tia hy vọng ngày xưa cứ dật dờ như đốm sáng li ti từ những chiếc đèn đom đóm, lịm tắt sau những vốc mưa mỗi tối dịu dàng.
Tôi không thể nào đong đếm nổi những mùa tháng bảy như thế đi qua trong cuộc đời mình. Cũng như chưa bao giờ thấy có thể yên bình trong suốt những ngày tháng bảy ươm vàng bởi nỗi đau và mất mát cứ giày vò nỗi nhớ của những người ở lại. Nghĩ về những ngày tháng bảy, tôi nghĩ về những nước mắt, những đợi chờ mòn mỏi nhiều hơn là những tháng ngày nghỉ ngơi sau thời gian dài dành cho bài vở và học hành thi cử. Nơi mà ở đó, trong suốt những mùa ấu thơ, tôi như đắm chìm mịt mù bởi dáng bà vất vưởng bên thềm nhà những xế chiều tím tái, đợi chờ một bóng hình suốt bao năm ra đi và không bao giờ trở lại. Khói nhang mịt mùng vẫn âm ỉ những xế chiều như thể chẳng bao giờ chịu ngưng, như tia hy vọng của bà vẫn gieo rắc vào lòng chúng tôi, khi nghe ai đó nhắc đến ông, nhắc đến một người trụ cột để bà có thể dựa dẫm suốt bao mùa lúa xanh lúa chín vàng đồng.
Tôi sống cùng bà từ những ngày còn rất bé, một phần do cha mẹ tôi đi làm ăn ở xa, một phần vì cha mẹ muốn tôi về ở cùng cho bà đỡ tủi thân những năm tháng tuổi già lay lắt. Bởi sau rất nhiều năm gồng mình nuôi 6 mụn con trưởng thành khôn lớn, đã đến lúc bà cần thời gian để nghĩ về một lời hứa đã cất giấu suốt mấy chục năm qua cho riêng mình. Về một mùa đoàn viên, về một ngày đất nước bình yên không còn bom đạn.
Tôi về sống cùng bà cho có người bầu bạn, sống cùng những câu chuyện kể ngập ngừng trong giàn giụa nước mắt. Có cả những đêm khuya khoắt, thấy bà chợt tỉnh giấc, mân mê những bức ảnh cũ nhàu giữa đêm trăng bạc màu, nhưng đủ để soi rõ những mùa hoa cau, hoa bưởi thoảng về thơm nức mũi. Những bức ảnh trắng đen bà luôn cất dưới gối, để thi thoảng thấy buồn, hoặc khi quá mỏi mệt với nỗi lo cơm áo, bà lấy những tấm ảnh cũ ra để vịn vào đó mà nhủ mình đứng vững sau bao bão táp phong ba.
Để giờ đây, dù đã bao mùa tháng bảy đi qua, cây bưởi sau nhà đã cằn cỗi không thể cho ra những chùm hoa bung biêng trắng, rục rịch tỏa hương mỗi độ thu về. Hàng cau trước nhà chỉ trơ lại những gốc khô cằn, như dáng người mệt mỏi tìm về gục đầu vào nơi chốn bình yên để ru mình giấc ngàn thu thanh thản. Chỉ có dáng bà vẫn mãi xiêu vẹo, ngồi lặng im nơi bậc thềm nhà mỗi mùa tháng bảy, nước mắt không còn trệu trạo rơi khi nhìn về khoảng không nào đó xa ngái. Bởi nước mắt theo thời gian đã cạn vơi theo từng nỗi nhớ, cũng như vết thương nào rồi cũng phải nguôi ngoai, bén thành vết sẹo lồi lõm trong những khắc giây nơi khoảng trời hồi ức.
Đi qua những mùa tháng bảy, tôi có thêm một lý do để tìm về sau những mưu sinh khốn khó, phần nhỏ cho riêng tôi, phần nhỏ cho những người thân của mình những mùa tháng bảy nén lòng sau bao được mất. Để bắt đầu vun trồng những mùa hoa mới, mùa hoa của những niềm vui và hy vọng đong đầy.
XL ( qdnd.vn.)

Trăng tháng bảy
Thương nhớ vô cùng tháng bảy ơi,
Biết bao ơn nghĩa ở trên đời ?
Vầng trăng tháng bảy vầng trăng sáng,
Vàng óng lung linh sắc rạng ngời !
NM
 Mùa trăng tháng bảy
Tháng nào cũng có một mùa trăng nhưng trong tôi trăng tháng bảy vẫn đẹp hơn hết. Trăng cứ tròn thả từng sợi vàng ôm trọn không gian như vòng tay của mẹ ôm con vào lòng.
Tháng bảy mình ở thành phố mưa sũng nước, những đợt mưa sáng chiều làm thâm tím cả khung trời vốn dĩ trong xanh. Có những ngày hửng nắng và đêm ấy ta thấy trăng treo trên vòm trời đầy mây… Trăng như mẹ hiền luôn muốn gặp con dù trong hoàn cảnh nào. Trăng dịu nhẹ như tiếng mẹ ru. Trăng rằm tháng bảy…
Trăng tháng bảy nghe trong mạch máu mình có dòng máu tổ tiên, nhớ thương về người bởi có người rồi mới có ta… Ơn đức ấy bao giờ ta mới trả được, vậy thì cố gắng một ngày sống đẹp là mang tinh thần tổ tiên về với cuộc sống này.
Trăng tháng bảy mình ta ngồi nghe máu thịt cha mẹ trong thân thể. Cha mẹ cho con hình hài trọn vẹn không chút khiếm khuyết. Cha mẹ cho con một tinh thần sống tuyệt vời. Một đời yêu thương trọn vẹn: tất cả mọi người không bỏ sót một ai. Một chút lòng nhân chia sẻ ta biết gởi đến mọi người xung quanh.
Trăng tháng bảy ở thành phố không trong như quê mình năm xưa nhưng tình cha mẹ cho con vẫn tuyệt vời. Dù mưa gió, bão bùng mẹ cha vẫn yêu thương trọn vẹn. Những ngày thiếu thốn phải giật gấu vá vai ba mẹ vẫn lo cho con miếng cơm trắng để con từng ngày đến lớp với bước chân sáo. Chưa khi nào ba mẹ dành miếng bánh ngon cho mình, chưa khi nào mẹ may chiếc áo mới cho riêng mình, chỉ biết những ngày vất vả cha mẹ dành cho con tất cả. Những vết nám của mẹ, những vết da nhăn gầy không thể gầy hơn đã cho ta những ngày tươi sáng. Ta bước vào đời bằng vòng nguyệt quế trên đầu, ta cười thật tươi, nụ cười chứa cả giọt mồ hôi cha mẹ. Có khi nào mình biết ngày mình thành công trên đời này có tấm áo sờn vai dưới nắng cháy không dám đến dự cùng con. Nơi góc chợ ấy người một mình tưởng tượng, tự mỉm cười thoả mãn. Mẹ xấu quá không dám đến nơi cao sang ấy…

Trăng tháng bảy ngàn thu nay vẫn thế: Trăng mang màu yêu thương để người người tri ân cha mẹ tổ tiên. Hình bóng cha già yêu thương con hơn thân thể mình, suốt đời cha dành cho con tất cả. Cha là trụ cốt chính trong nhà nhưng lúc nào cha cũng đặt yêu thương lên hết thảy. Cha không đòn roi nhưng con cha vẫn ngoan vẫn thành công trong cuộc sống bởi cha dạy con bằng cả trái tim nhân hậu của cha.
Còn mẹ, hình bóng mẹ vẫn âm thầm cùng ngày nắng đêm lạnh cho con những gì tốt nhất, ngon nhất. Cha mẹ ơi! con không bao giờ trả được ơn này…Nhưng mùa trăng tháng bảy con nhớ nhiều hơn, thương nhiều hơn dù ở xa con vẫn về dâng ba mẹ miếng bánh thơm, ngồi dưới chân ba mẹ dể được ôm đôi chân gầy guộc. Trăng tháng bảy nhẹ nhàng trải xuống mái tóc mẹ yêu chút sợi vàng ngày thu. Con theo sau ngồi ngắm chiếc lưng còng, con ôm vào lòng cánh tay mẹ yếu đuối, con và ba mẹ cùng cười, ấm áp nói không nên lời…
Trăng tháng bảy cho ai đó ngậm ngùi nhớ về cha mẹ đã đi xa. Như khi ba nhìn vào khoảng không xa vắng nhớ về một thời ấu thơ còn ông bà. Dưới mái nhà tranh, ngọn đèn dầu nhỏ ba ngồi học và nội vẫn mải đan rổ rá kiếm thêm tiền cho buổi chợ ngày hôm sau. Những chiều sau buổi cày nội cùng vợ con ăn bữa cơm chiều đạm bạc nhưng chan chứa tình yêu thương và sự bình an ngày ấy. Vì không muốn ba vất vả nghề nông, nội ra sức cho ba học và thành người. Ba cứ lặng và nhớ không nguôi những kỷ niệm về nội…
Trăng tháng bảy mẹ nhớ về ngoại, người đàn bà góa chồng khi chỉ mới 24 tuổi. Một sự hy sinh vô cùng lớn lao khi ngoại ở vậy nuôi mẹ và một đời cùng con nuôi đàn cháu nhỏ. Đàn cháu bảy đứa cứ ăn học dưới sự chăm bẵm, yêu thương của ngoại. Mẹ muốn ngoại đi bước nữa nhưng ngoại ngóai nhìn những đứa cháu nhỏ rồi thương. Mấy mươi năm sống trong sự trìu mến của ngoại để những đứa cháu thành công trong cuộc đời. Rồi ngoại ra đi trong vòng tay con và cháu…Những hy sinh của ngoại sao cao cả quá không gì sánh nổi. Ngoại ơi!

Trăng tháng bảy, con cháu nhớ về ông bà và tổ tiên một cách kính cẩn. Thương nhớ nhiều lắm những khi đứng dưới trăng vàng nhất là trăng tháng bảy, những sợi trăng mỏng mảnh giăng trong đêm như tình cha mẹ yêu thương con vô cùng cao quý, nồng nàn và thiết tha nhất trên đời này. Từng ánh trăng vàng một như vòng yêu thương cha mẹ quấn quít ôm mình vào lòng, như tiếng ru ngọt nào của mẹ giữa đêm khuya. Đời là những gì hữu hạn mà tình cha mẹ là vô hạn con nào diễn tả nổi. Bàn tay con đặt giữa đôi tay chai sần của ba mẹ và con nói ngàn lời thương yêu cũng không bằng.
Trăng tháng bảy mình quê mình đẹp lắm! Trời vào thu những bông hồng đỏ thắm nguyên vẹn trên áo mình, những ngày này khuôn mặt con sáng rạng ngời. Còn gì vui hơn bông hồng thắm cài trên ngực. Trong vòng tay cha mẹ một đời con ấp áp. Trong lòng mẹ một đời con hạnh phúc. Con cười thật nhiều bên cha mẹ.
Trăng tháng bảy mình vẫn nép mình bên bụi trúc bên nhà. Ngọn gió xào xạc và con ngồi trong lòng mẹ ngắm trăng. Vì tháng bảy trời mưa nên mẹ con ngồi trước thềm nhà ngắm trăng. Rồi mẹ ôm chặt lấy con, con quấn lấy áo mẹ ngửi múi hương da thịt mẹ. Mẹ của con!
Tháng nào cũng có trăng nhưng trăng tháng bảy vẫn lung linh rạng ngời.Trăng tháng bảy mình rất ấm trong thế gian này dù trời có mưa, dù vòm trời đầy mây. Trăng tháng bảy mình ấm áp hạnh phúc vô kể.
Diệu Hòa

 



























  
 


Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Làng bên kia sông

Bên kia sông
Tôi vẫn mơ về những căn nhà nhỏ,
Bên kia sông thấp thoáng bóng làng quê...
Giấc ngủ khuya trằn trọc ẩn hiện về,
Những con chữ thuở buồn vui lặng lẽ,

Tôi trở về bờ bên nầy quạnh quẽ,
Nhớ thiết tha bờ ấy một con sông !
Biết có ai sưỡi ấm mọi tấm lòng ?
Vác con chữ lãng quên thời hoa mộng ?!

Tôi đã đi như không hề xúc động,
Sao vẫn buồn và nhớ đến thiết tha...
Đám trẻ quê chơn chất rất thật thà,
Bên sông rộng mà ngỡ là xa thẳm !!
NM

“Làng bên kia sông”

Làng Lợt ở bên kia sông. Mùa khô nước cạn, lòng sông trồi lên toàn đá trọc đầu. Chiều chiều lớn nhỏ trong làng đều ra sông lặn ngụp, phơi mình trên cát, ngồi trên những hòn đá trơn nhẵn tắm nắng. Mùa khô con nước hiền hòa như vậy, song đến mùa mưa dòng sông cuồn cuộn, lắm lúc rất dữ dằn.

Hoa về dạy học ở làng Lợt được bảy năm. Bảy năm là khoảng thời gian đủ để cho người ta gắn bó với một vùng đất.
Trường làng có ba cô giáo. Cô Hường đứng tuổi đã lấy chồng người Ba Na ở luôn trong làng. Cô Thanh trẻ hơn chưa lập gia đình. Hoa lấy chồng bộ đội ở bên này sông.
Làng Lợt nằm trong một thung lũng bên sông. Cả làng chỉ có một hộ người Kinh cư trú. Họ có một căn nhà ở ngoài huyện, con cái ăn học ở đó. Hai vợ chồng thường thay phiên nhau cõng hàng vào làng, đổi các sản vật của rừng đem về huyện bán lấy tiền. Ðã nhiều năm, ngôi làng Ba Na này di chuyển đến đâu, họ đều đi đến đó, làm nên cuộc sống cộng sinh bền bỉ. Nhờ họ mà làng biết đồng tiền. Nhờ họ mà làng có rượu đế để uống. Nhờ họ mà làng có thuốc lá để hút, có cá khô để ăn...
Làng sống giữa vùng đất nguyên sinh, lại gần rừng, gần sông nên lúa gạo, thực phẩm rất dồi dào. Những năm đời sống giáo viên còn khó khăn, thiếu gì, các cô giáo đều được đồng bào đem cho. Từ con cá, con gà, đến gùi gạo, gùi măng, đọt bí, rau rừng. Hồi tất cả còn độc thân, ba chị em cùng ở lại trong làng. Ðến lúc Hoa lấy chồng bộ đội, phải qua sông với chồng. Rồi đến cô Hường lấy chồng, chỉ còn trơ trọi mỗi mình cô Thanh.
Làng Lợt ở cái thế mưa không ngập, nắng không hạn, thiên nhiên hiền hòa, đất đai màu mỡ tốt tươi. Ðời người từ khi mới sinh ra đã không phải quá lam lũ tìm cái ăn. Việc trồng tỉa chỉ làm một tháng ăn một năm. Ngoài ra sản vật của núi rừng sông suối thì mùa nào thức ấy. Từ măng le, rau dớn, nấm rừng, đến chim thú, cá sông... thức nào cũng sẵn.
Người làng Lợt vì thế sống rất hào phóng, vô tư. Trẻ em sinh ra cứ chơi mãi cho đến tuổi tay cầm được cái rìu, cái dao, cái yết, chân vượt được dốc đèo, lội được con suối thì mới đi săn, đi rẫy. Ðời người là một vòng quay chậm rãi và đơn giản. Ðến những mùa làm rẫy hay thu hoạch xong, cả làng quây quần lễ hội, uống rượu vui chơi thâu ngày thâu đêm. Bắt được con thú dù to dù nhỏ, làng cũng chia đều cho tất cả mọi thành viên cộng đồng từ người già đến trẻ em. Những lúc có trợ cấp của Nhà nước cho bất kỳ đối tượng nào, làng cũng cứ chia đều cho hết thảy mọi người.
Người làng Lợt coi những thứ hiện có là rất thỏa mãn. Họ không muốn những gì phức tạp, khó hiểu. Ví như đứa trẻ sinh ra chỉ làm cái lễ thổi tai, tức là báo cho Giàng biết trong làng đã có thêm một thành viên mới. Khi bắt chồng bắt vợ, được gia đình ưng thuận, được già làng cho phép thế là làm lễ cưới nhau. Khi bỏ nhau, già làng chỉ cần bắt hai người cầm căng hai đầu một sợi dây, rồi dùng dao cắt đứt đôi là xong...
Ðó là nói những hồi còn chiến tranh và những năm đầu giải phóng, những năm trước đây. Bây giờ thì các cô giáo người Kinh đã về làng dạy cho trẻ con cái chữ. Nhờ các cô giáo, người làng mới biết được nước Việt Nam  rất rộng. Thế giới cũng không chỉ bó hẹp ở mấy ngọn núi, mấy con sông quanh làng.
Bây giờ tên tuổi ai cũng phải ghi, đất đai cũng phải ghi. Cán bộ ghi nhằng nhịt đủ thứ, còn người làng phần lớn chỉ biết chấm ngón tay vào mực đỏ rồi lăn trên trang giấy, chẳng hiểu ra làm sao. Cái lợi của việc học chữ rõ là rất tốt rồi, song bọn trẻ từ bao nhiêu đời nay sinh ra chỉ biết chơi. Bây giờ phải đi học chữ, chúng nó ngại ngùng lắm. Lại phải khai giấy. Mỗi lần vào đầu năm học, cô giáo lại phải đi từng nhà ghi chép, rồi lên xã làm giấy khai sinh cho từng đứa trẻ để được đến trường. Chỉ có các cô giáo mới làm được việc đó, cả làng Lợt chẳng ai đủ trình độ để ghi chép được như vậy. Cũng chính vì không biết chữ mà mấy năm trước có bọn người buôn bò đưa tiền giả vào mua hết bò của làng mà chẳng ai biết. Ðến khi có công an về, người làng mới vỡ lẽ tiền giả tiền thật.
Người Ba Na tốt bụng, chịu khó chịu khổ được, nhưng học cái chữ không khổ mà sao khó quá. Bọn trẻ hằng ngày chỉ thích vào rừng, ra sông ra suối. Bắt ngồi để nghe nói về cái chữ rõ là chúng không thích. Chỉ đến khi cô Hoa đưa ra cái lệ phát kẹo thì tất cả lớn bé lại hè nhau đến lớp. Chị địu em, anh địu em. Từ đứa vị thành niên đến đứa lẫm chẫm, đứa còn cõng trên lưng đều vào chung một lớp. Lớp học trở nên rất hỗn độn với đủ lứa tuổi. Trẻ con làng Lợt đến lớp như một ngày hội. Ðể lập nên trật tự, các cô giáo phải chia lớp thành hai khối ngồi quay ngược lại với nhau. Một khối lớn quay lên phía trước để học chữ. Khối nhỏ hơn quay về phía sau để học hát. Khốn nỗi bọn trẻ từ lớn chí bé đứa nào cũng thích học hát. Ðể duy trì tốt lớp học, cô Hoa lại phải đưa ra sáng kiến: Em nào ngồi đúng vị trí theo sơ đồ mới được phát kẹo. Về sau, để có đủ quà phát cho học sinh, mỗi đợt có đoàn cán bộ y tế xuống làng khám bệnh, các cô giáo lại xin cấp rất nhiều vi-ta-min C để hằng ngày phát cho học trò thay kẹo. Nhờ những viên kẹo, viên C ấy mà đã có rất nhiều lớp học được mở ra, nhiều lứa học trò được đến lớp. Trẻ em làng Lợt đã có thói quen đi học. Có em học mãi hai ba năm một lớp, hết lớp rồi còn xin học lại nữa...
Mặc dù chỉ học đến trường làng, song sau một thời gian, đã có khá nhiều em đọc và viết được con chữ rất sành sỏi. Nhờ có những lớp học, con mắt của dân làng Lợt như sáng hơn, rộng ra. Người làng tiếp thu tốt hơn những lời cán bộ nói. Ðã nhiều người biết ký được tên mình. Cũng nhờ thế mà người làng Lợt biết phân biệt đúng sai. Có lần bọn xấu vào làng vận động mọi người gia nhập các tổ chức phản động, già làng đã trả lời dứt khoát: "Làng Lợt chỉ tin theo cái đạo của Bác Hồ thôi!".
Bây giờ trong làng có những việc cần phán xử, cần giải quyết, người làng Lợt đã biết nhờ đến chính quyền. Nhiều việc của làng, của dân đã được đưa ra chính quyền làm sáng rõ...
Bảy năm, làng Lợt đã để lại trong cô Hoa bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Những tháng ngày khó khăn gian khổ. Có lúc nắng nôi. Có khi mưa lũ. Những chặng đường rừng. Những lần vượt sông...
Có lần gặp cơn lũ bất ngờ, Hoa bị nước cuốn trôi khi lội sông từ làng trở về. Biết tin ấy, làng Lợt đã rã ra cả ngày cả đêm đi tìm. Lần ấy, làng đã tìm thấy cô Hoa bị mắc trên bụi tre gai, không lên, cũng không xuống được. Ðó là một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời dạy học của cô.
Gần đây, anh Dũng chồng Hoa được điều động lên trên. Sau khi nhận nhiệm vụ mới một thời gian, anh đã xin chuyển công tác cho vợ về dạy học ở vùng ven đô thị. Nhận được tin ấy làng Lợt buồn lắm. Bọn học trò nhiều đứa khóc rưng rức trong lớp học. Con gái thì đan lát thêu thùa những đồ thổ cẩm tặng cô. Mấy thằng con trai vẽ tặng cô một tấm hình phụ nữ đôn hậu ngộ nghĩnh và đẹp như tiên. Ðó chính là hình ảnh của cô Hoa dưới con mắt của bọn chúng.
Hoa chuyển đi, đồng nghĩa với một cô giáo trẻ khác sẽ trở về thế chân cô ở cái làng heo hút nhưng hiền hòa chân chất này! Cô giáo trẻ ấy có đủ tình yêu sưởi ấm những đôi mắt trẻ thơ trong trẻo mà ngây ngô? Liệu cô giáo trẻ ấy có đủ nghị lực lội sông hàng chục năm trời để mang theo cái đạo chữ đến cho làng!...
Khi đã trở về bờ bên này lần cuối cùng, Hoa mới thực sự thấy hết, mới thực sự lưu luyến với những chuỗi ngày cực nhọc, gian khổ nhưng tươi vui và cao đẹp ấy.
Bây giờ với cô, làng Lợt đã cách một con sông. Nơi ấy có những ánh mắt hồn nhiên ngây thơ. Có những giọng đọc ê a ngọng nghịu. Có những cuộc đời phẳng lặng như trang giấy trắng. Có những đồng nghiệp một đời cõng vác các con chữ vui buồn, lặng lẽ đi qua thời gian.
Và cái làng nhỏ bên sông ấy cứ trở đi trở lại trong những giấc khuya trằn trọc của Hoa, vừa ngọt ngào vừa như day dứt...

Phạm Đức Long 

Tương tư dạ khúc
Le le gọi bạn mình ên,
Sông quê xao động buồn tênh nao lòng...
Đôi bờ nước chỉ một giòng,
Buồn trông gió thốc, buồn sông lững lờ ....
Bao năm ngóng đợi trông chờ,
Cung thương hoà điệu, ta về bờ vui !
NM

Vọng khúc tương tư 
Nếu đã là thương, thì trọn cuộc đời cũng cứ thương. Giờ xế bóng heo may, hổng lẽ để tiếng đờn mãi thắt thẻo bên kia sông. Còn bên này sông, lại thêm một người dằn vặt xót xa.
Song Lang lừng khừng năm hồi bảy đỗi mới dám mon men ra bến sau, nơi mỗi tối tía hay ngồi kéo đờn. Tía dứt bản Trường tương tư. Tiếng đờn như giọng ai thở than, vẫn còn vang vọng theo sóng nước. Trời đêm thẫm đen. Mấy dề lục bình trôi tấp vào chân bến, tụ thành đám, dập dềnh cả khúc sông.
****
- Tía à, chắc con thôi học heng! Chớ trong đầu hổng nhét được chữ. Học nữa thi cũng rớt, ở nhà mần ruộng biết đâu lại hay hơn đó tía.
Song Lang mười tám, cùi cụi vạm vỡ, da ngăm đen theo từng mùa nắng bươn chải ruộng đồng. Để nói mấy cái lời này với tía, cũng dễ chừng ba đêm rồi nó trằn trọc thao thức.
Hổng phải nó cạn nghĩ mà buông xuôi, nhưng suy cho cùng, dù nó nhặt nhạnh bao nhiêu thứ hay giỏi, mới lạ trên lớp học, niềm vui đó chắc không thể khỏa lấp được nỗi lo đau đáu ruột gan dành cho tía.
Song Lang còn cả chặng đường dài của tuổi trẻ, còn tía, đâu bao nhiêu năm nữa. Rồi tía cũng như những cánh ô môi muộn mằn một mùa hoa, mà rụng lã chã xuống triền sông này, theo con nước vơi đầy về với phù sa sông quê. 
Hồi tuần trước, nó đưa tía lên huyện khám, ông bác sĩ trẻ thở dài, đưa nó ra một góc riêng, nói mắt tía mờ dần rồi, cái tuyến lệ của tía bị thoái hóa, giờ võng mạc kết một màng trắng đục, nguy cơ tía mù cao lắm. Song Lang nghe tay chân mình rụng rời. 
Nó giấu bặt chuyện này, chẳng dám nói tía nghe, chỉ ừ hử dặn tía thường xuyên nhỏ thuốc với ngủ nghỉ đầy đủ sẽ lại thấy rõ như xưa. 
Nhưng tía đâu có nghe lời Song Lang. Tía vẫn hằng đêm ra bến sau ngồi kéo đờn, bao năm rồi vẫn vậy. Khắp cái miệt này, ai cũng gọi tía là ông Cò Líu. Tiếng đờn của tía vang xa, vút theo từng ngọn gió, trôi trên từng con nước, len lỏi từng rặng bần mà in hằn tâm trí người dân nơi đây. 
Tía chỉ còn mỗi cây đờn cò bầu bạn sớm hôm. Khi vui tía đờn bài Bắc, nhịp nhanh, ngân ít, nghe xôn xao cả vùng sông nước. Bữa nào buồn, tía kéo bài Nam, âm điệu nhặt khoan, dìu dặt theo từng cơn gió lùa. Những mùa ô môi nhuộm hồng khúc sông, tía đờn bài Oán, cho đến cạn mùa ô môi, vẫn chỉ là bài Oán mà thôi. 
Khi thì Văn Thiên Tường, khi thì Bình sa lạc nhạn. Chừng ngó tán cây chỉ còn lơ thơ vài bông trổ muộn, tía đờn Trường tương tư. Bài Oán của tía nghe âu sầu, rầu rĩ tâm can. Lại thêm những lần tía kéo lên líu, rồi miết dây đờn, cái ngân nó da diết khắc khoải, như ai cào ai xé lòng dạ. 
Mà tía có đờn bài Nam, bài Bắc hay là bài Oán, thì người ta vẫn nói, tiếng đờn tía buồn rười rượi, buồn như phận người cơ cầu của miệt bưng biền này. Nói cho chính xác là buồn như đời tía vậy.
Có lần, Song Lang đem cái câu người ta nói về hỏi tía, tía ngoảnh nhìn phía bên kia sông, nơi đám bần lào xào theo gió. Ờ thì đời tía buồn lắm! Mà buồn hay vui thì vẫn phải sống mà con. Niềm vui có cái hay của nó. Nỗi buồn cũng có cái quý của nó. Lòng mình nặng hay nhẹ là do mình. 
******
Song Lang neo xuồng vào gốc bần bên này sông, một chiều muộn tháng tám, hoàng hôn lịm tím cả triền sông. Mai Út Thà lên Sài Gòn học, chỉ còn mỗi buổi này hai đứa ngồi với nhau. 
Ngày cầm giấy báo đậu đại học, Song Lang hớn hở mừng cho cuộc đời của đứa con trai côi cút. Ai dám nghĩ đứa trẻ ngày xưa bị bỏ rơi ngoài cổng đình làng được tía thương mà đem về dung dưỡng. Nghèo khổ giăng tứ bề với cái nghề xướng ca rày đây mai đó mà tía vẫn nguyện lòng bảo bọc nó đến tận bây giờ. Dường như ý thức được cái hẩm hiu phận mình nên nó cứ cùi cụi mà lớn khôn, chẳng lần nào dám ốm đau ngặt nghèo.
Chuyện tía vun vén cho nó ngày hai buổi tới trường đã là cả một đoạn trường cam khổ. Giờ bắt tía nuôi nó thêm bốn năm trên cái đất đô hội phồn hoa, đắt đỏ bậc nhất đó, liệu sức tía có gồng gánh nổi.
Tía già rồi, bận trái gió trở trời xương khớp tê buốt, thêm cái bệnh mắt thoái hóa bắt đầu chuyển nặng. Vậy nên nó đành nói dối, chẳng công sinh nhưng là công dưỡng, giờ nó ở lại cái miệt bưng biền này, cày sâu cuốc bẫm rồi cũng qua một đời người. Chỉ mong với tía những ngày heo may giăng ngang quãng đời xế bóng được phần an nhàn, thanh thản vui đùa cùng ngón đờn.
Bữa nó nói cho Út Thà nghe quyết định của mình, Út Thà khóc nhiều, không nói không rằng quay vào nhà, bỏ nó đứng mình ên ngoài bến, mưa quất ràn rạt vô mặt nó, cay xè khóe mắt. 
Mấy con le le gọi bạn mùa nước nổi, xao động cả khúc sông quê. Út Thà vẫn hổng chịu nói gì, cứ mân mê cái vạt áo, rồi nhìn miết mấy bông lục bình ngan ngát tím đang lững lờ xuôi theo con nước. 
- Út Thà lên đó, nhớ giữ gìn sức khỏe nha, nhớ học thiệt giỏi nghen, ờ nhớ rảnh rảnh về thăm nhà, thăm… ờ thì thăm…
Song Lang bỏ lửng câu nói, không dưng nó nghẹn nơi cuống họng. Song Lang bên kia sông, Út Thà bên này sông. Tuổi thơ hai đứa là những ngày bì bõm chung một dòng, lớn ròng con nước vẫn đều đặn í ới nhau.  
Có lần, mùa mưa, đường đê trơn ướt, Út Thà không may té xe, trầy xước tay chân. Nhìn Út Thà khóc, Song Lang nghe tim mình thắt lại, nhói ruột nhói gan. Năm đó nó mười sáu và dưới gốc bần này, Song Lang đã nói, trọn cuộc đời mình, nó sẽ chẳng bao giờ để Út Thà khóc nữa. 
Vậy nên, giờ Út Thà đừng khóc nghen. Út Thà cứ đi đi, trên đó còn có nhiều thứ mà Út Thà từng mơ ước. Song Lang ở lại đây, sẽ chờ Út Thà mang cái ước mơ đem con chữ về miệt bưng biền này, đám trẻ làng mình chẳng còn phải qua năm ba cây cầu lắt lẻo, thêm mấy đoạn đường đê heo hút mà tới trường nữa. 
Út Thà đừng khóc. Cuộc đời này, đâu chỉ duy nhất cánh cửa đại học mới dẫn người ta vào đời được. Còn nhiều con đường. Chỉ cần mình sống tốt, trọn vẹn niềm tin vào chính mình, thì mọi con đường đều dẫn mình về những tháng ngày bình yên. 
Song Lang là đứa con của ruộng đồng sông nước, nên tận sâu trong tâm khảm vẫn tin rằng, sông lắm phù sa, rồi đời cũng nở hoa bốn mùa.
Út Thà đưa cho Song Lang cái áo sơ-mi màu nâu đất, nó hì hụi tập may cả tuần nay, từ bữa Song Lang đứng mình ên dầm mưa. Cô Tư Lành nói, đất thủy chung lắm, trọn vẹn nghĩa tình với người, muôn đời chẳng bạc với ai. Mà hổng biết Song Lang có hiểu ý nó muốn nói gì không ta?
Ờ còn cái này, là cô Tư Lành gửi tía Song Lang nghen, khô trâu gác bếp, cô Tư Lành nói, tía thích lắm. Cô Tư còn dặn, tía đừng đờn khuya lơ khuya lắc nữa. Mỗi lần đờn rớt dây xề là cô biết tía ho. Rồi cô ngập ngừng: “… Mỗi lần tía bây đau là cô cũng thấy đau đau trong bụng…”.
Song Lang cho xuồng về lại bến nhà, bóng Út Thà thấp thoáng bên rặng bần. Trăng bắt đầu nhú lên mấy ngọn cây. Đêm thốc gió sông, lành lạnh.
***
Cô Tư Lành kéo Song Lang ngồi xuống sạp may, khi gặp nó giữa chợ. Cô ngoài bốn mươi nhưng vẫn đằm thắm nét mặn mà hồi con gái. Người ta nói cô đẹp nhất làng. Thời con gái, bao đám ngấp nghé nhưng cô chẳng ưng, nghe nói là lỡ đem lòng thương ai đó. Chừng đâu có ông kỹ sư con nhà danh giá từ miệt Rải Quạt lên dạm hỏi, bà Năm Trà mới gả cô.
Nhưng nghe đâu, bữa theo chồng cô buồn lắm. Biền biệt xa xứ ngót chừng hai chục năm, cô về lại quê mình, sau khi chồng ra đi vì bệnh tật. Cô không có con. Chồng lại đèo bòng, nên cô nhường tất thảy của nả, chỉ xin ba má chồng cho hồi gia phụng dưỡng mẹ già.
Cô kê cái bàn máy may giữa chợ, nhận may vá cho dân trong làng. Được cái tay nghề khéo, nên khách khứa cũng nhiều.

- Rồi bác sĩ nói sức khỏe tía bây sao? Ổng có ăn khô trâu gác bếp hông?
- Tía để dành, lâu lâu nướng lên xé ăn với cơm. Còn mắt tía hết chữa rồi, giờ thấy lờ mờ, tối trời là hổng thấy gì ráo cô Tư ơi.

Cô Tư Lành dúi mớ bông điên điển vàng ươm đầu mùa nước nổi với mớ tép đồng tươi mơn mởn cho Song Lang, không quên dặn nó nấu món canh chua mà tía thích. Cô thở dài như một buổi chiều. Chợ sớm đông người rào rạo tiếng nói cười, mà lòng cô sao lặng ngắt, trĩu một niềm riêng.
Bận Út Thà chắc nịch nói, cô Tư còn thương tía lắm. Mỗi lần nghe tiếng đờn của tía, cô lại lần ra bến mà đắng đót, cái duyên nợ dở dang phận mình. Có lần cô Tư nói với Út Thà, cả đời này cô nợ tía một ân tình.
Cuộc đời mỗi người, chỉ cần một đoạn ngắn thôi, sống trọn vẹn với lòng mình đã là đủ đầy hạnh phúc. Nhưng đã là số phận rồi, cô Tư với tía cách một con sông, thuyền đã rời bến mà không sang đúng bờ.
***
Tía bỏ dở đôi đũa, thở dài, lấy giọng, thanh âm trầm buồn. 
- Tía đặt cho bây cái tên Song Lang là vì trong dàn đờn, dù chỉ là dụng cụ gõ nhỏ xíu thôi nhưng song lang nắm giữ trường canh, giữ nhịp bài bản. Tất thảy thầy đờn đều phải nghe nhịp song lang mà vào bài hay dứt bài. Nói cho dễ hiểu, song lang quan trọng nhất trong dàn đờn, là mạch sống của dàn đờn.
Sao tự dưng nay tía là lạ vậy cà. Song Lang buông chén cơm xuống. Nào giờ nó hay thắc mắc sao tía đặt cái tên cái quê trớt, lại kiểu ủy mị yếu đuối, mà đâu dám hỏi. Nhiều bận, bị mấy đứa bạn học chọc ghẹo vì cái tên, nó chỉ biết cáu gắt trả lời, tại tía nó làm thầy đờn, tía thích thì đặt. Giờ nó mới biết cái ý nghĩa của tên mình. Hay tía muốn nói cho nó hiểu, với tía, nó chính là thứ quý giá và quan trọng của cuộc đời. 
- Tía cho người ta thuê công ruộng mần, con lên Sài Gòn mà học đi. Chuyện bây vì tía mà nói dối rớt đại học tía biết rồi. Sớm bây đi ruộng, bà Năm Trà với cô Tư Lành có qua nhà.
Song Lang trố mắt nhìn tía. Hóa ra Út Thà lên Sài Gòn rồi điện về cho bà Năm, kể sự tình của Song Lang. Nó ướm lời xin bà Năm chuyện tía với cô Tư Lành. Thời gian nhập học còn hơn chục ngày, còn kịp để Song Lang thực hiện cái ước mơ đời mình.
Chuyện đời nghĩ cũng lạ kỳ, lắm khi đối diện hằng ngày, vẫn không dám mở lời nói ra cái điều tâm nguyện. Vậy mà khi xa, chỉ bằng cú điện thoại, cảm xúc dồn nén vỡ ra, lại dễ dàng bộc bạch tấc lòng. Phải chăng khi đối mặt, nhìn vào nhau, lời lẽ khó thốt lên? Đám trẻ như Song Lang, như Út Thà, hình như bây giờ đều có thói quen lạ kỳ đó.
Nếu đã là thương, thì trọn cuộc đời cũng cứ thương. Giờ xế bóng heo may, hổng lẽ để tiếng đờn mãi thắt thẻo bên kia sông. Còn bên này sông, lại thêm một người dằn vặt xót xa.
Ai cũng chỉ có duy nhất một cuộc đời để sống và để thương. Vậy nên, sau khúc tương tư người ta mới nghĩ ra cung thương hòa điệu, để thêm tin tưởng vào điều nhân nghĩa, duyên lành ở đời.

***
Bà Năm Trà có nói với tía, vài ngày nữa giỗ ông Năm, tía qua rồi thắp nén nhang, coi như ra mắt gia tiên để cô Tư Lành sang sông về với tía, coi như bầu bạn tuổi già.
Rồi Song Lang lên Sài Gòn mà tiếp tục con đường tương lai, thêm cái trọng trách chăm nom phụ đứa cháu gái cưng của bà Năm Trà. Vẹn cả đôi đường. 
Trời nhá nhem tối, trăng treo chòng chành qua mấy ngọn bần. Tía lại ra sông đờn. Cả khúc sông vọng vang bài Bắc, Loan phụng hòa minh, điệu réo rắt, nhịp dồn nhanh. Gió quyện tiếng đờn bềnh bồng vút cao.
Trúc Thiên
Những ngôi nhà bên sông
MỘT
Có nơi gọi là thôn, có chỗ gọi là làng, nhưng nơi tôi sinh ra, từ xưa các cụ đã gọi là giáp; sau này là xóm. Giáp Nam, Giáp Bắc...; xóm 14, xóm 18, xóm 20...
Mỗi giáp, xóm cách nhau một cánh đồng và bao giờ giữa đôi bờ trù phú ấy cũng có một dòng sông. Sông Sẻ, sông Múc, sông Sò... Từ thuở khai phá, khẩn hoang cách đây vài trăm năm, Cụ Thượng Nguyễn Công Trứ và trước đó tổ thượng của chúng tôi - Cụ Trần Vu đã có tầm nhìn xa: quy hoạch vùng đất miền chân sóng này vừa an sinh, sạch khí, vừa mỹ quan, phong thủy... Có lẽ thế, thời trước, khi vua kinh lý qua đây đã phong tặng cho vùng đất này là mỹ tục khả phong, thiện tục khả phong...
Minh họa: A Dũng
HAI
Đến đời chúng tôi - những đứa trẻ sinh ra và lớn lên giữa thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, được thừa hưởng di sản của cha ông, sống trong những ngôi nhà cạnh bờ sông ắp đầy truyền thuyết, huyền thoại. Con sông quê hương, không của riêng ai, mà gần như của tất cả người Việt chúng ta, đều gắn bó với biết bao kỷ niệm vui buồn. Con sông quê hương; Dòng sông tuổi thơ; Khúc hát sông quê, Tuổi thơ tôi... chẳng đã đi vào thơ, nhạc, theo ta suốt cả cuộc đời đó sao?
Đối với riêng tôi, có cõi riêng, nỗi niềm khác. Những ngôi nhà dọc bờ sông ở quê tôi gắn liền với thế hệ những người cầm súng, đã hiến dâng tuổi xuân của mình cho đất nước.
Sau chiến tranh, tôi khoác ba lô về quê. Đêm đầu tiên, tôi đi thăm gia đình bạn bè, đồng đội - những người đã nằm lại chiến trường, không trở về sau ngày toàn thắng.
Đi khắp lượt, tôi mới ngộ ra một điều. Hầu như tất cả các ngôi nhà dọc bờ sông quê thân yêu này đều đã hiến dâng cho đất nước ít nhất một người ruột thịt của mình. Đó là anh Chiễu, anh Khơi nhà cụ Hạo; anh Thanh nhà cụ Xán; anh Định nhà cụ Phức; anh Sắc nhà cụ Tắc; anh Thu nhà cụ Chi; anh Hòa nhà cụ Điều; anh Châu nhà cụ Hỗ; anh Chiến nhà cụ Cẩn... Và cả em trai tôi nữa - anh Thiềng nhà cụ Thắng.
Những chàng trai ấy là người cùng trang lứa với tôi. Trước đó đã có nhiều người thuộc lớp cha anh ngã xuống trong thời chống Pháp ở Điện Biên Phủ, Văn Đàn, Đông Biên, Xương Điền, Văn Lý...
Vì vậy, mỗi lần về quê, tôi đều dành khoảnh khắc linh thiêng lúc nửa đêm thả bộ dọc bờ sông để “trò chuyện” với những người đã khuất như là họ đang hiển hiện đâu đây.
BA
Những ngôi nhà dọc bờ sông, không chỉ đậm dấu ấn của những người đã khuất - đã hiến dâng đời mình cho đất nước mà cả những người đang sống cũng đã hy sinh cả tuổi xuân của mình cho hạnh phúc của toàn xã hội. Những người mẹ, người chị, người em gái hiến dâng cho đất nước theo cách riêng của mình - đó là sự hy sinh thầm lặng!
Tôi vừa đến thăm một bà mẹ liệt sĩ. Con trai mẹ là bạn thân của tôi thời còn cắp sách tới trường. Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, con trai mẹ đã nằm lại chiến trường hơn chừng ấy năm, nhưng gặp tôi lần nào mẹ cũng hỏi: “Con về rồi, bao giờ thì thằng Thu nhà bác về?”.
Câu hỏi ấy giống câu hỏi của mẹ tôi “Con về còn em con đâu?”. Tôi chỉ biết lặng thinh ôm đôi vai gầy của mẹ. Biết đến bao giờ chúng tôi mới trả lời được “câu hỏi đời người” ấy?!
Còn nữa, sự hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ trong ngôi nhà dọc bờ sông cứ đằng đẵng theo năm tháng. Tôi có những người chị, người bạn gái đã mòn mỏi mấy thập kỷ chờ đợi người yêu, người chồng từ mặt trận trở về, dẫu họ chỉ trở về trong hộp thiêng phủ đẫm cờ Tổ quốc.
Và, chiến tranh kết thúc đã mấy chục năm, những chàng trai ấy không thể trở về, thân thể các anh đã biến thành đất đai tổ quốc. Hồn đã bay lên thành linh khí quốc gia; khiến những người phụ nữ kia “hóa đá” như trong truyền thuyết.
Tôi bỗng nhớ đến những câu thơ cháy lòng khi viết về những người đàn bà Việt Nam huyền thoại ấy:
Em đợi anh mấy mươi mùa mưa
Mùa mưa nào cũng đầm vạt áo
Chim sáo sang sông vẫn là chim sáo
Em đợi anh, con gái hóa bà già
Mấy chục năm, mùa mưa đi qua
Đếm hạt mưa gõ trên mái lá
Hạt mưa thì trôi còn em hóa đá
Chỉ trái tim hồng chín tháng năm
Em đợi anh từ thuở tóc còn xanh
Nay tóc bạc, mây trắng về vần vũ
Cánh đồng xưa và con đường cũ
Không sao quên được bóng hình anh....
BỐN
 Những người còn sót lại sau chiến tranh trở về với những ngôi nhà cạnh bờ sông có cách tri ân quê hương, tưởng nhớ bạn bè, đồng đội theo cách riêng của họ.
May mắn về quê dịp cuối năm này tôi được dự lễ khánh thành cây cầu văn hóa bắc qua dòng sông có những ngôi nhà liệt sĩ ấy. Hai người lính thuộc thế hệ sau chiến tranh chống Mỹ nay đều là đại tá. Một đại tá quân đội, một đại tá công an. Hai người bạn “học chung một lớp” đã bỏ tiền bạc, công sức vận động cơ quan, bạn bè chung nhau xây dựng cây cầu cho quê hương. Số tiền không nhiều, nhưng ý nghĩa thật nhiều. Ngày khánh thành cầu cũng là ngày hội đoàn kết toàn dân. Tôi gặp lại các bà mẹ liệt sĩ, các người vợ, người chị “hóa đá” chờ người thân mấy chục năm nay mà không sao cầm được nước mắt.
NĂM
Bây giờ cuộc sống đã có phần đổi khác. Người ta tập trung lo làm giàu, làm quan và tìm mọi cách vun vén cho riêng mình. Điều ấy cũng dễ hiểu. Nhưng sẽ thật sự khó hiểu, nếu vì kế sinh nhai, lập thân, thăng tiến mà người ta lãng quên quá khứ; quên đi những “câu hỏi đời người” của các bà mẹ liệt sĩ; quên đi những gương mặt khắc khổ, tàn phai theo thời gian của những cô gái vốn một thời đẹp như trăng rằm, đang mòn mỏi đợi người từ mặt trận trở về; sẽ là một khiếm khuyết, một tội lỗi không thể nào tha thứ được!
Nửa đêm, trước khi tạm biệt quê hương, theo thói quen, thả bộ cạnh những ngôi nhà dọc bờ sông, tôi nghĩ thế!
Hải Hậu, tháng 12-2016.
TRẦN THẾ TUYỂN.