Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Giỏ xe có hoa

Áo Dài Ơi 

Tà Áo Tím

 
Màu hoa trắng,
Màu hoa trắng, màu áo dài em đó,
Giữa sân trường hai sắc trắng tinh khôi....
Hoa và em là bảo vật trên đời,
Anh trân trọng chẳng bao giờ quên lãng !
Mây trên cao bay lững lờ lãng đãng...
Em bây giờ theo gió cuốn mây trôi,
Hoa trắng còn đây, người sớm đi rồi...
Người ở lại nhớ nhung tà áo trắng !
NM 
Giỏ xe có hoa
Miên thấy hơi tức ngực, nó đứng thở một chút rồi ghé vô hành lang ngồi nghỉ. Từ hồi chuyển trường tới giờ, Miên cứ thấy trong lòng nao nao. Không biết có phải vì nó nhớ mấy đứa bạn cũ, nhớ ngôi nhà vẩn vương quá khứ có ba nó. Hay vì…
Miên lắc lắc đầu, ngước lên trời nhắm mắt. Trời đổ bóng ánh vàng màu nhạt, gió phây phẩy mấy tán lá lùa về mùi hương của loài hoa nào đấy rất quen, thoang thoảng thơm. Chỗ khu hành lang này sát gần khu gửi xe đạp. Giờ tan trường chắc cũng đã hơn nửa tiếng, quanh đây chỉ còn vài chiếc chưa ai lấy. Chắc của mấy bạn ở lại học thêm, hay trực lớp, hay hẹn hò.
Nắng chiều tắt rất nhanh. Miên cầm điện thoại lên, đã năm giờ ba mươi lăm phút, mẹ lại tới trễ. Tự nhiên có cánh hoa trắng muốt bay là là đến chân Miên. Nó cười nhẹ nhặt cánh hoa lên, ngó xung quanh. Ở phía cuối khu để xe, cái chỗ mà xa quá không ai buồn đi tuốt xuống đấy để gửi, có một chiếc xe đạp trông cũ. Giỏ xe bị móp một bên và toàn thân xe có màu nâu ghỉ. Nhưng ở giỏ xe móp méo ấy, ai đó đã đặt vào một bó hoa trắng tinh. Miên ngó nghiêng xung quanh, hành lang tanh vắng, nó nhìn điện thoại lần nữa rồi bước lại gần chiếc xe ấy.
“Hoa đẹp quá…”
Miên cười cười lấy ngón tay khe khẽ chạm vào. “Ai được tặng chắc là vui lắm”, nó nghĩ.
“A…”
Miên thấy có ai bước ra từ sau khu hành lang, chỗ nó ngồi hồi nãy. Một bạn học sinh cột tóc cao, vầng trán sáng và vận chiếc áo dài tinh tươm. Người bạn này ôm cặp, có vẻ cũng ngạc nhiên khi thấy ai đó đang đứng trước chiếc xe đạp (mà đã cố tình để rất sâu trong khu gửi xe) của mình.
“Xin… xin lỗi nha. Tại mình thấy, giỏ xe có hoa…”
Cô bạn kia nghiêng người nhìn xe mình. Hình như cũng không ngạc nhiên, tiến lại gần rồi cầm bó hoa lên nâng niu như thể một món quà dễ vỡ. Cô phì cười nói rất nhỏ:
“Lại nữa rồi…”
Miên thấy nụ cười ấy quen quá, như là gặp ở đâu rồi.
“À bạn ơi…”
Miên giật mình, chậc, ai đời đến xe người ta nhìn hoa của người ta, rồi giờ lại nhìn chằm chằm người ta như vậy. Nó gãi gãi đầu:
“Xin lỗi nha, mình.. mình xin lỗi. Mình…”
“Hihi, bạn ngộ quá. Bạn là học sinh mới đúng không?”
Miên tránh ánh mắt của cô bạn, chắc là học sinh mới chuyển tới có vẻ rất nổi tiếng ở trường này. Nó cười gật đầu, toan bước đi.
“Tui tên Lam, tui học kế lớp bạn đó…”
Miên có hơi tức ngực một chút, nó hồi hộp vì lần đầu có ai đó trong trường mà khác lớp đang bắt chuyện với nó.
“Tui… tui tên Miên”
Rồi giờ thì hai đứa đang ngồi cạnh nhau ở khu hành lang nhìn hoa thế này dù trời cũng dần sập tối. Đã năm giờ bốn mươi chín phút, Lam nói cũng đang đợi người nhà đến rước. Lam kể cô ngại đám đông lắm, nên lúc nào cũng để xe ở xa mấy xe khác. Chỉ có một lần duy nhất gặp một người để xe cạnh cô. Nói đến đây Lam cười. Miên biết ngay người đó không ai khác chính là chủ nhân của bó hoa trên xe.
Lam nhìn Miên, cười nói:
“Rồi bạn sẽ làm quen nhiều bạn ở đây thôi. Đừng lo quá…”
Miên lắc đầu.
“Tại mình không biết cách thân thiết với người khác, ngay cả… ngay cả người thân”. Miên nói, thấy mình cũng giống Lam quá. “Với lại cũng tại…”
Lam cầm bó hoa lên nâng niu.
“Bạn còn thời gian, bạn hãy trân trọng những người ở cạnh cậu. Hãy nói cho họ biết là bạn cũng rất yêu thương họ… Bạn đâu biết khi nào bạn sẽ không thể nói được những lời đó nữa”
Miên nhìn xa xăm, tay nắm chặt điện thoại. Nó bỗng nhớ đến những cuốc xe bao nhiêu năm ba chở đi chở về, cho đến khi ba không còn đứng chờ đón nó nữa. Tay Miên đè lên ngực, thấy lòng thắt lại. Hơi thở có hơi khó khăn.
Lam để ý quay sang:
“Bạn ổn không?”
“Mình không sao…”
Lam cười nhìn Miên, cô cầm bó hoa đứng dậy.
“Người nhà của mình tới rước rồi. Mình đi nhé”. Lam giơ ra cánh tay.
Miên mỉm cười bắt lại.
“Cám ơn”
Rồi Miên nhìn Lam bước đi. Tà áo dài trắng bay theo gió. Miên giờ mới để ý, hôm nay thứ sáu rồi, sao Lam còn mặc áo dài làm chi?
Lam bỗng sực nhớ điều gì, quay sang nói lớn:
“Miên ơi, bạn hãy bảo vệ nó dùm mình nhé”
“Bảo vệ?...”
“Miên ơi… Miên hãy sống thật hạnh phúc, nhé Miên”
“Miên!!!”
Miên choàng tỉnh, điện thoại rơi khỏi tay. Mẹ đứng đó từ lúc nào, khuôn mặt trông vô cùng hốc hác. Như những ngày mẹ chăm nó từ hồi còn trong bệnh viên cả hơn một năm trước.
Lúc nó mổ tim.
“Con có sao không, có khó thở không con?” – Mẹ nó ôm vô lòng vuốt lưng – “Mẹ xin lỗi, mẹ tới trễ”
Miên thấy hơi tức ngực. Ngoài trời chỉ còn mảng tối đen. Mấy bác bảo vệ chắc cũng phụ kiếm nó nãy giờ.
Miên cám ơn mấy bác bảo vệ rồi đi chung với mẹ ra xe. Đi được đoạn có một anh nào cao cao, cầm bó hoa trắng bước vào khu để xe. Miên ngoái đầu nhìn theo. Thấy thế, bác bảo vệ đi kế mới nói:
“Thằng đấy hồi xưa học trường này. Mà chậc…” – Bác tặc lưỡi – “Có con bé bạn gái bị tai nạn chết, cái xe đạp móp đó thấy không. Ba mẹ nhỏ đó bỏ rồi, mà thằng đấy lén đem lên trường. Xin bác để đấy. Năm nào ngày giỗ của con bé cũng đem hoa tới để ở rổ xe đó”
Nói rồi bác lắc đầu:
“Con bé nó hay tâm sự với chú, có lần nó nói nó mà lỡ chết thì nó sẽ hiến tặng hết nội tạng nó cho bệnh việc. Dè đâu được có năm, là nó đi thiệt… Thương quá thương”
Miên ôm ngực nó nhớ lại lời Lam:
“Miên ơi, hãy bảo vệ nó nhé”
Miên hỏi bác bảo vệ:
“Chị ấy tên gì vậy chú?…”
Chiều đó gió nhàn nhạt bay, trên tay cậu thanh niên rơi vài cánh hoa trắng muốt. Cậu nhẹ nhàng đặt chúng vào giỏ xe. Giỏ xe có hoa.
Lam Lam
Niềm riêng
Giờ quay trở lại thăm trường cũ,
Vương vấn trong lòng nỗi nhớ nhung...

Xa xôi cách trở ngàn trùng,
Ước mong oan trái xa vùng thân yêu...
Lòng luôn nhung nhớ thương nhiều,
Những tà áo trắng dập dìu tung bay.
Nào hay oan trái vẫn đây,
Niềm riêng tôi mãi ôm hoài xót thương !!
Nơi đây vẫn chốn "chiến trường",
Còn đâu hình ảnh thiên đường tinh khôi !?
Nơi xa áo trắng lên ngôi,
Niềm riêng giờ lại sáng ngời trong tim !!
NM

Thấp thoáng áo về
Trước cổng trường đông đúc, nhộn nhịp. Bà đón cháu.
Thật ra bà chỉ việc lên một chiếc xích lô nhờ đạp tới trường, và bà đứng chờ trước cổng, bên vệ đường, như bao nhiêu phụ huynh khác. Bà không lái xe như ở “bên kia”.
Từng đợt, từng đợt học sinh đi ra. Các bạn dắt xe đạp, hoặc xe gắn máy. Ra đến cổng rồi các bạn mới leo lên xe. Bà có một chút hài lòng. Chỉ có một điều rất khác so với ngày xưa. Ngày xưa chỉ có nữ sinh. Bây giờ có cả nam và nữ.
Ngày xưa… Ồ! Bà như thấy trước mắt, cảnh các nữ sinh mỗi sáng lũ lượt nối đuôi nhau vào trường. Cái cổng trường và ngôi trường cổ kính, đã có từ một thế kỷ trước, hàng ngày chứng kiến một quang cảnh không đổi. Có vẻ như không đổi mà thôi! Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Cô giáo dạy môn Anh văn của các lớp đệ nhị cấp, cũng đảm nhận làm giáo sư hướng dẫn cho lớp Mười A9, buổi sáng. Lớp Mười A9, một lớp không có gì đáng nói, vì cũng là một lớp khá ngoan. Học trò học rất đều. Không có em nào dưới trung bình. Các thầy cô rất yên tâm về lớp này. Trường công, cần có những lớp đều như vậy. Được rèn luyện rất cẩn thận, cộng thêm sự học hành tự giác, tinh thần ganh đua và chí phấn đấu, thế là học sinh cứ tiến đều, và sẽ có kết quả tốt trong những kỳ thi lấy bằng Tú Tài.
Cô giáo năm ấy ngoài bốn mươi. Cô vui tính, hay kể chuyện hài hước, nhưng lại có một đặc điểm chưa hề thấy ở một vị giáo sư nào. Đó là cô rất khắt khe với các nữ sinh để tóc dài. Giờ học của cô, các nữ sinh đều phải cột tóc gọn gàng, không ai được xõa tóc. Ngay cả những bạn tóc mới chấm tới vai cũng phải cột lên thành một cái đuôi gà cụt ngủn. Làm trái ý cô ư? Ra khỏi lớp! Giờ Anh văn của cô, ai ai cũng chuẩn bị một cái kẹp tóc hoặc một sợi dây. Cô vào lớp, việc đầu tiên là cô đặt lên bàn một mớ dây thun. Bạn nào quên đem kẹp, cứ tự động bước tới bàn của cô, lấy một sợi dây thun mà cột tóc lại. Chỉ có các bạn cắt tóc “demi-garçon”, nghĩa là tóc tém như con trai, hoặc tóc “bum-bê” thật ngắn mới khỏi phải cột tóc. Trời nóng cũng thế, trời lạnh cũng như thế. Không ai dám cãi lại. Không ai dám thắc mắc.
Thế rồi, đến một hôm, cô trố mắt khi nhìn thấy một cô học trò cột tóc theo kiểu rất lạ. Cô bé chỉ cột dây thun một nửa mái tóc, và vẫn để lớp tóc bên trong chảy lòa xòa trên vai. Cô từ trên bục bước xuống, đứng trước mặt cô học trò. Đây là trò Hương, người nữ sinh giỏi Anh văn nhất lớp. Cô không nói. Hương ngước nhìn lên, thấy ánh mắt của cô, Hương cũng im lặng. Hai thầy trò nhìn nhau. Cả lớp nín thở.
Mấy giây sau, cô ra lệnh:
- Em đứng dậy!
Hương đứng lên, thẳng người, trông rất ngoan như bao lần. Cô giáo nghe hai má mình hơi nóng lên với cảm giác bị học trò cãi lời. Cô hỏi:
- Hôm nay em biết em đã phạm lỗi gì không?
Hương lắc đầu, giọng chắc nịch:
- Thưa cô, không ạ!
Cô nghe mặt ran rát một cảm giác bị xúc phạm
Cô xẵng giọng:
- Em thật không biết?
- Thưa cô, không ạ!
Cô cố dằn, lần đầu tiên cô thấy mình có hơi nhượng bộ đối với học sinh. Cô gắng nói một cách bình tĩnh:
- Từ đầu năm đến giờ, tất cả học sinh khi vào giờ học Anh văn, đều nghe lời tôi, cột tóc gọn gàng. Chưa một ai làm trái lại. Hôm nay em đã làm trái đi. Tại sao?
Hương thong thả đáp:
- Thưa cô, em không thấy mình làm trái điều gì
Em có nghe lời cô. Em có cột tóc ạ!
- Em không làm đúng.
- Thưa cô, cô có nói chúng em cột tóc cho gọn, thì em đã cột tóc cho gọn ạ!
- Không phải!
- Thưa cô, xin cô chỉ cho em… làm sao cho phải ạ!
Cô nói lớn, mặt đỏ bừng:
- Tôi bảo các em cột tóc hoàn toàn, không có một sợi nào được bay lòa xòa. Em nhìn em kìa, cột mà như không cột.
- Vậy thưa cô, em xin làm lại ạ!
Hương thong thả tháo sợi thun buộc tóc ra. Cô giáo và cả lớp chờ đợi. Hương đặt sợi dây thun lên bàn, và lắc đầu nhẹ một cái. Mái tóc đen mượt của cô bé đổ tràn đầy hai vai, như một dòng suối. Cô bé đứng thẳng như người lính đứng đợi lệnh cấp trên. Cô giáo trố mắt. Cả lớp như nghẹt thở.
Lại một khoảng im lặng khó chịu tỏa ra. Mấy giây sau, vẫn là cô giáo lên tiếng trước:
- Em làm vậy là có ý gì? Em không muốn nghe lời tôi hả?
- Thưa cô, em không có ý chống đối cô. Nhưng… thưa cô, em cảm thấy… cô rất vô lý khi bắt buộc chúng em cột tóc. Nếu là trong phòng thí nghiệm thì không nói gì, nhưng giờ này là giờ Anh văn. Trong khi ở các giờ học khác, chúng em không bị các giáo sư gò bó, mà giờ của cô thì chúng em lại phải… làm cho ra vẻ lam lũ. Chúng em thật sự không hiểu ạ! Hôm nay, nếu cô phạt em, em cũng đành chịu. Nhưng em phải nói giùm các bạn em, giùm cả lớp này và giùm cả các lớp khác, vì… họ không dám nói ạ!
Các nữ sinh len lén nhìn nhau, ánh mắt thay cho lời nói chuyện. Họ vừa hả dạ, vừa lo lắng cho Hương. Cô giáo nói giọng run run:
- Giỏi lắm! Em giỏi lắm! Tôi sẽ giao em cho phòng giám thị giải quyết.
Rồi cô mở sách ra, lặng lẽ bước lên bục gỗ.
Sau hôm đó, cô học trò bị một điểm xấu về hạnh kiểm.
Nhưng cô giáo thì cũng từ hôm đó, khi vào lớp không còn đặt một nắm dây thun lên bàn nữa.
o O o
Ngày xưa… Vâng, cô giáo còn nhớ lắm!
Cô bé học trò lớp Mười A9 tên Hương, khi xõa mái tóc chảy đầy vai, làm cho cô giáo có một thoáng sững sờ!
Sao cô lại không sững sờ cho được, vì hình ảnh đó giống hệt như cô mà! Tấm áo dài trắng tinh, mái tóc đen nhánh dài đến gần thắt lưng, công phu của nhiều tháng nuôi dưỡng, nâng niu. Cô chỉ xõa tóc ra khi mặc áo dài đi học, còn khi ở nhà, giữ em, làm việc trong bếp, ngoài vườn, cô cột hoặc bới cao lên cho gọn. Nhiều cậu nhóc hàng xóm cứ nhìn theo cô, ngẩn ngơ. Và rồi trong đám “nhóc” ấy, một cậu đã rơi vào đôi mắt của cô, đã trao cho cô những tờ giấy màu xanh trên đó có những dòng thơ dịu dàng. Cậu nhóc đã hẹn được cô đi chơi. Cô gan lắm! Cô đã đi chơi với cậu nhóc. Cũng là quanh quẩn nơi những hàng quà vặt trước trường, rồi lại về nhà, giữ em, làm việc nhà, học bài. Rồi một buổi kia, cô trốn học để đi xem xi-nê với cậu.
Dì của cô – vâng, cô học trò ấy không còn cha mẹ, ở với người dì họ, làm việc nhà cho dì ấy và nhận cơm ăn áo mặc – biết được chuyện, đã túm lấy mái tóc của cô mà cắt lấy cắt để, cho đến khi tả tơi ra hết rồi dì mới hả giận. Và thế là cô học trò xinh đẹp phải trùm khăn đi học, chờ cho đến khi đầu tóc mọc thêm cho dễ nhìn mới dám để lộ ra. Cái mặc cảm bị hành tội ám ảnh cô học trò cho đến rất nhiều năm sau, khi cô đã xong bậc trung học, lên học Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ra trường và trở thành cô giáo dạy Anh văn.
Cô giáo trở thành một hình mẫu tiêu biểu đáng kính trong nhà trường. Nhiều năm qua, cô hồ như quên mất kỷ niệm chua cay mà mình đã gánh chịu. Cô có gia đình, có con cái. Cô lập ra một cái nếp áp dụng với nữ sinh học môn Anh văn của cô: cột tóc lên cho gọn gàng, dù lớp học Anh văn thì không bao giờ giống như phòng thí nghiệm. Cái nếp ấy, năm này qua năm khác, áp dụng mãi rồi thành quen thuộc không ai dám phản đối. Và cũng không hại gì cho nên nhà trường không can thiệp vào.
Nhưng cô bé Hương đã dám phá vỡ cái bức tường đó, dù biết sẽ nhận lãnh một điều không hay cho mình. Như một tiếng chuông vang lên phá vỡ sự im lặng đáng ghét, Hương đã làm cho cô giáo mất mấy đêm không ngủ. Lúc nào cô cũng thấy cô bé học trò thật đẹp, thật thánh thiện trong nếp áo dài, mái tóc xõa trên bờ vai. Cô bật khóc trong đêm
Trời ơi! Là tôi đấy mà!
o O o
Biến cố 30 tháng Tư 1975 xảy ra. Có nhiều thay đổi trong hệ thống quản trị nhà trường. Cô giáo vẫn được lưu dụng để dạy môn Anh văn. Nhưng cô bé học trò tên Hương không còn tiếp tục đến trường nữa. Cô bé đã đi đâu mất.
o O o
- Bà ơi! Cháu đây! Bà đi với ai?
- Bà đi một mình, đi xích lô, cháu ạ! Bà cháu mình sẽ đón tắc-xi về nhé!
- Vâng. Bà đợi cháu một chút, cháu dặn bạn cháu cái này.
Cháu của bà chạy tung tăng chân sáo, gọi bạn ơi ới. Bạn là một cậu con trai cùng trang lứa, lái chiếc xe gắn máy, đang chống chân chờ đợi. Chá
của bà dặn dò một lát, rồi đi về phía bà. Trong khi đó, một cô học trò khác, đến bên cậu học trò kia, leo lên yên sau của chiếc xe gắn máy. Cô bé dang hai chân ngồi thật vững vàng và thoải mái, vạt áo dài được túm lại cột thành một búi trước bụng. Cô bé ngoái lại vẫy tay chào. Cháu của bà vẫy tay theo.
Bà hơi khựng lại một chút. Ngày xưa… Ồ, lại ngày xưa! Bà khi còn là cô học trò trung học, lần đầu tiên mặc áo dài, lúng ta lúng túng, không biết vén thế nào cho gọn. Khi đi xe đạp, cô học trò lót vạt áo dài lên yên, vuốt thật thẳng rồi ngồi đè lên. Hoặc cẩn thận hơn nữa, thì ràng chiếc cặp nơi yên sau bằng một sợi dây thun thật lớn, có hai móc hai đầu, rồi sau đó nhét kỹ hai góc của vạt sau áo dài vào dưới dây thun. Gió có mạnh mấy cũng không thể làm vạt áo bung ra được. Lại còn những khi ngồi ở yên sau cho bạn chở, thì mấy cô nữ sinh bao giờ cũng ngồi khép nép, hai chân để về một bên, vạt áo vén thật gọn gàng thẳng thớm vì sợ nhăn. Vậy mà cũng có một kỷ niệm đau khổ xảy ra cho cô: một hôm cô ngồi sau xe cho cô bạn chở, hai đứa lo nói chuyện cười vui không để ý, cô đã làm vạt áo sau rơi xuống, quấn vào bánh xe, bị rách toạc đứt lìa. Cô run rẩy bước về nhà và nhận lãnh một trận đòn vì tội lơ đễnh.
Tà áo dài nữ sinh, đề tài muôn thuở cho các văn thi nhân, nhạc sĩ, họa sĩ, có đâu ngờ cũng mang lại nhiều đau khổ cho các nữ sinh. Thời của cô, áo dài lúc nào cũng phải thẳng thớm, kín đáo. Đã vậy mà trò nào vô tình hay cố ý “quên” mặc áo thun lá bên trong thì sẽ bị đuổi về, không cho học ngày hôm đó. Con nhà nghèo đến đâu cũng phải ủi áo dài đi học, không để bị nhăn nheo hay gấp nếp. Trời nắng hay mưa, bão hay lụt, cũng không được mặc thứ gì khác. Học trò xứ cao nguyên thì đỡ khổ hơn, phần trên đã luôn có áo len che, các bạn chỉ lo ủi cho thẳng hai vạt áo. Học trò miền thôn quê càng đáng nể hơn nhiều, khi mỗi ngày xắn quần áo lội bì bõm qua bao nhiêu đoạn nước non sình lầy, hoặc lên ghe xuống đò, khi lên tới đường cái rửa chân và thả lai áo quần xuống, áo quần vẫn trắng nguyên, và như vậy là có thể đi đến trường.
Sau năm 1975, trường của cô không bắt buộc nữ sinh mặc áo dài. Trường có thêm nam sinh. Nam nữ đề huề. Học sinh đi học mặc quần tây xanh, áo sơ-mi trắng. Nét e dè khép nép ở nữ sinh dần dần mất đi. Cô cũng không còn nhớ đã có một thời cô bắt các học trò của mình cột tóc cho gọn. Như cô đã quên quá khứ buồn của mình vậy!
Cháu của bà mang đến cho bà một bịch chè. Ồ, con bé nhanh chân thật, vừa mới chạy đi dặn dò bạn, đã tạt ngang gánh hàng rong mua chè bịch rồi! Bà bật cười, nói:
- Bà không ăn đâu!
- Bà ăn đi, ngon lắm! Không ai nhìn đâu! Ngày nào cháu cũng ăn như vậy.
Bà liếc qua “xóm hàng rong” thấy nào là chè, nào là bánh, rồi thì trái cây - cóc ổi xoài, rồi nước mía, chuối xào dừa, xắp-xắp khô bò … Bà lắc đầu. Đứa cháu gái ăn chè bịch một cách ngon lành, không cần chén muỗng, chỉ việc cắn một góc nhỏ ở cuối bịch và kê miệng hút, thế là xong. Bà cảm thấy vui lây với nó. Cháu cũng mặc áo dài như bà ngày xưa - vâng, theo bà biết thì đến một lúc, các trường cũng trở lại cho nữ sinh mặc áo dài trắng – nhưng cách thức của các cháu có nhiều khác biệt. Các cháu nhanh nhẹn hơn, mạnh bạo hơn, không khép nép rụt rè. Các cháu sẵn sàng xắn tay áo lên cao, hoặc cột nùi vạt áo dài trước bụng khi ngồi ở yên sau xe gắn máy. Bà cười dễ dãi, tự nhủ “mỗi thời mỗi khác”.
Một cô bé chạy đến, đưa cho cháu bà một quyển vở.
- Trả lại vở cho bạn nè! Mình đã chép bài xong. Cám ơn nhé!
- Không có chi. Nè, giới thiệu với bạn, đây là bà của mình. Bà ơi, đây là bạn Hoa học cùng lớp với cháu.
- Cháu chào bà ạ!
- Nhưng không phải bà nội hay bà ngoại đâu! Bà là “bà trẻ” ấy!
Cô bạn tròn mắt chưa hiểu. Bà giải thích
- Chào cháu, “bà trẻ” có nghĩa là bà cô hoặc bà dì. Bà là “bà dì họ” của bạn đây.
- Dạ cháu hiểu rồi ạ!
Cháu của bà giải thích thêm:
- Bà và gia đình của bà ở bên Mỹ hết cả. Bà năm nay mới về chơi, thăm gia đình của mình. Bà với bà ngoại mình là “chị em bạn dì họ”, nghe rắc rối không? Nhưng họ thân lắm, vì bà chỉ có người thân là phía bà ngoại mình thôi. Bà về chơi, rồi bà lại đi qua bên ấy.
Cô bạn nhỏ gật gù:
- Vậy cháu chúc bà có những ngày ở chơi vui vẻ
Cháu chào bà ạ!
Bà chào lại. Cô nhỏ chớp nhanh đôi mắt tròn, và quay lưng đi. Cô lắc nhẹ mái tóc. Một dòng suối đổ tràn vai. Cô đi thật nhanh và lẫn vào dòng người áo trắng. Bà chợt nghe trái tim mình thắt lại một cái đau nhói. Hình ảnh quen thuộc quá!
Cô cháu nói khẽ:
- Con nhỏ Hoa này… coi vậy mà tội nghiệp lắm bà ạ!
- Cháu nói sao?
- Dạ, để hôm nào cháu kể bà nghe…
o O o
Trước cổng trường vẫn đông đúc, nhộn nhịp. Có vẻ như không đổi. Thật sự ra, cô giáo ngày ấy, vẫn biết rằng trong cái “có vẻ” đó, nhiều cuộc đời đã tiếp diễn, nhiều tâm tư đã biến động, không phải chỉ ở ngoài kia, mà chính trong ngôi trường bình yên này.
Thầy trò họ gặp lại nhau. Cô giáo dạy môn Anh văn và cô học trò xinh đẹp tên Hương của lớp Mười A9. Hình như những nét tươi đẹp và tinh anh của mình đều truyền hết cho đứa con gái, Hương hiện ra trước mắt cô giáo, là một phụ nữ trung niên với nét khắc khổ trên gương mặt.
Họ cùng nhau đến kéo ghế ngồi bên một chiếc xe nước mía. Khuôn viên nhà trường trong kia không còn thuộc về họ.
- Hương à, sau ngày ấy, em đã đi đâu
- Thưa cô, em đi kinh tế mới, cùng với ba má và các anh chị em của em. Một nhà sáu miệng ăn, vất vả lắm thưa cô. Nhưng không thể ở lại thành phố vì áp lực nặng nề quá! Tụi em ra sức tập tành trồng trọt, chăn nuôi. Sức vóc học trò yếu ớt, không cày cấy nổi trên sỏi đá. Cho đến một ngày…. Ba của em cuốc trúng mìn và chết trên rẫy. Cả nhà đành trở về thành phố, bươn chải làm đủ mọi nghề để sống tạm. Chỉ có hai năm mà nhà em đã trắng tay, gia sản tiêu tan hết. Em cũng bỏ học luôn.
- Cùng thời gian đó, cô và chồng con của cô cũng trốn đi.
- Cô đã qua Mỹ?
- Phải. Cô và chồng cô làm mọi nghề để nuôi con. Bây giờ cuộc sống đã tạm yên. Em hãy nói tiếp cho cô nghe, sau khi về lại thành phố, em sống ra sao?
- Em cùng mẹ và các anh chị em lây lất qua ngày, rồi cũng xong. Em lập gia đình trễ nhất trong các anh chị em. Con của em là bé Hoa đó thưa cô.
- Cô đã biết, cháu giống mẹ như đúc. Cô đã giật mình khi nhìn thấy cháu. Đúng là hình ảnh của em ngày xưa, không khác một ly.
- Thưa cô, em xin lỗi cô!
- Xin lỗi chuyện gì?
- Chuyện ngày xưa… Em đã cãi lời cô, không chịu cột tóc.
- Cô quên rồi! Nếu cô không quên, cô sẽ còn đau khổ với cái kỷ niệm đau đớn của cô. Em đừng hỏi cô đó là kỷ niệm gì. Để cho nó chìm luôn đi em nhé! Cái hình ảnh em xõa tóc dài, mặc áo dài trắng, thương lắm, chính là hình ảnh của cô, và bây giờ đã là hình ảnh của các cháu.
- Vâng! Nhìn bên ngoài là như vậy, nhưng cô ơi!....
- Sao? Em muốn nói gì?
- Cô ơi! Nếu cuộc đời bình lặng như chúng ta muốn thì chắc sẽ không là cuộc đời. Em tưởng những gì mà thế hệ trước gánh vác thì sẽ không xảy ra cho đời sau. Em tưởng thế hệ con của mình sẽ được may mắn hơn. Nhưng sự thật thì còn tệ hơn nữa…
- Em muốn nói gì?
- Chỉ mới gần đây thôi, một ngày kia em không thấy con của em về nhà. Cháu theo bạn bè trốn đi chơi, nghe lời dụ dỗ và sa vào một cái bẫy buôn người. Chúa ơi! Khi em đến khách sạn thì vừa kịp thấy bọn đó tổ chức cho các gã ngoại quốc chọn lựa các cháu như chọn nô lệ. Em như nổi điên, em phá phách tan nát cái động đó, cùng những bà mẹ khác cứu các con về. Cô ơi, cháu cũng còn chút may mắn hơn những bạn trẻ khác trôi giạt qua xứ người không biết đâu mà tìm. Cô thấy đó, cháu có vẻ ngoan ngoãn thuần hậu, nhưng không thể ngờ, đàng sau lớp áo trắng kia là một kỷ niệm đau đớn. Từ đó em mang tâm bệnh trầm cảm. Em rất buồn, thưa cô!..
o O o
Cô giáo ngày xưa trở lại Mỹ. “Bà trẻ” chỉ chơi với cháu được mấy tuần. Ngoài một vài giúp đỡ vật chất nhỏ nhoi, bà cũng không làm được gì hơn. Đối với gia đình Hương cũng vậy. Bà cảm thấy nặng lòng quá! Khi máy bay rời phi đạo và cất cánh bay lên không, bà bật khóc. Bà bỏ lại những con đường đầy cỏ xanh, những khu xóm nhà cửa chen nhau chi chít, những tòa nhà cao nghễu nghện đứng bên cạnh khu ổ chuột, trông như những anh “đại bàng” hách dịch trước đám dân đen. Rồi thì dòng sông, đồng lúa, rặng núi, khu rừng… tất cả chìm vào màn mây và màn nước trong mắt bà trắng xóa.
Bà ngủ vùi mấy ngày. Trông có vẻ như người bị mệt mỏi vì sái múi giờ. Thật sự bà muốn quên. Bà cũng có cảm giác bị trầm uất như lúc xưa bị người dì họ ra tay xởn tóc. Có một cảm giác mất mát đeo nặng trong trí bà. Nhiều đêm ngủ chập chờn, bà thấy vô số những tà áo dài trắng vờn bay trước mặt, vỡ ra thành những giọng cười hồn nhiên, rồi lại quấn quít quanh người bà, khóc lóc tỉ tê như trong một đám tang làm cho bà ngạt thở.
Khi đã yên tĩnh lại một chút, bà quyết định làm một cái gì. Bà nghĩ từ nay bà sẽ viết sách, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, về những cuộc đời trầm luân của những người phụ nữ bất hạnh. Bà bắt tay vào việc ngay. Con cháu thấy bà hồi phục, ai cũng nhẹ nhõm.
Riêng có đứa cháu ngoại trai của bà, một hôm đã làm cho bà ngạc nhiên khi trao cho bà một bản vẽ và nói:
- Con tặng cho ngoại đó!
- Cái gì đây, thằng cháu cưng?
- Ngoại coi sẽ rõ. Ngoại có ưng ý không? Ngoại dùng nó để làm bìa cho cuốn sách đầu tay của ngoại nhé!
- Được! Nếu “thiết kế sư” vẽ đúng ý ngoại thì ngoại sẽ dùng…
Bà mở tròn đôi mắt. Trên bản vẽ là một tà áo dài mềm mại. Người con gái trong hình tươi tắn, cười hồn nhiên, mái tóc buông dài trên vai. Bà nghẹn ngào không nói được. Cháu của bà, cậu thanh niên sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, nói hớn hở:
- Ngoại à, con đã nghiên cứu rất lâu về chiếc áo dài Việt Nam. Con thấy có nhiều biến cải rất lạ mắt và đầy thú vị. Nhưng cuối cùng, con chỉ chọn kiểu áo này, chiếc áo dài nguyên thủy không kiểu cọ gì cả. Đó là kiểu áo dài của các nữ sinh. Theo con, đó là kiểu áo dài hoàn hảo nhất.
Bà ôm siết đứa cháu trai vào lòng:
- Cám ơn con. Ngoại ưng ý lắm!
- Ngoại có thấy cô gái này giống ngoại ngày xưa không?
- Có! Có! Giống ngoại lắm! Mà… cũng giống rất nhiều người, con ạ! 

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tháng 3/2011

Mimosa cuối mùa
Hoa vàng phai vẻ kiêu sa,
Đưa người sao thấy xót xa trong lòng ?
Người đi vào cõi mênh mông,
Mimosa vàng sẫm bên song cúi đầu !
NM

 Sân trường có hoa vàng Mimosa
Tôi và Chi học cùng suốt bốn năm cấp hai, đến cấp ba, tôi học chuyên Văn còn Chi học chuyên Lý, thời gian gặp nhau chỉ là những giờ trước trống vào lớp rồi sau trống tan trường – ngắn ngủi và nhiều luyến tiếc.
Giờ ra chơi, Chi ít khi ra ngoài. Có lẽ, Chi sợ phải nghe những từ ngữ không hay đám bạn dành cho mình. Tôi cũng từng có lần trách Chi tự ti quá! Tôi nghĩ, mập hay ốm cũng là bản thân mình, cứ mặc kệ người khác nói gì, nhưng hình như Chi không thể vượt qua như tôi bảo. Lúc ấy, Chi nặng khoảng sáu mươi cân.
Có những lần, khi chúng tôi đi cạnh nhau giữa sân trường trước khi tẻ ra mỗi đứa vào một lớp, tôi nghe những tiếng hinh hích cười, những câu đùa cũng chẳng quá ác ý, nhưng chắc làm tổn thương Chi, rằng, chúng tôi đi cùng hệt như một số mười di động. Sau vài lần phải nghe câu nói ấy, Chi tránh hẳn mặt tôi khiến tôi cảm thấy tình bạn của mình bị tổn thương quá nặng. Và, tôi cũng bắt đầu tập thói quen không ngóng tìm cái bóng tròn, cao và đầy nhút nhát của Chi mỗi khi bước chân vào hẳn trong cổng trường nữa. Đó có phải giận không, tôi không chắc, nhưng tôi chắc chắn, có một phần trong tôi – cho dù rất bé – tôi nghĩ, tôi sẽ tôn trọng quyết định của Chi.
Cuối thu – đầu đông, tôi thi thoảng nhìn thấy cái bóng quen quen của cô bạn vẫn cố lảng tránh tôi, Chi có vẻ buồn và nhiều tâm sự. Tôi vài lần nán đợi Chi sau tiếng trống tan trường, Chi cố tránh nhưng rồi cũng phải đối diện trước sự kiên trì và lì lợm của tôi. Tôi hỏi. Chi bảo, Chi thích mặc áo dài hơn, vì hình như mặc lớp áo trắng tinh khôi ấy, trông Chi ít béo hơn. Tôi lại hỏi. Chi cười buồn, bảo, chỉ vài hôm nữa thôi, chúng tôi sẽ được miễn áo dài, sẽ được mặc quần tây, áo ấm để tránh cái rét tê tái mà mùa đông nào rồi cũng như mùa đông nào. Tôi thở dài, thấy chán ngán với cái suy nghĩ thích mặc áo dài chỉ bởi để ít mập đi – theo tư tưởng của Chi thôi, chứ đã mập thì mặc cái gì chẳng mập cơ chứ! Và hôm ấy, tự tôi quyết định rẽ ngang khi chưa đến lúc chào tạm biệt nhau.
Khi những cụm mimosa chưa kịp vàng, nhà trường thông báo, nữ sinh được miễn áo dài. Tiếng rú hét thích thú của đám con gái trường tôi lớn đến độ, át hẳn đi cả cái suy nghĩ bộc phát ngay tức thời của tôi về Chi, về những câu ngắn ngủi Chi từng nói tôi nghe ở cái lần sau cùng – tính đến lúc này – tôi và Chi bước cạnh nhau. Rồi, tôi quên hẳn, không sót lại chút gì trong đầu mình, tôi cỡn lên mà nhảy, mà hét, mà gào thét như những đứa con gái còn ham chạy nhảy tự do như tôi vậy. Chúng tôi được miễn áo dài suốt mùa đông!
Bài tập làm văn tháng ấy, cô chủ nhiệm bảo, cả khối sẽ cùng làm một đề – tả về cây mimosa lâu năm giữa sân trường. Tôi ngạo nghễ tự nhủ với mình, rồi bài văn của tôi sẽ được đọc vào tiết chào cờ tuần kế tiếp. Tôi dành hai buổi ra chơi của mình để ngắm nghía cái thân cây sù sù sì sì, cong cong quẹo quẹo một cách dị biệt ngay trước lớp tôi, nghĩ mà cảm thông cho những đứa chuyên Toán, chuyên Hóa, chuyên Lý, chuyên Sinh… đã ít vốn liếng từ vựng, lại cách quá xa thứ chúng phải tả, lẽ ra, nên để lớp tôi cách xa cái cây này nhất mới phải.
Tôi nhìn, rất rõ, những chúm hoa đang cố trải vàng giữa lớp vỏ bao ngoài xanh xanh, trắng trắng. Tôi nhìn, rất rõ, từng sợi tơ vàng mỏng tang, ngắn cũn của hoa đang cố chòi ra ngoài khoe sắc. Tôi muốn viết. Tôi muốn tả. Tôi muốn kiêu hãnh nói về loài hoa mà gần như chỉ quê tôi mới có – dĩ nhiên là vài nơi khác nữa, có cái lạnh này, có cái sương này cũng có mimosa, nhưng không bao giờ rộ được vào giữa mùa – để nếu bài văn của tôi vươn ra xa khỏi lớp tôi, khỏi khối tôi, khỏi trường tôi, khỏi thành phố tôi, có ai đấy sẽ khát đến Đà Lạt chỉ để nhìn ngắm loài hoa này. Tôi biết, đây là lúc trong tôi bắt đầu thành hình một tham vọng.
Cái tham vọng ấy được thể hiện khá rõ ràng, khá rành mạch trong bài văn dài gần bốn tờ giấy học trò. Cô chủ nhiệm đọc bài văn của tôi trước lớp vào tiết chủ nhiệm cuối tuần. Cô bảo, điểm chín cho tôi là hơi keo kiệt, nhưng để cho điểm mười một bài văn thì cô quả thật chưa dám làm. Tôi có chút ức chế về cái chuyện Văn không bao giờ đến thang điểm mười, nhưng cũng ngạo nghễ cười với cái chuyện bài văn của tôi, cô giáo bảo, đọc rồi, chỉ biết nghĩ đến chuyện đặt bút đỏ và cho một điểm số cao ngất, đến nhận xét, cô cũng thấy chùn tay…
Và, cái tham vọng ấy – cái suy nghĩ đưa bài tập làm văn của mình bay thật cao, thật xa – cái suy nghĩ viễn vông quá trẻ con của tôi bị đập bẹp gí vào sáng chào cờ đầu tuần. Bài văn được đọc trước trường không phải là bài văn điểm chín của tôi. Một bài văn chỉ đến điểm tám khuyến khích của Chi mới là bài được chọn để đọc. Cái phừng phừng nóng giận và tị nạnh khiến tôi không nghe rõ hết những gì Chi viết ra và đang được cô Hiệu phó đọc. Tôi chỉ nghĩ, à, một con bé chuyên Lý làm được bài văn suýt tám nên sẽ được ưu tiên…
Cuối đông, ở những ngày cuối cùng nữ sinh không phải mặc áo dài trắng, cũng là những ngày cái buốt rét thấm cắt thịt da bọn tôi qua từng lớp áo quần dầy cụi, Chi một mình, trong tà áo dài trắng, ngồi tựa mình vào thân cây mimosa trước lớp tôi. Hình như, Chi đang đợi!
Tôi quanh quanh nhìn. Tôi quanh quanh nghe. Tôi có phần thắc mắc khi không một đứa bạn nào gần tôi cười hay nói ra một câu đùa giỡn có thể làm tổn thương Chi. Không! Không đứa nào nói gì cả! Chúng nó cũng như tôi, nhìn về phía Chi như nhìn một thiên thần không cánh đang rong chơi ở xứ sở thần tiên – nơi mà sương và nắng quyện vào nhau bằng cái quyện lạ lùng và đầy huyền ảo.
Tôi hít sâu sau một chút tần ngần, chậm rãi bước lại chỗ Chi vẫn đang tựa lưng vào gốc cây già sù sì màu xám pha trắng. Chi ngước đôi mắt ấng nước nhìn tôi rồi cụp xuống rất nhanh. Tôi chắc chắn, Chi đang che giấu gì đấy. Và, tôi muốn mình phải tìm ra. Bởi, cái thứ Chi giấu quá vội trước tôi, chắc chắn, đang bào mòn Chi một cách khủng khiếp. Bởi, Chi vẫn trong bộ dạng mập ú, đôi má phính hồng nhưng quầng mắt sâu và đen đến tội nghiệp. Tôi nhất định phải tìm ra, dẫu, tự tôi có hỏi mình, tìm ra rồi, tôi biết sẽ phải làm gì đây?
Chi tuyệt không nói gì, cho dù một câu cũng không. Chi trở lại với một Chi rất khác, hay nói, hay cười, thi thoảng lắng lại rất nhanh rồi cũng vỡ ra quá nhanh. Đôi quầng mắt thâm vẫn hằn rõ trên gương mặt Chi bắt đầu xanh xao nhưng không giấu được vẻ tinh anh và yêu đời một cách rất lạ. Chi hỏi tôi, có thể cùng Chi mặc áo dài trắng đến cuối đông hay không? Bởi, Chi không muốn trở thành quá dị biệt. Tôi gật rồi tôi lắc. Hai đứa dị biệt, cũng chẳng có gì hay ho. Tôi tần ngần thêm vài ngày nữa trong khi Chi vẫn thản nhiên vận áo dài trắng, áo len xanh cổ tim giữa cái lạnh cố nuốt chửng con người ta. Vẫn chẳng một lời xì xào nào từ bạn bè cả. Và, tôi cùng Chi mặc áo dài, trong khi tất cả nữ sinh trường tôi vẫn quần tây xanh, áo sơ-mi trắng, áo len xanh.
Vài lần trong số những ngày cuối cùng của mùa đông quá lạnh năm này, vài đứa bạn nhìn tôi và mỉm cười nụ cười rất ý nhị, vẻ như chúng nó cảm phục tôi. Tôi nghĩ, chúng điên cả rồi. Thà cứ cười nhạo. Thà cứ hỏi trắng ra. Thà cứ xì xò tôi điên tôi khùng… Làm cái trò gì mà phải nể phục tôi vì tôi muốn thành một trong hai kẻ quái đản cơ chứ?
Độ mimosa vàng rộ là độ nghỉ xuân. Chi ghé nhà tôi, ngồi cùng tôi chuẩn bị phơi dưa kiệu, hỏi, sáng mai Chi có thể đón tôi, mặc áo dài trắng đến trường ngắm mimosa không? Tôi bật cười, cười khanh khách, hỏi, có khi nào năm sau Chi xin sang lớp tôi học không? Bởi, cái lãng mạn đến không tưởng trong câu Chi vừa nói, vượt xa khỏi những cái đầu hay mơ mộng của những đứa chuyên Văn như tôi. Chi không trả lời, chỉ nhìn tôi và hỏi lại, có thể hay không.
Hình như Chi đã khóc – tôi không chắc lắm, vì, tôi không dám nhìn thêm nữa. Từ sau Chi, tôi nhận ra đôi vai trở gầy bất thường run run, tôi nhìn thấy hai bàn tay vốn từng múp míp nay hằn gân xanh đưa lên miết nhẹ thân cây đến lá cây đến từng cụm hoa nay đã vàng rực rỡ. Tôi thôi không nhìn nữa, vì, lòng tôi dấy lên một nỗi sợ không tên.
Tết, Chi ghé, trao cho tôi một phong bì khá dầy, bảo, đấy là thứ Chi đã đợi để “lì xì” cho tôi. Đấy là bài văn của Chi lần nọ. Tôi đọc nó lần đầu trong thảng thốt – thật sự thảng thốt. Tôi đọc nó lần hai trong nhòe nhoẹt nước mắt – tôi nghe trái tim mình đau. Đoạn Chi tả hoa rất ngắn, đến độ người ta có thể quên ngay. Thứ người ta phải nhớ là những gì Chi tả về một mầm xanh cố vươn lên cho dù biết chỉ đi nửa đoạn đường sẽ gục ngã…
Thầy Hiệu trưởng không từ chối, thậm chí, thầy đồng tình ngay. Tôi vội vã tiến ra sân trường, ngắt nhánh mimosa ươm cái vàng cuối cùng của mùa hoa năm này, lao đến nhà Chi trong giàn giụa nước mắt. Chi nhìn tôi, bằng cái nhìn đẹp và dịu dàng. Chi cố chống hai cánh tay giờ đã gầy như hai que củi, đỡ thân hình tiều tụy đến thảm thương của mình ra, với lấy nhành mimosa tôi vội vàng đem đến. Lúc này, Chi chỉ còn ba mươi tám ký…
Chi đi ngay cuối mùa mimosa sau khi gửi lại cho tất cả chúng tôi cái tham sống của một mầm xanh biết rõ đoạn đường ngắn ngủi của mình. Mimosa sẫm màu nâu nhạt, cúi đầu chào Chi lần cuối trong những tiếng nấc nghẹn ngào.

Nhóm 4.0



Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Truyện ngắn về Vĩnh Long

Hát Về Vĩnh Long

Hút hồn vẻ đẹp đảo Nam Du

Giã biệt anh,
Giã biệt chuyến phà, giã biệt anh,
Người em yêu dấu đã không thành....
Em về thương tiếc ân tình cũ,
Giã biệt phà thôi, giã biệt anh !!

Nhìn con nước lớn phẳng lặng trôi,
Những ánh đèn xa cũng xa rồi...
Tưởng như đom đóm tìm mơ ước,
Trao gởi tình em tận cuối trời !

Em sẽ quay về gom nhớ thương,
Không trao người nữa khỏi tơ vương...
Phà không còn nữa, tình không vẹn,
Mạnh mẽ mình em vạn nẻo đường !!
NM

Tranh minh họa: Trần Thắng

Chuyến phà cuối cùng

Dòng nước chảy xiết làm cuốn trôi những đám lục bình thành từng cụm, trên tay Duyên còn nặng cả gánh hàng chưa bán hết. Cô dõi mắt về hướng dòng sông rồi nghĩ ngợi những chuyện vu vơ:
Mình chỉ còn bán được ngày hôm nay thôi, ngày mai sẽ không còn được bán hàng trên chiếc phà này nữa. Thời gian trôi qua nhanh quá, mới đó mà cầu Cao Lãnh ấy cũng đã xong rồi. Nhanh thật!
Đột nhiên bao nhiêu ký ức năm năm về trước lại ùa về trong tâm hồn của người con gái bé nhỏ như Duyên. Khi nghe tin dự án cầu Cao Lãnh chuẩn bị khởi công thì bà con và người dân nơi đây lại phấn khởi vô cùng.
Khi ấy đôi bờ sẽ được kết nối, hành khách sẽ không còn đợi phà hay chen lấn mỗi khi đông người. Mọi người đều náo nức mong đợi sẽ có được cây cầu tuyệt đẹp. Bản thân Duyên cũng vậy.
Mỗi sáng sớm cô thường dọn hàng ra bến phà để bán. Giọng điệu mời khách của Duyên rất ngọt ngào, dễ mến và gần gũi. Bởi thế lúc nào cô cũng được nhiều người yêu quý và ủng hộ.
Duyên là cô bé mồ côi, từ khi mới lọt lòng Duyên được chú thím Hai đem về nuôi cho tới bây giờ. Chú thím Hai cưới nhau đã gần hai mươi năm mà chưa sinh được đứa con nào cả. Từ khi gặp cô, chú thím vui lắm. Ban đầu thím Hai không biết đặt cho cô tên gì, bà liền nhìn vào mặt cô mà tặc lưỡi:
Ôi! Con bé xinh quá ông Hai nhỉ? Thôi thì con gặp vợ chồng ta như là một cái duyên, ta đặt cho con tên Duyên vậy. Từ nay con sẽ về ở cùng với vợ chồng ta, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo.
Từ khi có con, chú thím vui lắm. Hễ ai lại nhà thì thím lại khoe rất sung sướng và xem cô như con ruột của mình. Duyên là cô bé rất xinh đẹp, tóc cô lúc nào cũng tỏa ra mùi hương đến kỳ lạ. Đôi mắt long lanh to tròn là điểm rất nổi bật tạo sức thu hút đặc biệt cho mọi người mỗi khi gặp Duyên.
Lòng hiếu thảo của Duyên khiến cho bà con khu vực bến phà ai ai cũng phải thán phục trước nghị lực để vượt qua số phận. Ngay từ nhỏ, Duyên sớm có ý thức học tập và biết phụ giúp cha mẹ những chuyện từ quét nhà, nhặt rau, nấu cơm, giặt giũ cho đến trông coi hàng hóa nên được chú thím Hai rất mực yêu thương.
Cũng có đôi lần bà có ý định cho cô nghỉ học vì hoàn cảnh gia đình hiện tại quá khó khăn, không đủ chi phí cho cô tiếp tục học tập. Nhưng cũng chính vì lý do Duyên học tập quá xuất sắc nên chú thím cứ thầm nghĩ, lây lất rồi cũng xong cuối cấp thôi.
Ước mong lớn lên, cô sẽ học ngành công tác xã hội bởi vì đơn giản Duyên cũng biết mình là trẻ mồ côi được chú thím đem về nuôi nấng cho đến hôm nay. Thầm nghĩ rằng, nếu không có “cha mẹ nuôi” thì cô đâu còn được sống trên cõi đời này nữa.
Ngoài những giờ phụ cha mẹ bán hàng, Duyên thường đến Trung tâm Công tác xã hội của tỉnh- nơi có những người già neo đơn, những người không may mắn mắc phải bệnh tâm thần và thương cảm hơn cho những đứa trẻ bị bỏ rơi.
Duyên bỗng có niềm xúc động dâng trào đến rơi nước mắt. Duyên thường giúp các cô chú ở đây nấu những bữa cơm, chăm sóc cho những trường hợp hết sức đặc biệt. Tuy rất vất vả nhưng đối với Duyên là một niềm hạnh phúc vì được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình cho công tác xã hội.
Hạnh phúc cũng đã mỉm cười với Duyên vì cô đã thi đỗ đại học đúng chuyên ngành mình mong muốn. Dẫu biết điều kiện hiện tại của gia đình quá khó khăn, nhưng với ý chí nghị lực của cô bé mới tập tễnh bước vào đời khiến cho Duyên không chùn bước.
Duyên suy nghĩ đến cha mẹ lại là niềm động lực to lớn giúp cô đến với giảng đường đại học. Duyên không hề mặc cảm trước số phận, mà càng tự hào hơn vì đã có cha mẹ bên cạnh. Những ngày nghỉ, Duyên thường phụ mẹ bán hàng.
 Có những lúc cô rơi vào trạng thái tuyệt vọng, ngồi ngắm lục bình trôi, có khi nhìn gánh hàng ế ẩm, cứ nghĩ cuộc đời mình cũng như những gánh hàng ngả nghiêng kia rồi cứ mặc cho số phận trôi theo thời gian.
Những buổi tối, cô thường ngắm những ánh đèn nơi công trình của cầu Cao Lãnh đang xây dựng. Những âm thanh phát ra từ công trình như là tiếng than âm ỉ dường như mang nhiều tâm sự như cô. Đột nhiên Duyên nhớ về Hoàng- anh chàng kỹ sư xây dựng gốc miền Trung- hay mua nước giải khát của cô kèm theo lời trêu đùa hóm hỉnh:
Cô bé miền Tây bán nước vừa ngon và dễ thương thế, có bớt cho anh không bé?
Thoạt đầu, cô vẫn cười tươi và hiền hòa với Hoàng. Nhưng mỗi lần Hoàng mua nước hầu như lúc nào anh và Duyên đều có một cái nhìn rất kỳ lạ khó có thể giải thích được. Hoàng được phân công nhiệm vụ giám sát công trình của cầu Cao Lãnh.
Hoàng lớn hơn cô sáu tuổi. Anh sinh ra và lớn lên ở miền Trung. Một vùng đất đầy khó khăn, quanh năm phải hứng chịu bao nhiêu thiên tai và lũ lụt. Nghe anh kể về gia đình, có năm quê anh ngập lụt phải chìm trong biển nước.
Vật nuôi chết gần hết, ruộng lúa, hoa màu phải mất trắng. Duyên chạnh lòng và đồng cảm với Hoàng. Buổi tối, Duyên thường thả những chiếc đèn bằng cây, xung quanh bao phủ bằng giấy xuống dòng sông Cao Lãnh hiền hòa mang nặng phù sa bồi đắp, làm cho Hoàng phải suy nghĩ:
Em thả những chiếc đèn này vào buổi tối để làm gì?
Em thả những ước mơ và niềm tin đó anh ạ!
Buồn cười nhỉ! Thế ước mơ của em là gì?
Không phải đơn thuần chỉ để thả đèn trên sông để lấy niềm vui đâu anh. Nó sẽ chở những ước mơ, niềm tin của em đi thật xa, thật xa anh à. Em chỉ mong sao cho cha mẹ nuôi của em được sống hạnh phúc, mạnh khỏe.
Bà con khu vực bến phà này có cuộc sống tốt hơn. Các cô chú trong Trung tâm Công tác xã hội cũng vậy. Còn các trẻ em mồ côi được nô đùa, vui chơi, được học tập đàng hoàng và sau khi tốt nghiệp ra trường em sẽ làm việc ở đó. Trung tâm đã cho em được tình thương yêu của mọi người. Em chỉ ước bấy nhiêu thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, tình cảm của Duyên và Hoàng cũng lớn dần theo năm tháng. Duyên vẫn nuôi ước mơ, hoài bão vẫn đợi chờ Hoàng cũng như đợi chờ chiếc cầu yêu thương nằm trên vùng đất “Sen Hồng” trù phú.
Duyên cũng thường bơi xuồng đưa Hoàng dạo quanh khu vực những con rạch ven sông để được ngắm nhìn những hoa lục bình tim tím đua nở.
Những sắc hoa mang nét đẹp giản dị, thanh khiết chân chất thật thà giống như Duyên. Cô cũng thường hò tặng cho Hoàng nghe những câu ca dao ấm áp nghĩa tình pha lẫn niềm da diết triền miên về Đồng Tháp thanh bình- nơi quê hương cô được sinh ra và lớn lên:
Hò ơi… Ai về Đồng Tháp xa xôi. Cho tôi nhắn gửi…. Hò ơi… cho tôi nhắn gửi đôi lời nhớ nhung…
Đúng như mong đợi, sau khi tốt nghiệp đại học loại giỏi, Duyên đã được làm việc tại Trung tâm Công tác xã hội. Môi trường nơi đây nó đã trở nên quá quen thuộc đối với cô. Cô bắt nhịp với công việc rất nhanh chóng và hiệu quả.
Thỉnh thoảng, Duyên vẫn phụ chú thím Hai bán hàng trên phà. Cũng ngay lúc này, cầu Cao Lãnh đã hoàn tất chỉ chờ ngày thông xe. Bà con lại vừa vui, vừa buồn.
Vui vì đôi bờ được nối liền, buồn vì sẽ không còn được nghe tiếng rao, tiếng hò khi mời khách nữa. Rồi mọi người sẽ sống ra sao khi không còn được buôn bán trên bến phà đầy kỷ niệm? Bà con khu vực bến phà ai ai cũng dần dần chuyển đi nơi khác buôn bán.
Chú thím Hai cũng không ngoại lệ, cũng có ý định sẽ chuyển lên TP Cao Lãnh để sinh sống. Còn Duyên vẫn quyết tâm chờ đợi Hoàng từng ngày, từng ngày khiến cho chú thím Hai lại rơi nước mắt nghẹn cả lòng:
Trời ơi, thằng Hoàng sẽ không quay lại nữa đâu con à, con đừng chờ đợi nó làm chi thêm vô vọng.
Không! Con tin anh ấy sẽ quay lại. Con sẽ chờ, con vẫn bán hàng trên chiếc phà này đến khi nào Ban quản lý thông báo dù chỉ còn một ngày cuối cùng trên chuyến phà này con vẫn bán.
Nói đến ấy, cô lại khóc nhưng thâm tâm vẫn còn chút hy vọng mỏng manh như ngọn đèn lúc cô cùng Hoàng thả trên sông khi có nước len vào sắp tắt.
Cuối cùng cô nhận được tin từ một anh công nhân gần nhà bảo rằng Hoàng đã có vợ và đứa con gái đã năm tuổi. Quá bất ngờ trước sự thật ấy, Duyên đau đớn không thốt nên lời. Thì ra bấy lâu nay cô đã bị lừa.
 Niềm hy vọng về một tình yêu đã dập tắt với biết bao kỷ niệm cùng với người con trai của vùng đất miền Trung. Hôm nay, chỉ còn một ngày duy nhất cô được bán trên chuyến phà nhiều kỷ niệm này.
Những ký ức buổi ban đầu gặp gỡ giữa cô và Hoàng lại hiện hữu. Chuyến phà cuối cùng chiều nay cũng gấp gáp, vội vã để chở những dòng người qua lại.
Giọng rao mời của Duyên như chất chứa nỗi niềm khó diễn tả. Phà Cao Lãnh chiều nay nó lại vắng thưa dần hành khách đã làm tăng thêm nỗi buồn của Duyên nhiều hơn. Bất chợt trên phà Duyên trông thấy thấp thoáng dáng của một người thanh niên rất giống Hoàng.
Hoàng ơi, anh Hoàng ơi…
Cô gọi ai thế, tôi không phải Hoàng!
Vâng, tôi xin lỗi anh, vì tôi thấy phía sau lưng anh trông rất giống một người bạn của tôi.
Thế là chuyến phà cuối cùng đã kết thúc trong sự đợi chờ vô vọng của Duyên. Đan xen vào đó là những cảm xúc tình cảm yêu thương gắn bó biết bao nhiêu năm mưu sinh từ thuở bé cô cùng chú thím Hai buôn bán nơi đây giờ chỉ là kỷ niệm. Cô nhớ nhiều lắm, nhớ bác Năm chạy xe honda ôm, nhớ chị Thủy bán vé số, nhớ dì Tư bán bánh mì thịt, nhớ bé Châu bán yaourt đá,...
Cảnh vật hôm nay sao lạ quá, con nước lớn dường như nó cũng không dâng cao như mọi hôm, mặt nước phẳng lặng cứ trôi nhè nhẹ. Duyên đã chuẩn bị những chiếc đèn mà cô thường thả trên sông vào buổi tối.
 Cũng trên bến sông ấy, kỷ niệm xưa đã khơi gợi cho cô những cảm xúc đau buồn. Từng ngọn đèn li ti sáng trên một khúc sông như những con đom đóm nhỏ vẫn tiếp tục chở những ước mơ nhen nhóm trong tâm hồn của Duyên.
Giờ đây Duyên chỉ thầm nghĩ, sống để chăm lo cho cha mẹ và cống hiến hết mình cho công tác xã hội. Đêm đã buông dần trong bóng tối, Duyên vẫn dõi mắt hướng về bến phà, phía xa là ánh đèn lung linh sắc màu trên cầu Cao Lãnh. Duyên chợt nhớ, lúc chiều cha mẹ có bảo rằng:
Hôm nay là chuyến phà cuối rồi con gái ạ, con tranh thủ về sớm ăn bữa cơm cùng cha mẹ nhé!
Duyên nhanh chóng bước ra về khi lòng còn trĩu nặng những lo toan cuộc sống và vội vã về nhà cùng gia đình để thưởng thức nồi lẩu cá linh bông điên điển, hoa lục bình bùi ngọt qua bàn tay khéo léo của thím Hai mà cô ưa thích.
Lê Hậu 

Nhớ quê,
Thương nhớ dòng sông như nhớ quê,
Thương ngày trôi nổi rất chân quê...
Thương em chân chất, tình tha thiết,
Trở lại dòng sông, trở lại quê !
 Cứ ngỡ quên rồi bao nhớ nhung,
Làm sao nguôi nhớ tấm tình chung...
Dòng sông năm cũ luôn chờ đợi,
Ta vẫn mình ta sống lạnh lùng !!
NM
 Nhớ sông
Ông Ba Khùng mất tích cùng chiếc xuồng câu nhỏ xíu. Không phải lần đầu, chuyện không lạ, nhưng dân xóm Đình đều thương tình đổ xô đi tìm từ đầu vàm đến cuối rạch rồi luồn vào, sục sạo khắp các con mương nhỏ.
Tội nghiệp thằng Hai Cua Đồng, nó chạy loanh quanh khắp xóm, miệng cứ kêu hoài ba ơi, ba à, ba trở về với con.
****
*****
Trước đây, khi Ba Khùng sống độc thân trên chiến ghe thương hồ nhỏ. Dân thương hồ quen gọi ông bằng cái tên Ba Dưa Leo. Tính tình của Ba Dưa Leo hơi khác thường, lúc nắng, lúc mưa, vui buồn bất chợt, mới thấy xởi lởi mời khách thì vội ngồi thừ ra, buồn như kẻ mất hồn.
Trên chiếc ghe thương hồ nhỏ xíu đó, y không cần buôn bán nhiều, dường như chỉ đủ để kiếm hai bữa cơm và vài xị rượu đế.
Bao giờ trong buổi cơm chiều y cũng uống rượu bằng cái thói quen rất khác dân thương hồ: Uống rượu một mình. Có bữa, khi màn đêm buông xuống, Ba Dưa Leo ngồi trước mũi ca mấy câu vọng cổ nghe buồn như có ai đang rứt khúc ruột mình ra.
Hồi đó, cũng trên chiếc ghe thương hồ nhỏ xíu này có tới bốn con người cùng sinh sống: đôi vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Nhưng đứa con gái đầu lòng vắn số chết lúc lên sáu trong lần bị bệnh sốt xuất huyết.
Chiếc ghe nhỏ còn lại ba người, vẫn chật. Những buổi chiều neo đậu, cạnh mấy chiếc ghe thương hồ lớn, thấy vợ ngồi ôm con mà mắt cứ nhìn hoài qua đó vẻ thèm thuồng, người đàn ông nghe tủi. Ông không ngại khó, không sợ cực, làm thì đầu tắt mặt tối mà không hiểu sao cái nghèo cứ ôm riết lấy.
Nhiều đêm, ông ngồi trước mũi ghe cho tới khuya, nhìn trời nước mênh mông mà suy nghĩ về cha, về mẹ, về bản thân, về vợ con- những con người đã và đang bươn chải trong cuộc sống thương hồ lang bạt. Và những lần như thế, lòng ông chợt dậy lên nỗi thèm muốn. Ông mơ có một chiếc ghe lớn, có phòng ngủ, có nhà bếp, có cái ti vi nhỏ xem thời sự, coi cải lương.
Trên mui ghe, ông sẽ mắc hai cái võng, chiều vợ chồng ngả lưng nghe gió thổi. Rồi ông sẽ nuôi thêm hai con chó, nó sẽ đùa giỡn, nó sẽ sủa râm ran,… Nhưng khi trở về với thực tại với chiếc ghe nhỏ hai bên be sờn như cá rô rỉa, cái sạp xỉn màu, mui ghe thấp tè, chật chội,… thì nỗi buồn bỗng ngùn ngụt kéo về, cứa xót lòng xót dạ.
Chắc không sống nổi với cảnh nghèo nên người đàn bà đã bỏ đi trong một buổi chợ khuya. Người ta đồn bà cuốn gói theo ông chủ vựa trái cây ở Cái Bè, người thì nói bà mê tiền, chịu làm vợ ông chủ ghe thủ giàu xụ ở Lái Thiêu,…
Từ đó, mỗi sáng, người đàn ông một mình đón mua rau cải để bán lại trong cái nhịp nhàng của cuộc mưu sinh trên sông nước.
Chiều, ông ngồi cạnh đứa con trai nhỏ bên mâm cơm nguội lạnh bằng hai hố mắt trũng sâu gần như vô hồn.
Ông không khóc! Không, chắc nước mắt ông đã cạn. Và cũng kể từ đó, một gia đình, dù nhỏ, nhưng không có bóng dáng người đàn bà bỗng trở nên lạnh lẽo và vắng ngắt. Một chiếc ghe nhỏ, hai cái bóng nương tựa vào nhau bên những buổi chợ đông rồi lặng lẽ nhìn hoàng hôn rơi trên sông trong những buổi chiều vắng khách.
Người đàn ông ngã bệnh rồi qua đời bỏ lại thằng con trai mười bốn tuổi đầu, côi cút, vật lộn với chợ đời nhiều cạm bẫy.
Nó, thằng Ba Dưa Leo ít nói, tính khí thất thường, hơi gàn gàn trong cái nhìn của mọi người đã trôi nổi khắp trăm ngàn con sông, con rạch. Có những buổi chiều mưa, thằng Ba ngồi một mình, đơn côi bên dòng sông lạnh, nghe nước mắt rớt dài, lăn nóng hổi trên vai.
Rồi trên bước đường rong ruổi đó, người đàn ông trung niên- Ba Dưa Leo- tình cờ gặp được Hai Chà Uôl- một cô gái lỡ thời, sống trên bờ, dưới chân cầu đúc, làm nghề đi lượm ve chai, sắt vụn.
Tính tình Chà Uôl hiền và thiệt thà đến mức hơi bị khờ. Nhưng có những đêm cô đã đủ tỉnh táo vét cạn túi cho cái bọn lưu manh, say lúy túy đang khát tình để chúng quên đi cái quý giá nhất mà người phụ nữ đang có.
Chiều hôm đó, chắc do duyên số khiến hai người gặp nhau. Ba Dưa Leo đã làm một việc trượng nghĩa, dắt cô gái bụng đói meo đang ngồi khóc thút thít ở dạ cầu về ghe cho một bữa cơm. Và… thêm mười mấy buổi chiều như vậy nữa, họ đã cảm thông và thực sự là của nhau.
Từ khi chiếc ghe thương hồ có người đàn bà, Ba Dưa Leo siêng hớt tóc, cạo râu, ít uống rượu và mái ấm trên sông có được tiếng cười. Sáng, vợ chồng nhắc nhau dậy sớm để kịp đón mua rau cải từ vườn mang ra. Chiều, vợ bắc nồi cơm, nhắc chồng đi tắm. Cái chuyện tưởng chừng như rất thường ấy vậy mà trước đây chàng Ba hay bị… quên, có khi hai, ba ngày không tắm.
Có hôm vui miệng, vợ thủ thỉ với chồng: “Hồi nhỏ em tên Ngọc. Tại èo ọt quá nên má đem “cho” ông Lục, ổng đặt lại tên Chà Uôl cho dễ nuôi. Cũng nhờ vậy mà em mới mạnh giỏi cho tới bây giờ…”. “Vậy mơi mốt tui kêu mình là Ngọc cho đẹp, nghen, bà xã!” Họ nhìn nhau, cười. Tiếng cười của họ nhỏ, nhẹ, chỉ đủ hòa cùng tiếng sóng vỗ lách tách vào mạn thuyền nhưng ngân nga mãi không thôi.
Hạnh phúc của người nghèo rất đơn giản. Đêm đêm, họ ôm quấn lấy nhau mà ngủ. Chỉ cần một con sóng nhẹ cũng đủ làm cho chiếc ghe nhỏ xíu chòng chành khiến họ nằm úp lên nhau mà tận hưởng cái hạnh phúc không chỉ dành riêng cho kẻ giàu.
Hơn năm sau, người đàn bà bỗng nghe thèm chua, trong bữa cơm thường nôn ọe. Ông chồng luýnh quýnh: “Mình… mình bị bệnh sao vậy? Để tui lên bờ, chạy tới ông bác sĩ Minh mua thuốc”.
Chà Uôl thẹn thùng chỉ tay xuống bụng: “Nè, tại cái thằng Dưa Leo nhỏ đang quậy phá nè!” Tin vui đến quá đột ngột khiến chàng Ba ngẩn người rồi giả bộ bò ra trước mũi treo cây bẹo để giấu nụ cười.
Chàng ta ca vống lên mấy câu rồi ngồi bệt xuống sạp tưởng tượng đến cái ngày vợ chồng gọi nhau là ba sấp nhỏ ơi, má sấp nhỏ à. Nghe lạ mà vui thiệt! Ông tủm tỉm cười một mình.
Người đàn bà trở dạ trong một đêm mưa, đúng lúc đang neo đậu ở chợ nổi Trà Ôn, không xa bệnh viện. Nhưng… lên bờ không kịp, cũng may, nhờ thím Sáu chở hàng bông, năm con, nhiều kinh nghiệm sang đỡ, giúp Chà Uôl qua lần vượt cạn.
Lúc này, ông chợt nhớ tới câu hát ru con của một bà thím nào đó, trên một bến sông nào đó không rõ: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình” nên ở trước mũi, người đàn ông cứ thấp thỏm, bụng bồn chồn muốn lộn cả ruột gan. Một lúc sau, có tiếng con nít khóc thét và cái giọng hồ hởi của “bà mụ” bất đắc dĩ: “Chèn ơi, một thằng cu.
Chú Ba ơi, vô đây, thằng nhỏ đã lắm, mình mẩy sạch trơn hà. Mà, hồi nào tới giờ tui mới thấy, đàn bà sanh con ít ai được cái nết như thím đây, nằm im re, hổng rên la, rặn hai hơi là ra liền. Gặp mấy bà xấu nết thì phải biết. Đau quá mấy bả hay chửi bậy, có khi còn ngắt véo ông chồng nổi cục, bầm tím luôn”.
Ba Dưa Leo như mở cờ trong bụng, bò vào trong mui nói lời cảm ơn. Thím Sáu cười: “Ơn nghĩa gì, để tui về bển kêu ổng qua phụ đưa hai má con lên bệnh viện nhờ bác sĩ làm thuốc”.
Ba ngày nữa là thằng bé tròn thôi nôi, vợ chồng bàn với nhau mua con vịt nấu cháo cúng ông bà, cảm ơn “bà cậu” che chở, hộ độ cho thằng nhỏ mạnh giỏi, mọi việc đều tai qua nạn khỏi.
Nhưng… chạng vạng ngày hôm đó, vợ chồng ông giong ghe từ Trà Ôn qua Cái Răng, đến giữa sông Hậu, người vợ đang ngồi trước mũi không biết bị gió máy gì, bỗng nhiên giật người mấy cái rồi ngã nhào xuống nước.
Ba Dưa Leo buông máy, phóng liền xuống theo nhưng… vẫn không kịp. Vợ ông đã mất biệt trong dòng nước sâu. Mấy người bạn thương hồ kéo tới, mướn vỏ lãi chạy kiếm khắp nơi nhưng cuối cùng cũng tìm không thấy xác.
Không mẹ, thằng bé khóc ngằn ngặt. Nhìn chiếc ghe nhỏ, vắng ngắt, dân thương hồ mủi lòng khóc theo. Nhưng người chồng không khóc, gương mặt ông trơ ra như đá. Chỉ có cái lưng trần của ông là cong oằn xuống khi ngồi đốt xấp vàng mã bằng đôi tay gân guốc, run lẩy bẩy.
Trước mũi, từng tờ giấy cháy lóe chút ánh sáng rồi lụi xuống, tắt nghỉm. Ông chới với nhìn tàn tro bị gió thổi thốc lên, chờn vờn rồi đáp xuống, lịm dần trong dòng nước sâu, thăm thẳm như không đáy. Ông không nói chuyện kể từ đó, chỉ thỉnh thoảng thảng thốt kêu lên: “Ngọc ơi! Ngọc ơi!...”.
Vợ không nhớ mà kêu tên ai nghe lạ hoắc, người ta nói ông bị khùng, kêu Ba Khùng, ông mặc kệ. Mấy người bạn thương hồ tốt bụng sợ ông lơ lơ, đễnh đễnh hoài như vầy mà sống trên ghe rất nguy hiểm. Nguy nhất là thằng bé, sống với người cha không tỉnh táo sơ sẩy té xuống sông là mất mạng. Họ bàn nhau kiếm nhà trên bờ giúp ông ổn định lại tinh thần.
Ông Từ thương tình, cho hai cha con ở nhờ nhà khói của đình. Sống ở xóm Đình, ai nói gì, hỏi gì ông cũng im lặng, mặc kệ. Ông mặc kệ luôn cả cái tên của thằng con trai. Chòm xóm thông cảm, không giận nhưng không biết gọi nó là gì, kêu đại thằng Hai cho dễ nhớ.
Từ đó, cái ghe hàng nhỏ xíu trở thành ghe câu. Những lúc “tỉnh” nhất, ông bơi ghe, đi cả đêm, mờ sáng đem cá ra chợ xã, bạn hàng đón mua, trả cho bao nhiêu tiền ông cũng gật đầu.
Mặc kệ! Thằng Hai mới sáu, bảy tuổi là đã biết ra đồng bắt cua đem bán. Nó quen nết của ông, được trả bao nhiêu cũng gật đầu cảm ơn. Thấy thằng Hai mê cua, sáng bắt cua, chiều cũng bắt cua, người ta kêu ghẹo là Cua Đồng, Hai Cua Đồng, chết danh luôn.
Thằng Hai mười tám tuổi, ông Ba Khùng già yếu lại thêm cái bệnh lảng tai. Bệnh khùng thì xem ra ngày một nặng hơn. Có hôm, đang giữa trưa, ổng chụp cây dầm vội vã xuống bến, ngơ ngác bơi xuồng khắp xóm rao bán dưa leo, bắp cải.
Tụi con nít thấy ngộ, chạy dài theo hai bên bờ reo hò, cười bể xóm. Thằng Hai cũng chạy theo, kêu ba ơi, ba à.
Ổng không thèm ngó: “Ngọc ơi, đói bụng chưa? Xuống ghe ăn cơm chung với tui nè, cho vui!” Ổng nói mà con mắt thì trõm lơ, ngơ ngác, trống không. Mấy bà già thấy thương tình, kêu: “Cua Đồng ơi, ráng chạy theo giữ ổng, để hoài kiểu này có bữa té xuống sông là chết như chơi”.
Thỉnh thoảng, ông Ba Khùng ra sau hè, đến bên chiếc ghe thương hồ mục nát, giờ đã đổ đầy rác để trồng hành nói lảm nhảm điều gì không rõ y như đang tâm tình với người bạn cũ lâu ngày không gặp.
Người không hiểu chuyện nói ổng khùng nhưng chỉ có Cua Đồng, thằng con, là máu mủ mới hiểu được đó là những phút giây ba mình tỉnh táo nhất. Có hôm ông ra mé sông, ngồi cặp bụi bình bát, cầm xấp vàng mã đốt.
Những lúc như vậy, mặt ông nhăn nhúm lại, mắt rịn nước như thể lòng đang đau, đang rát bởi tàn tro đang xát vào những vết xước trong lòng. Rồi ông khẽ khàng trở vào chái bếp, bật quẹt, miệng thổi phù nắm lá dừa, lẩm bẩm: “Nấu cơm cho Ngọc! Ngọc đói bụng rồi!”
Nhưng có một buổi chiều, gió chướng trở ngọn thổi riu riu trên đọt cây dưới bến, nhìn thằng con đang nhen lửa bữa cơm, chợt ông Ba tặc lưỡi, mắt khắc khoải ngó xa xăm: “Chà, ăn cơm chiều mà được ngồi trên ghe, nghe gió thổi lồng lộng, nghe mấy ông bạn già cả đời lênh đênh khắp xứ nói chuyện tầm phào thì sướng thiệt!”
Thằng con day lại thấy mái tóc đã bạc đang lất phất trong con gió lạc bầy, cô đơn. Chợt ông già ứ hự một tiếng nhỏ: “Ừ mà… coi chợ nổi đông đúc vậy chớ đời thương hồ dễ buồn, dễ tủi, dễ cô đơn lắm.
Sống dưới ghe, cả đời trên sông làm sao có bạn bè đông như người trên bờ được! Vậy mà, lại có những người khi không lại coi chiếc ghe là mái nhà, muốn được ở hoài trong nhà, xa nó thì nhớ, nhớ thiếu điều muốn rớt nước mắt ra luôn.
Vậy mới kỳ!” Thằng Hai hết giật mình đến kinh ngạc khi nghe những lời nói bông khơi của ba mình. Nó trố mắt: Trời ơi, hổng lẽ ông già?... Bất chợt Hai Cua Đồng nghe mắt mình rơi xuống vài giọt mặn, cay cay, xót xót.
Sau hôm đó, chiều nào thằng con cũng ngồi nghe những lời tâm tình, đứt quãng, chấp vá của ba mình. Người không hiểu, nói ông Ba bị khùng. Nhưng nếu chịu khó góp nhặt và sắp xếp chúng lại thì ta mới hiểu và thông cảm cho ước nguyện của một con người trót đã sinh ra, từng sống và bươn chải trên sông.
Có khi ông còn cao hứng hò mấy câu: “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền. Anh có thương em thì cho bạc cho tiền. Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê”; “Đường trường nước chảy trong veo. Thương em chẳng nệ mái chèo ngược xuôi”.
Một buổi sáng, Hai dậy sớm, thấy ba mình đang lui cui tưới mấy bụi hành trong chiếc ghe thương hồ cũ sau hè. Anh đến bên thủ thỉ: “Ba ơi, vài bữa nữa mình xuống ghe, ở luôn, nghen ba! Con đã dọ mua một chiếc ghe cũ rồi. Mơi mốt ba dạy con mua bán, hen!”
Ông già chưng hửng, ngó thằng con, nước mắt ông rịn ra: “Ờ, ờ bắt ở trên bờ hoài tao nghe nhớ sông lắm rồi. Còn má mầy nữa, hổng biết bây giờ hồn bả đang trôi nổi ở đâu. Cha con mình phải đi kiếm bả dìa, Giang ơi!”
Hai Cua Đồng tên Giang. Gần hai mươi năm rồi anh mới biết tên thật của mình. Anh chạy lại, ôm chầm lấy người cha già, hôn vào đôi bàn tay thô, nức nẻ mà nức nở, nghẹn ngào. Người đàn ông cúi xuống nhìn thằng con trai bằng đôi mắt xốn xang.
Có lẽ lòng ông đang thức dậy một thứ gì đó đã ngủ yên hay thỉnh thoảng chập chờn như trong cơn say chếnh choáng. Ông thẫn thờ buột miệng: “Giang ơi! Trường Giang ơi! Con sẽ mãi mãi là sông, dòng sông dài bất tận”.
Nguyên Linh 

Thương quê thương cả quà quê,
Đường xa vẫn giữ tình quê trong hồn !
NM

Tam Hợi vàng 

“Ở xứ Lung Lá, tưởng gì không có chớ cá phi mùa này thiếu cha gì! Tao đánh một dạo lưới mặc sức cho mà ăn”.

Đó là lời giới thiệu của chú Út tôi. Bất kỳ ai khi mới nghe qua lời giới thiệu ấy mà chưa đến xứ Lung Lá thì cứ tưởng đó là lời nói dóc. Nhưng không, lời nói của chú Út tôi có thật trăm phần trăm. Có lần tôi đã tận mắt chứng kiến điều đó.

Chiều mùng năm tháng năm, ngoài trời mưa lâm nhâm, những đám mây đen kịn cứ cuồn cuộn kéo đến. Chú Út biết ngày mai tôi trở về Vĩnh Long nên gọi điện rủ tôi đi thả lưới ở dưới vuông nuôi tôm sú để bắt cá phi mang về nhà ăn. Cánh đồng nuôi tôm rộng mênh mông. Mỗi vuông nuôi tôm có diện tích hàng chục công (tầm lớn), xa xa mọc lên cái chòi nhỏ được lợp bằng lá dừa nước. Đó là cái chòi của người dân ở để giữ tôm.
Đúng hẹn, tôi lội ra tới bờ kinh xáng. Lúc đang nhìn dáo dác xung quanh thì từ xa tôi đã thấy chú Út đang bì bõm lội dưới vuông thả lưới. Vừa thả lưới xong, chú quây lại móc đất sình quăng xung quanh hai bên chỗ thả tai lưới. Lúc đó, trời cũng đã dứt hột mưa. Tôi đang đứng trên bờ vuông thấy mấy con cá đâm vào lưới vẫy tung tóe nước thật thích. Đang lúc tôi say sưa ngắm nhìn, thì chú Út bảo tôi:
- Xách cái xô lội xuống đây!
Chú Út còn cẩn thận dặn tôi:
- Mầy lội từ từ thôi, coi chừng đạp phải miểng ốc đó nghen. Ba cái con chuột, nó ăn mấy con ốc bươu vàng, rồi tha bỏ vỏ tùm lum tùm la hết trơn hà. Đi không khéo là đứt chưn như chơi nghen!
Tôi cầm cái xô từ từ lội xuống vuông. Tôi lội đến chỗ điểm đầu của tai lưới, nơi chú Út đang đứng chờ. Chú Út kéo nhẹ một đầu tai lưới đưa lên khỏi mặt nước, cá phi dính dày bịt, có đùm, có đùm, con nào con nấy to đùng vậy đó. Chúng nhảy loạn xì ngầu trên tai lưới. Chú Út đưa một đầu tai lưới cho tôi rồi nói:
- Mày cuốn lưới đi, để tao gỡ cá cho mau. Mầy không biết gỡ, cá đâm vào tay đó.
Chú Út đi trước gỡ cá. Tôi đi phía sau vừa cuốn lưới, vừa vịn cái xô đựng cá từ từ đẩy đi. Tai lưới ba màng dài độ chừng trăm mét. Chúng tôi gỡ gần một tiếng đồng hồ mà chưa được phân nửa tai lưới. Thỉnh thoảng, tôi thấy xót ruột, nên tôi nghĩ ra cách dùng hai chân kẹp cái xô rồi gỡ cá phụ ổng cho mau. Tay tôi vừa đụng vào con cá, nó lại nhảy lách chách, cuốn tròn tai lưới, vây nó đâm vào tay tôi rướm máu. Thấy vậy, chú Út trách:
- Thấy chưa, tao đã nói rồi mà mày không chịu nghe. Coi vậy chớ nó đâm nhức thấy mồ tổ luôn à nghen.
Chỗ chúng tôi thả lưới chỉ cách nhà thằng Trạng chừng vài trăm mét. Một căn nhà lá cất trên bờ kinh xáng, xung quanh toàn là những vuông nuôi tôm theo kiểu thả nuôi tự nhiên. Thằng Trạng ra đứng phía sau hè, thấy chúng tôi đang cặm cụi gỡ cá, nó chụm hai tay lại để trước miệng gọi thật lớn:
- Ui! Ui! Giăng lưới xong, ông với anh Ba vô nhà tui bàn công chuyện chút nghen!
- Ừa!
Chú Út ngước mặt lên trả lời thằng Trạng. Nhìn vẻ mặt của chú, tôi đoán là ổng biết thằng Trạng kêu nói chuyện gì. Nhưng tôi giả bộ không biết và hỏi:
- Nó kêu mình vô trỏng không biết có chuyện gì hông cà?
Chú Út đưa mắt nhìn tôi, chú cười khanh khách rồi nói với tôi:
- Có chuyện gì đâu mầy ơi! Nó kêu mình vô nhậu đó! Hôm nay là mùng năm tháng năm. Chắc nó có làm món gì đó cúng nên nó mới gọi tao với mầy. Thôi, tranh thủ gỡ nhanh rồi tao với mầy vô nó chơi một chút hen.
- Ừa, đi thì đi!
Nội tôi có hết thảy mười người con. Ba tôi thứ hai, má của thằng Trạng thứ ba, chú Út là thứ mười một. Mặc dù chú Út vai lớn, nhưng tôi, chú Út và thằng Trạng đều có cùng một tuổi- tuổi Hợi, mà là Quý Hợi nữa chớ. Từ nhỏ chúng tôi chơi thân với nhau như thể bạn bè và thường gọi nhau là “mày- tao”. Mặc dù cả ba đứa chúng tôi chơi rất thân, nhưng cũng không ít lần xảy ra mâu thuẫn, thậm chí còn đánh lộn nhau chỉ vì tranh giành đồ chơi. Tôi nhớ như in, có lần chúng tôi đang chơi bắn đạn cu li, bỗng dưng chú Út lượm được một viên đạn ở gần đó. Thấy vậy, tôi và thằng Trạng nhảy vô giành phần là của mình. Còn chú Út cứ khăng khăng khẳng định viên đạn cu li ấy là của chú vì chú lượm. Cả ba đứa giằng co mãi, không ai chịu nhường cho ai cả. Một lát sau, chú Út sợ tôi và thằng Trạng giựt lấy, nên chú cẩn thận giấu viên đạn vào người. Thằng Trạng vốn nóng tính nên khi biết chuyện liền nhào tới vật chú Út ngã xuống đất để tìm lấy viên đạn. Chú Út mếu máo khóc rồi đi tìm ông nội để méc chuyện.
Lúc đó, mọi người thường ví ba chúng tôi là những “heo vàng”, có người còn bảo “số mấy thằng này khi lớn lên sẽ sung sướng, “heo vàng” mà!” Xưa nay ông bà ta vẫn thường nói vậy. Nhưng tôi thấy cái tuổi chẳng có liên quan gì đến số phận của con người. Điển hình sờ sờ trước mắt đây, chẳng phải cả ba chúng đều là tuổi con “heo vàng” đó sao, nhưng bây giờ có ai được sống sung sướng đâu? Đứa nào đứa nấy cực khổ thấy mồ. Cực nhất là thằng Trạng. Nó là trụ cột trong gia đình. Hàng ngày, nó phải thức khuya dậy sớm để đi giăng câu, thả lưới kiếm sống qua ngày. Kế đến là chú Út, quanh năm bám ruộng tôm. Nhưng lâu nay chú có được mấy lần nuôi trúng vụ, toàn là thất mùa.
Hồi học tiểu học, thằng Trạng nổi tiếng lười học. Mang tiếng đi học mà nó cứ trốn đi chơi, không vào lớp học. Một hôm, cô Ba biết được lôi nó ra đánh một trận no đòn. Kể từ đó, nó không dám trốn học nữa. Nó chuyển sang ngủ gục trong lớp. Thầy giáo đang giảng bài, nó lén nằm úp mặt trên bàn ngủ. Đến khi thầy gọi lên hỏi thì nó cứ ú ớ trả lời bằng điệp khúc “Dạ thưa thầy! Con không biết.” Thế rồi học hết bậc tiểu học, thằng Trạng xin nghỉ học theo dượng Ba làm nghề cá.
Chú Út thì đỡ hơn, chú chịu khó học hành đàng hoàng. Nhưng hoàn cảnh gia đình đơn chiếc, các cô, các chú đều lập gia đình và ra ở riêng. Chỉ còn có mình chú ở với ông bà nội. Trong khi đó, ông bà nội đã lớn tuổi, vuông tôm thì không ai trông coi. Cho nên học hết lớp 11, chú Út xin nghỉ học để ở nhà lo phụ giúp gia đình.
Tôi thì may mắn hơn. Tôi được ba má cho ăn học đến nơi đến chốn. Học hết phổ thông, tôi thi đậu vào đại học. Tôi học bốn năm rồi tốt nghiệp và xin về công tác ở Vĩnh Long. Vì công tác xa quê, nên lâu lâu có dịp tôi mới trở về thăm quê một lần.
Khi tôi và chú Út gỡ cá xong, được hơn phân nửa “thùng bê” (loại thùng sơn tường 18 lít- BT). Chú Út dành phần rinh thùng cá, chú giao nhiệm vụ cho tôi xách tai lưới. Hai chú cháu đi một mạch vào nhà của thằng Trạng. Vào đến nơi, chú Út để thùng cá ngay giữa sân rồi xuống sàn nước dưới mé sông rửa chân. Tôi đưa mắt nhìn trên bộ ván ở ngay hàng ba thì thấy thằng Trạng đã bày biện sẵn thức ăn. Một tô canh chua cơm mẻ cá lóc nấu với năn bộp và bông súng Đà Lạt; dĩa bánh xèo, kèm dĩa rau sống gồm lá cách, lá cát lồi, đọt sộp non; một chai rượu đế. Thằng Trạng đang ngồi xếp bằng trên bộ ván chờ chúng tôi. Đôi bàn chân của nó lộ lên những vết chai sần cứng như đá. Vừa thấy tôi và chú Út, thằng Trạng cười thật tươi rồi bảo:
- Vô đây, mình làm sương sương một chút rồi về!
Chú Út gặng hỏi:
- Có mồi gì bén hông mậy?
Nghe tiếng chú Út hỏi, thằng Thưởng từ trong nhà chạy ra khoe:
- Nhóc luôn ông cậu. Có con rắn bông súng bự chà bá lửa luôn.
Chú Út cười khà khà, rồi hỏi tiếp:
- Thiệt không mậy?
- Nói thiệt đó. Hổng tin, ông cậu vô đây coi đi!
Thằng Trạng ngắt lời con:
- Nói dóc quá ông ơi! Con rắn bông súng chừng hơn nửa ký hà. Tui mới giăng lưới bắt được hồi khuya. Để một lát, tui đập đầu đem đi nướng mọi nhậu hen.
Vừa ngồi vào bộ ván, chú Út sực nhớ:
- Quên nữa! Thùng cá để ở đây đợi tới mình nhậu xong thì cá chết hết. Nếu cá chết thì sẽ mất ngon.
Thằng Trạng đưa ra ý kiến:
- Để tui kêu bà Cụm lấy vỏ lãi chạy chở thùng cá vô trỏng cho chị Ba chỉ mần!
Vừa nói xong, thằng Trạng quay mặt vào hướng nhà bếp, gọi vợ:
- Bà Cụm ơi, lên đây nói nghe nè!
- Có chuyện gì vậy ông Cụm?
Thu Trang- vợ thằng Trạng- dưới bếp đi lên và hỏi. Thấy tôi, Thu Trang chựng lại hỏi:
- Bộ ngày mai hia về Vĩnh Long hả hia?
- Ừ.
- Ổng dọn mồi sẵn nãy giờ để chờ cậu Út và hia đó!
Thằng Trạng bảo vợ:
- Em lấy vỏ chạy chở thùng cá vô trỏng cho chị Ba chỉ mần giùm anh Ba coi.
- Ờ, ông Cụm khiêng thùng cá xuống vỏ giùm đi!
Thằng Trạng liền bước ra sân khiêng thùng cá để xuống vỏ lãi cho vợ. Xong, nó quay trở lên bảo:
- Xong rồi, anh Ba cứ yên tâm mà nhậu hen. Hôm nay tụi mình quất một trận tới bến mới được à nghen anh Ba.
- Uống vừa vừa thôi, mai tao còn phải về Vĩnh Long nữa.
Thằng Trạng tặc lưỡi:
- Đâu có được anh. Lâu lâu anh mới về quê một lần mà. Phải uống cho quắc cần câu mới được.
Chú Út ngắt lời:
- Thôi, hổm rày tụi mình nhậu nhiều rồi. Hôm nay, thằng Ba nó uống được bi nhiêu hay bấy nhiêu. Mai nó còn chạy xe về Vĩnh Long. Đường xá xa xôi. Vả lại, đi xe cộ giờ nguy hiểm lắm mấy cha ơi!
Lần nào tôi về thăm quê cũng vậy, chú Út và thằng Trạng hay tin trước là hai người tổ chức đi kiếm mồi chuẩn bị sẵn. Cá lóc, ếch, lươn, lịch, rắn… Thằng Trạng hay chú Út hễ ai kiếm được con gì thì rọng lại chờ đến ngày tôi về quê là mần mồi nhậu. Ở xứ Lung Lá này, cá lóc kiếm dễ ợt hà. Hơn nữa, thằng Trạng là người sát cá. Ban đêm nó xách đèn pin đi soi nhái con rồi ra vuông cắm mấy cần câu hoặc đi đặt lọp thì sáng hôm sau chắc chắn sẽ dính cá lóc.
So với chú Út và thằng Trạng thì tửu lượng của tôi còn thua xa. Hai người còn tỉnh queo, trong khi đó tôi cảm thấy mình đã thấm mệt. Cho nên tôi xin được nghỉ trước để về còn chuẩn bị đồ đạc sáng mai về Vĩnh Long. Cả hai người đều đồng ý cho tôi nghỉ, nhưng với điều kiện phải uống một ly chia tay. Tôi đồng ý. Uống xong, chú Út bảo:
- Mầy ngồi đây đợi một chút để tao chạy vỏ chở mày vào trỏng, chớ mầy đi bộ biết chừng nào tới.
- Ông đi đâu vậy?
- Tao ra vuông một chút xíu vô liền hà!
Chú Út đi vô chỗ cây nước, chú mượn cái thùng mốp của thằng Trạng rồi đi thẳng ra vuông. Thằng Trạng cũng đang lui cui bắt mấy con cá lóc bỏ vào cái bao bằng lưới, cột miệng thật chặt. Xong, nó vào nhà sau lấy keo mắm cá chốt. Nó xách cá lóc và keo mắm ra để ở hàng ba, nói với tôi:
- Ông xách keo mắm và mấy con cá về trển ăn lấy thảo với tui hen.
- Sao mầy không để bán?
Thằng Trạng nhún vai phớt lờ:
- Bán có được bi nhiêu tiền đâu. Lâu lâu ông mới về quê, gởi ông ăn lấy thảo vậy mà!
Một lát sau, chú Út xách thùng mốp vô tới. Chú đặt thùng mốp trước mặt tôi rồi nói:
- Mầy kiếm cái gì đựng mấy con tôm mang về trỏng ướp nước đá. Sáng mai, mày xách về trển ăn.
Tôi nhìn trong thùng mốp có khoảng hai ký tôm sú cỡ ba mươi lăm con một ký. Thì ra nãy giờ chú đi ra vuông giở nò bắt tôm cho tôi. Thằng Trạng kiếm đâu ra cái bọc dài đưa tôi. Mặc dù, đã ngà ngà say, nhưng tôi vẫn thấy rành rõi và bắt từng con một cho vào cái bọc. Lúc tôi đang chăm chú bắt tôm, chú Út hối thúc:
- Nhanh lên, kẻo trời tối tao không thấy đường chạy máy đó nghen!
- Xong rồi nè!
Tôi và chú Út xuống vỏ lãi. Chú Út cầm cần máy để xoay chân vịt qua, lại. Tôi thì cầm cây dầm bơi cho chiếc vỏ ra giữa sông. Lúc chuẩn bị giựt máy, chú còn căn dặn tôi:
- Tôm này, mầy đem về trển muốn làm món gì thì làm. Nhưng mày nhớ đừng có nướng nhen…
Nguyễn văn Dô