Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2020

Nhạc - Thơ - Văn Mật Mùa Xuân



Ngọt Ngào

Mật ngọt tràm vàng,
Hoa tràm nở dậy hương mùi mật ngọt,
Ta quen nhau qua mấy độ hương tràm...
Hoa cho hương làm mật ngọt ngào thơm,
Anh sẽ đón em về trong Xuân mới.
Anh mơ ước không làm chim én đợi...
Một mình anh chao liệng giữa trời Xuân,
Mà đôi ta ríu rít tiếng vui chung,
Giữa Xuân mới đậm đà hương mật ngọt
NM
                        Mật mùa xuân 
Mùa đã gọi gió bấc về lơ thơ trên những ngọn cây. Cái lạnh se se bấm khẽ vào da. Đợi ngó lên mấy cây tràm trước nhà, nhựa trong lá như quện đặc khiến lá chuyển sang màu sẫm hơn. Nhìn dấu hiệu của thiên nhiên, Đợi nhớ ba hay nói cỡ này bắt đầu gác kèo ong là được.
Nếu giờ Đợi vô kêu ba chèo xuồng đi gác kèo coi cũng kỳ. Kiểu gì ba cũng ngạc nhiên hỏi cho rõ cơn cớ gì thằng con vốn không ham mê cái nghề gia truyền này mà giờ lại nằng nặc đòi đi. Dám biết lý do rồi ông sẽ vừa cười vừa ra sau bếp nói với má. Má cũng sẽ cười theo ba, mặt má hồng lên bởi khói nóng và sự vui vẻ “Tui nói ông nó biết yêu rồi mà ông hổng chịu tin”.
Đợi biết yêu thật. Có phải ai xa lạ đâu, nhỏ Thương nhà khúc xóm trên. Ba má Thương cũng không khó mấy, lại muốn con gái có chồng gần cho dễ bề mưa gió qua thăm. Ngặt nỗi, hình như ba Thương chưa ưng Đợi lắm. Dù má cô có nói đỡ vô mấy câu. Nghe đâu ông nói Đợi lớn tồng ngồng rồi mà còn chưa biết lo chuyện mần ăn, sau này làm gì đỡ đần vợ con nổi. “Đó, ngay cả cái nghề gác kèo ong ba nó rành sáu câu vậy mà nó có thèm rớ tới đâu. Nó chê cái nghề đó cực khổ cù lần, thì biết đâu mai này nó cũng chê con gái mình quê mùa, nó chán”, Thương thỏ thẻ lại với Đợi y nguyên câu nói của ba cô.
Trời à, thật tình Đợi đâu có ý chê cái nghề của ba. Dù là anh thấy nó cực thật. Còn khó nữa. Phải tính toán, coi đoán đủ thứ nào gió nào nắng nào trời, lỡ trật một chút ong không chịu về làm tổ thì coi như công cốc. Anh chỉ thấy mình không hạp. Anh muốn làm gì đó mau có tiền, dẫu làm mướn cũng được. Nhiều lần Đợi đã tính chuyện đi làm ăn xa, nếu không phải lòng Thương trong một bận giáp mặt khi chở má đi chợ.
Một bữa Đợi tạt qua nhà Thương gửi mớ trứng gà, má cô có nói bóng gió phải có chút mật ong rừng trộn bột nghệ uống vô thì bệnh đau bao tử của bà hết cái một. Bà còn than giờ mật giả bán đầy, phải biết ở đâu có mật ong chính gốc rừng tràm uống mới yên tâm. Tràm mọc sát rạt ngút mắt mà không thấy ai đi ăn ong, “mót một giọt mật trầy con mắt hổng ra”. Đợi nghe mà thấy mặt nóng hổi, chắc đỏ tới mang tai. Bên cạnh, Thương bụm miệng cười khúc khích. Rõ ràng má vợ tương lai đã thò đầu dây cho chụp, Đợi làm sao coi được đó thì làm. Kiểu này, anh phải kêu ba truyền nghề ăn ong gấp rồi.
***
Trái với suy nghĩ của Đợi, ba không cười hay chọc anh. Đang quấn điếu thuốc gò, nghe anh xin theo gác kèo ong, ba khựng lại. Chắc ba đoán được ý thằng con rồi, nhưng vẫn bị một cảm xúc lạ lẫm chặn ngang mình. Có thể là vui, khi nghe con bắt đầu chú ý tới cái nghề truyền thống mà tưởng tới đời Đợi phải ngưng ngang. Có thể là lo, chuẩn bị tính coi sắp xếp sao để qua nhà bên kia chào hỏi ông bà sui tương lai. Tất cả trộn lẫn lại thành cái gật đầu gọn hơ của ba, Đợi nghe mừng trong bụng.
Ngay buổi đó Đợi đã đòi ba chỉ anh chuẩn bị đồ nghề. Thấy Đợi hăm hở, ba cố làm mặt nghiêm cũng phải phì cười. Ba cẩn thận chỉ anh cách chọn cây để làm nống, nạn và thân kèo. Ba chỉ chậm, từng chút một, bởi biết thằng con không ưa mấy chuyện tỉ mỉ. Dù vậy, Đợi cũng làm hư hết đâu chừng chục thân tràm. Má trong bếp chiên cá ngó ra, vừa lắc đầu vừa cười, mắt có vẻ hấp háy vui.
Đợi ráng căng não ghi nhớ. Coi cách chọn cây sao, cách đo thế nào, bao nhiêu tấc thì đủ. Coi bước nào cần lột vỏ phơi khô, cái nào cần vót nhọn, cái nào đục lỗ, cái nào vạt hình lưỡi búa. Nhìn ba làm thử, Đợi thấy sao mà dễ ợt. Tay ba thoăn thoắt gọn ghẽ, ba nhắm chừng bằng mắt mà không chệch một ly. Tới lượt mình làm, Đợi thấy khó trần ai, ráp vô kiểu gì cũng xộc xệch. Được cái Đợi không nản. Má hay nói tuy hậu đậu nhưng anh bền lòng. Mà nản sao được, khi vài bữa là Thương giả bộ bưng qua tô canh, lúc thì dĩa xôi “má con cho”, sẵn tiện gửi nhẹ ánh mắt động viên như nói “em đợi anh đó nha”.
Cuối cùng thì cũng chuẩn bị xong. Ba dẫn Đợi chống xuồng vô rừng. Đợi nhớ lời ba, phải canh chính xác hướng mặt trời mọc để tìm trảng tốt, đủ nắng. Rồi canh hướng gió nhắm chừng coi ong sẽ xuống làm tổ từ đâu. Trảng cũng không được nhỏ quá, ong không xuống được. Chà, coi bộ phải đi ăn ong mấy mùa nữa Đợi mới rành. Giờ, trông cậy hết vô ba, còn việc của anh là nuốt không sót lời dặn dò nào.
Tìm được trảng rồi, ba dọn dẹp cây cối lại cho gọn và bắt đầu dựng kèo. Đầu tiên, cây nống được cặm thẳng xuống, vừa làm ba vừa chỉ Đợi canh khoảng cách. Cây nạn được ba ấn vô tay Đợi kêu anh làm thử. Ba vỗ vai động viên, ổn rồi đó. Còn thân kèo, ba tự tay gác lên sao cho khớp những rãnh mắt đã được tạo sẵn. Kèo gác không đẹp, ong sẽ chê không đóng. Đợi nhủ thầm, ong gì mà chảnh! Gác kèo xong, ba còn dọn sẵn một con đường nhỏ để sau này tiện đi lấy mật. Nghe ba kêu còn phải gác cả trăm kèo nữa, tự dưng chân Đợi run. Thấy phản ứng của anh, ba cười nói, mớ kèo cũ còn dùng được, chỉ sửa lại thôi. Nghe vậy mặt anh mới tươi lại được. Chớ lần đầu đi gác kèo mà, ai không dễ mệt - Đợi bào chữa cho mình.
***
Kèo ong gác xong, một thời gian nữa sẽ quay lại thăm chừng, coi ong đã về chưa. Tràm đã bắt đầu nở bông vàng rực. Lòng Đợi cũng đang nở bông, hấp hởi mong tin mật.
Mùa xuân, tràm nở rộ và ong cũng về làm tổ nhiều hơn. Mật mùa này thơm và ngon bởi không bị pha loãng do nước mưa. Những giọt mật đó, được chắt từ một mùa yêu thương đầy hy vọng. Lòng Đợi phơi phới theo cơn gió bấc đùa thốc tàu lá chuối, nghĩ miên man về những giọt mật nguyên lành.
Hũ mật ong màu vàng cam, vị thơm ngon đặc trưng của vùng đất này sẽ trở thành món quà xuân Đợi đem qua “lấy lòng” ba má vợ tương lai. Chắc má Thương sẽ ưng lắm, Đợi đã hoàn thành được ý nhắn nhủ của bà còn gì. Bà sẽ có cớ để nói với ba Thương “Đó ông thấy chưa, nó đâu phải thằng rể điên điển như ông nghĩ”. Ba Thương sẽ ờ ờ, dù có vui cũng chỉ cười nhẹ thôi, nói Đợi mùa này nhờ có ba, mấy mùa sau tự thân vận động coi có làm ra trò trống gì không. Có chứ. Sẽ làm ra mật ong ngon y chang bây giờ, Đợi tin là vậy. Nhưng trước mắt, kiểu gì má Thương cũng sẽ đánh tiếng kêu anh đưa ba má qua nói chuyện. Coi mùa mật sau nếu được, chắc cưới luôn hen.
***
Thương nhìn thấy Đợi mà giả bộ như không thấy, chân lẹ lẹ rảo nhanh về nhà. Trong nắng xuân vàng, má cô hây hây màu trái chín. Đợi biết người yêu mình ngại. Chứ sao nữa, qua Tết là hai đứa chính thức về chung một nhà rồi. Cái suy nghĩ đó khiến người ta thở thôi cũng thấy hơi mình màu hồng và trở nên ngượng nghịu…
Mùa ăn ong thứ hai này, Đợi đã rành hơn chút đỉnh. Anh cũng để dành riêng cho má vợ mấy lít mật ngon nhất. Lần này mang qua, anh sẽ ngẩng cao mặt lên mà tự hào khoe với ba vợ “Ba ơi, kèo này con tự gác”. Ba Thương chắc sẽ cười cái thằng coi lớn đầu mà tính con nít, nhưng trong lòng ông chắc chắn rất vui. Cũng như ba Đợi, ông luôn mong có người tiếp nối những nghề truyền thống vùng này.
Đợi chống xuồng, chuẩn bị đi lấy mật đợt hai. Ba ngồi uống trà trước nhà nói vọng theo, dặn kỹ Đợi lấy mật nhớ chừa hậu. Anh dạ ran, gì chứ cái này anh nằm lòng. Cái gì cũng phải chừa hậu, mình lấy hết tàng ong thì tụi nó biết lấy gì mà sống. Cái gì cũng phải biết đủ, tham thì thâm - bài học vỡ lòng hồi xưa bà của Đợi hay dạy bằng những câu chuyện cổ tích. Má từ trong nhà bước ra, hỏi ba không đi với Đợi sao. Ba cười “Đợi nó lớn rồi”.
Mà Đợi lớn bộn thật rồi, qua Tết có vợ luôn chứ giỡn à. Nhưng thật sự, khi chiếc xuồng đưa Đợi vô rừng tràm trong mùa ăn ong đầu tiên một mình, Đợi thấy lạ lắm. Anh thấy người như cây tràm cao cao, đã bắt đầu biết chọn chỗ mà lớn lên, mà đơm bông chớ không phó thác cho đất trời mai rủi. Kiểu như má nói “con lớn thiệt rồi đó Đợi”, trong một bữa anh biết chạy te te ra xã mua thuốc khi thấy má ôm ngực ho khù khụ chớ không đợi má nhắc như mọi lần.
Rừng tràm nằm yên dưới nắng, lá khẽ đu đưa theo những đợt gió bấc. Đợi không lạnh mà thấy hừng hực cảm xúc rất lạ. Những bãi cỏ, lau sậy rẽ theo mũi xuồng tách ra như cánh cửa mở mừng đứa con của rừng. Đợi thấy sự thân thuộc mân mê từng ngón tay và háo hức dâng đầy trong mạch máu. Vậy mà hồi đó anh không chịu theo ba sớm, kỳ cục thật.
Trên đầu Đợi, bông tràm nở vàng hơn nắng. Theo gió lay, vài bông tràm li ti rụng xuống vai Đợi. Anh thầm nghĩ, nụ cười của Thương ngày cưới chắc cũng rực rỡ như màu bông tràm đang nở rộ trên cao. Rồi tự nhiên anh tự cười mình, mặt râm ran đỏ khi nghĩ tới lúc mình mặc áo chú rể. Chắc cảm xúc cũng sẽ rạo rực như bây giờ, hay hơn thế nữa. Và kiểu gì cũng ngọt ngào như những giọt mật sánh ngọt - món quà của đất trời mà Đợi đang hân hoan đi nhận. Mật mùa xuân, cũng là mùa những lứa đôi chuẩn bị ríu rít tiếng vui chung. Mật dậy một mùi thơm ngát trong Đợi, khiến anh thấy mình nhẹ hẫng như cánh chim én đang liệng vòng trên đầu…
PHÁT DƯƠNG
Theo Báo Cần Thơ


Hương rừng
Hoa cỏ dại thơm hương rừng ngan ngát,
Hoa bạt ngàn, hoa bưởi tím, hoa chanh...
Hoa mùa Xuân cảnh đẹp khác chi tranh,
Bầy ong mật chở phấn hoa về tổ.

Nắng đã nhạt, mặt trời sau ngọn núi...
Lòng lâng lâng như bưởi đã căng da...
Hương hoa chanh, cỏ dại thoảng đậm đà,
Cho mật ngọt thơm hương rừng thanh khiết !

Quên mất nỗi người chia xa biền biệt,
Ta giờ vui theo vị ngọt đời vui...
Trên đồi Keo đầy ắp tiếng nói cười,
Và ta có những tháng ngày hạnh phúc !!
NM

Nơi bầy ong làm mật
Từ lúc bà còn đang nằm viện, tụi con có ý ông bà sang tên đất đai của gia đình cho chúng. Trước lúc vĩnh biệt thế giới này bà cũng trăng trối với ông Minh. Theo di nguyện của bà ông Minh làm thủ tục  sổ đỏ đất đai cho con cái. Ông bà có một trai bốn gái. Hai vợ chồng con trai ở cơ quan, chồng lái xe con, vợ chạy thực phẩm cho bếp ăn tập thể. Các cô con gái đều chồng con nhà cửa đàng hoàng người chủ doanh nghiệp, người buôn bán ông để lại mấy gian nhà cũ làm nơi thờ phụng. Ông biết anh chị nào cũng máu làm giàu kể cả những việc mạo hiểm. Vợ chồng cô út sa vào đề đóm, cờ bạc, đa cấp vỡ nợ bán cả nhà cửa phải thuê chỗ ở. Ông tuyên bố không ở với bất cứ anh chị nào. Ông  quen cuộc sống độc lập thời còn lính. Mấy chục năm ông cùng đồng đội nằm gai nếm mật đánh giặc đến cùng  rèn luyện cho ông một bản lĩnh của người lính. Đồng đội dạy cho ông những kinh nghiệm sống bổ ích và những môn chữa bệnh, chữa rắn cắn bằng thảo dược, nuôi ong mật... 
Nghỉ hưu ông sống chan hòa với  bạn bè làng xóm được mọi người quý mến đùm bọc. 
Khi mãn tang vợ nhiều người chân tình  khuyên ông lấy vợ, để như đũa có đôi phòng khi đêm hôm mưa nắng trở trời. Ông chỉ băn khoăn vài năm nữa  sắp đến tuổi “thất thập cổ lai hy” không khéo lại mang tiếng là già  còn ham hố. Vả lại tìm người tâm đầu ý hợp thông cảm với hoàn cảnh mình đâu phải dễ.  Con cái lại không muốn ông đa mang, sau này “của ông của bà”. 
Ông Minh tặc lưỡi suy ngẫm: “Biết sao cho vừa lòng người”. Cuộc sống vẫn vận động đi lên.    
Ông dành thời gian đi kiếm cây thuốc, thái phơi khô dự phòng giúp bà con thế mà có lần ông suýt tai bay vạ gió. 
Lần ấy qua đồi keo ông phát hiện   một phụ nữ bị rắn cắn, cổ chân phải sưng vù, bầm tím rỉ máu, mặt  tái nhợt, quằn quại giãy giụa văng cả giấy tờ tiền nong ra đám lá khô dưới gốc cây keo. Ông Minh xé áo mình đang mặc làm ga rô vết thương, nhanh chóng đắp thuốc cấp cứu cho bệnh nhân. Ông cẩn thận lấy mũ đội đầu làm gối kê cao chân đau của nạn nhân, thu nhặt giấy tờ tiền nong để gọn vào chiếc nón lá. Qua giấy tờ biết nạn nhân tên là Lan năm mươi lăm tuổi ở thôn Thượng. Ông Minh bứt cành lá ngồi phe phẩy quạt chờ bệnh nhân hồi phục. Cô có khuôn mặt trái xoan, hàm răng trắng, tóc ngang vai vẻ trẻ hơn tuổi.
Lúc sau Lan chớp mắt đáo nhìn xung quanh, thấy mình nằm dưới đất cạnh người đàn ông cao lớn vận áo may ô  ba lỗ. Cô hốt hoảng mặt tái đinh ninh ngỡ mình bị hại, lấy hết sức bật dậy la toáng lên:
- Cướp cướp!
Tiếng la theo núi rừng đi xa dội lại làm ông Minh hết hồn thanh minh:
- Minh đây, không phải cướp…! Ông đưa tay chỉ vết thương: Rắn cắn… Chưa nói hết câu một thanh niên ở trần, quần đùi, mặt sát khí lao tới vung gậy  bổ xuống đầu ông Minh. Lan kêu thất thanh “đừng” vội đẩy ông Minh né sang bên. Ông Minh nhanh nhẹn bằng miếng đánh đỡ và khóa tay chàng thanh niên, cây gậy rơi xuống đất…
Hiểu sự việc người thanh niên nhìn ông Minh từ đầu đến chân phủi tay lắc đầu bỏ đi.
Lan chưa hoàn hồn nói không nên lời
- Bác có sao không? Em hết cả hồn vía?! Lan nức nở khóc
 Ông Minh pha trò:
- Không sao yên tâm! Lính mà lị. Hai người cười.
- Nó là Mạnh con trai em, làm bên vườn bưởi. Lan chỉ tay phía trước. Ông Minh gật đầu như vỡ lẽ.
Ông Minh đỡ Lan dậy. Hai người đi về phía thằng Mạnh.
Bưởi tốt tươi, cây thành hàng từ chân lên tận đỉnh đồi. Cây nào cũng mỡ màng, cành lá xum xuê, quả đan từ gốc tới ngọn. Mới tháng sáu mà quả bằng bát ăn cơm, một số to như mũ trẻ, ăn không he nhiều nước. Cành trĩu quả nặng kéo là mặt đất.
Mạnh buộc tre kiểu chữ A đỡ những cành lên khỏi mặt đất. Nhân đà ông Minh tiếp sức làm quen:
- Cháu chống được nhiều cành chưa?
- Nhiều.
- Mỗi cây có đến trăm quả không?
- Đến.
- Mạnh biết giống bưởi gì không?
- Soi Hà.
Nhấm nhẳn trả lời nhát một như miễn cưỡng câu trước câu sau Mạnh  lẩn sang chỗ khác. Sợ ông Minh phật ý Lan phân bua:
Mạnh không có tuổi thơ như bạn cùng trang lứa. Năm ba bốn tuổi bố bỏ đi sống với người đàn bà khác trong Nam bỏ hai mẹ con. Mẹ nuôi con bằng đồng lương công nhân ba cọc ba đồng. Đến lớp Mạnh bị bạn bè trêu chọc không có bố nó buồn và mặc cảm.
Đã thế mấy gã đàn ông máu me sán đến chọc ghẹo tán tỉnh thằng Mạnh ghét cay ghét đắng sinh ra định kiến lạnh lùng. Ông Minh đã hiểu vì sao Mạnh không muốn tiếp xúc. 
Theo Lan Mạnh rất thích nuôi ong mật vì ở đây mùa hoa bạt ngàn trắng hoa bưởi tím hoa chanh, hương thơm ngào ngạt, lắm mật ngọt cho ong bướm. Quang cảnh mùa đẹp như bức tranh tuyệt.            
Ông Minh tỉ mẩn chuyện với Mạnh kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi ong cách tạo mũ chúa, làm cầu, cách chia đàn, cho ong ăn vi ta min, vi lượng ong khỏe chống đỡ bệnh tật, bày kích thước  làm chuồng, đặt chuồng hướng Nam đón gió mát v.v. Mạnh trở nên thân thiện cởi mở yêu quý ông Minh. Bác cháu cười nói vui vẻ không còn khoảng cách. 
Lâu lắm rồi Lan mới được chứng kiến thằng Mạnh vui vẻ như thế. Lan sung sướng xao xuyến trong lòng. Cả ba người hình như đã gắn kết  gần gũi  hiểu nhau hơn.
Nắng đã nhạt, mặt trời xuống sau ngọn núi, gió thổi lao xao mát rượi, bầy ong chở đầy phấn hoa về tổ. Ai ai cũng cảm nhận lâng lâng nhẹ hẫng!
Ông Minh cố chống tay ngồi dậy, người đau ê ẩm. Căn phòng bệnh viện trắng toát sực mùi thuốc. Nhiều ngày nay cơn sốt rét có mầm bệnh từ những trận truy quét quân giặc  nằm  bờ bụi trong rừng sâu. Tuổi cao lại suy nghĩ chuyện con cái bán đất đai dốc vào những vụ làm ăn mạo hiểm hoặc đỏ đen... làm cơn sốt tái phát hoành hành ghê gớm. Mấy ngày nằm viện ông  không thấy bóng dáng con trai con gái, thỉnh thoảng con dâu đáo qua báo: “Các anh chị đang có câu chuyện làm ăn”! Ông Minh ngồi lặng thinh, nhìn vào khoảng không xa xăm lắc đầu!
Mạnh tay xách nách mang bước vào phòng bệnh vội liến thoắng:
- Hôm qua ở đây về mẹ cháu bảo  cháu mang trứng, hoa quả bác ăn nhanh chóng hồi phục. Ông Minh tươi tỉnh hẳn lên quên đi phiền muộn.
- Bác khỏe rồi. Mai ra viện.
- Bác lên với đàn ong, vườn bưởi  chứ?
- Nhất định rồi. Bác hứa. Hai bác cháu nắm tay nhau vui vẻ.
Bên ngoài phòng bệnh, mấy vị  bạn bè hàng xóm cười nói vui vẻ đến thăm ông Minh. Căn phòng ấm cúng đầy ắp tiếng cười.
Mấy ngày sau và những ngày sau nữa trên đồi keo và bưởi Soi Hà, ông Minh, cô Lan, Mạnh thỉnh thoảng chụm đầu vào nhau cười giòn tan. Những chuồng ong đông quân đang tíu tít chở đầy phấn về tổ. Bưởi đã căng da, hương thơm hoa chanh tứ mùa, hoa cỏ dại hoa keo ngan ngát.
Đào Xuân Thuý 

Mật ngọt của chà là

Vừa ra chơi Hùng Rán gọi thất thanh!
– Ơi….ơi! Bọn mày ơi! Ra sau trường bắt ong ruồi! Cả lũ lau nhau vừa chạy vừa hét. Chúng chạy ra sau trường học, nơi có bụi cây sời hồ và đám sậy lưa thưa đang độ trổ bông lau.
Gọi là trường chứ thật ra là hai cái phòng học cất bằng cây lá địa phương. Mái lợp fipro ximăng, vách chỗ dừng lá, chỗ gỗ, chỗ thì bằng thiếc. Bà con ở đây nghèo lắm, sinh sống chủ yếu bằng nghề đi biển làm vuông tôm. Đất đai phèn mặn trồng lúa chẳng được bao nhiêu. Lo miếng ăn là chính cho nên ít ai quan tâm đến chuyện học hành của con cái. Đi học là để biết đọc biết viết, học chưa hết cấp hai là đã nghỉ muốn hết về làm vuông. Mười tám đôi mươi là phải gánh chịu câu “Trai khôn thì cưới vợ, gái lớn là gả chồng”.
Mê mẩn quên cả giờ vào lớp vì tổ ong ruồi. Sân trường không còn bóng ai nữa thì giật mình. Cả chục đứa cuống cuồng chui ra khỏi bụi, chân trần không dép chạy vào lớp. Cũng do trường không có trống kẻng báo hiệu nên mới ra thế. Hiển nhiên là không thoát án phạt của thầy giáo Tuyên, nhốn nháo hai hàng đứng trên bục giảng cho đến hết tiết. Nhìn xuống dưới, lớp học trở nên thưa thớt vắng hoe.
***
– “Ê! Tụi mày, săn bắt ong không mai vô vuông nhà tao thiếu gì!” Tiếng của lớp trưởng Nam Long gọi khi bốn hàng dọc đang tan dần ra. Cả nhóm tụm lại xì xầm với nhau điều gì đó.
– “Ừ! Đi thì đi chứ sợ gì! lúc nãy thầy giáo phạt, làm bọn mình xấu hổ quá. Tụi con Ánh, con Lành, con Nhung nó cười mỉa mai thấy ghét. Mai được nghỉ học vô tư mà ong bướm!” Tuấn Anh lải nhải.
– “Nóng máu nhất là khi nhìn thấy con Thu Đến nó cứ cười hoài. Đang hận thù tạo nên chắc nó hả dạ lắm!” – Nở co cáu.
– Con Hà, Con Hải, con Huế, con Phương nữa… nói chung cả lớp”. Nam Sói hậm hực.
Dưới cái nắng trưa hừng hực cứ táp vào mặt. Đứa nào đứa đấy đi cho nhanh, còn kịp về giải quyết cái bao tử đang cồn cào gào thét.
***
– “Ong ở đây tao là trùm, chỉ cần rung cây nhẹ nhẹ cho nó bay ra. Bẻ nhánh cái cây ong làm tổ rồi….. chạy. Thế là xong! Khỏi cần phải lửa củi gì” Lớp trưởng Nam Long múa mép với cả bọn.
– “Dóc tổ! Ong chúa nó mà rượt theo là cả bầy dí mày chạy như gà rừng” Ninh khắc chế.
– “Mày dở ẹt, vừa chạy, vừa quay quay cái nhánh cây phủi nó. Kiếm gió ngược mà chạy thì cả ngàn ong chúa cũng chẳng làm gì được tao”.
– “Vậy nếu gặp tổ ong thì để cho nó bắt hen tụi mày” Nở chen vào.
– “OK! Tụi mày không biết cách phát hiện ong thì để tao chỉ cách cho nhé. Quan sát các bụi rậm thấp. Như bụi sời hồ có lưa thưa vài cây sậy, đám ô rô sát mé nước. Thấy ong thợ đảo đảo như “máy bay chuồn chuồn” ở trên là ở dưới có…tổ. Thêm chút xíu ánh nắng lọt vào nữa là chắc chắn có ong đóng tổ. Hay là mấy bụi chà là gai đằng đó kìa… là dễ dàng lấy nhất. Nhưng coi chừng gai”. Nam Long vừa đi vừa nói. Cả hội cùng bước theo đôi chân đen ngấm của vị thủ lĩnh vùng đất bồi mặn.
– “Bắt ong trong bụi chà là này nè lớp trưởng, lấy mật chấm củ hũ ăn mới ngon. Ăn ong chuyên nghiệp xứ nước mặn là vậy. Tao chặt củ hũ chà là cho” Phú Lôi cũng tỏ vẻ sành sỏi, tay cầm cây dao miệng “theo đóm ăn tàn”.
Vùng này làm vuông tôm thiên nhiên, cây cối rậm rạp nên có nhiều hang cua. Cá thòi lòi thì chạy như “ca nô” trên mặt nước. Ở những bãi đất rộng rất nhiều chà là. Con nước lên mênh mông trắng xóa hơi muối, nước ròng là lòi mặt đất lên liền. Cây chà là mọc thành từng bụi, thân như cây cau, gai góc quanh mình, chẳng ai thèm đụng đến nó làm gì cho chảy máu.
– “A….ai..ii…! đây rồi tụi mày ơi, tổ này cũng to quá!” tiếng Ninh vang lên làm cả bọn nhốn nháo chạy lại.
Một tổ ong thật, gần bằng cái rổ sề. Ong ruồi như vậy là to rồi. Không như ong mật tổ to hơn, nhiều mật hơn.
– “Phú Lôi … mày dưa dao đây”! Nam Long quát lớn.
Nó chặt một cái dứt khoát. Rồi giựt nhánh chà là chạy, ong bay ra toán loại. Nó “thao tác” nhanh quá cả bọn không phản ứng kịp. Bị ong rượt, chạy như ma đuổi, mỗi thằng một phía. Nó cũng không xác định được xuôi gió hay ngược gió. Tất cả nhảy ùm ùm xuống kênh, đứa lặn, đứa thì bơi qua bên kia bờ. Nam Long cười sặc sụa, chìa cái nhánh cây ra, cả lũ trố mắt nhìn ngơ ngác.
– “Tại sao kỳ cục vậy? Công không! Làm chạy xịt cả lốp” Nở hét lên.
– “Thì tại tổ này mới đóng, chưa có gì” giọng Nam Long nhè nhẹ trước sự thất vọng của cả đám.
– “Nghỉ mệt tí rồi đi tiếp” Trực Mập thở hổn hển ý kiến.
Phú Lôi than nhức, ran rát ở miệng. Từ đó môi của nó cứ sưng dần, to như trái chuối cơm. Nhìn nó không ai nhịn được cười. Nó không nói năng được câu nào, cứ cầm cây dao lầm lũi đi theo và súyt xoa vì nhức nhối.
Lần này thì Nam Long phát hiện ra một tổ, cũng to bằng lúc nãy nhưng nó rút kinh nghiệm. Bẻ một nhánh cây nho nhỏ, đứng trên gió, cào cào nhè nhẹ lũ ong non qua một bên, kiểm tra xem nhiều mật không? Và tránh tình trạng bị “ong hôn” như thằng Phú Lôi. Nó lấy cây dao cứa cho đến khi đứt lìa nhánh, rồi giựt phăng chạy như Marathon về đích. Phía trước các chiến hữu mỗi thằng một vị trí, sẵn sàng tăng tốc khi có “yêu cầu” từ đàn ong.
Chiến lợi phẩm này giao cho Ninh quản lý. Vì hắn tương đối thật thà, nhỏ con nhất trong đám, cho nên chắc chắn không giám buồn miệng “ăn vụng”. Vì “ăn vụng” sẽ đi chung với “ăn đòn”, Nam Long nó mà đấm cho thì chỉ có nít thở.
Xế chiều, cả nhóm thấm mệt vì nước mặn, đói vì căng sức khi bị ong rượt, lặn dưới nước… Phú Lôi là người tỏ ra mệt mỏi nhất, cái môi của nó cong lên, nhìn như cái hiên nhà. Cả nhóm ngồi lại bên một khoảng đất trống gồ ghề.
– “Thôi! chặt ngọn chà là ăn đi!”Cảnh Dế đề nghị.
– “Thằng nào chặt?” – Trịnh Tồ hỏi.
– “Mày chứ ai!” – Tiến Đen đáp không suy nghĩ.
– “Thôi đi! Vô đó cho gai đâm chết tao ạ!”.
– “Thằng Ninh, thằng Phú Lôi ở lại giữ ong. Còn lại tất cả đi chặt chà là”. Nam Long thể hiện vai trò đầu đàn.
Cả đám nhảy qua con mương, sình lún tới háng. Đi theo Nam Long.
– Rát quá tụi mày ơi! Minh ôm mớ đọt chà là ném cái phịch. Nó gãi đầu xoa chân, xoa tay. Đứa nào đứa nấy mặt mày sình đất lấm lem, chân tay chi chít trầy xước, rơm rớm máu vì bị gai chà là khứa. Bị kiến vàng cắn đầu cổ, tóc tai bù xù như người rừng.
Nam Long nhảy lò cò vì bị chà là đâm vào gót “Có ăn thì phải cực khổ chứ! Rút cái gai ra giùm tao coi”.
– “Nở rút gai cho nó kìa!” Tướng Nhật chỉ đạo.
Mỗi đứa cầm một cái ngọn chà là ăn ngon lành. Truyền tay nhau tổ ong gặm, mật tràn ra hai mép, ngọt xé cổ họng.
– “Thằng Phú Lôi bị ong hôn không được ăn mật, dính vào mật nó sưng to thêm đấy….tới ngày mốt cũng không xẹp đâu” Nam Long cảnh báo.
Cả lũ cười khanh khách, hùa theo, “Mày ăn là nghỉ học một tuần đó, đừng ăn độc lắm!”.
Phú Lôi cũng tin theo, ngồi gặm cái đọt chà là chát ngấm. Nhăn mặt, nó ném cái tủm xuống nước chịu trận. Số còn lại thì cứ cười khúc khích trong vẻ mặt đầy nghi ngờ của nó.
Nam Long đứng lên gặm miếng sáp ong cuối cùng. Ném cái cành khô vào đám sậy, hô to “Chạy tụi mày ơi!”, cả đám cười vang chạy theo. Phú Lôi không hiểu gì hết cũng chạy. Mãi sau này nó mới hiểu nó dính cú lừa, bị “ong hôn” thoa mật vào sẽ bớt sưng. Bây giờ thì muốn cho “ong hôn” cũng không tìm đâu ra mật ngọt tuổi thơ để đắp vào nữa.
LÊ VĂN TÁM



Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2020

Nhạc - Thơ - Văn Thềm cũ

Chờ Em Nơi Thềm Trăng

Thương con nắng,
Thương con nắng dạo chơi thềm nhà cũ,
Nắng tô hồng thêm những đoá tường vi...
Nắng trong chiều theo gió chẳng muốn đi,
Nắng lưu luyến dậu mồng tơi xanh lá...!!

Nắng ru ngủ hàng bìm bìm tím ngắt,
Nắng soi thềm rải rác cánh hồng rơi...
Nắng à ơi ru thiếp giấc mộng đời,
Nắng giúp chị tình nồng thêm son sắt !!

Ơi thềm cũ ngàn năm tôi nhớ mãi,
Thương rất nhiều hoa mận rải thềm xưa...
Ôi cuộc đời đã lắm gió nhiều mưa,
Càng thêm nhớ thềm xưa đầy nắng ấm !
NM
THỀM CŨ
Thềm đầy nắng.
Nắng nghịch ngợm lọt qua tàng lá mận chi chít bông trắng, rơi xuống hiên xi măng những đốm trứng gà. Gío thổi bông mận bay phất phơ, len vào từng sợi tóc vàng hoe hoe của bé Na, bé Nụ đang ngồi bệt trên thềm gạch bông chơi ô quan.
Chị Hạt đang nhổ tóc sâu cho mẹ trong nhà, chốc chốc lại len lén dòm qua khung cửa sắt thèm thuồng. Tiếng Na cười ríu rít như chim Sẻ: " hết quan toàn quân kéo về, bé Nụ thua nữa rồi nhé!". Chị Hạt gắt nhỏ:" khe khẻ thôi hai con nỡm, mẹ mà ngủ dậy thì chết!"
Mẹ trở mình, mắt khép hờ, mái tóc dầy, óng mượt sổ tung trên nền gạch mát lạnh, mùi sã và bồ kết thơm thoang thoảng. Chị Hạt vùi mặt vào tóc mẹ hít hà:"tóc mẹ thơm quá, thơm quá", mẹ mở mắt cười, mắng yêu:"thôi đừng nịnh, nỡm, mẹ cho ra chơi với em đấy, nhớ không được làm ồn cho bố ngủ nhé!"
Bố nằm trên chiếc võng đung đưa dưới dàn hồng Tường vi rực rỡ hoa, tờ báo che trên mặt, những cánh hồng mong manh rơi rãi rác mang theo mùi hương phai rưng rức.
Ba chị em lại bầy trò bán hàng, đồ hàng là những bông Bụp đỏ, bông bìm bìm tím ngát bên bờ rào, bông giấy trắng trắng hồng hồng, rụng đầy trên sân, bông tóc tiên đỏ như nhung, lá tóc tiên mỏng manh như chỉ. Nụ hái bông móng tay đắp lên hai bàn tay thon nhỏ của của chị Hạt thành một lớp son hồn gsen thanh tú. Na kết một vòng bông sứ trắng muốt gài trên tóc chị Hạt, mắt chị bừng lên lung linh. Nụ bụm miệng cười;?chị Hạt giống cô dâu quá đi!". Chị Hạt đỏ bừng hai má, nhéo Nụ tơi bời:"con quỷ nhỏ này ăn nói dô diên quá!" Nụ cười giòn giã, leo phắt lên chiếc xích đu gỗ mà mấy chị em đã kỳ công sơn xanh đỏ hết một ngày trời, hét tướng lên:" hổng dám dô diên đâu, em mét mẹ nhen, chiều hôm qua có anh nào đứng đợi chị Hạt ngoài hàng rào bìm bìm á, hai người đứng nói chuyện vặt sạch hết lá, sáng ra em quét sân gần chết!". Chị Hạt hết hồn, chạy lại bụm chặt miệng Nụ:" thôi, thôi chị xin, đừng có la, muốn gì chị làm cho". Nụ gật đầu cười nhỏng nhẻo:"thiệt nha, chị hái trái mồng tơi làm mực cho em đi, em làm lúc nào cũng dây bẩn hết tay chân quần áo, má đánh em hoài." Chị Hạt thở phào nhẹ nhõm:"tưởng gì, dể ợt, chiều nay chị làm cho hai bình".
Mẹ đã thức dậy, ngồi lên quấn lại mái tóc dài đến bắp chân, tằng hắng gọi:"Hạt à, coi bà dậy chưa, mấy chị em hái Ngọc Lan thả vào thau, rồi giặt khăn cho bà rửa mặt. Nụ xuống bếp múc cho bà ly chè đậu xanh nấu long tu đó con. Nắng thế này mà ăn chè long tu là mát lắm?. Na và Nụ le lưởi cười:"trời ơi, má chiều bà dữ thần chưa!"
Mặt trời chênh chếch chiếu xiên tàng Ðiệp hoa hồng rung rinh, gió chiều phơ phất thổi mấy bông lài kép ngã nghiêng. Hạt đứng hong tóc bên hàng hiên, mùi hương ngọc lan và bồ kết bay nồng nàn trong gió. Hạt chợt giật mình cúi đầu thẹn thùng, sau bờ rào bông giấy hồng bên nhà hàng xóm, một giọng nói tinh nghịch vọng sang:"O ni gội đầu chi mà thơm dữ rứa?", Hạt nguýt dài:" người gì mà vô duyên qua !" rồi chạy vội vào nhà.
Hoa mận trắng vẫn rơi như mưa trên sân.
* * *
"Chị Hạt à, chiều nay Na về thăm lại nhà cũ, hẻm mình không còn ai trồng cây Ðiệp nữa, vì hẽm đã mở thành đường nhựa, nhà ai cũng ra mặt tiền đường, ai cũng tranh thủ kinh doanh thêm một cái gì đó hoặc cùng lắm là cho thuê mặt bằng để kiếm thêm tiền. Một mét vuông thềm nhà mình bây giờ trị giá 2-3 cây vàng, chị muốn giữ nguyên để trồng ba cái cây mận, cây ngọc lan làm sao được.
Chị hỏi hàng rào hoa bìm bìm tim tím còn không, rồi hoa tóc tiên, rồi dậu mồng tơi xưa chị ép mực tím cho em viết bài, rồi bông xanh nhái. Chị ơi, chị lạc hậu quá rồi, cổng bây giờ người ta xây trụ đúc cho chắc chắn, cánh cổng thì bằng sắt chắc chắn để chống trộm, ai còn cần rào gổ và hoa leo nữa hả chị? Mực tím bây giờ thay bằng bút bi, bút bấm. Những bông hoa xưa chị yêu chị trồng bây giờ không còn thấy ai thích nửa, người ta trồng lan, trồng hồng, vừa đẹp, vừa sang trọng, hợp thời.
Bé Julli nói chiều nào ở Cali chị cũng ra sân đứng khóc, khóc gì mà khóc, chị đúng là già rồi, lẫm cẫm rồi. Em cứ phải nhắc chị hoài à, thời buổi này là thời buổi nào? Mà thôi, mau mau thu xếp gửi tiền về cho em với má hùn tiền mở cái nhà hàng nướng nghen. Phố này sắp thành phố nướng hết rồi, mình ra sau là không cạnh tranh lại với người ta đâu. Phố này không còn là hẻm cây Ðiệp ngày xưa nữa đâu, chị Hạt ơi!"
Quên đi chị! Như người Mỹ nói là:"forget it!"
Em, Nụ của chị."
MAI UYÊN - Saigon tháng 4
(tặng những hẻm cây Ðiệp của ngày xưa)


Tím biếc màu xoan cũ
Hoa xoan tìm biếc nao lòng,
Nắng vàng óng ánh trên sông dát vàng
Anh đi em ngỡ lỡ làng,
Thôi đành an phận theo chồng nơi xa,
Anh về nhặt tiếc cánh hoa,
Xoan thì đã quá nửa mùa ngõ quê...
Người ơi xin ở đừng về,
Theo em đi trẫy hội quê cùng làng !!
NM

Qua thềm xoan muộn

Mãnh về lúc giữa chừng xuân, con đò trôi dọc đê sông Cầu chừng dăm ba cây số là thấy đình làng Thổ Hà. Ngược qua Cổng Hậu, gặp dốc Vạn An, về phía Đại Lâm, sóng nước thì thầm nhắc nhớ chuyện cũ kỹ một thời tuổi trẻ của Mãnh. 
Con đường lát gạch nghiêng nghiêng ở quê vẫn vậy. Hàng xoan hai bên tím biếc nao lòng. Gió tháng ba quyện mùi xoan đương thì con gái, dịu dàng mà da diết len lỏi khắp con ngõ quê.
Tuổi trẻ của Mãnh là những ngày ruổi rong khắp các con ngõ nhỏ ra tận ven đê, í ới chơi trò giặc giã cùng đám bạn thân. Lấy những trái xoan chín khô, vàng nhạt, to cỡ quả bi, làm đạn giả, bắn ì đùng vang động cả khúc sông quê.
Tình yêu ngây dại cũng lớn dần theo những mùa xoan tím ngan ngát cả đường làng. Ngày ấy, trước khi lên phố để theo đuổi cái ước mơ về một làng nghề cang gốm thật nức tiếng, Mãnh tha thẩn cả buổi chiều quê, hái từng chùm xoan tết thành vòng hoa.
Hoàng hôn tháng ba, mây vắt ngang trời những mảng màu xanh trong, nắng rót dát vàng óng ánh từng con sóng. Mãnh khẽ khàng trao vòng hoa tím biếc như một lời hẹn hò, để rồi đón nhận nụ hôn vụng dại ngập ngừng đợi trông của người con gái Thổ Hà dịu dàng thanh khiết. 
Chỉ như chừng vừa mới đây thôi, Mãnh nhớ như in, vẫn nhói đau ngay lồng ngực.
Ấy là năm thứ hai, khi còn đang trên Hà Nội vật lộn với đống chữ nghĩa, bôn ba với cơm áo gạo tiền, u đánh điện bảo Luyến sẽ lấy chồng, xuôi dòng về Ngũ Huyện Khê làm dâu xứ lạ.
Mãnh dao dác một nỗi đau. Lời u cứ văng vẳng suốt con đường đêm. Con gái có thì, đâu ai chờ mình hoài. Ở quê có người đặt mối, chỗ tốt, nhà cao cửa rộng thì họ gả, vậy thôi.
Mãnh cho xe dừng ngay dốc Bưởi, cái dốc mà mỗi độ xoan trổ tím rợp cả trời Hà Nội, cái dốc mà suốt hai năm trời Mãnh ưa tạt ngang để nhặt từng cánh xoan theo gió rụng tím con đường. Cái dốc nhắc nhớ Mãnh về mối tình chân phương và lời hẹn ước đầu đời. Vậy mà, người ta lại chẳng đợi Mãnh về như đợi những mùa xoan.
Mãnh ra trường, chọn Hà Nội làm nơi lập nghiệp. Cuộc mưu sinh run rủi Mãnh tha hương biền biệt, một năm đôi lần Mãnh về Thổ Hà vài chuyến thăm thầy u. Những chuyến đi chớp nhoáng, rồi lên lại Hà Nội ngay. Cho đến khi thầy u về với đất, với nước của xứ Việt Yên này, Mãnh đã thôi không còn về lại nơi đây.
Mãnh bán hết ruộng đất rồi mua một căn nhà nhỏ ở ngay dốc Bưởi trên Hà Nội. Mãnh họa hai tấm hình để thờ cúng ông bà. Thảng hoặc chạp mả, hay ngày thanh minh, nếu không bận công tác, Mãnh lại về chỉ vài tiếng đồng hồ tảo mộ thầy u. Khi bộn bề với những chuyến công tác ngược xuôi, Mãnh lại gửi chút tiền nhờ họ hàng làm giúp. 
Đôi lần Mãnh thấy ân hận nhưng miết rồi cũng thôi. Đời hai cụ cũng chỉ mỗi mình Mãnh. Giờ hai cụ cũng đã về chung nhà với Mãnh, giỗ kỵ cũng mỗi mình Mãnh vọng lên bàn thờ mà mời cơm. Lễ tết cũng là Mãnh, xẻ cái bánh chưng thỉnh hai cụ về ăn. Vậy là sum vầy, vậy là an yên rồi. Mà chắc lòng hai cụ cũng hiểu Mãnh.
***
- Bác Mãnh coi chúng tôi chọn đất như vậy để lập xưởng tốt không?
Mãnh cắt ngang dòng suy nghĩ, khi ông trưởng làng đưa coi bản vẽ đất. Mãnh xuôi về miền quê thơ ấu này, theo lời mời của Tỉnh, về xây dựng lại cái nghề cang gốm đã mai một theo cơ chế biến đổi thị trường. Chẳng hiểu sao Mãnh lại gật đầu nhận lời, khi biết bao dự án khác đang mời mọc, lợi nhuận công cán cao gấp mấy lần. Hôm Sở kêu lên hỏi Mãnh ưng không, Mãnh xin cho một đêm suy nghĩ.
Đêm ấy Mãnh đứng nhìn những cây xoan khẳng khiu trân mình trước cái rét đầu đông Hà Nội. Cứ lẳng lặng mà nhìn thế thôi. Lòng Mãnh như tờ. Mặc ngoài kia rét căm căm, mặc thiên hạ vội vã về nhà ủ ấm, mặc gió phả vào người những tê buốt thấu da thịt.
Mãnh nhìn những cành xoan trơ trọi giữa phố đêm vàng vọt ánh điện. Mãnh tính trốn bao giờ? Mãnh ngoài bốn mươi rồi. Vậy là cũng chừng hơn hai chục năm đắng đót cái nỗi niềm vương mang.
Ngày ấy, Mãnh ra đi vì hoài bão về một làng nghề cang gốm. Nay có cơ hội, vậy mà Mãnh lại suy tính. Nơi đó là nhà. Đất ấy là quê. Mãnh sinh ra và lớn lên ven đê sông Cầu. Đất Việt Yên cho Mãnh ý chí, làng Thổ Hà cho Mãnh ước mơ. Vậy sao Mãnh không về? Tuổi này rồi, còn mấy cái xuân xanh để Mãnh thực hiện hoài bão của thời trai trẻ
Đêm ấy, Mãnh thắp nhang cho hai cụ, khói trầm tỏa ngát ấm nồng cả nhà. Sớm mai trước khi lên Sở, Mãnh nhìn bát lư hương, cây nhang đêm qua cong vút, quắp lại thành hình tròn. Thế là Mãnh về, tự nhiên như thể lá rụng về cội. Như trăm con nước có ra dòng cái, rồi cũng lặng lẽ trở đầu quay về bồi đắp bãi bờ quê hương.
Hồi Mãnh còn lổm chổm chân trần chạy rong thì làng Thổ Hà đã vang danh nghề gốm, thành một thương cảng nức tiếng của vùng Kinh Bắc. Chỉ tiếc thời cuộc đổi thay nhiều, giờ không như xưa. Nhưng mà giữ nghề là giữ cái hồn của dân Việt Yên mình, giữ cả tinh túy của làng Thổ Hà. Rồi những thứ mình dụng tâm làm ra, sẽ có ngày khôi phục lại sự hưng thịnh cho Thổ Hà, làm sống dậy một thương hiệu gốm lừng danh xa xưa.
Đình làng hôm cúng khởi công phục dựng làng nghề nhộn nhịp lời chúc, hả hê tiếng cười, ngời ngợi những niềm tin vào một tương lai Thổ Hà rì rà rì rậm lửa đỏ nung đất, thậm thà thậm thịch những chuyến hàng nối đuôi trên thuyền lái ven sông Cầu. Giọt mồ môi nhễ nhãi xưa cũ lại quay về, dệt mới lên cuộc đời những đổi thay mà vẫn lưu giữ cái bản sắc nền tảng của làng Thổ Hà.
Mãnh tất bật ngược xuôi công trình xây dựng, để đảm bảo một xưởng làm nghề thủ công đặc trưng, nhưng phải bảo tồn cái cảnh sắc non nước hữu tình của làng, càng không để tình trạng ô nhiễm chất thải từ các lò gốm ảnh hưởng đến đời sống của dân.
Có những hôm đuối lả người, Mãnh lần theo ven đê, ra ngồi thơ thẩn một mình, nhìn sóng nước bạt ngàn loang loáng, dáo dác về chuyện xưa cũ. Xoan đã quá nửa mùa, vẫn tím dạt dào mấy con ngõ quê. Xuôi dòng Mãnh về, xoan cũng trĩu nặng một mùa hoa, vậy mà người ta cứ biền biệt nơi đâu.
***
Một sớm tinh mơ cuối tháng ba, sương còn phủ dày mặt sông, Mãnh dẫn theo thằng Xoan, xuôi dòng Ngũ Huyện Khê tìm về làng Chóa của huyện Yên Phong. Sóng va mạn thuyền bồng bềnh theo câu chuyện của một già, một trẻ.
Con biết không? Chỉ có đất sét vàng hay sét xanh ở vùng ấy, ít sạn, không lẫn tạp chất, có đặc tính dễ tạo hình và định hình khi nung ở nhiệt độ cao mới làm nên loại gốm riêng biệt độc đáo của Thổ Hà.
Mình cứ nung nó ở nhiệt độ cao, không dùng men, cứ vậy để nó tự chảy ra thành men, thành sành, gốm màu nâu sẫm, thâm tím đanh mặt. Mình gõ trên gốm tiếng kêu coong coong như thép. Mảnh gốm có cạnh sắc như dao, đựng chất lỏng không bao giờ thấm qua, đựng chất rắn đầy chặt không bao giờ ẩm mốc. Nhờ vậy, mình có thể làm chum vại, chĩnh chõ, tiểu sành rất đẹp, bền vô cùng mà giá thì lại rẻ. Nếu tay nghề cao, mình còn có thể làm ra loại cao to dung tích cả bốn năm trăm lít đó con. Gốm Thổ Hà nổi tiếng nghìn năm chẳng mất màu, ấy là do đất tốt cộng với kỹ thuật nung gia truyền của tổ tiên để lại đó.
Thằng Xoan chăm chú nghe, gật gà gật gù, ra chừng tâm đắc lời dạy của Mãnh. Vậy thì bác tìm con đi chung là đúng rồi. Hồi đó mẹ con người làng Thổ Hà, gả về theo bố tận Yên Phong.
Bố con mất được hơn mười năm, mẹ bị mấy cô giành đất, nên hai mẹ con lại xuôi dòng về làng mà neo đậu đến giờ. Nội con ngày xưa giàu nức tiếng đó bác, đến khi ông bà mất, bố cứ thế mà phá. Rượu chè, cờ bạc, bê tha lắm. Có hôm bố say bí tỉ, về nhà đòi mẹ tiền mua rượu, mẹ không đưa, thế là bố đánh. Bố đánh mẹ chưa đã giận, bố quay sang trút vào con. Bố bảo cái thằng Xoan là tàn tích của lòng mẹ.
Bố ghét đám xoan đầu ngõ. Cứ mỗi độ mùa hoa, bố chặt nát cành, tả tơi cả đám xoan. Bố bảo mẹ về với bố mà chưa lần nào mẹ cười hạnh phúc. Rồi bố có người khác. Mẹ khóc dấm dúi hằng đêm. Con biết làm chi đâu. Chỉ lén ra bờ sông mà nhìn về phía nhà ngoại. Bố nát rượu thì bị bệnh gan mà mất. Mẹ một mình nuôi con tận bây giờ.
Giọng thằng nhỏ trầm đục mà phả vào con sông quê buổi sáng nghe chênh chao một nỗi niềm
Nhà con à, ngay cuối làng, chỗ đám xoan nở muộn nhất mùa, giờ chỉ mới lác đác vài chùm tim tím thôi. Bác tới cái chảng ba cuối, nhìn ra phía ven sông, thấy cái thềm đất gồ ghề loang lổ.
Bất giác tim Mãnh chòng chành theo từng nhịp sóng vỗ mạn thuyền. Cập bến Yên Phong, rồi thuyền cũng sẽ quay về, sao Mãnh lập cập hóng chi mãi vậy. Thằng Xoan đã nhảy phốc lên đi một đoạn khá xa, quay lại nhìn bác Mãnh, khẽ nghiêng đầu tự hỏi, chi mà bác ấy cứ bần thần giữa khoang thuyền vậy nè?
***
Cuối tháng ba còn vương chút tiết xuân, gió từ lòng sông xào xạc mát lành, tối trời đen kịt, Mãnh trằn trọc khó ngủ dạo từ Yên Phong trở về. Mãnh đắn đo mãi, nên hay không tìm về cái chảng ba cuối ven sông, mớ ký ức tưởng rêu phong phủ mờ theo năm tháng bỗng chốc trỗi dậy, khiến lòng Mãnh bời bời mỗi lần về ngang ngõ tím. Hương hoa bay thoảng dìu dặt như mùi tóc ai xưa cũ vừa ghé ngang cánh mũi. Đêm cứ mãi thao thức theo từng nhịp thở.
Mãnh bắt đầu để tâm hơn thằng Xoan, thằng bé cao to, da sạm màu nắng sông, lanh lợi hơn đám trẻ trong làng, được cái tính ham học hỏi, chẳng câu nệ chuyện khó chuyện khổ, nên dần dà Mãnh lại càng thương nó.
Mãnh dạy nó nhiều về những kỹ thuật nung đất, canh độ lửa. Mãnh cầm tay chỉ nó cách tạo hình, tỉ tê vài ngón nghề để dễ định hình gốm trên bàn xoay. Muốn đồ gốm bền, chắc, lại đẹp thì phải dồn cả tâm sức vào từng công đoạn nha con. Không được chểnh mảng hay lơ là. Mỗi một công đoạn đều có độ quan trọng như nhau, chớ có xem thường.
Từ lúc thấu đất phải biết canh lượng nước sao cho vừa đủ no đất, mai thái phải mỏng đều tay. Mỗi một loại gốm sành có một nhiệt độ nung khác nhau. Mà con nhớ kỹ nè, làng mình nào giờ nung bằng than cám, chẳng phải nó rẻ chi đâu, mà vì than cám độ lửa đầm, ngấm sâu khiến gốm bền chặt, không dễ tức vỡ.
Nhiều cái sau này, nghề dạy nghề con lại rút ra những kỹ thuật làm tinh tế khiến gốm của mình lúc nào cũng nhỉnh hơn các làng nghề cang gốm khác, cái này là do bản năng lĩnh hội, và đam mê của con dành cho gốm
Thằng Xoan gật đầu lia lịa, đoạn nào dài dòng chi tiết quá thể trí nhớ, nó ghi vội vào cuốn sổ riêng.
Xưởng gốm theo đà cơ bản hình thành. Mãnh và các bậc cao niên trong làng cũng đã dốc lòng truyền lại nghề gốm cho đám thợ trẻ. Có thể thở phào nhẹ nhõm. Giờ Mãnh còn xây dựng cái quy trình xuyên suốt từ nguồn cung ứng đầu vào nguyên liệu, thời gian hoàn thành sản phẩm, các yêu cầu kỹ thuật, cho đến đầu ra sản phẩm, thế là bàn giao lại cho trưởng làng thôi, rồi Mãnh về lại Hà Nội.
- Hay là bác Mãnh ở lại đây coi luôn cái xưởng gốm của làng đi. Còn gì bằng một người con của Thổ Hà phục dựng lại tiếng tăm cho nghề cang gốm của cha ông để lại.
Ông trưởng làng rót chung trà mời Mãnh, kèm theo lời đề nghị trầm mặc.
- Bác Mãnh biết không, dân trong làng trọng thị bác lắm, lâu rồi mới có một người của làng vang danh trong giới làm gốm, không lẽ mình là con đất Việt Yên lại cứ bôn ba tận nơi xa mà truyền nghề hoài?
- Bác Mãnh về đây, giữa bạt ngàn non nước hữu tình mà thưởng ngoạn cuộc đời nè! Đất quê mình trù phú thiện lương, người quê mình giàu tiếng nghĩa nhân. Ở đâu cũng có thể là nhà, nhưng chỉ có Thổ Hà là quê của bác Mãnh thôi đó nha.
Còn nhiều nữa tiếng lào xào của mấy bậc cao niên hội tụ nơi đình làng nghe báo cáo công việc. Mãnh lặng yên nhìn mông lung ra cổng tam quan, mấy ngọn tràng phang, cờ phướng phấp phới trong gió, còn đôi ngày nữa là hội làng, cũng là ngày cúng mở xưởng, chính thức phục dựng lại làng nghề cang gốm Thổ Hà.
***
Lòng Mãnh quay quắt nhớ những ngày hội làng ấu thơ. Ngày ấy, đèn đuốc sáng choang, câu ca quan họ níu chân người ở đừng về. Các kỳ thủ dọc sông Cầu men theo lễ hội mà về tề tựu. Những trận cờ nảy lửa kéo dài hàng tiếng vẫn luôn hút biết bao nhiêu người rì rầm tán thưởng. Bọn trẻ vui như là ngày tết được kéo dài thêm. Bánh chưng, bánh dày, bánh cúng đầy mâm. Hoa trái quê hương dâng đầy quả. Các thanh đồng về chầu giá Cô Bảy, Thành hoàng, Cô Đôi uy nghiêm lần lượt. Lộc rải từng người. Làng trẩy hội tận ba ngày. Ai nấy cũng tươi cười niềm nở quây quần quanh đình làng mà thắt chặt thêm tình nghĩa.
Mãnh thả trôi lòng mình mải miết theo từng bước chân về những con ngõ quê rợp trời tím biếc. Những con ngõ quê hun hút đan nhau dẫn người ta ghé nhà này chào hỏi đôi câu, sang nhà nọ cùng chung chén trà. Những con ngõ quê nối liền một mảnh đất, ấp trọn tình làng nghĩa xóm. Dẫu ngoài kia phố thị xa hoa, bon chen đãi bôi từng lời từng việc. Nhưng phía sau cái cổng tam quan, trong làng này, người sống với người bằng chữ yêu thương.
Cuối ngõ quê, ngay cái chảng ba rồi, Mãnh lại lừng khừng chân bước, nửa muốn tới, lại nửa muốn quay đi. Tim Mãnh đập những nhịp liên hồi thình thịch nơi lồng ngực. Biết là người ta có còn như ngày ấy.
Hôm xưa, cây xoan còn xanh, người ta còn ở đó, chuyện tình vẫn là muôn thuở.
Hôm nay, cây xoan đã tím, mình đi tìm người ta, chuyện chẳng còn là yêu thương của thời non trẻ.
Dợm vài chân bước, Mãnh gặp ngay người ta ngồi cạnh bờ rào. Ánh mắt giao nhau, khắc giây lặng im tưởng chừng như là mãi mãi. Người ta khóc rồi kìa. Mãnh thể như thằng con trai mười chín đôi mươi, tần ngần có lỗi.
- Tui... ơ... Luyến khóc chi, Mãnh về rồi mà...
Một chiều tàn xuân, cuối tháng ba, đám xoan muộn màn bung cánh tím rực rỡ như vẫn đương thì con gái. Thềm nhà có hai người ngồi thủ thỉ chuyện xa xót mà đằng đẵng những nhớ thương đợi mong.
Hội làng năm ấy rền vang câu hát người về thì người đừng đi.
Hơn hai chục năm, Luyến mới vấn tóc cao, mặc áo the, bước qua thềm xoan tím biếc mà trẩy hội làng. 
Trúc Thiên
Ánh trăng thềm cũ
Bên thềm trăng rụng, lại nhớ tích xưa,
Thóc vàng tràn xuống, gợi mùa rơm thơm...
Anh là trai của làng Diềm,
Không ca quan họ, không mời khách xa...
Em là con gái làng ta,
Một đêm hát hội rồi xa nhau liền...
Thế mà tạo kiếp nhân duyên,
Anh về tìm chút bình yên gia đình
NM

Thềm trăng

Hoài về làng cũ, đó là ngôi làng hiếm hoi còn giữ được vẻ đẹp nếp xưa. Anh về hôm trước hôm sau cả xóm đã biết. Sáng xách làn đi chợ, cô hàng cá tủm tỉm nói vọng lên như hát
– Anh Hoài chán vợ thành phố rồi à? Lại xách làn đi chợ thế này, đàn ông đàn anh vất vả quá, hay em đánh tiếng tìm cho một mối
Có tiếng đàn bà con gái vang lên
– Này anh Hoài ơi, đừng chê em xấu em đen, em như nước đục đánh phèn lại trong này…
Thế là cả khu chợ khúc khích xôn xao.
Ai đã từng đi chợ quê, thấy mớ rau mùi hành hoa thơm, thứ hương thơm nguyên thủy, xà lách non mơn mởn, cá tôm còn mùi bùn đất, đứng ở chỗ cô hàng xén hỏi thăm một chút, chỗ hàng thịt bỗ bã dăm ba câu, chỗ này gọi tên mình ới ơi, chỗ kia nằn nì ăn giúp vài đồng quà mới thấy được cái xôn xao, tươi tắn, ồn ào đến nao lòng mà những siêu thị đủ đầy ở thành phố không có được.
Mâm cơm quê nhà dọn lên là để thưởng thức vị ngon tự nhiên của nguyên liệu chứ không phải vị ngon nhân tạo của những loại gia vị đắt tiền. Mẹ già rồi, Hoài cũng không còn trẻ nữa, ăn uống có là bao, nhưng Hoài thèm được lui cui trong bếp, nấu bát canh cua khoai sọ thả thêm đọt rau nhút hay đĩa tép riu đỏ rọi rang với khế và lá chanh thơm phức rồi dọn lên cái mâm đồng. Khi mẹ trải chiếu ra hiên, Hoài bưng mâm cơm đặt lên giữa chiếu.
Mẹ con ngồi xếp bằng rồi so đũa, trăng sẽ rọi sáng mâm cơm suốt mấy mùa. Trăng sóng sánh trong bát canh, bóng mẩy trong bát cơm nấu bằng gạo tám, trăng tràn xuống thềm nhà hướng nam gọi gió, đầy ăm ắp khoảng sân gạch đỏ. Khoảng sân ấy ngày xưa mỗi dịp cuối xuân đầu thu ăm ắp rơm tươi. Mùa gặt ấy mà, mẹ cha sẽ lùa cơm thật vội, ăn xong còn đập lúa, thóc vàng tràn xuống sân, con cái cầm liềm cắt rơm giũ thật kỹ những hạt thóc còn sót lại rồi tung rơm ra ngõ, đợi nắng lên là có rơm thơm…
Mùa đông, một bát cà chua xào tóp mỡ nghi ngút khói hay yêu canh khoai tròn thêm vài lá thì là thơm phức là quây quần êm ấm giữa mùi tỏi tươi vừa nhổ về treo tăm tắp trên giàn tre trong sân.
Những điều giản dị ấy Hoài cứ nhắc nhớ mãi khiến vợ Hoài cáu gắt:
– Rơm thì dặm ngứa, tỏi thì hôi có gì mà đau đáu quá nửa đời?
Hoài chỉ cười thôi, nhớ quê thì trốn phố, có nơi nao an lành bằng bầu ngực quê hương. Hoài không bao giờ khiên cưỡng vợ theo ý mình. Có lẽ vì thế mà mỗi lần anh quẩy túi về quê chị cũng không cấm cản. Chỉ có điều mỗi lần Hoài ở quê lên phố nếp ăn ở lại thấy có chút gì xộc xệch, cần sắp xếp lại cho ngăn nắp, cần tập cho vào nếp. Nguyên – con trai Hoài từng trách:
– Bố về quê lâu quá, đến nhà mình mà cũng chẳng thấy thân quen.
Mẹ Hoài vẫn giữ thói quen ăn trầu, ngoài tám mươi mà hàm răng nhuộm thuốc vẫn còn đen bóng, khi mẹ cười răng đều tăm tắp hạt na. Nụ cười của mẹ bao dung và hiền hậu biết bao khi Mai cắp thúng ngô đi vào con ngõ, con Mực quen người chạy ra vẫy đuôi tíu tít, Mai chuyển thúng ngô ra trước bụng, ngượng nghịu rồi đặt xuống hiên. Mai ngồi ghé mép chiếu, từ tốn thưa rằng ngô mới bẻ, con mang biếu bác và anh Hoài ăn lấy thảo. Hoài dậy lấy thêm cái bát con và đôi đũa, nhưng Mai đứng lên, vân vê tà áo rồi về. Nhìn Mai đi khuất qua con ngõ, Hoài mới hỏi mẹ:
– Mai lập gia đình sao không ai báo con?
Mẹ gắt:
– Ai bảo nó lập gia đình?
– Nhưng con thấy bụng…
– Anh thấy đúng rồi đấy, lỗi cũng do anh.
Mẹ nói có sai đâu, Hoài là trai làng Diềm mà không biết hát dăm ba làn điệu quan họ, bạn về không biết giữ chân bằng Người ở đừng về, bạn đến nhà cũng không biết hát Khách đến chơi nhà, đốt than quạt nước pha trà mời người xơi… Bảy tuổi Mai đã hát đúng vang rền nền nảy. Hội Lim, Mai làm chị cả ngồi tựa mạn thuyền rồng hát cho anh hai thổi sáo. Hội tan, chị cả anh hai lưu luyến mãi ở mom sông, anh hai qua bên kia sông là anh có người thương rồi, chỉ còn chị cả với rặng tre chắn lũ, với trăng non yếu ớt không đủ soi nước mắt nhạt nhòa, chị cả băng đồng về, áo tứ thân quét đất, nón quai thao gió giật bay đi. Có dài lắm đâu một thôi đê thế mà tiễn bạn hát hết một thời son trẻ.
Gái làng Diềm chẳng thiếu người như chị cả, họ kiếm một đứa con rồi đợi hội Lim. Vào hội hát “em còn son, anh cũng còn son”, “có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà”, hội tan lại gánh gồng cấy hái nuôi con…
Mẹ trách Hoài câu ấy xong thì vào giường nằm, Hoài thu dọn mâm bát rồi ra bể múc nước luộc ngô, ngô nếp bánh tẻ bẻ sơ lớp áo già xếp vào nồi, Hoài khua cái gáo gỗ trong bể nước thấy trăng lóng lánh tan ra. Nhà có bếp gas nhưng Hoài vẫn nhóm bếp, bẻ củi chất dưới kiềng. Mẹ giữ được tất cả nếp xưa, kể cả mấy cây ráy đã bóc lá không biết bao nhiêu lần, tàu cao nhất cũng vươn tới gần nóc bếp.
Sau thời bao cấp, trong khi dân làng thiếu thốn thì nhà Hoài vẫn sống phong lưu. Mẹ chăm chỉ ruộng đồng và không biết bằng cách nào mẹ bắt mối được với những bà vợ tận trên Hà Nội có chồng đi Liên Xô. Mẹ gom hàng của các ông chồng gửi về cho họ rồi phân phối khắp mấy huyện, từ giun xe đạp, thuốc men, vải vóc đến thau nhôm, bàn là… thượng vàng hạ cám. Trong số hàng mà mẹ bán, Hoài lục tìm được hộp màu vẽ, đó là món hàng xa xỉ chỉ dành cho đám cậu ấm cô chiêu. Nhưng mẹ để dành cho Hoài, mẹ xem tranh Hoài vẽ rồi bảo có triển vọng. Mai xem tranh thì cứ rúc rích cười suốt, Mai bảo có giống đâu, cổ con gái gì mà dài như cái cần câu, hoa lục bình sao không trôi líu ríu… Tranh ấy dân thành phố mới dám bỏ tiền mua về treo ở nơi trang trọng, bình phẩm hết ngày này sang ngày khác. Mai chỉ mê canh hát, mê anh hai thổi sáo tương ngộ tương phùng.
Mai sinh con gái đúng hôm rằm, gái hôm rằm trai mùng một, mẹ giục Hoài xúc ống gạo mang sang. Làng Hoài có tục lệ lâu đời, hễ người đàn bà nào trong làng không lấy chồng mà kiếm được đứa con, thì chòm xóm mỗi người mang sang nắm gạo, gạo ấy mang xay ra quấy bánh đúc, rồi thì phân phát mỗi người một miếng mang về. Hoài cứ chần chừ trong gian bếp chật ních, anh loay hoay sửa cái bóng điện nhấp nháy mãi mới chịu sáng, thắc thỏm nghĩ rồi đây một con một mẹ, không biết Mai xoay sở thế nào. Trên nhà mọi người đang bàn bạc hai sào lúa nếp muộn ở chân ruộng trũng nhà Mai còn chưa kịp gặt, rủ nhau mấy hôm nữa lúa chín đẫy thì đi gặt giúp, xưa nay xóm làng vẫn quen bảo bọc nhau. Hoài nói với mọi người anh cũng muốn xuống đồng, thế là trong nhà lại rộ lên một chặp đưa đẩy chòng ghẹo người thành phố. Mai phần Hoài cháy bánh đúc mang về biếu mẹ. Cháy bánh đúc nấu rơm vừa lửa, mẹ vẫn thích ăn từ ngày xưa…
Hoài và chòm xóm xuống đồng, đàn bà con gái thì gặt lúa, đàn ông xén rạ, bó lượm gánh ra đường lớn chất lên xe bò. Mỗi người một tay một chân, xế trưa là gặt hết hai sào nếp. Ai về nhà nấy ăn cơm hẹn trăng lên sang đập lúa cho mát. Nếp cái hoa vàng không ai mang tuốt cả, phải đập tay để giữ những cọng rơm cứng cáp, cột đầu bông lại rồi treo lên hàng tường gạch đều tăm tắp từ ngõ vào đến hết sân. Rơm ấy bện chổi, làm né tằm thì bền mà thơm lắm.
Hoài sang sớm nhất, anh ngồi bên hiên sửa lại mấy cái néo tuột dây, Mai đứng bên cửa sổ vừa đu đưa chiếc nôi mây cho con vừa khe khẽ hát. Cạnh chỗ Mai đứng là chiếc bàn mà lúc còn sống cha Mai ngồi khám bệnh bốc thuốc. Ở đấy lúc nào nắng cũng yếu ớt xuyên qua tán lá cây rọi vào, thìa đè lưỡi khám viêm họng luôn để trong cái nắp phích bằng nhôm đặt trên bậu cửa sổ, mỗi lần khám bệnh ông lại rót nước sôi vào tiệt trùng…
Thuở bé Hoài mắc chứng hen sữa, thành ra anh cứ qua lại nhà Mai suốt, lần nào khám cho Hoài xong cha Mai cũng vọng xuống nhà gọi: “Mai, ra vườn hái ít cam để anh Hoài mang về vắt nước uống cho nhẹ phổi”. Khi thì: “Mai, đào cho anh Hoài mấy nhánh gừng đặng về hấp mật ong con”. Giọng nói của cha Mai Hoài còn nhớ như in, như được thâu lại hàng trăm lần bằng trí nghĩ.
Rồi chòm xóm sang, tiếng thậm thịch dẻo dai của những lượm lúa mẩy vang trên cối đá, tiếng nhả rơm vun vút, tiếng giũ rơm, tiếng trang cào thóc, tiếng vò bông lúa sót, tiếng nói cười, tiếng bé con trong nhà ngủ dở giấc ré khóc lên, tất cả chan hòa và đầm ấm khơi lên trong lòng người những tình cảm tốt đẹp và dịu dàng. Ai đó đã rang xong mẻ thóc mới trong bếp, mùi nẻ rang thơm phức, đám đàn bà con gái nghỉ tay cắn chắt, đàn ông ngồi điếu đóm uống trà hãm trong cái ấm tích. Hoài cào gọn thóc vào một đống, đậy tấm bạt lên rồi chèn lại cho gió khỏi tốc, anh dặn Mai:
– Trăng quầng đấy, sáng mai anh sang trang thóc phơi cho, mới sinh hãy nghỉ ngơi đi đã.
Nhìn đứa bé ngủ say trong vòng tay mẹ, đôi má bầu bĩnh khiến anh muốn chạm vào nhưng mày thóc dính đầy người sợ làm dặm con bé.
Ngày vợ anh sinh con, anh đang đi tu nghiệp ở nước ngoài, khi trở về con đã biết đi lẫm chẫm thành ra cái cảm giác nhìn đứa bé con ngủ bình yên trong tay mẹ anh mới bắt gặp lần đầu.
Hoài về nhà khi trăng đã đứng giữa trời, vằng vặc sáng ngự trị cả khối thiên nhiên rộng rãi, trăng trùm lên xóm làng mảnh chăn ngà dìu dịu cho nhà nào nhà nấy ngủ an lành. Tiếng chão chàng rộ lên rồi im bặt khi Hoài múc nước bể lên xối cho mát, cho trôi đi mày thóc, mồ hôi. Đêm ấy là đêm hiếm hoi Hoài đặt mình là ngủ ngay đi được. Mẹ dậy sớm, ngồi trên phản têm trầu, bà nhắc Hoài rằng Mai nó nhắn có chị em hàng xóm phơi thóc cho rồi không phải sang nữa, bánh cuốn thì con bé Hằng cháu con chị cả mang cho, mẹ phần anh trong chạn bát, mệt thì ngủ tiếp, còn không thì dậy rửa mặt cho tỉnh táo chứ đừng nằm ươn nó hư người.
Anh với tay mở cửa sổ, nắng trong vắt sóng sánh phết lên những tấm song gỗ, một cành na sà vào, anh đưa đẩy trí nghĩ về thành phố. Nắng thế này những ngôi nhà ống như những chiếc hộp đổ mồ hôi nằm chen chúc nhau cả ngày nghe tiếng máy lạnh rù rì buồn tẻ. Người ta tràn về thành phố, thành phố như bà mẹ đông con, lúc nào cũng tất bật đêm ngày, bà mẹ ấy ẵm bồng bú mớm nuôi lớn bao nhiêu giấc mơ, cũng đòn roi cho con cái không ít…
Mẹ lại nhắc:
– Dậy rồi thì ra bể múc nước vã cho tỉnh ngủ đi con, chiều nay Nguyên nó về đấy, anh xem đi chợ có món gì ngon nấu đãi cháu tôi.
Nguyên về khi xâm xẩm tối, đậu xe ngoài đường lớn rồi đi bộ vào nhà. Cơm tối có canh cua, trạch om củ chuối, cà muối xổi. Bà đã dọn giường trải chiếu cho thằng cháu đích tôn từ chiều, nhưng ăn cơm xong Nguyên nói phải về thành phố. Cậu hào hứng kể cho bà và bố nghe chuyến đi phượt mà bạn bè lên kế hoạch gấp sẽ khởi hành vào sáng mai, về rừng Vĩnh Thạnh, về sông Kôn tuyệt đẹp nằm ở dải đất miền Trung. Bà có hơi phật lòng, Nguyên vừa bóp vai cho bà vừa nịnh:
– Con sẽ tìm ra loại nấm linh chi to như cái nón, hái tận gốc lên còn mềm nhũn trên tay, con mang về biếu bà sắc uống, bà cứ đẹp cứ khỏe thế này mãi cho con nhờ.
Bà cười:
– Cha bố anh, khéo nịnh, muốn tôi vui thì lấy vợ sớm đi.
Hai bà cháu cứ giận lẫy rồi nịnh nọt như thế cho đến khi trăng chênh chếch ngọn cau. Hoài tiễn con ra chỗ đậu xe, đi bên con, bên vóc dáng vững chãi, chắc nịch và thẳng thớm, Hoài bỗng thấy cảm động và nhớ vợ, đúng hơn là biết ơn vợ mình. Chị là người đàn bà thức thời, không bao giờ cho phép mình tẻ nhạt, những bước đi quan trọng trong sự nghiệp của Hoài, chị góp phần công sức không nhỏ. Nguyên nhìn vào mắt bố:
– Con nghi mẹ có bạn trai, bố ạ. Con đã để ý mẹ hơn tuần nay rồi, chắc chưa đến nỗi nào, nhưng nếu bố không về thì cũng đáng lo đấy.
Hoài hơi bất ngờ, nhưng tuyệt nhiên không phẫn nộ hay thất vọng, Hoài đón nhận cái tin ấy bằng tâm thế của một người từng trải. Hoài thậm chí đã nghĩ đến viễn cảnh ấy khi thấy vợ hay đi lại trước gương, thấy chị đăng ký tập gym, yoga, dancesport. Mỗi lần đi tập, thấy Hoài dắt xe ra ngõ cho mình, chị lại nói một câu quen thuộc:
– Em phải tập cho thon thả, giữ gìn vóc dáng để giữ chồng.
Đi tập về, thấy Hoài lúi húi nấu ăn, cũng may là Hoài thích nấu ăn và coi đó như một thú vui, chị hay ôm chồng từ phía sau, nhón tay lấy thức ăn trên bếp, vừa khen ngon vừa càu nhàu ông thầy dạy dance có cái miệng hôi.
Từng bươn bải khắp nơi, chị không phải là người đàn bà duy nhất của Hoài. Càng ngày Hoài càng nhận rõ những bâng khuâng, rung động, thiết tha một cách vẹn tròn là thứ vô cùng xa xỉ. Nếu sự thật như con trai anh lo lắng thì ngay lúc này Hoài cũng chưa biết đối diện với nó thế nào. Anh hơi bối rối, không biết sẽ trả lời ra sao cho con bớt băn khoăn. Nguyên lên tiếng trước:
– Bố sẽ về nay mai chứ?
– Ừ, nay mai thôi con.
Nguyên chào anh rồi lên xe nổ máy, chiếc xe bốn bánh quét ánh sáng trắng rỡ lên con đường bê tông, hai bên đường cỏ mọc liêm liếm lên xanh óng ánh.
Hoài bách bộ về nhà, nghĩ thế nào lại rẽ vào ngõ nhỏ nhà Mai, đứng sát tường gạch thơm mùi rơm mới, mấy dây mơ dại rủ xuống cọ vào trán Hoài ram ráp, Hoài đưa tay bứt, dưới trăng mấy nụ hoa đang he hé tím biếc. Giọng Mai ru con vọng ra ngõ: “Bồng bồng con nín con ơi, dưới sông cá lội trên trời chim bay, ước gì mẹ có mười tay…”.
Nghe một người đàn bà làng Diềm ru con, ít ai không cảm động, lời ru gửi gắm vào giấc ngủ của bé thơ tình mẹ ngọt ngào âu yếm, mà cũng gửi cao xanh chút tủi hờn.
Với Mai, Hoài lúc nào cũng giữ được thứ tình cảm trong sáng, rõ ràng và thuần khiết. Mỗi lần bắt gặp thứ tình cảm ấy Hoài thấy mình trẻ lại, trong lồng ngực như có những cánh én vút lên không trung. Đó là thứ tình cảm tựa hồ như anh em nhưng khách sáo hơn một chút, tựa như bè bạn nhưng không bỗ bã mà chính Hoài cũng không gọi được tên.
Hoài về nhà, hơi ngạc nhiên khi thấy dây mơ dại vẫn nằm trong tay, anh đặt nó lên bể nước. Chiếu vẫn trải trên hiên nhà, hồi tối anh quên gập lại, anh định nằm đấy ngủ cho mát nhưng trăng sáng quá, nhìn lá nguyệt quế láng mướt, anh biết trời đổ sương. Hoài vào nhà…
Qua đêm, Hoài tỉnh giấc khi trăng còn chưa lặn nhưng mặt trời đã ló những tia nắng yếu ớt. Anh bước ra cửa đã thấy mẹ ngồi đấy tự lúc nào. Bà ngồi ép mấy chiếc quạt mo cau, bà bảo đêm qua mấy tàu mo vừa rụng, quần áo đồ dùng mẹ đã xếp cả vào túi xách, nhắc Hoài nội trong hôm nay phải về thành phố, không muốn đi thì mẹ cũng đuổi. Người già lúc nào cũng có những dự cảm xa xôi.
Giữa buổi thì Hoài đi, anh ghé qua nhà chị cả bảo mấy đứa cháu sang đỡ đần bà. Con đường độc đạo dẫn ra đường lớn một bên là những ngôi nhà bình yên giữa vườn cây ăn quả, một bên là cánh đồng đã gặt chỉ còn trơ gốc rạ. Những gồi rạ được chống lên cho mau khô như hàng ngàn chiếc nón úp đứng san sát nhau khắp cánh đồng. Có mấy đụn khói nhỏ bốc lên, hẳn là lũ trẻ nhóm lùi ngô sắn. Anh thấy lòng nhẹ nhõm, trời trong quá, từng tảng mây trắng xốp thong thả trôi trên nền trời xanh thẫm, thi thoảng trên một lùm cây bên đường, đàn chim nhỏ lại tung mình bay vút lên.
HOÀNG HIỀN
Ngôi nhà 40 năm tuổi rêu phong, cũ kỹ trên triền núi ấm áp tình thân của  gia đình trẻ