Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

Nhạc - Thơ - Văn Cá Bống dừa

Cá Bống Dừa - Nhạc Dân Ca Quê Hương

Ký ức miền quê | Cá bống dừa sông quê 

Thương cho kiếp bống,
Thương thay số kiếp bống dừa,
Ly hương xa tổ gió mưa cuộc đời...
Sóng đưa trôi dạt khắp nơi,
Có thương có nhớ thế thôi... không về !
Suốt đời sống kiếp xa quê,
Đành quên sông cũ, buông lơi cội nguồn?!
Con về khơi mạch sầu tuôn,
Vẫn thương nhớ mẹ, vẫn thương thân mình !
Thương thay một kiếp phù sinh,
Xa nhà trôi nổi linh đinh kiếp người !!
NM

 Cá bống dừa quê.

Tôi ngồi trên cây cầu cây de ra bến nước, lòng bồi hồi nhớ mẹ. Dáng mẹ gầy và khô đét, che bởi tấm áo vải thô vá đùm, vá đụp; tóc mẹ sợi đau sợi cực, đầu đội nón lá chằm đã tưa rách, phai màu. Mẹ đeo cái giỏ đụt bên hông, chưn bước dò từng bước, lách qua những khe buội dừa nước mọc sum suê trên những dải đất bùn ven sông. Mẹ nhẫn nại thò tay vô từng bộng dừa, mò bắt từng con cá bống... Đã mười năm rồi, chớ ít ỏi gì! Mười năm tôi xa nhà, mười năm mẹ lóng ngóng chờ tin, đợi gặp mặt con.

Đêm đồng bằng châu thổ miền Tây chằng chịt sông rạch, hàng hàng lớp lớp những tàu lá dừa nước bảo vệ và che chắn cái chết cho những đứa con ra đi vì đất nước. Thuở đó, lứa tuổi như tôi thừa ngây thơ và lắm ước mơ. Mỗi lần thương nhớ mẹ, tôi không thể nào không thương nhớ cá bống dừa quê. Và, cũng không thể nào quên câu hò của người em gái nhà bên, khi đi cùng tôi câu cá bống dừa vào những đêm con nước lớn:

‘’Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

Bậu ra, bậu lấy ông câu

Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu

Kho tiêu, kho mỡ, kho hành

Kho ba lạng thịt (bậu) để dành, bậu ăn!’’ (ca dao)

Tiếng hò của em vang xa tràn khắp mặt nước sông đêm

Ở quê tôi, mùa nào cũng có cá bống. Và, chẳng phải một mình cá bống dừa, có rất nhiều loại cá bống khác, như: bống sao, bống trứng, bống xệ, bống mật, bống cát, bống mú, bống bọt... Nhưng, không có bống nào thịt ngon bằng bống dừa; không có bống nào yêu thương con và thủy chung với cội nguồn hơn nó. Khi tiết trời cuối hạ đầu thu, bống dừa cái vào mùa chịu đực. Nó nhả ra mùi dục tình lan theo dòng nước và từng bầy bống dừa đực bơi ngược theo làn nước đó, tìm gặp và giao phối.

Một bụi dừa nước có nhiều bập dừa, mỗi bập dừa có lõm kẹt dừa, lõm kẹt dừa là khoảng cách giữa bập và bắp dừa, tạo thành cái vũng nước, khi nước ròng cạn nước mé sông. Đây chính là tổ ái ân, nơi đẻ trứng, nở con trong cuộc tồn sinh nòi giống. Mùa trứng nở rộ, cá bống dừa con nhỏ li ti, cơ man nào đếm xuể, nó đeo bám từng bẹ bập dừa đen hị chẳng khác chi đám bù mắc bu cắn ngứa ngái, nổi mận đỏ sần mình!

Mùa trăng trung thu chuyển về đêm 21. Nghĩa là, đêm 21 vào nửa đêm trăng mới mọc, thì bầy cá bống con trưởng thành, nó xa mẹ, xa quê... nó bơi vào cõi tự do, đất rộng sông dài, đến xứ người lập nghiệp. Nó không phải đi ‘’tha phương cầu thực’’ mà nó đi dựng giang sơn mới. Nói nghe thì dễ như vậy, chớ thiệt ra cũng lắm đoạn trường và chết chóc. Kẻ thù trực tiếp của nó là, bọn cá lóc. Kẻ thù tiềm tàng và lâu dài là, lũ cá trê. Cá lóc táp, thường săn mồi trên mặt nước. Cá trê gậm nhấm, săn mồi dưới đáy nước. Cá lóc đi ăn vào ban mai, đầu hôm. Cá trê đi ăn vào lúc hoàng hôn, chạng vạng tối. Hình như bống dừa nắm vững quy luật, đặc tính kẻ thù; nó có thói quen đi ăn giữa trưa và xế bóng! Nó bơi lưng chừng dòng nước, nghêu ngao nơi ‘’góc chết’’ giữa đôi bờ sinh tử. Kẻ thù dù ngó thấy, cũng chẳng thể mần được gì. Bởi, cá lóc bắt con mồi bằng động tác ‘’táp’’ trong trạng thái ‘’động’’của con mồi; cá trê bắt mồi bằng động tác ‘’gậm’’ trong trạng thái ‘’tĩnh’’ của con mồi. Cá bống dừa không có sức mạnh, nanh vuốt để ngăn chặn hay đánh trả kẻ thù. Nó, khôn cũng không; dại cũng chẳng có. Chỉ là, nó ‘’biết’’ để giữ bổn mạng và bảo tồn nòi giống.

Thương những con bống dừa rời quê mẹ đến đất khách, lập nghiệp không thành. Nó không có tập quán quay lại cố hương dù rằng, tận đáy tâm hồn nó không quên cố thổ. Nó chấp nhận cuộc sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’ ở nang tàu mo cau mục, miếng ván bể, miểng gáo dừa khô hoặc chà cây nơi ngọn rạch, hốc vàm...làm chốn dung thân. Sống trong môi trường mới, buộc nó phải thích nghi và vì thích nghi, lần hồi nó thay đổi chất bống dừa: thịt không còn dẻo và ngọt; dáng dấp, màu sắc không còn lưng đen đũi, lườn trăng trắng, mùa thụ thai bụng mang trứng ốc nốc như thời bống đương sống rừng dừa nước. Nhiều khi, nó xa lạ với chính nó, đau khổ biết chừng nào!

Đời mẹ tôi chưa hề có được cục đất chọi chim, nói chi đến ruộng công ruộng mẫu. Vì, không có đất nên mẹ phải làm nghề hạ bạc để sinh nhai; dẫu rằng cái nghề nầy người ta không coi trọng.

Mình mẩy, áo quần, chài lưới còn lấm bùn đất, còn ướt chèm nhẹp thì còn tiền; khô ráo, sạch sẽ thì, tiền sạch trơn. Mẹ mong có dịp đổi nghề nhưng làm gì có dịp để mẹ tôi đổi nghề trong cái xã hội kim tiền đầy rẫy bất công ‘’kẻ ăn không hết, người lần không ra!’’. Ngày đó, tôi non nớt lắm, thiệt thà hỏi mẹ:

     - Sao mẹ muốn bỏ nghề bám sông nước chài lưới?

Mẹ nói, từ ngày ba con bỏ đi, một mình mẹ không cam nổi tay lưới, mái chèo. Vả lại, hồi ông ngoại còn sống, ông ngoại thường dặn:

   - Mần cái nghề hạ bạc, bắt cá sống bán cá chết, nghèo mạt lút đầu. Giàu một đời chẳng có, nói chi giàu đến ba đời.

Sau nầy, tôi sống sông hồ thời loạn, nhiều đêm ăn bụi ngủ bờ, tôi hiểu ra điều mẹ nói và hiểu thêm vì sao người đời bảo: ‘’Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá!’’ Tôi mỗi ngày một lớn, mẹ mỗi ngày một già. Khi tôi lên mười, sức mẹ yếu dần, buông nghề chài lưới và chuyển sang bắt cá bống dừa bằng tay hoặc bằng đặt lọp. Tôi ngây ngô, hỏi mẹ:

   - Mẹ! Có bao giờ mẹ thấy hà bá không, mẹ?

   - Hà bá, hà bạ...gì con! Mấy tay có chữ, tự xưng ‘’nho sĩ, sĩ phu’’ chi chi đó, lấy điển tích Tàu bày vẽ hù dọa dân nghèo dốt chữ cúng bái, thờ phượng. Có thiệt đâu mà thấy! Chẳng qua là tích Phùng Di, một tay có tài trị thủy. Bởi sinh nghề tử nghiệp, ông ta chết chìm dưới sông khi thuyền lật úp. Trời thương, phong chức Hà Bá giữ sông.

Tôi ngây thơ hỏi:

   - Vậy Phùng Di là thần sông hả mẹ?

Mẹ gật đầu cười, nét cười của mẹ tôi ngày ấy trông thật bình yên

Cá bống dừa ngửi mùi thúi bỏ đi, ngửi mùi tanh thì, nửa đi nửa ở. Cái mùi tanh tanh nó như vừa muốn xua đuổi, vừa muốn níu kéo. Và rồi, mùi tanh đó quyến rũ con cá bống dừa bất kể chết sống cũng chui vô. Biết vậy, nước ròng mẹ chặn ngách kẹt bập dừa, thò tay bắt cá bống. Nước lớn, mẹ gài lọp ven mé dừa nước để bắt bống dừa.

Chẻ thân cây sống lá dừa nước phơi một nắng, cắt thành từng khúc dài độ 3 đến 4 tấc, dùng dây lạt dừa bền tròn đường kính khoảng 1 tấc đến 1 tấc 2, sao cho vừa nửa cái gáo dừa khô, khoét lỗ tròn lớn bằng ngón chưn cái hoặc nhỉnh hơn một chút, ngay giữa mặt gáo. Hai đầu lọp, đặt hom phía trong, phía ngoài cài ngược 2 đầu gáo dừa mần nắp đậy lợp. Bống chui vô lọt tót, chạy ra kẹt hom.

Mẹ tách đôi cua đồng dùng làm mồi, treo bên trong giữa thân lọp. Mùi tanh là mùi quyến rủ bống dừa. Từng con thong thả chui vô lọp, sóng nước miên man êm ả, vỗ về!

Cuối đời mẹ sống nhờ bống kèo. Tôi vô tích sự, mãi miết chạy theo mộng, bỏ thực của đạo làm con. Ngày tôi về, mẹ tôi đã ra người thiên cổ!

Chiều nay, một buổi chiều buồn cạn nước sông quê. Tôi ngột ngạt như bống dừa kẹt hom lọp. Mười năm vật đổi sao dời, rừng dừa nước ngày xưa từng là: ‘’Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù’’, nay bị chặt rụng đầu chết sạch bởi, lòng tham vô tận của con người: lấn sông, lấp rạch mần dự án ‘’phân lô, bán nền’’! Rừng dừa nước biến mất, cá bống dừa bị hủy diệt. Giờ thì, bống dừa nhân tạo thay bống dừa thiên nhiên. Và, biết đâu bống dừa nhân tạo chính là mầm chết thuộc về con người được báo trước qua căn bịnh ung thư, cũng có thể lắm chớ!

Tôi sợ tôi biến chất như bống dừa sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’. Tôi run sợ, tôi mất gốc, ngay trên gốc của mình. Một con bống dừa không có tập quán quay lại cố hương

Tôi ngồi trên cây cầu cây de ra bến nước. Buổi chiều trôi chầm chậm, kéo lê từng sợi nắng trải dài bên kia sông. Bỗng dưng chạnh lòng nhớ mẹ, tôi bật khóc sụt sùi.

Tôi khóc mẹ tôi. Tôi khóc tôi hay, tôi khóc cho tàn kiếp bống dừa quê!?

Trần Bảo Định

Cá bống đen, tôm đồng

 

Ngày tôi còn nhỏ sống ở quê, sau vụ chiêm, người nông dân mở cống cho nước mang phù sa vào bồi bổ cho đất đồng cùng với nước từ những trận mưa rào sầm sập sấm chớp ùng oàng của mùa hè châu thổ. Những cánh đồng ngập nước mênh mông và… ở đấy có bao nhiêu điều thú vị theo ta mãi trên những dặm đường đời…

Trên cánh đồng ngập nước, vô số những loài thủy sinh cùng chim chóc như cò, vạc, le le, vịt trời quần tụ… Thế là đám trẻ chăn trâu mê mải những thú vui đánh bắt. Ngày nào cũng vậy, ra khỏi nhà với quần áo cộc, trên tay dụng cụ đánh bắt được làm kỳ công bằng tre nứa; lúc về là giỏ đầy cá tôm, quần áo lấm đất bùn và mái tóc đỏ hoe khét mùi nắng gió. Tôm cá mùa này sẵn lắm, nhà ăn không hết còn mang bán để lấy tiền mua sách vở chuẩn bị bước vào năm học mới. Trên chiếc bè kết bằng cây chuối chống đẩy bằng sào tre lao vun vút đi bỏ lờ cua cá, đó tép; ở các vũng nhỏ thì khom lưng hì hục tát nước bằng chậu, rồi đánh dậm, mò bũng… Không khí thoáng đãng, đất trời mênh mang không bị che chắn, luôn thôi thúc đám “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò” đang kỳ nghỉ hè, đầu trần dãi nắng trên cánh đồng lồng lộng gió nồm nam, đầy ăm ắp nước.

Cá bống đen, tôm đồng rất thích trú ngụ, tìm ăn trong đám rơm rạ đang mục dần; ở đó có nhiều con ốc vặn, tép riu, trùng nước… là món khoái khẩu của cá bống đen và tôm. Cá bống đen, mình đen trũi, bóng nhẫy, bụng màu vàng nhạt luôn phè ra hai bên vì phải mang bao trứng to kềnh trong bụng, nhìn những trứng là trứng. Cá bống đen chỉ to bằng ngón tay cái, béo mũm mĩm lại ngắn tũn nên được gọi bằng cái tên thân mật là cá bống mít; chúng thuộc diện “mỏng mày, may hạt”, ai cũng thích mê. Tôm đồng, con cái to bằng ngón tay, mình rắn đanh, trên đầu mang trứng non, dưới bụng ôm ấp bọc trứng màu xanh xám. Con đực to hơn với hai chiếc càng dài giáo mác dũng mãnh. Con tôm đực chúng tôi gọi là tôm chà. Với tôi, tôm trứng và cá bống đen là một cặp bài trùng. Nói đến bống đen là nghĩ ngay đến tôm đồng và nói đến tôm đồng là hình dung ra mấy chú bống đen phồng hai mang nằm bên cạnh. Vì vậy trong niêu rang, hay kho cá bống đen thế nào cũng có cả tôm trứng màu đỏ như son, cái lưng cong cong.

Cá bống đen tinh ranh lắm, thấy động nước là ngúc ngoắc đuôi, xòe hai vây rộng như hai chiếc quạt, lẩn trốn; loài cá này câu không thèm cắn, bỏ lờ, bỏ đó không chui vào, muốn bắt chỉ có mò tay cùng chiếc bũng to, miệng rộng, lòng sâu hỗ trợ mò mẫm, dồn đuổi chúng vào bụng bũng, nhưng mỗi lần cất lên cũng chỉ được một vài con, còn lại chúng lẩn nhanh như trạch. Sau trận mưa rào nước mát lạnh, chúng thường thích thú nhào lộn xung quanh đám bèo hay đụn rơm rạ mục. Tôm, ngoài việc đánh bắt bằng bũng người ta còn dùng vó tôm, chỉ cần có mồi cám rang thơm dẫn dụ là loại háu đói này vào ăn ngay. Nhẹ nhàng cất vó lên, hắt chúng vào chiếc rổ có đặt ít lá tre để chúng không búng bật ra ngoài.

Đặc sản của vùng chiêm trũng có lẽ phải kể đứng hàng đầu là cá bống đen và tôm trứng. Cá bống đen thịt dày rất thơm, nhỏ xương. Tôm trứng giòn, dai ngọt sâu, đậm đà, rất bùi vì có trứng ở đầu và bụng. Có rất nhiều cách chế biến 2 thứ này thành món ngon ăn với cơm. Món ăn quen thuộc và dân dã là cá bống đen kho tương cùng tôm trứng. Cá bống đen vảy nhỏ nên không cần phải đánh vảy, rửa sạch để ráo nước rồi xóc muối cho cứng con cá; con tôm cắt râu và mỏm đầu, nặn bỏ ruột. Khi kho mặn cho thêm nước tương hoặc nước mắm cho dậy mùi. Niêu kho tôm cá sôi kỹ, cạn nước, đậy nắp thật kín mang ủ vùi trong tro trấu đang cháy âm ỉ; khi bắc niêu kho ra, đáy niêu cạn khô, thơm phưng phức. Cá bống đen kho niêu đất và phải ủ trong tro trấu mới ngon, mình con cá rắn đanh lại; cắn một miếng thấy lan tỏa trong miệng vị béo bùi, ngọt đậm và thơm lựng, sự cộng hưởng vị ngọt của cá, bùi béo hai bọc trứng với vị ngọt nước tương cô đặc tạo lên cái ngon đặc biệt. Trong sự kết hợp mùi vị ấy, còn có sự tham gia của mùi khói trấu làm tăng độ hấp dẫn đến lạ lùng của cá bống đen kho niêu đất. Mở vung ra, chỉ mùi tôm cá kho thôi cũng khiến ta tứa nước miếng. Ăn cơm gạo hom với cá bống và tôm kho mặn ngon lắm lắm. Gạo hom hạt ngắn, mập nấu lên cơm dẻo như gạo nếp hương và có mùi thơm gạo tám. Cơm này ăn với cá bống đen kho mặn, các giác quan của ta cứ như được đánh thức, vô cùng thích thú.

Đĩa cá bống đen màu hổ phách, tôm trứng đỏ tươi rắn chắc đặt trong mâm cơm phối cảnh cùng rau muống luộc, quả cà muối giòn… quả thật hình ảnh ấy sao mà in sâu trong tâm trí những đứa con của đồng bằng châu thổ…

Chung Tiến Lực

Triều lên săn cá bống dừa

Tôi vẫn còn nhớ như in cảm giác trưa nắng oi ả, bên bờ sông Tiền mênh mang sóng nước, một mình ngồi đợi phà ở cù lao Tam Hiệp để sang bên Chợ Gạo. Cảm giác hiu quạnh vắng vẻ miệt cù lao đã được rộn lên bởi tiếng cười trong trẻo của mấy đứa trẻ đi bắt cá bống dừa.

Được coi là đặc sản vùng sông nước Cửu Long, cá bống dừa không to nhưng thịt chắc, thơm và có vị rất khác với các loài bống thường. Tuy nhiên, để bắt được chúng cũng khá khó khăn, phải lựa theo từng con nước lên xuống bởi môi trường sống ưa thích của cá bống dừa chính là những rặng dừa nước ven sông ngòi kênh rạch.

Theo đó, cứ khi con triều lên, thợ săn bống dừa sẽ dải bẫy làm bằng lưới đan mắt nhỏ dọc theo triền sông. Khi nước rút, cá bống dừa đang tìm thức ăn là lá mục, thủy sinh vật, trái chín rụng ở ven bờ sẽ theo dòng triều đi ra, bị mắc lưới. Nói thì vậy nhưng để săn được loài cá tinh khôn này, những cái bẫy bằng lưới phải được đan và đặt khá cầu kỳ.

Khác với nhiều loài cá, để bắt được bống dừa, ở vùng hạ lưu sông Tiền quanh cù lao Tam Hiệp người ta phải đi săn chứ không câu vì chúng rất tinh khôn. Cụ thể, với chế độ bán nhật triều, mỗi ngày con nước lên xuống tới 2 lần, mỗi lần chừng hơn một giờ đồng hồ. Đó cũng là thời gian để thợ săn cá bống dừa vào cuộc.

Bên cù lao Tam Hiệp ở mé sông Tiền, bọn trẻ - những thợ săn "nhí" trong buổi chiều đi giăng cá bống dừa kể, khi nước rút, rất nhiều chú cá bống dừa mải kiếm ăn không theo kịp, bị giữ lại giữa những vùng bùn nhỏ, những bọng dừa nước… và đó chính là những chú cá to như trái đậu bắp, béo nùng nục nằm gọn trong chiếc giỏ đan bằng tre cật kia. Có lẽ, chiều nay những đứa trẻ nghèo này sẽ có một bữa ăn ngon, với món cá bống dừa kho quẹt, cùng lấm lem bùn đất tuổi thơ miền sông nước.

Nhưng đó không phải là lần duy nhất cá bống dừa làm tôi nhớ mãi bởi sau này, trong một lần rong ruổi dưới tán rừng sác ở bán đảo Cần Giờ rộng lớn, tôi cũng bắt gặp những thợ săn cá bống dừa. Khác với mấy đứa trẻ ở cù lao kia, anh Lậm, thợ săn bống dừa vùng Lý Nhơn, Cần Thạnh coi đây là một sinh kế chính của gia đình. Ngồi trên chiếc ghe gỗ mỏng mảnh, người đàn ông nhìn đen đúa nhưng lương thiện nói cười đôn hậu: “Hơn mười năm qua, ngày nào cũng hai bận, tôi dải hơn trăm mét lưới dọc các cửa sông, rồi ngồi đợi triều xuống đi nhấc lưới. Trong đó, cá bống dừa là thành quả chính. Trước bống dừa nhiều thì giá lại rẻ. Bây giờ, giá cao hơn chút thì cá lại ít đi, có ngày đi hai bận mà chưa được ký cá.

Gặp người săn cá bống dừa thì nhiều nhưng chỉ duy nhất một lần tôi được ăn loài cá này. Đó là một chiều oi ả tình cờ khi nghỉ lại bên Gò Công Đông, tạt vào một quán cơm ven đường để ăn chút gì sau một ngày rong ruổi. Chủ quán, một bà lão áng chừng hơn 60 nhưng còn minh mẫn, khá mập mạp cười bảo, quán còn mỗi cá và thịt kho, ăn con nhé. Tôi ậm ừ gật đầu mà không nghĩ rằng, đó là một trong những bữa ăn ven đường đặc biệt nhất mà mình từng thưởng thức. Một dĩa cá bống với thịt kho.

Những miếng thịt ba rọi thái “ngô nghê” to hơn nhiều ở những quán ăn trên Sài Gòn cùng với mấy con cá bống kho tiêu. Thịt cá thơm, cộng thêm vị ngọt béo của thịt đã tạo thành món ăn giản đơn mà đậm đà. Và, như để cho bữa ăn thêm gia vị là một tô thật nhiều những rau, bông đủ màu xanh, tím, vàng, trắng… ăn kèm với món bống kho tiêu ba rọi kia. Rất lâu sau này, tôi vẫn còn nhớ bữa cơm tình cờ ấy nhưng thật buồn, rất lâu rồi mình không có dịp quay trở lại con đường ven biển Gò Công Đông ấy để táp vô cái quán có mấy chậu bong trước cửa cùng những tán dừa khô lợp sơ sài…

Hiện nay, cá bống dừa có ở nhiều nơi bởi nghe đâu, người ta còn nuôi nhân tạo được loài cá này. Bất giác tôi nhớ đến những đứa trẻ nghèo của buổi trưa cù lao và tiếng thở dài của người đàn ông lương thiện bên vùng báo đảo. Dường như, cái sinh kế nhỏ nhoi của họ cũng đang ngày một bị đe dọa và không biết chừng, đã không còn là cứu cánh để nương nhờ cuộc đời mình vào đó cùng những chú bống dừa tinh khôn nữa

 Hình, bài Đoàn Xá

Đong đưa bống dừa...

Với tôi, thịt bống thân quen như hơi thở. Thuở còn bú mớm đã nghe tiếng hát ru: “… Bậu  gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Bậu ra bậu lấy ông câu. Bậu câu cá bống, chặt đầu kho tiêu. Kho tiêu, kho ớt, kho hành. Kho ba lượng thịt để dành mà ăn”...

Hồi mới tập ăn dặm, đã sớm làm quen với những muỗng cơm nhai nhuyễn thịt bống dừa hay bống cát. Tuổi nhỏ chuyên mê chơi, ưa trốn ngủ trưa, đầu trần dang nắng, để nửa đêm nóng sốt mê man. Chớm khỏi bệnh, vẫn là những muỗng cháo lềnh thịt bống, đong đầy tình mẹ!

Nhớ bống cố hương

“Trọng trọng” một chút, 12 - 15 tuổi, tôi đã háo hức cùng đám bạn cùng xóm nghèo, ven biển Đám Lá Tối Trời (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), lội bộ mấy cây số đặt lọp, thục hang, câu cá bống dừa, bống trứng… phụ lo bữa cơm chiều.

Thời đó, khoảng 30 năm trước, sông rạch Soài Rạp dư giả cá tôm. Mỗi đứa chúng tôi, lặn lội khoảng vài ba tiếng đã nghe nằng nặng giỏ, từ nửa ký đến 1kg cá, dư ăn cả nhà

Nếu muốn xúc hoặc thụt cá bống trong hang, phải đợi  những ngày con nước kém, canh lúc con nước ròng sát. Men theo những ngọn rạch ngoằn ngoèo, um tùm những tán cây giá, mắm, dừa nước… de ra giao ngọn.

Có vũng rộng cỡ cái mâm, ngầu đục, sâu hơn tấc nước, quần tụ ba - bốn “trự” bống dừa đen bóng, có con gần bằng ngón chân cái người lớn. Người bắt chỉ cần khom lưng, khéo léo dùng hai tay nắm chặt miệng rổ, xoay tròn, tạo một lực hút xoáy đủ mạnh để cá bị cuốn vào lòng rổ (còn gọi chao). Cách bắt này, thường đơn lẻ hoặc sánh đôi hai người đi cặp một mương, không vui bằng câu.

Đi câu, thường theo nhóm năm, sáu người, chuyện trò rôm rả hơn. Mồi bén của lũ bống thường là thịt tép (bạc hoặc đất nhỏ) hay mồi trùn. Với mồi tôm, cá ăn nhạy hơn nhưng rất hao mồi. Khi thấy cục phao câu (bằng nhựa hoặc cờ bắp khô) chìm xuống, chạy xa gần một tấc, người câu chỉ cần gặt ngang- mạnh vừa phải, rồi nhanh tay kéo lên. 

Nay, lượng cá bống cố hương đã thưa thớt dần. Mặc dù vậy, vẫn còn những người bắt cá bống mưu sinh.

Giai tầng nhà bống

Trước nay “phẩm hạnh” con bống lọ lem luôn được xếp chiếu dưới so với  bống cát - thịt luôn chắc, ngọt hơn. Phần do “cơ địa” bống đàn anh ưa vùng vẫy nơi tầng đáy, phần thích khoét hang sâu ở vùng cửa sông, thường có nước xoáy để phục con mồi (cá, tép, cua con…). Kiểu như, con bống thệ, ưa sống nơi hợp lưu Hương Giang vậy.

Bù lại, hợp tấu món ngon, món mới bống dừa cứ thi nhau nẩy nở trong dân gian. Và để tránh đơn điệu, buộc những thím Ba, chú Bảy phải vắt óc suy nghĩ món mới thật hấp dẫn.

Còn anh lớn bống cát, thường quanh quẩn với các món kho tiêu, nấu cháo, hấp. Cần nói thêm, con bống đen sống được cả nước ngọt và lợ. Ở  những vùng nước lợ như Trà Vinh, Cần Giờ (TP.HCM), Gò Công Đông (Tiền Giang), thịt cá thường dẻo chắc và ngọt “bạo” hơn miệt nước ngọt: Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ… 

Nói nào ngay, thịt đám bống lọ lem kia vẫn có độ bở nhất định, do chúng thường an phận ở những vùng nước cạn, dòng chảy lờ đờ. Tuy vậy, gặp đầu bếp khéo tay, hiểu rõ ngọn ngành con bống vẫn có những bữa ăn thần tiên.

Mộc mạc tình quê

Hãy bắt đầu với món mộc, già cỗi vẫn chưa lỗi thời: nướng lá chuối. Ướp với ít muối ớt giã cùng tí bột ngọt, tiêu và rất ít nước mỡ heo hoặc dầu ăn. Gói lá chuối, nướng lửa than. Hoa mỹ hơn, còn gọi món “bống dừa spa”.

Nhớ đợi cá thấm gia vị khoảng 15 phút. Gói hai lớp lá chuối. Chọn lá chuối sứ (xiêm) hoặc chuối hột sẽ dễ gói hơn chuối già, do có độ dẻo nhất định. Lớp trong là lá chuối non tơ. Lớp kế, chọn lá dày dày (không già, không non). Muốn lá chuối mềm dẻo như ý, chỉ cần bạn hong nhanh hai mặt lá qua lửa than hoặc bếp ga. Riêng lớp ngoài cùng là giấy bạc.

Nướng đều hai mặt, 18-20 phút thì cá chín. Cẩn thận giở lớp giấy bạc ra. Chịu khó hong lại lửa than từ nóng vừa xuống còn âm ấm.Vẫn trở đều hai mặt, để tinh dầu lá chuối và nước ngọt cá rút ngược trở lại, ám chặt vào thịt da cá.

Nướng điệu nghệ, những sớ thịt cá trắng tươi, mỏng manh sẽ co rút lại, thêm săn chắc.

Ấn tượng nhất là mùi thơm lan tỏa, dìu dịu gợi nhớ đồng quê đến nao lòng, lúc mới giở lá ra. Tinh dầu lá chuối tươi sục sôi cuộn trào với chất béo ngọt của mỡ heo và mỡ cá (chủ yếu từ gan bé tẹo), rồi ám khói than đước rực hồng, hòa quyện thành một làn hương vừa nồng nồng vừa ngai ngái mùi khói đốt đồng trộn lẫn mùi khói rơm cơm chiều nồng cay. Sướng thấu trời, rượu mềm môi mà chẳng thấy say! Nhưng vẫn chưa là gì so với “bống dừa túy quyền”.

Nửa tỉnh nửa say…

Cái thần của món nằm này ở chỗ, đạt đến sự phối kết uyển chuyển giữa men rượu nhẹ (nước cơm rượu hoặc bia) với nhựa trái chuối chát và con bống cong đuôi. Có hai cách để đúc ra dạng bống giả thệ kia. 

Cá sau khi làm sạch, để ráo, ướp lạt với muối ớt, cỡ 15 -17 phút. Vớt ra, phơi độ 3 - 6 giờ, tùy nắng. Hễ bóp nhẹ vào mình cá nghe cứng tay là được. 

Cách thứ hai, lấy cá đã ướp sơ đem hong trên lửa than, nếu gặp ngày mưa bão

Phần nước xúp chủ đạo, cỡ một chén nước dừa dâu lửa hoặc dừa xiêm. Thêm 2/3 ly bia, 4-5 trái chuối sứ chát cỡ gần bằng ngón chân cái người lớn + rau răm + lá quế xắt ba sồn + sả bằm, vài củ hành tím + 1 chén nhỏ mè rang giã nhuyễn + 1 muỗng canh dầu ăn/mỡ heo. Lượng: 500g bống dừa. Với ít nước tương ngon, muối, bột ngọt, ớt chim/hiểm. Nêm nếm tùy khẩu vị. Chuối, gọt sọc dưa, bỏ bớt vỏ xanh. Xắt dọc, cắt khúc vừa gắp. Xả mủ bằng nước cốt chanh pha nước muối loãng. 

Đốt cách thủy tại bàn, đựng bằng “chiếc xuồng” inox (lập là). Ban đầu, tắm nóng cá bằng bia trước. Năm phút sau, rưới nửa chén nước dừa vào, thả luôn chuối xanh. Bảy phút sau, đã nghe thơm liêu xiêu. Ban đầu là hơi men la đà. Nối đuôi, chuỗi hậu vị hăng đắng, nồng nồng cũng rồng rắn bay theo. Cho mè vào, sôi bùng, nêm nếm lại. Buông rau răm + lá quế sau cùng. Nhớ canh lượng nước tổng thể vừa xâm xấp mình cá. Lửa riu riu... Một khi nhựa chuối, men bia cùng thịt cá… trao gửi hết cho nhau, mùi béo thơm thanh mảnh trỗi dậy tưng bừng!

Thịt cá, ngoài chất ngọt bùi nguyên sơ, còn được bọc lót dư vị đăng đắng nhè nhẹ của bia. Mặt khác, một khi nhựa chuối “hùn hạp” với men bia, kỳ cọ, tẩy trần, da thịt con bống chân quê bỗng vọt lên lên hàng mỹ thực. Cũng có người muốn phá cách, chêm vào vài muỗng tương hột (loại mặn) giã ba sồn. Còn muốn lai hơi hướng bống thệ chen “cơm” dừa cứng cạy (rám) lấn thịt ba rọi kiểu quý tộc Huế, cũng chẳng ai cấm! 

Kho chỉ - ngon thần thánh!

Vẫn cốt liệu bống dừa phơi dốt dốt, chọn cỡ đầu ngón tay út đến ngón trỏ người lớn, sẽ dễ uốn nắn và mau thấm gia vị hơn. Cơm dừa rám, thịt ba rọi, rau răm thì không thiếu ở miệt vườn châu thổ.

Cái khó là kiếm được cỡ nửa chén nước cơm gạo lứt, gặp gạo nàng hương càng tuyệt cú mèo. Nêm rỉ rả lượng nước đó vào nồi cá kho, lúc sôi dạo nhì.

Thành quả sau cùng là, nồi bống kho “chỉ” óng ánh màu hổ phách. Dùng đầu đũa tre chấm xuống đáy nồi, kéo lên thong thả - bạn sẽ bắt gặp một lằn chỉ nhỏ vàng nâu, toòng teng đánh đu theo.  Từng giọt nước cá thơm bùi, sóng sánh tựa những tinh thể mật ong ruồi thiên nhiên. Thử quẹt với dĩa gỏi cây chuối non xắt nhuyễn + đọt me non + rau muống bào + đọt keo… hoặc luộc cả rổ đọt thập cẩm vun ngọn: chùm bao (nhãn lồng/lạc tiên), khoai lang, rau muống, đậu bắp (bắp tây) lún phún lông tơ… Gặp mưa lất phất hay tiết trời se lạnh, kể như tê tái cõi lòng!

Lãng du cũng khá, nếm trải sơn hào hải vị không ít, thế mà thằng tôi vẫn chưa thỏa. Chợt một ngày, cái đuôi con bống dừa tần tảo quẫy khẽ trong vòm miệng như nhắc khéo: muốn ngon phải thuần tự nhiên.

Nếu quả vậy, ông bà ta thuở xưa ăn uống khôn ngoan hơn đám hậu sinh đến mấy bậc!

 Bài Tạ Tri, ảnh Tấn Tới










Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2021

Nhạc - Thơ - Văn Chuyện con Hến


GỬI NẮNG CHO EM

Nhớ Hến ?!

Nhớ lại cảnh quê xưa,
Nhớ cơm ngày mẹ nấu...
Bao cực khổ sớm trưa,
Mồ hôi tuôn đẫm áo.
Hến xưa cứu đói bao người,
Nâng đời cơ cực tạo đời sống vui..!
Vỗ về quên bản thân thôi,
Biết bao kỹ niệm xa xôi trong đời ?
Giờ đây có nụ cười tươi,
Có ai còn nhớ "kiếp người" thuở xưa ?!
NM

Hến làng thuở ấy

Trước khi viết về con hến, thiết nghĩ cũng nên tào lao mấy chuyện về mấy loài nhuyễn thể dưới đáy sông.

Trước năm tám tuổi, khi còn ở phố, tôi chỉ biết có loài hến. Mạ đi chợ về, đổ hến ra cái thau, hến nằm ngổn ngang màu vàng vàng đen đen, tròn tròn, to bằng ngón tay cái. Ngâm một buổi thì những con hến thè cái lưỡi màu sáng xanh ra ngoài, như nếm thử cái thứ nước trong thau có uống được không, mà cũng có thể là nó đang thở. Những cái lưỡi mảnh mai ấy, có thể xem miệt mài không dứt, như thể chúng đang vẽ những bức tranh bí mật. Nhiều khi tò mò, tôi thò cả ngón tay chạm vào cái lưỡi mảnh mai ấy, lũ hến lập tức rụt cổ, khép chặt miệng lại… Cũng nhiều khi tôi thử nhưng cũng có những con không chịu khép, phải đứng dậy giơ chân đá cái thau một phát, chúng mới chịu khép miệng lại, như thể vừa có một trận động đất mù khơi…
Nhưng sau tám tuổi, sau 1975, cả nhà tôi rời phố về làng, chiều chiều tôi đi theo lũ bạn chăn trâu, mới biết trong bãi trâu nẹp tắm táp buổi chiều, có thêm một loài nhuyễn thể rất lớn, lớn có khi bằng cả bàn tay con nít, đó là con bọp bọp. Thuở ấy không ai ăn bọp bọp, vì thế chúng sinh sôi rất nhiều, cứ dẫm chân xuống bùn là bắt được. Từng chiều lẽo đẽo đi theo đuôi trâu dưới bãi sông, tôi bắt được hàng chục con, hình dài dài, màu đen đen. Vỏ ngoài xù xì xấu xí tàn tệ, nhưng tách đôi thân chúng ra, bên trong lại óng ánh long lanh mang một thế giới sắc màu khác hẳn. Như thể nó đang vẽ một bức tranh lạ lùng, hay tạo hóa bí mật giao bức tranh kỳ lạ cho chúng cất giữ.
Vài năm sau lớn lên, tôi đã thử tìm dọc bờ sông, nhưng không hề thấy chúng ở đâu khác, cơ hồ như cả con sông, chỉ có bãi trâu nẹp từng chiều mới có loài bọp bọp ấy. Có lẽ ở bến trâu mẹp ấy, mới có loài bọp bọp, và chúng đã ăn bùn phân trâu mà lớn.
Cũng từ khi biết đến nhà hàng ở phố, lại biết thêm loài nhuyễn thể có tên là trìa, trìa hấp sả, trìa nướng, trìa xáo rau răm, trìa nấu canh kiểu Thái Lan… Độ nhậu nào tôi cũng thích gọi món trìa, thơm tho mùi sả chanh, húp muỗng nước thấy lòng dạ nở nang như chính con trìa nó hiểu được thấu ruột gan mình. Rồi là bao nhiêu thứ sò, sò lụa, sò lông, sò huyết… Ăn sò, đừng dại đổ tất tật vào nồi. Cứ lấy một cái xoong đặt lên bếp lửa, cho chai bia vào, thêm ít ớt gừng tỏi, ăn con nào nhúng vào nước sôi con ấy, chín vừa tới gắp ra, ăn ngọt và nóng bỏng lưỡi, hết cuộc nhậu nhiều khi vẫn còn vài con sò sống trên dĩa, mà miệng mồm đã ca hát tung trời…
Nhưng vì sao lại là hến ám ảnh chứ không là những loài hai mảnh đắt tiền khác? Không phải vì Huế có món cơm hến được coi là món ăn dưỡng sinh số một rau nhiều thịt ít, đến mức nó đã được làm khô như mì ăn liền, gọi là cơm hến ăn liền. Cơm hến ăn ngon chủ yếu nhờ cái nước ngọt lừ, cơm hến ăn liền dù cố công lọc ruốt nhiều chi đi nữa, cũng nhạt thếch vô hồi, như là thứ để người xa Huế có chút hương vị để đỡ nhớ quê xưa…
Nhắc đến hến vì như thể nó đã di cư vào trí óc tôi và nhiều người trong làng, nằm lì ở đó, lập khu tự trị, từ những ngày ấu thơ. Đơn giản bởi hến là loài cứu đói. Những năm làng đói, trước sau 1980, mấy nghìn cái miệng háu đói của làng nằm trên những thân xác xơ rơ, như thể giơ cả xương ra nắng mặt trời, lòi hết cả sắc màu tím tái trong mưa lạnh mùa đông. Mấy nghìn cái miệng ăn hết cả đồng lúa vặt vẹo, ăn hết cả đồng khoai đồng sắn, ăn hết cả bao nhiêu rặng măng tre, ăn hết cả rau dại, củ chuối, bắp ngô xay hạt cứng hầm đến ba ngày ba đêm không nhừ... Kể lúa bắp khoai sắn cho nhiều, chứ hồi đó làm hợp tác xã, làm tập đoàn, hết mùa là hết lúa hết bắp, lấy đâu ra mà ăn. Thuở đó trong cơn đói, làng ăn như một cơn lốc, đi tới đâu sạch sành sanh thức ăn đến đó. Đến mức tới bữa ăn, chỉ còn một nồi nước sôi lõng bõng, rau tập tàng xắt nhuyễn thả vào, rồi rưới bột sắn vào khuấy lên, nhà có điều kiện còn thêm tí ruốt tí mỡ cho thơm, nhà con đông nghèo kiết xác chỉ việc vậy thôi, dắt xoong xuống bếp, cả chục cái mông kê đòn tre lết lại ngồi quanh, giơ chén chờ người phụ nữ đảm đang múc lưng bát mà húp xì xà xì xoạch… Nhớ lại những cảnh này, không khi nào tôi không khóc, người bồn chồn đứng lên ngồi xuống như mình vừa xem xong cuốn phim chưa bao giờ thấy chiếu trên màn hình, mà đạo diễn đã vứt nó đi đâu.
Một hè nọ, ăn sạch sành sanh các thứ, mấy nghìn cái miệng trong làng ngơ ngác. Chợt một người nhớ ra, dưới sông có hến rất nhiều, cả một mỏ hến âm thầm nằm ở đáy sông chưa được khai quật. Thế là nhà nhà mang rổ rá xuống sông lặn hụp. Hít một hơi lặn xuống, dí vành rổ vào đáy sông, lùa bùn vào, bưng cả cái rổ bùn lên đảo sách, trơ ra những con hến nón hến tra, đổ cả lũ vào thau vào nồi. Sông Bồ dạo ấy trong vắt, từng sáng từng chiều bỗng đục ngầu vì người ta thi nhau lặn hến. Nhiều khi chỉ lặn có một tiếng đồng hồ, thằng con nít mười hai tuổi như tôi mà cũng lấy được một thau hến đầy. Không chỉ đàn ông, đàn bà cũng đi lặn hến, nước sông đánh lật cả mấy tà áo và đám tóc dài xõa lòa xòa dưới sông như rong cỏ nước lùa…
Hến đem về nấu canh rau muống, canh dưa chuối, xào rau bí, xào môn, xào mướp đắng mướp ngọt… Qua ngày qua ngày qua ngày. Làng như tươi lại, mấy cái miệng câm nín như hến bỗng nhiên nở được nụ cười tưởng đã bị nỗi sầu ảm đạm cơm áo cuốn đi. Thức ăn từ đó cơ hồ cái gì cũng cho hến vào. Nhưng ngon nhất có lẽ món cháo hến nấu sắn. Sắn củ vừa nhổ xong, lấy bàn mài mài thành sợi, rồi nấu cháo hến như nấu cháo hến với gạo, xắt thêm mấy cọng lá sân, lá lốt, có hành ngò là thành món ngon vĩ đại. Thơm nưng nức, thơm nở nang, thơm như ai nông cả cái mũi mình ra để mà thốc cái mùi thơm vào, tha hồ hít hà. Sắn thường khi ăn nghẹn đến mấy tầng mây, giờ trôi vào cổ họng như uống cốc nước chanh mùa hè, có khi còn hơn thế nữa…
Mười bốn tuổi tôi xa làng lên phố, tưởng xa được cái đói, ai ngờ bếp ăn học sinh trường chuyên còn đói hơn, bữa ăn toàn sắn lát khô cứng ngắc hầm cả tấn than đá cũng không chịu mềm cho, phải vứt hết ra bàn ăn mà liếm mấy hạt cơm, người thắt lại như sợi dây, đau ốm vặt vẹo, vậy là lại về làng, rau cỏ sang ngày mà vẫn hồi sức, chắc chắn là nhờ có hến.
O tôi nói, sau này tụi bây sinh con nhớ đặt tên là Hến. Hến Chị, Hến Em, Hến Đen, Hến Vàng…, mấy cái tên cũng hay đó chứ, hơn đứt mấy cái tên xưa: Trâu, Chó, Bẹp Chị, Bẹp Em, Đùm Anh, Đùm Em… Ấy vậy mà khi tôi sinh con, không dám đặt tên Hến cho đứa nào.
Có thể tôi xấu hổ cho con vì mấy cái tên đó không còn hợp thời, cũng có thể tôi quên bẵng đi cái chuyện đặt tên Hến sau bao nhiêu ngày lang thang tang bồng cho đến khi viết mấy dòng này mới nhớ ra, mà cũng có thể tôi đành đoạn dứt bỏ quá khứ một thời ảm đạm với cái đói quay quắt. Ai mà biết được, tôi còn không biết huống hồ ai…
29/8/2016
Phù Sinh
(SHSDB22/09-2016)
Gởi chút nắng,
Gởi chút nắng cho sông,
Gởi chút tình cho Đủi...
Quay nhìn ra lối nhỏ,
Thương lắm phận đời trôi!

Cũng vẫn rặng tre dài,
Cùng lối đi bằng đất.
Nỗi buồn nào chất ngất ?
Thầm hỏi ai nhớ ai ?!

Trên sông chỉ còn nắng,
Không dạt lục bình trôi...
Ngày về thôi xa vắng,
Chỉ còn nhung nhớ thôi !!
NM

Gửi nắng cho sông

- Chiều nay dì Tư sao không ra bãi cào hến?
Hoàng hỏi người phụ nữ đang vãi thóc cho bầy gà nơi gốc ổi mà mắt vẫn nhìn ra mặt sông loáng nắng rồi chậm rãi mồi thuốc. Cũng bình thản như Hoàng, dì Tư đập nhẹ vành thúng cho rơi hết những hạt bên trong trước khi đem ra chái nhà lợp bằng lá dừa để cất. Lúc quay lại, mắt nhìn ra sông, miệng trách:
- Thằng hỏi lạ, mùa này nước lớn làm gì có dắt, hến.
- Ừ há, con quên.

Gửi nắng cho song - Truyện ngắn Thạch Thảo

Hoàng cười khỏa lấp, mắt vẫn nhìn sông. Mùa này nước đang lên cao, không rõ nước sông hay nước biển tràn vào. Đợt lũ vừa rồi còn đọng lại vệt bùn ngang gốc ô rô, phủ qua đám cóc kèn hoa trắng, vài vũng bùn còn đóng váng nơi Hoàng ngồi.

- Chừng nào mày vào trỏng?

- Mai giỗ nội, mốt con đi, đợt này chắc lâu về nghe dì Tư.

Không nghe nói gì, Hoàng quay nhìn thì dì Tư đã vô trong nhà. Anh lại nhìn sông, nắng chiều lấp lóa đổ dài, nước vẫn xuôi xuôi về phía cây cầu có từng nhịp đôi bờ đang xây dở. Bên kia là phố, gần lắm, thấy rõ từng mái nhà và cả người qua lại, cả màu sắc quần áo, xe cộ. Còn bên nay, là doi cát phù sa rộng nằm giữa hai nhánh sông. Đoạn cuối doi cát là xóm Đủi, nơi Hoàng đang ngồi, đang nghe óc ách sóng vỗ bờ. Ban đầu, anh phì cười vì cái tên xóm hơi kỳ cục. Mãi sau mới biết, xóm Nhủi nhưng bị đọc lệch âm ngữ. Nhủi là từ dành cho dân cào dắt, hến lúc nước ròng kéo nhau ra bãi sông nhủi cát. Cái nghề tận cùng sông nước đầy cực nhọc mà đợi từng dòng cạn là khom người mò mẫm từng vốc cát cho vào thúng mủng sàng lọc bắt hến; người ngâm trong nước da dẻ bợt bạc, áo quần mốc thếch, miệng mũi luôn cận kề mặt sóng vỗ ì oạp. Sau nhủi là cào sạn, cũng ghe với thúng. Xóm Sạn thì ở xa ngái trên kia, vẫn đợi mùa nước cạn để vào mùa nhưng chỉ dành cho đàn ông sức khỏe vững chãi kẻo sụp hầm, mà sông sau mỗi mùa lũ xuất hiện vô vàn hầm hố như địa võng để sạn trôi về lắng vào trong ấy.

Hoàng đưa mắt nhìn bụi tre có ang nước gắn chiếc gáo dừa bên bụi chuối đang phe phẩy tàu lá rồi nhìn chiếc ghe đi ngang có đôi vợ chồng đang cúi người kẻ chèo, kẻ múc nước khuôn mặt khuất trong nón lá. Gần mười năm kể từ lần biết dì Tư thì bên này vẫn vậy, còn bên kia nhà áp liền sông với bờ kè đá hộc vững chải, bởi nơi ấy là đất phố.

- Trong đó mày hay gặp cha Sáu cà lết? - Dì Tư đã ra đứng bên Hoàng.

- Có mỗi đận con xuống An Hiệp, ổng nhắc dì hoài, hình như...nhớ dì dữ lắm! - Hoàng cười cười nheo mắt nói thêm:

- Ổng gửi cho dì chai dầu dừa vì tóc dì làm ổng nhớ hoài, cứ dùng thả ga đừng để dành như mắm...

- Quỉ tha ma bắt mầy nghe Hoàng!

Hoàng bật cười khà khi thấy dì Tư đang đỏ mặt, lúng túng xua bầy gà con đang theo mẹ vào tận chân võng nơi dì ngồi.

- Thiệt mà dì, con để trong xách kìa.

Không nhìn dì Tư đang cúi mặt, một tay nắm quai võng, một tay đưa lên mái tóc đã nhuốm bạc. Hoàng quay nhìn ra lối ngõ, cũng rặng tre dài, cũng lối đi bằng đất nện đến sát thềm gạch có hàng so đũa kề giàn đậu ngự. Bao nhiêu năm rồi ở đây vẫn vậy, có khác là mái ngói đỏ thay mái tranh ngày cũ. Thoảng trong gió, tiếng dì Tư ngập ngừng hỏi Hoàng:

- Ổng khỏe không mầy?

- Dạ, bình thường, vẫn lai rai ba xị và nhắc dì hoài chuyện...ngày xưa xa lắc.

* ***

Trên chuyến tàu từ thành phố về quê nhà, Hoàng cùng chú Sáu ngồi cạnh nhau nơi băng ghế. Thời ấy, cũng chẳng lâu mà tàu chạy cà rịch cà tang đến ga nào cũng dừng, chờ đỏ mắt mới kéo còi chạy. May mà có chú Sáu chuyện trò nên anh quên cảm giác mệt mỏi, quên thời gian dài lê thê của cuộc hành trình. Té ra, chú Sáu từng ở vùng đất Hoàng sinh ra nơi có dòng sông và tháp cổ. Còn giờ thì chú ở tận Bến Tre nơi dòng Hàm Luông và những vườn dừa.

- Qua từng ở vùng đất của cậu, lúc ấy qua là lính chủ lực xuống đồng bằng phối hợp với địa phương đánh địch.

- Vậy lần này chú về ngoài ấy thăm đồng đội và chiến trường xưa? - Hoàng hỏi.

Chú Sáu chỉ cười nhẹ rồi kéo cao ống quần chỉ nơi khoeo chân có vết sẹo dài nhăn nhúm, nói nhỏ :

- Kỷ niệm vùng đất của cậu !

Hoàng gật gù nghĩ thầm con người này đi một chặng đường dài vất vả, chắc kỷ niệm nhiều và anh cũng ái ngại nhưng chú Sáu cắt ngang suy nghĩ của anh, ổng gật gù:

- Vết sẹo này trong đợt đánh cầu sông Chùa. Bên trên lính ngụy ném cả chùm lựu đạn, tôi dính chấu thả trôi người về cửa sông. Đêm ấy nước đang ròng nên tấp vào ven bờ có nhà dân nên chết hụt!

- Đợt trước mầy mang lọ mắm hến có dặn ổng nút kỹ để dành ăn dần không? - Dì Tư nheo mắt hỏi.

- Có, chú Sáu ăn cả tháng, khen tít mù, mùi mẫn như xuống xề điệu cải lương Lan và Điệp hồi kết. - Hoàng cười nhìn dì Tư đang đỏ mặt quay nhìn ra sông.

- Lần này mầy đi lại không có hến, năm nay nước lớn, lạ thiệt nghe.

Hoàng nhìn ra sông, không một dề lục bình trôi ngang như sông trong chú Sáu mà chỉ có nắng trải dài, anh nói bâng quơ:

- Thì dì gửi cái gì cho ổng cũng được, nhưng đừng gửi nỗi lòng thì con chịu, không mang nổi đâu!

- Cái thằng! Thôi lại võng nằm nghỉ, tao vào bếp một lát.

Khi chia tay ở sân ga, Hoàng cho chú Sáu địa chỉ nhà mình, dặn chú nhớ tới để anh đưa đi thăm thú phố thị. Chú Sáu gật đầu, tấp tểnh bước vai như lệch sang một phía dù chiếc ba lô màu cỏ úa phía đối diện cũng không cân bằng. Ba hôm sau, Hoàng mang giá vẽ, cọ màu sang sông tìm cảnh cho bức tranh anh dự định phác thảo. Lúc ở bến sông, anh chợt trông thấy chú Sáu trong nhóm người đợi đò.

- Kìa chú Sáu, chú qua sông à?

Chú Sáu lại tay xách nách mang các bịch nhựa miệng cười tươi rói khác hẳn lúc ngồi tàu:

- Ủa, là cậu. Qua sang đò về xóm Đủi, định hôm nào ghé nhà cậu rồi lên tàu vào trong ấy cho tiện.

Hoàng theo chú Sáu về doi cát bồi, con đường dọc theo triền sông là những rặng tre, các khu vườn trồng rau đậu được ngăn cách từng bờ rào dâm bụt đầy tĩnh lặng, mát rười rượi. Thú thực, từ nhỏ đến giờ, Hoàng chưa bao giờ đặt chân vào xóm bãi bồi này, anh chỉ qua làng rau và đi sang sông Ba nơi có những soi dưa, bãi mía lúc còn đi học. Trong trí tưởng của Hoàng là xóm Đủi, nơi có những ngôi nhà thấp nhỏ khuất trong các rặng cây um tùm biệt lập là những người dân lang bạt tụ về, ngày ngày vác nhủi cùng thúng mủng cào hến, bắt dắt. Giờ mới biết, xóm Đủi thiệt đẹp, thiệt yên bình dù cách con phố ồn ào xe cộ chỉ một quãng sông. Chú Sáu chỉ tay lên phía trên, nơi xa xa kia là cầu ba nhịp, bảo trong tiếng gió, tiếng vỗ sóng bờ sông đầy nắng:

- Qua dính chấu chỗ cầu ấy, buông bộc phá thả trôi người về tận dưới này. Cả đêm ôm gốc ô rô dập dềnh trong nước, gà gáy sáng có người ra ghe thấy nên cõng vào. Đây, nhà nầy...

Và Hoàng quen dì Tư, người đàn bà nhỏ nhắn với nụ cười hiền, bẽn lẽn như con gái, ánh mắt như nắng chiều mặt sông cứ lấp lánh lấp lánh bên chú Sáu. Ba ngày liền, Hoàng hối hả phác thảo trên giấy với sông nước, con đường ủ bóng rặng tre, những khu vườn yên tĩnh... Bức đầu tiên là dưới gốc khế gãy ngọn gần giếng kề lu nước nhỏ, chú Sáu đang ngồi trên võng chải tóc cho dì Tư ngồi trên chiếc đòn kê cùng bầy gà con chạy quẩn quanh, phía sau là một dòng sông loáng nắng (riêng cảnh này phải mất cả buổi để năn nỉ hai người và phác thảo thật nhanh), Hoàng được đánh giá cao bức tranh mang tựa Hạnh phúc trong buổi tốt nghiệp và lập tức mang về ngay Bến Tre gặp chú Sáu.

- Hôm làm mẫu giúp cậu vẽ, qua ngượng với cô ấy lắm.

- Nhưng sao con thấy hai người cũng tự nhiên ra phết, lại cười duyên với nhau mới chết chớ! Mà công nhận là tóc dì Tư đẹp thiệt nghe, dài mượt; khiến chú lóng ngóng vuốt mãi -Hoàng pha trò.

- Thật ra, qua cũng từng ngồi bên cô ấy vào những đêm yên tĩnh chỉ có hai người, nhưng chỉ vuốt tóc rồi thôi. Phải nói mãi, bảo giúp cậu vượt qua kỳ thi tốt nghiệp và cứ nhớ cái thời ấy, là ngon lành!

...Cái đận chú Sáu tấp vào căn nhà dì Tư thì người phát hiện là ba của dì. Đêm ấy, khu vực cầu sắt sáng trắng đèn với lính hải thuyền bủa vây cùng bo bo lùng sục nên ông biết, đặc công đánh cầu nhưng thất bại. Mờ sáng, ông ra tháo ghe định cất kẻo lính đi càn ngứa tay bắn thủng thì gặp chú Sáu đã lạnh cóng. Ông cõng người lính ra bờ tre có hầm bí mật nơi từng giấu người anh dì Tư trốn lính đợi cơ sở hợp pháp đưa lên cứ. Cả tháng trời, gia đình dì Tư thuốc men chăm sóc chú Sáu thì thời gian ấy, tình cảm hai người đã bền chặt.

- Lúc qua đi theo tuyến hợp pháp, cô ấy trông theo mãi. Thiệt với cậu, khi vừa bốn tuổi đã theo gia đình tập kết, được ăn học rồi tình nguyện về Nam chớ chưa biết yêu đương gì. Qua nghĩ, sau giải phóng sẽ về xóm Đủi với cô ấy, chứ trong này đâu hình dung nổi vì lúc ấy nhỏ quá. Vậy mà, qua lại phải ở nơi này đến giờ.

****

Hoàng vẫn nhớ, lúc anh về An Hiệp gặp chú Sáu trong căn nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương, một con lộ tiếp giáp dòng kênh mà nơi này kênh rạch chằng chịt, đâu đâu cũng dừa là dừa, dừa ta dừa nước rợp bóng mát. Chú Sáu nhận từ tay Hoàng bức tranh Hạnh phúc với gương mặt rạng ngời ban đầu nhưng thoáng chốc lại đượm buồn nếu không nói là đỏ hoe mắt. Đêm ấy nơi góc sân cũng có một ang nước cắm chiếc gáo dừa, cũng con đường nhỏ đi xuống một dòng sông lộng gió. Món lẩu cá kèo sôi sùng sục bên rổ rau cao ngọn như cảm nhận mùi hương đồng gió nội của miệt vườn ngào ngạt. Đặt món cá kèo nướng vào chén, thêm đũa mắm hến của dì Tư cho hương vị đậm đà rồi nâng ly rượu, chú Sáu nói:

- Thật tình qua có lỗi với bả, chỉ một câu nói thôi trong một đêm nhiều sao trời "Đợi anh về nghe Tư" làm người ta đợi cả đời. Sau giải phóng, qua nghĩ chưa thấu đáo, cứ nghĩ mình thương tật sẽ làm khổ bà ấy nên trù trừ mãi rồi lại ngã bệnh mới ớn chớ, bệnh trên rừng về, đành thôi. Lâu lâu ra thăm thấy tồi tội. Cha bả mất đợt lũ, anh trai thì hy sinh trên đường về làng, dính Mỹ phục, còn má thì có biết mặt đâu, chết tám hoánh đời trào lúc bả vừa lên ba tuổi.

Giọng chú Sáu như người ngạt mũi làm Hoàng thấy nao người. Ly rượu cứ nâng lên đặt xuống, tai lắng nghe tiếng tàu dừa cọ xoàn xoạt trong gió và xa kia, nơi bờ sông tịnh không có tiếng gõ cá mạn thuyền như dòng sông ngoài ấy. Chú Sáu nói nhỏ hơn khẽ chao trong gió:

- Thiệt nghe Hoàng, lúc ở bên bả, qua thương nhứt là mái tóc. Chao, dài suông đuột mềm mại chảy qua lưng. Môi cắn chỉ nữa chớ, đỏ lìm lịm, cứ nghĩ là giòn rụm nếu bập vào, vậy mà hổng dám! Còn nữa nghe mày, cái eo nhỏ, cứ giần giật...!

Hoàng sặc cười, không khí trở lại dễ chịu khi chú Sáu nhe răng, khua khua bàn tay:

- Khi về trong này, qua vào Hợp tác xã chế biến dầu dừa liền nghe. Biết sao hông? Làm dầu dừa để gửi bả bôi tóc chớ sao! Nói thiệt nghe, tay nhạc sĩ viết bài Dáng đứng Bến Tre, tới đoạn "Nhớ tóc ai dài..." là tao nghẹn vì nhớ. Vậy mà suốt ngày ở đây, làng trên xóm dưới cứ mở loa đài, ti vi máy hát ra rả ca hoài bài ấy, nghe mãi có điên không?! Bây giờ nhà qua chỉ còn mình qua, nhà đã cổ còn người thì cũ, dặt dẹo ra vô, buồn không? Thôi, để qua vào lấy thêm con khô sặc, tụi mình sương sương đến sáng rồi qua đưa ra bến, lên trển.

- Nè, ngồi dậy ăn chè đậu cho mát nghe Hoàng. Đợt này, kiếm được con nhỏ nào ra hồn chưa, đừng như cha Sáu cà lết, khổ đời...!

Hoàng đang lơ mơ nhớ chú Sáu liền ngước lên nhìn dì Tư, cười cười hỏi :

- Có ăn giùm cho ai nữa không dì?

- Có, cho ổng nữa, hồi ấy ổng ưa món này lắm, đòi ăn hoài. Đang nằm hầm mà cứ ngóng qua lỗ thông hơi nhìn tao hái đậu ngự, để đêm... - Dì Tư lại đỏ mặt ngừng lời, với tay kẹp lại mái tóc thành búi rồi cui cúi múc chè ra chén.

- Bây giờ, giả như chú Sáu lại nằm như thời trước thì dì có nấu cho ổng không?

- Khỏi, sức vóc ổng trời đánh bảy búa cũng không chết, dân đặc công là lì số một. Lúc ấy ổng cao ráo đẹp trai hơn mày nhiều, mà lại hay mắc cỡ nữa, rõ tội thân ổng !

Hoàng quay nhìn sông, nắng đã nhạt dần, cơn nồm nam đi qua nhường gió từ biển đổ vào lành lạnh. Anh muốn kể dì Tư câu chuyện, một câu chuyện đầy đủ ngọn ngành để kết thúc trọn vẹn nhưng lựa lời mãi mà không nói lên được. Gói thuốc mang theo Hoàng đốt liên tục vậy mà khi nhìn dì Tư ra vô trước mặt, anh lại quay người ra sông.

- Có gì định nói hả Hoàng, thấy mặt mày thẫn thờ dữ? - Dì Tư gạn hỏi sau khi gội đầu ra ngồi bên anh xõa tóc nhờ gió sông thổi vào hong khô. Trong mùi thơm lá dứa phảng phất, Hoàng nhẹ lắc đầu:

- Chẳng có gì, con hơi mệt vì đêm qua mất ngủ.

...Cách đây hai tháng, chú Sáu gọi điện lên cho Hoàng bảo rảnh xuống chú chơi và gặp có chút việc. Vậy mà hơn tháng sau, Hoàng mới có dịp đặt chân vào ngôi nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương. Nhà quạnh quẽ vương vãi xác lá trên sân gạch, con mực sủa lên vài tiếng rồi nhận ra Hoàng liền vẫy đuôi mừng rỡ. Thằng Đen nhà bên vạch hàng rào chui qua tới bên anh nó hít hít lỗ mũi thò lò rồi đưa tay quệt ngang sẵn tiện chùi vào chiếc quần cộc cáu bẩn. Cu Đen nhe răng sún nói liến thắng:

- Chú Hoàng đã về, ông Sáu ngóng mãi, giờ ổng ở trên nhà thương ấy!

Hoàng vội vã kêu xe đến bệnh viện, phòng hồi sức vắng người nên anh nhìn ra chú Sáu nằm tận cuối phòng với bình dung dịch nhỏ giọt. Anh sững sờ thốt nhỏ; mới đây mà người chú gầy sộp, da vàng chái, mái tóc bạc và rụng quá nửa, bụng lõm lòng thuyền thở nhẹ qua làn áo mỏng của bệnh viện. Mắt chú Sáu từ từ hé mở rồi định hình khuôn mặt người đối diện. Bàn tay gầy khô lạnh nắm lấy tay Hoàng lắc nhẹ với nụ cười mệt mỏi. Anh kéo ghế ngồi sát bên chú Sáu.

- Mới xuống hả Hoàng?

Hoàng ngường ngượng gật đầu và bật lên lý do không thể không nói dối:

- Dạ. Có nghe chú nhắn nhưng con kẹt công tác ngoài Trung sẵn tiện về thăm nhà luôn.

Gương mặt chú Sáu hiện rõ nét vui như có ý hỏi nên Hoàng vội trả lời:

- Con có qua sông sang xóm Đủi thăm dì Tư. Dì ấy nhắc chú hoài, bảo lâu rồi chú không ra mà nhận chai mắm hến!

Chú Sáu gật đầu miệng méo xệch, mặt nhăn nhúm, nói đùa đùa:

- Ừ, hôm nào qua khỏe hẵng tính. Vào viện cả tháng mà chưa thấy đỡ, lúc hồi sức, lúc chuyển nội rồi tiết niệu, người bã ra như con mắm hến!

Người y tá đang đi lại phía giường chú Sáu, trên tay là chiếc bơm tiêm chứa dung dịch màu đỏ. Hoàng đứng lên nhường chỗ lúc chú Sáu nắm tay anh lay lay "Ngồi với qua một lát nghe Hoàng" - "Được mà, con sẽ ở với chú cả đêm nay". Hoàng ra mái hiên phòng bệnh, nhìn con đường phủ trong màn mưa, mưa miền trong khác mùa mưa quê anh, cả mùa nước nổi cũng khác mùa lũ ngoài ấy, nó cách nhau khoảng thời gian bằng mùa hạ với mùa đông. Bây giờ, quê Hoàng bắt đầu cho một mùa nắng và dòng sông lấp lánh ánh vàng trải trên từng doi cát đang dần lộ với cơn nước ròng vào mùa. Bất chợt, Hoàng nhớ dì Tư.

- ...Thật với cậu, khi lên cứ qua không còn bên đặc công vì cẳng giò ngon lành đâu mà đánh đấm, nên sang đội sản xuất. Thôi thì, chờ lúc đi ra Bắc kiếm cái chữ nhưng khi ấy đang ác liệt không có người, đi cũng dở. Mùa khô 72 địch cắt các tuyến đường nối đồng bằng nên đói dữ, lại bị chất phát quang khiến cây trụi lá, trơ cành. Nơi sản xuất trong khe núi rau, sắn chết úng nhưng đau nhất là thiếu muối làm đơn vị đói lẩy bẩy đi bươi móc nát cả rừng rú, khe suối. Vậy mà địch càn mới ác chớ, nó đổ quân cấp tập đủ sắc lính, màu da như biết mình đang mờ mắt vì đói. Vậy là, áp sát địch mà đánh, đánh say sưa nếu không cũng chết, mà đói cũng chết, cứ kiếm chiến lợi phẩm cái đã. Một lần, vắng máy bay, qua đi dọc theo con suối cạn, phát hiện chiếc thùng ống tròn kẹt trong gộp đá. Mừng suýt khóc liền gọi cả tiểu đội khiêng về. Cứ nghĩ, bọn Mỹ thả cho quân nó. Mà khi ấy có thằng nào biết con chữ đâu mà lần. Cạy tung ra, toàn bột trắng, tiểu đội sợ chất độc nên mang đổ ra suối chỉ lấy vỏ thùng đựng lương thực. Cái chết dần đến trong thẩm thấu, cậu à. Vì mãi sau này, mới hay khi ấy máy bay rải chất phát quang đã đời thì nó lại ném lăn lóc trước khi về căn cứ ngoài biển.

Chú Sáu uất nghẹn hực lên trong cổ, người chú đang sốt kéo dài, mồ hôi vã dầm dề dù bên ngoài mưa rơi, gió rít không dứt. Hoàng dùng khăn ướt đặt lên trán chú và bảo chú ngủ một lát. Nhưng chú Sáu mắt vẫn mở to, giọng ráo hảnh, nói rõ từng lời:

- Hơn hai mươi năm sau đận giải phóng, chất Dioxin quái ác đã phát tán khiến cả tiểu đội lần lượt đưa tiễn từng người một, khổ thân nhất là những đứa có gia đình, con cái. Qua là người bị phơi nhiễm cuối cùng nên chẳng còn ai chia tay mình cả. Đận 72 ấy, gia đình qua ngoài Hà Nội không thể sơ tán nên bị bom cào sạch tại phố Khâm Thiên, còn mình thì dính bệnh trên rừng. Người con gái bên dòng sông quê cậu đã luôn neo giữ hình ảnh của qua là một người lính đặc công kiêu hùng, càng không thể để cô ấy biết và không thể gặp mãi. Muộn hết cả rồi, lỡ nghĩa, dứt tình hết cả rồi. Gọi cậu xuống là để cậu mang bức tranh về cho cô ấy, nói khéo là tôi bận đi xa nên nhờ giữ lại kỷ niệm của hai người. Khi nãy cha thằng Đen gói cẩn thận cùng chai dầu dừa, nhớ nói là qua vẫn...

Hoàng nghẹn nghẹn khóc nhỏ lúc chú Sáu nới lỏng tay Hoàng để chìm vào giấc ngủ, khuôn mặt vẫn hằn nét đau đớn buồn bã. Mờ sáng, Hoàng ra bến trong màn mưa phủ mờ. Lúc sang phà Rạch Miễu, dòng sông trắng xóa vì mưa chang đổ. Anh nhìn về nơi chú Sáu từng ở kề dòng Hàm Luông. Chịu. Mưa đang trôi qua sông, kéo từng dề lục bình dập dềnh mải miết xuôi về các hướng.

*****

Rất khuya, Hoàng mới đứng lên từ giã dì Tư sau khi nói khéo để gửi lại bức tranh. Một thoáng linh cảm vụt qua trong mắt dì và bàn tay cào hến ven sông kia, vẫn đẹp nuột nà đang khẽ run rẩy. Anh bước ra cửa, nhìn dòng sông lặng lờ yên chảy. Đã thôi không còn tiếng gõ cá mạn thuyền, không còn những ánh đèn câu le lói sáng tắt. Trời đứng gió không gợn mây hiện hằng hà sa số những vì sao nhấp nháy trên bầu trời tĩnh lặng. Dì Tư tiễn Hoàng ra đầu ngõ, anh nắm nhẹ tay dì nói nhỏ "Con sẽ mang cái nắng vàng của dòng sông vào cho chú Sáu...". Dì im lặng lúc lâu rồi bảo "Ừ, cho dì gửi lời thăm ông ấy, ráng giữ sức khỏe để hẹn một mùa hến...". Hoàng quay đi, và vẫn biết dì đang nhìn theo bóng Hoàng đến khi khuất hẳn vào lối rẽ. Anh lại ứa nước mắt. Sáng nay, cha của cu Đen đã gọi cho anh: Chú Sáu đã mất ngay giữa mùa mưa tuôn đổ trên dòng Hàm Luông...

Hình như, trên bầu trời tĩnh lặng đầy sao sáng kia, văng vẳng tiếng vạc sang sông gọi bầy da diết...

Thạch Thảo

 Cháo Hến Ngày Mưa

    Mưa “chính vụ” ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu từ tháng bảy dương lịch. Mây mưa, gió thường xuất phát từ hướng Nam, nên dân gian gọi là mưa Nam.
    Mùa gió Nồm (gió Tây Nam), hễ trời chuyển là mưa đến rất nhanh. Mưa bất chợt. Hồi nắng, hồi mưa, nhiều khi suốt ngày hoặc kéo dài cả tuần! Đôi lúc “hưỡn” việc, chợt nhớ quê kiểng, rồi nhớ sao những món ăn mẹ hay xào nấu cho mình ăn ngày mưa gió, không đi chợ được! Cháo hến ngày mưa có lẽ sẽ nhắc cho ta nhớ nhiều về tuổi thơ!
    Dưới lòng sông rạch miền Tây có rất nhiều hến. Hến là loài nhuyễn thể thuộc họ sò. Hến trung bình to cỡ đầu ngón tay giữa, sống dưới lớp bùn, sỏi ở đáy sông, hấp thụ vi sinh vật trong nước. Những người chuyên sống nghề “hạ bạc”, có ghe cào hến, họ thiết kế những bàn cào răng bằng sắt, thưa hơn mình hến đôi chút, sau dàn cào là một bao lưới mắt nhỏ để giữ hến lại, khi kéo dàn cào này dưới đáy sông, bao nhiêu sỏi, hến... đều vào lưới, nước thoát ra ngoài. Mẹ và chị tôi thì khỏi cần giàn cào! Chỉ một cái rổ tre và một cái soong dùng để đựng hến có dây cột vô bụng. Đi tới đâu cái soong lênh đênh theo tới đó như cái đuôi thật ngộ nghĩnh!
    Xúc hến lúc nước ròng, cạn còn đến lưng chừng bụng. Giữa lòng mương rạch, đường nước chảy mới có nhiều hến. Nhớ mẹ và chị xúc hến dưới sông, trên trời mây u ám, gió phần phật, mưa lướt thướt, lâm râm, mẹ ngâm nước tới cổ! Khi hến trong soong đủ để kho keo hoặc nấu một nồi cháo ngon, mẹ và chị lên bờ, mình mẩy ướt sủng, tay chân móp méo vì lạnh... Mẹ luôn vui vẻ nhìn đàn con “húp” cháo hến sì sụp ngon lành trong ngày mưa gió, cực ăn!
    Hến tươi đem về lựa bỏ rác, sỏi, rửa sạch, ngâm trong nước sạch. Đun nước sôi ùng ục mới cho hến vào. Gặp nóng đột ngột, hến sẽ bung tách hết vỏ. Ta dùng vá khuấy đều cho ruột hến bong ra. Bắc chảo đun nóng, khử tỏi mỡ cho thơm lừng, đổ vào chảo hỗn hợp hành tím, chút ớt chín bầm nhuyễn, sả băm, ruột hến luộc, nêm ít nước mắm ngon, tiêu xay, nếm vừa ăn, xào trộn đều. Khi hến chín xúc ra tô để riêng. Dùng nửa lon sữa bò gạo cũ rang khô, nấu cháo. Khi cháo chín ta cho hết tất cả “mồi” vào soong, nêm nếm lần cuối và bớt lửa, giữ nóng. Sau cùng múc ra tô, rắc hành lá xắt nhỏ với vài cọng ngò rí lên. Cháo hến ăn với ít giá, rau thơm. Bạn có thể vắt một miếng chanh nhỏ vào cháo nóng như ăn phở. Nước mắm thì giầm ớt hiểm chín vào... Cháo ngon ngọt, nóng hôi hổi, “vừa thổi vừa ăn!”, cùng với vị cay nhẹ, mùi hến xào sả thơm lừng hấp dẫn. Những lúc ấy mẹ tôi thường hỏi: “Có ngon không các con?” - “Ngon... ngon lắm mẹ ơi! Cho con một tô nữa đi!”- Bây giờ, có đôi khi được bạn bè, đối tác mời đi ăn “cháo”, nhưng là cháo Quảng, cháo mắt heo, hoặc cháo bò, cháo cá... Ngon thì có ngon, nhưng đâu có cái mùi “nhớ” bằng cháo hến của mẹ nấu năm xưa!
  

Sưu Tầm


Kỳ bí cồn Hến

Đặt chân đến cố đô Huế, người ta đặc biệt chú ý đến một cồn đất mọc giữa dòng sông Hương thơ mộng. Cồn đất nhỏ nhắn, xinh xắn và có hình trái tim rất đặc biệt.

Người dân nơi đây cho biết, cồn đất này có tên là Cồn Hến gắn với một sự tích tình yêu đầy chất sử thi. Tương truyền rằng, bà chúa Hoàng trong một lần chèo thuyền trên sông thưởng ngoạn, bỗng dưng phát hiện một mô đất nổi giữa sông Hương và chọn nơi đây dựng dinh cơ. Sau đó, bà kết hôn rồi ở ẩn cùng chồng trên hòn đảo tình yêu này. Người dân nơi đây kể lại, Cồn Hến do chính hai vợ chồng họ lập nên và có vô số những câu chuyện thú vị.

Huyền thoại Cồn Hến

Từ bao đời nay, sông Hương là hiềm tự hào của xứ Huế mộng mơ. Vẻ đẹp của con sông này được ví như dải lụa mềm mại tô điểm cho kinh thành Huế. Giữa hàng trăm, hàng nghìn truyền thuyết trên dòng sông này, chuyện tình của đôi nam nữ thuộc hai dòng dõi vua chúa khai sinh ra hòn đảo tình yêu (hình trái tim) giữa dòng Hương Giang được người ta nhắc đến nhiều nhất.

Với mong muốn được hiểu hơn về hòn đảo kỳ bý này, chúng tôi đã về tận nơi, tìm gặp những cao niên trong vùng để được nghe họ kể những câu chuyện huyền bí từ xa xưa. Trò chuyện với PV, cụ Trần Văn Hiền (85 tuổi), sinh sống gần khu vực này cho biết: “Cồn Hến xuất hiện từ lâu lắm rồi. Chúng tôi cũng không rõ lắm, chỉ nghe qua truyền miệng, còn nguồn gốc chính xác thì phải tìm đến viện Bảo tàng Thừa Thiên - Huế mới có tư liệu”.

Căn cứ vào các tư liệu lịch sử, đặc biệt là cuốn sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, soạn thảo vào năm 1555 (ở thời kỳ Lê - Mạc, quyển sách mà Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú dùng để tham khảo khi biên soạn vùng đất Thừa Thiên - Huế), chúng tôi đã khám phá ra nhiều điều kỳ thú.

Theo cuốn sách này, Cồn Hến là một cù lao xinh đẹp nằm ở hạ lưu sông Linh Giang, do hai nhánh sông Đan Điền và Kim Trà hợp lưu. Sông rộng, quanh co hữu tình. Phía Tây có chùa Sùng Hóa, lại có bia Hoằng Phước, còn Như Nha, Thự, Hiến, Ty, Phủ Huyện, Vệ sở đều được nối liền đối nhau hai bên bờ tả hữu.

Theo lời kể của người dân, câu chuyện truyền trong dân gian thậm chí còn thi vị và đặc biệt hơn sử sách. Cồn Hến lúc mới khai sinh có tên gọi là Cồn Soi (Cồn nổi) hay xứ cồn cạn, nằm trong ba địa thế: Gian Hến (đất lâu năm có đền, chùa; Trung gian (đất ngụ cư); Bồi thành. Ngày xưa, do biến đổi khí hậu, thiên tai bão lụt triền miên, trải qua hàng trăm năm, sự bồi đắp, kiến tạo của thiên nhiên đã hình thành nên Cồn Hến nằm giữa dòng Hương Giang bây giờ.

Xưa kia Cồn Hến không một bóng người, chỉ có cây cối mọc um tùm, muông thú kéo nhau về trú ngụ, sinh sôi nảy nở. Bỗng một ngày, bà chúa Hoàng (người ở xã Diên Đại, huyện Phú Vang) du ngoạn trên sông Hương, phát hiện giữa dòng một cồn cát tuyệt đẹp. Sau một hồi quan sát, thấy nơi đây phong cảnh nên thơ, bà liền dừng chân nghỉ lại.

Sau này, nhiều lần bà ghé chân đến thăm rồi kết hôn với một người họ Nguyễn, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725  1738) xây dựng lên phủ chúa ở Phú Xuân. Hai vợ chồng quyết định đến dựng chòi trên cồn cát này sinh sống. Không có sách sử nào viết tiếp về cuộc sống của hai vợ chồng này trên côn cát, nhưng dân gian truyền rằng, ban đầu họ sống với muôn chim thú, lấy thức ăn từ sông. Họ còn trồng thêm rau, hoa quả để phục vụ các bữa ăn. Rồi họ sinh con và sống hạnh phúc với nhau trên hòn đảo đến đầu bạc răng long.

Đến đầu niên hiệu Gia Long (1802 - 1820) đất kinh thành được mở rộng, 8 xã nằm trong diện di chuyển rồi được nhà vua cấp tiền mua hoặc trưng đất lập xã mới. Cồn Hến được chọn là nơi tái định cư cho dân xã Phú Xuân. Lần đầu tiên trong lịch sử những hộ dân họ Trần, Lê và Nguyễn được chuyển đến sống xen kẽ ở Cồn Hến. Từ thượng nguồn hướng về cửa sông, Cồn Dã Viên xuất hiện đầu tiên, tiếp theo là Cồn Hến được tạo thành thế Hữu Bạc Hổ (Cồn Dạ Viên) và Tả Thanh Long (Cồn Hến) chầu về kinh thành.

Sau khi có người sinh sống ở Cồn Hến, mọi thứ nơi đây trở nên sôi động hơn. Ngư dân thường ghé tròng (ghe) đi soi cá về trú ngụ. Nơi đây cũng xuất hiện nghề soi cá đêm. Người ta soi cá bằng cách dùng những cành thông khô bó lại rồi đốt thành lửa, chế thêm 1 cái đọt (cái chĩa 3 mũi nhọn làm bằng thép) để đâm cá. Đó là cách duy nhất để họ sinh tồn trên Cồn Hến.

Đặc sản tiến vua

Cũng chẳng ai biết vì sao, khi nhắc đến Cồn Hến người ta nghĩ ngay đến 2 thứ đặc sản nổi tiếng là hến và bắp (ngô). Người dân nơi đây cho biết, đây chính là đặc sản tiến vua vào mỗi dịp lễ, tết. Đời vua Thiệu Trị, hến được người dân đem bán quanh nội thành và trở thành món ăn nhiều người ưa thích. Để vua có bữa ăn ngon miệng, một hôm, đầu bếp đã chế biến cho vua một món ăn khác lạ. Khi dâng lên, vua Thiệu Trị nếm thử, khen ngon, bèn hỏi về lai lịch món này. Đầu bếp tâu rằng, do đôi vợ chồng sinh sống đầu tiên ở Cồn Hến làm ra.

Ngạc nhiên về món ăn lạ, vua lệnh cho lính đưa ông ra du ngoạn ở Cồn Hến. Từ đó, vua cũng có những ưu tiên đặc biệt cho người dân sinh sống trên đây, đồng thời khuyến khích người dân bắt hến để dùng trong các bữa ăn như là đặc sản của đất kinh thành.

Sau lần đó, hến trở thành món ăn khoái khẩu không thể thiếu hàng ngày của các bậc vua chúa và quản thần trong cung. Khi biết việc cào, bắt hến vô cùng cực nhọc, nhà vua mới có chỉ dụ miễn thuế cho nghề cào hến. Đây cũng là một trong những nghề hiếm hoi không phải nạp thuế cho triều đình thời điểm bấy giờ.

Cồn Hến còn nổi tiếng ngay trong chính cái tên của nó: “Cồn của loài Hến. Được bao bọc bởi sông Hương, nơi đây bốn mùa cây cối xanh tốt, khí hậu ẩm mát và một điều đặc biệt dù bị khai thác rất nhiều nhưng khu vực xung quanh không bao giờ hết hến. Hến sông Hương có rất nhiều loài, nhưng loại ở Cồn Hến rất đặc biệt. Thân nhỏ, kích cỡ chỉ bằng viên bi, có mùi thơm dể chịu, ruột hến ăn rất dẻo, giai, hương vị đậm đà, nước luộc hến có tác dụng thanh nhiệt, đặc biệt có thể chữa được một số bệnh. Hến có thể chế biến thành các món: Cơm hến, bún hến, hến xào. Thịt hến xào lên thêm gia vị ruốc, tương ớt, tiêu, nước mắm, tỏi, gừng, bì lợn rang phồng, đậu phụng rang, muối, mè. Cơm hoặc bún phải để nguội khi ăn đêm trộn đều có pha thêm một chút nước hến. Để có một tô cơm hoặc bún ngon, mang hương vị rất Huế thì hết sức công phu, nguyên liệu lên đến 14 thứ. Xứ Huế có nhiều món chế biến từ hến, nhưng hến ở Cồn Hến mới thực sự là đặc sản và kích thích sự tò mò của nhiều người.

Ngoài đặc sản hến, người dân Cồn Hến còn trồng được loại bắp (ngô) rất kỳ lạ ở cuối cồn. Loại ngô này bắp rất to, các hạt đều tăm tắp, màu trắng, dẻo mềm và có vị thơm đặc biệt. Cứ dịp lễ, tết người dân Cồn Hến thường dâng lên vua chúa hai đặc sản hến và bắp. Đây được coi là hai món sơn hào hải vị cũng chính là 2 món ăn mà đôi vợ chồng năm xưa khi đến khai hoang ở vùng đất này đã làm ra.

Lê Giáp