Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

Nhạc - Thơ -Văn Sân rêu nhà cũ

 

 

 Tình Mẹ

Vu Lan Báo Hiếu

 Nhớ Mẹ
Một câu nói ấm lòng,
Như giọt nắng sưỡi Đông...
Da mẹ màu rêu ẩm,
Tình mẹ thời  mênh mông !

Cũng sân vườn rêu phủ,
Mái nhà xưa rêu phong...
Nhớ ngày xưa của mẹ,
Một mình thật long đong !!

Con dòng đời xuôi ngược,
Tất tả bao buồn vui...
Giờ đây con nhớ mẹ,
Lòng xiết bao ngậm ngùi !

Mẹ một mình lặng lẽ, 
Mẹ một mình đi xa...
Con thấy mình hối tiếc,
Thương Mẹ thời đã qua !
NM

  Sân rêu nhà cũ
Mái ngói rêu xanh, những lần mưa xong chim sà xuống đều bị trượt chân chấp chới. Cả cái sân gạch cũng lên rêu, tôi đã nhiều lần trượt ngã đánh oạch. Mẹ thường nói có ngã đau trên cái chỗ mình sống mới nhớ lâu. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ ngã trên đó, có thể mẹ ngã những lúc tôi đi học xa và mẹ không kể. Duy nhất một lần tôi biết mẹ ngã, nghe hàng xóm kể lại khi ấy mẹ cũng không kêu la gì, mẹ lặng lẽ đi xa, vĩnh viễn.
Hai anh em tôi trở về chịu tang mẹ. Kẻ từ ngoài bắc vào, người từ trong nam ra, không hẹn nhưng gần như vào nhà cùng lúc, kịp nhìn thấy mẹ lần cuối trước khi đắp mặt. Mẹ như đang ngủ, da mặt lốm đốm xanh mầu rêu ẩm. Giá như tôi và anh trai đừng về cùng lúc, có khi chúng tôi khóc được. Nghĩa tử là nghĩa tận, khóc đi con, hàng xóm giục anh em tôi nhưng cả hai chỉ im lặng.
Tôi và anh đã không nhìn mặt nhau kể từ khi có dự án làm đường tránh. Lúc anh mang về tờ bản đồ dự kiến phóng tuyến, chỉ chỏ nói con đường này sẽ chạy qua luôn cả nền nhà lẫn khu vườn nhà mình. Rồi anh bàn với mẹ chia tiền đền bù cho hai chúng tôi. Anh nói chia đều là tốt nhất, còn mẹ thích ở với đứa nào quyền mẹ. Tôi không chịu, phải chia thành ba phần, ai nuôi mẹ được hưởng thêm phần của mẹ.
Anh thừa biết mẹ thích sống với tôi hơn. Đấy là phỏng đoán, vì so quãng đường, tôi cách nhà năm trăm cây số, anh thì gấp đôi. Mẹ chắc sẽ chọn đứa ở gần, để tiện hơn cho việc về thắp hương mộ cha tôi.
Mặc cho anh em tôi tranh cãi, mẹ chỉ im lặng. Thậm chí cái hôm tôi về báo tin tuyến đường tránh không chạy qua đất nhà mình, mẹ cũng chẳng tỏ vẻ vui hay buồn. Có lẽ, mẹ đang nghĩ về một con đường nào đó đã chạy qua đây, phá tan sân rêu.
Cái sân rêu những khi đứa em ngã kêu khóc thì đứa anh chạy đến, chưa kịp đỡ đã ngã nhúi nhùi. Cái sân những khi trời nắng rêu khô bong tróc, đứa anh cùng đứa em hì hụi dùng mảnh sắt cạo cho sạch để tới mưa khỏi ngã.
Mẹ nói tại người đi mang đất ngoài đường vào sân, mưa dầm ẩm thấm nó lên rêu. Chỗ nào có đất chỗ ấy thực vật sống được, con người cũng sống được. Thế mà chính cái chỗ đất truyền thừa mấy đời này, anh em tôi lại không sống được. Người nào theo việc nấy, kẻ nào theo vợ nấy. Chúng tôi hằm hè nhau, giằng giữ nhau rồi lại đùn đẩy nhau cái trách nhiệm phải về sống với mẹ. Mẹ nói còn mạnh, tự sống được, chẳng cần đứa nào phải ở cạnh.
Đúng mẹ mạnh thật. Hàng xóm kể lại sáng nào mẹ cũng ra vườn quét lá, tiếng rột roạt chổi tre biết bàn tay còn khỏe. Vậy mà mấy mảng rêu yếu ớt lại quật ngã được mẹ.
Mấy ngày đám tang mưa vẫn ướt rượt. Đến lúc di quan đội âm công dặn nhau phải bấm ngón chân xuống sân rêu để khỏi trượt ngã. Hai anh em tôi đi thụt lùi trước cỗ quan, qua chỗ sân rêu cũng gồng bấm mấy ngón chân. Lần đầu tiên tôi biết sợ ngã ngay chính trên đất nhà mình, bởi mẹ đã nằm yên không thể rửa chân tay và thoa dầu cù là cho tôi. Anh trai, người đang đi thụt lùi bên cạnh tôi đây cũng không đỡ tôi dậy như hồi xưa nữa đâu. Đất đã làm rêu bám trên sân. Nhưng đất cũng đã đẩy anh em tôi ra xa nhau. Chúng tôi quay mặt về mẹ, nhưng đầu óc vẫn nhớ dưới chân đang rất trơn trượt. Chúng tôi cô đơn ngay chính trong đám tang đông đúc, ngay chính trên mảnh sân thân thuộc của mình.
Hết đám, anh em tôi buộc lại khăn tang bên vách bàn thờ, ngược xuôi theo công việc. Ngôi nhà để không, thỉnh thoảng có mấy người hàng xóm qua thắp hương cho di ảnh mẹ đỡ lạnh lẽo.
Ông trưởng thôn gọi điện xin cho một người đàn bà tên Cam được ở nhờ ngôi nhà cũ của chúng tôi. Tất nhiên tôi đồng ý, vui nữa là đằng khác, coi như có người trông nhà giúp. Tôi bảo trưởng thôn phải gọi điện cho anh trai tôi, xin thêm ý kiến của anh ấy. Trưởng thôn đáp đã gọi trước rồi, anh tôi cũng đồng ý. Tôi cũng kịp nói với trưởng thôn phải dặn bà ấy là cái sân nhà tôi trời mưa rất trơn, coi chừng ngã. Cúp máy, tôi chợt nhận ra mình chưa bao giờ dặn mẹ câu đó.
Bà Cam người làng tôi nhưng sống ở Sài Gòn với người con nuôi hai chục năm rồi. Bà trạc tuổi mẹ tôi, hai người là bạn thân thiết từ thuở còn chăn trâu cắt cỏ cho đến lúc đi làm hợp tác xã. Lần tôi về quê, nghe bà kể sống trong đó bà khổ quá, chẳng đặng đừng mới về đây. Khổ chẳng phải vì gạo tiền, mà vì đứa con bà xin nuôi từ nhỏ, chăm lo thương yêu như con ruột, bỗng lấy vợ và coi bà chẳng ra gì. “Máu mủ ruột rà vẫn hơn cháu ơi”, bà nói.
Có bà Cam về ở, ngôi nhà đỡ hoang lạnh. Nghe hàng xóm khen bà cũng siêng động tay động chân như mẹ tôi, sáng làm vườn, chiều gom lá đốt. Bà kiếm nhánh nè cắm bao quanh khu vườn, trồng rau mùng tơi cho leo lên thành một cái hàng rào xanh mướt mắt. Lâu lâu tôi ghé về nhà cũ, thấy mừng, có cảm giác bà yêu ngôi nhà này hơn cả anh em tôi. Mùa mưa, thỉnh thoảng tôi gọi về nhắc bà Cam đừng ra sân để khỏi trượt chân.
Một tuần trước giỗ mẹ tôi, chính bà Cam lại sốt sắng gọi điện năn nỉ anh em tôi về quê. “Về cả hai anh em mới ấm cúng, cho mẹ vui”. Bà gọi sớm vì sợ tới cận ngày, tôi hoặc anh sẽ nhờ bà nấu giúp chén cơm luộc dĩa rau đặt lên bàn thờ thắp hương cho mẹ. “Tội nghiệp, không về được cả hai thì cũng một chú về chớ”. Thế nên năm nay tôi về, thì năm sau đến lượt anh.
Ở được hơn bốn năm, người con nuôi bà Cam về tận quê lạy tạ mẹ, xin thứ tội và rước mẹ vào lại Sài Gòn. Bà gọi điện cho tôi nói lời cảm ơn đã cho ở nhờ nhà. Rồi bà nói trong nước mắt: “Không máu mủ, nó thương mình chừng nào mình được nhờ chừng đó, cháu ơi”.
Giỗ mẹ năm nay không có bà Cam, cả hai anh em chúng tôi không được ai nhắc mà tự đùm gói đưa vợ con tìm về.
Mùa mưa, cỏ dại lên um tốt, sân rêu mái ngói xanh lè, một mầu xanh buồn bã từ ngoài cổng vào tận nương sau. Căn nhà đúng nghĩa một chốn bỏ hoang.
Tranh thủ ngày tạnh mưa hửng nắng, chúng tôi ra dọn dẹp vườn. Lâu rồi mới lao động chân tay đổ mồ hôi, tôi và anh trai cởi trần, người phát cỏ, người buộc lại hàng rào. Anh em tôi vẫn chưa nhìn thẳng mặt nhau, chưa nói được với nhau câu nào. Tuồng như thuở ấu thơ cởi trần đánh vật và vẫn còn giận dỗi chưa chịu làm lành.
Vợ tôi và chị dâu gom cỏ, vừa làm vừa rôm rả đủ thứ chuyện lâu ngày. Ba đứa trẻ con cầm điện thoại của mẹ chơi, rồi phát hiện ra chỗ này không có mạng wifi, chúng kéo nhau ra vườn hái hoa dại, vặt cây lá chơi trò đi chợ nấu nướng.
Hai chị em dâu đi chợ mua đồ về nấu cúng giỗ, hỏi hai anh em tôi thích nhâm nhi món gì để mua về nấu. Hỏi xong, chị chợt nhớ ra đây là giỗ mẹ, phải mua món ngày còn sống mẹ thích chứ. Anh bảo gì chẳng xong, đằng nào mẹ cũng không ăn được nữa rồi.
Mâm đồ cúng đủ những món khi sống mẹ thích, những thứ giản đơn như rau lang luộc, khoai lang luộc, đậu bắp luộc, cá lia thia kho mặn… Nhà cũ không có bếp gas không có bếp điện, hai chị em dâu lúi húi nhen củi lửa, khói xông lên lèn qua mái ngói bùi bùi. Vợ tôi bóc miếng cơm cháy dưới đáy nồi cho mấy đứa nhỏ. Chúng nhai rau ráu khen cơm nấu củi giòn và ngon.
Anh trai chủ lễ khấn cúng, tôi lạy theo sau. Đến tận lúc đó tôi và anh vẫn chưa nói được với nhau một lời nào. Bữa ăn, tự dưng chị dâu nhắc tới bà Cam, bảo không biết cậu con nuôi của bà giờ có đối xử tốt với mẹ không nhỉ, không máu mủ ruột rà khó bền lắm. Tôi có chút chạnh lòng, máu mủ ruột rà như tôi và anh trai có bền không?
Chị dâu thỉnh chai rượu từ bàn thờ xuống. Giỗ phải nhấp chút rượu chứ, hai ông không uống thì để chị em tui. Trong căn nhà gỗ cũ, bốn người chúng tôi ngồi nhấp rượu thật im lặng, chẳng ai nói chuyện gì, chỉ nghe tiếng mọt gặm giường gỗ và ngắm ra khoảng xanh trước vườn nhà.
Sau lượt rượu thứ ba, tôi ngẩng đầu nhìn thẳng, bất giác anh trai cũng nhìn tôi. Sáu năm rồi anh em tôi mới lại nhìn thẳng nhau, dù chưa nói với nhau câu nào, cũng thấy ấm lòng hơn.
Mấy đứa trẻ ăn xong chạy ào ra sân chơi. Chưa kịp nhắc đề phòng thì một đứa trượt rêu ngã, lồm cồm tự đứng dậy được, mặt nhăn miệng thít. Chị dâu bảo kệ, ngã đau mới có kỷ niệm để nhớ quê. Chị nói giống mẹ ngày xưa quá.
 HOÀNG CÔNG DANH  

Chỉ là một tấm rêu phong,
Cũng là tất cả tấm lòng dấu yêu...
Xa nhau xa biết bao nhiêu,
Vẫn mong giữ lại ít nhiều nhớ nhung !
NM
 
Tường Rêu
Cuối cùng, ông Minh cũng phải đi đến quyết định cho đập bỏ bức tường Đông rêu phủ để xây lại. Ngay từ khi bàn chuyện đại tu căn nhà cổ, con trai ông cũng đã thưa với ông ý định đó. Cảnh, con trai ông, trình bày: “ Nhà mình xây đã hơn bảy mươi năm rồi, tuy đã sửa chữa nhiều lần, nhưng chỉ làm phần mái và dặm vá tường, nền. Theo con, lần nầy chủ yếu gia cố nền móng và xây tường, vì nhiều chỗ bị sụt lún và nứt bể. Phần nhà trên không thay đổi gì, giữ nguyên hai gian ba chái, bây giờ người ta quý nhà cổ như nhà mình. Nhưng con xin xây lại nhà dưới, đưa bếp lên phía Tây, chỗ nhà bếp hiện nay xây một phòng ngủ mới để có chỗ cho con cháu về thăm dịp giỗ, Tết…”. Nghe con trình bày ông thấy hợp lý nhưng còn đắn đo: “ Ba đồng ý phương án sửa chữa của con đối với nhà trên, nhưng phần nhà dưới để ba nghĩ thêm…Dời bếp là chuyện hệ trọng về phong thủy, hơn nữa không nên tốn kém nhiều…”. 
Căn nhà của ông trải qua nhiều đời cha truyền con nối, tính từ thời ông cao đến ông đã bốn đời, trước nữa thì ông không rõ. Nay đã đến lúc bàn giao cho con trai ông tức thế hệ thứ năm. Tre già măng mọc. Vả lại con trai ông đã gần bốn mươi, cũng làm giáo chức như ông, là hiệu trưởng một trường trung học ở một huyện khác trong tỉnh. Lẽ ra ông có thể giao cho con lo liệu mọi việc nhưng ông muốn giữ nguyên trạng căn bếp với bức tường Đông. Căn bếp do cha mẹ ông xây, còn lưu năm tháng chạm trên đầu tường: Juillet, 1937. Tường được xây bằng gạch thẻ, tô bằng loại hồ truyền thống là hỗn hợp vôi tôi trộn với chất nhờn của lá bông bụt quết nhuyễn và mật đường mía. Lớp hồ nay bị bóc từng mảng lớn và nhiều viên gạch bị thối rữa vì ngấm nước mưa trong hàng mấy thập kỷ. Khoảng năm 1967, chiến trận lan tới làng nầy, ông Minh đưa cha mẹ, vợ con lên sống ở quận lỵ, nơi ông đang dạy học. Mái nhà bị sạt một góc vì trúng đạn cối, riêng bức tường Đông của căn bếp thì lỗ chỗ vết đạn tiểu liên. Chính những vết thương ban đầu ấy làm bức tường ngày càng lở lói trầm trọng, đến nay thì không còn cứu vãn được. Khi hồi cư, sửa laị nhà ông Minh đã không dặm vá bức tường một phần vì muốn lưu lại dấu vết chiến tranh nhưng lý do chính là ông không muốn dùng ciment hiện đại. Ông có ý định mua vôi tôi, mật mía làm hồ để bức tường không bị “lai” nhưng lần lữa chưa kịp làm thì không còn tìm đâu ra mật mía vì sau nầy người ta trồng mía dọc hai bờ sông Côn chỉ để bán cây cho nhà máy đường, không còn nấu đường truyền thống nữa. Ông viện ra chuyện phong thủy và tốn kém chỉ để hoãn binh thôi. Thật lòng, ông muốn giữ lại bức tường. Còn nước còn tát. 
Trên một mảng tường lở cách mặt đất gần một mét, có mọc một cây bồ đề gần hai mươi năm tuổi rồi, nếu lâu lâu ông không tỉa bớt cành chắc nó đã sum sê lắm. Lúc đầu ông Minh định chặt bỏ nhưng ông nghĩ nó vô hại, chỉ sống ké phần ngoài của tường. Kể từ đó ông cắt tỉa, tạo dáng cho cây như đối với hàng chục cây bonsai đủ loại của ông. Gốc cây bồ đề ngày càng lớn, bộ rễ tua tủa, có cái to bằng ngón chân cái. Cây bồ đề đó có đủ ba yếu tố của nghệ thuật cây kiểng là “cổ, kỳ và Mỹ”. Nó đã được hơn hai mươi năm tuổi nên cũng khá “cổ”. Nó mọc trên tường, từ vết thương chiến tranh thì hẳn là “kỳ” rồi, còn “mỹ” tức cái đẹp là do bàn tay ông chăm sóc, cắt tỉa, tạo dáng. 
Dưới chân tường là một hang chuột, có từ ngày gia đình ông hồi cư vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Bao nhiêu cố gắng xóa bỏ cái hang chuột nầy đều bất thành vì nó được lũ chuột láu lỉnh đào âm dưới đất chân tường, luồn vào trong nhà, thông ra ngoài bằng nhiều ngách, lấp cửa hang nầy thì hôm sau chúng trổ cửa khác, đổ hàng thùng nước cũng không ăn thua. Cuộc chiến giữa chuột và người kéo dài hàng chục năm, lũ chuột chịu nhiều tổn thất nhưng chúng vẫn bám trụ ở đó qua nhiều thế hệ. Cho đến nay, ông Minh đành chấp nhận sống chung với chúng. Hằng ngày ông vẫn thấy hai con chuột cống ra vào kiếm ăn ngay cả khi ông ngồi uống trà hay nằm tòn teng đọc sách, báo trên võng mắc dưới gốc cây xoài quỳ cạnh nhà. Quen dần, chúng giống như con chó, con mèo ông nuôi trong nhà, như cặp cu đất trưa nào cũng gáy trên đọt xoài, có khi ông còn vất ít cơm thừa cho chúng ngay trước miệng hang. 
Từ khi về hưu, trừ những khi mưa dầm, lụt lội hằng ngày ông Minh quanh quẩn dưới bóng cây xoài quỳ, cành che phủ một góc bức tường Đông. Một bộ bàn ghế đá rửa để ông thù tạc với bạn bè. Một cái võng trân đã cũ móc giữa gốc xoài và trụ bê-tông hàng rào B40 để ông nghỉ lưng sau khi tưới vườn rau, cắt tỉa cây kiểng…Ông ngắm bức tường thay đổi theo mùa mưa nắng. Mùa khô hạn, thảm rêu biến mất, để lại những mảng, vệt màu xanh xám đậm nhạt khác nhau, nhìn kỹ sẽ lộ ra những bức tranh thủy mặc. Chỗ nầy là dòng sông chảy, núi xa mờ trên nền trời lớp lớp mây vần vũ. Chỗ kia là biển khơi dậy sóng, chỗ nọ là hình một đạo sỹ với tà áo bay bay… Bắt đầu cuối thu, khi có những trận mưa đầu mùa là thảm rêu hiện ra mịn màng như nhung, bắt đầu từ chân tường lan rộng lên, nối kết nhiều mảng nhỏ, rồi màu xanh biên biếc phủ gần nửa bức tường… Lá cây bồ đề hình trái tim cũng chuyển từ màu vàng nhạt sang xanh ngắt. Những sợi rễ đâm dài xuống tận mặt đất để hút no nước và chất dinh dưỡng dự trữ cho mùa khô hạn năm sau. Bầy chuột đông hơn, chiều tối kéo ra vườn kiếm ăn. Nếu chúng không tách bầy, hoặc bị dịch bệnh hay săn bắt có lẽ dân số đã tăng cả đàn cả đống.
Hồi còn học trung học ở Quy Nhơn, hễ đến nghỉ hè là ông tụ tập lũ trẻ lối xóm để kèm ôn tập bài vở và chơi với nhau đủ trò từ sáng đến chiều. Chỗ cây xoài quỳ bây giờ hồi đó là gốc vú sữa tán rộng sum sê bị bão làm trốc gốc. Đó là sân chơi của ông và lũ trẻ: đánh vụ, đánh đáo, chơi ô, đánh nẻ…Vợ ông sau nầy là một trong những đứa trẻ đó. Khi ông đã ra trường đi dạy mấy năm thì bà cũng vào trường Sư phạm Quy Nhơn, nơi ông từng theo học. Bà ra trường thì lấy ông. Dường như họ chưa từng nói một lời yêu đương vì tình yêu của họ đã có tự bao giờ, có bức tường làm chứng. Họ cưới nhau mà chẳng cần một lời tuyên bố hay đính ước. Bức ảnh đầu tiên của họ sau ngày cưới chụp trước bức tường xanh rêu ấy. Sau nầy, bức ảnh chụp với dâu, rể, cháu nội ngoại cũng lấy bức tường làm phông. Bức ảnh cuối cùng ông chụp chung với vợ trước ngày bà mất sáu tháng mười hai ngày. Bà được giải phẫu ung thư vú hơn sáu năm trước, sống thêm được gần hai năm thì mất. Hai vợ chồng đứng cạnh nhau trước bức tường rêu như hồi mới cưới, nhưng lần nầy có cây bồ đề làm cảnh. Ngay cả bây giờ, mỗi khi nằm trên võng ngắm bức tường rêu ông còn thấy hình ảnh vợ như mới hôm qua: bà chơi ô khi còn bé ở góc kia , bà mặc đồ bộ điểm hoa cà tim tím đi ra sau giếng khi mới về làm dâu …
Vợ mất, các con ở xa, ông sống một mình nhưng không cảm thấy cô đơn. Đối diện với bức tường , ông tìm thấy lại những gì đã trải qua trong gần bảy mươi năm cuộc đời của mình. Những đêm trăng sáng, ông thường ngồi trên ghế đá chơi đàn, tiếng đàn guitar của ông  dội vào bức tường loang loáng ánh trăng, rồi vang vọng mãi tận dòng sông trước nhà. Bức tường dường như lúc nào cũng lắng nghe và thấu hiểu như vợ ông thuở nào. 
Ngày bức tường bị hạ, từ sáng sớm ông Minh bỏ đi thăm bạn ở làng bên. Trước khi đi ông dặn Cảnh cố cạy mảng vôi tường có khắc chìm năm tháng cha ông xây dựng nhà, Juillet 1937, để gắn lại khi tô tường mới. Cảnh biết cha mình cố tình lánh mặt để anh tự do xử lý công việc. Tuy anh không biết hết những nỗi niềm sâu kín của cha mình nhưng anh hiểu ông gắn bó với những kỷ niệm về căn nhà nầy mà bức tường rêu là gần gũi với ông nhất. Chính anh, ở tuổi bốn mươi, đã bắt đầu biết tha thiết với căn nhà tổ tiên nên đã chắc chiu mấy năm nay để về giúp cha tu sửa nó. Nhiều lần anh đã nghĩ một ngày nào đó anh sẽ trở về đây và không bao giờ muốn lìa xa nữa… 
Chiều tối ông Minh đạp xe về nhà. Căn bếp đã được tháo dỡ. Bức tường Đông đã bị đập quá nửa, gạch vôi ngổn ngang trên mặt đất.
–  Sao không đập hết bức tường, làm không kịp à
Ông Minh hỏi con. 
–  Không, ba. Con chừa lại đó… Cảnh đáp. Con sẽ cho thợ dùng máy cắt phần tường cũ cho thẳng , giữ lại khoảng 1,5m, cắt bớt  cho thấp xuống, rồi gia cố phần móng và xây trụ ốp hai bên cho chắc để làm kỷ niệm. Tường mới sẽ xây tụt vô trong 1,2m để làm hành lang, phần tường cũ sẽ làm bức bình phong. Con đã cho cắt cẩn thận phần tường có khắc năm ông nội xây nhà, tuy vậy nó cũng bể ra mấy mảnh nhưng có thể sắp lại như cũ khi gắn phía ngoài bình phong. 
–  Thế à …Lòng ông Minh thoáng vui nhưng ông cố giữ không để lộ ra. Ông hỏi tiếp- Còn cây bồ đề? 
–  À, cái nầy thì dễ mà. Con bứng nguyên gốc, rễ để ba làm cây bonsai. Thứ nầy dễ sống… 
–  Còn lũ chuột? Vừa hỏi con xong, ông Minh tự thấy mình lẩm cẩm nhưng dẫu sao Cảnh cũng đã nghe. Anh cũng thoáng ngạc nhiên nhưng cố lấy giọng bình thường tường thuật lại: 
–  Bức tường đổ làm động ổ, hai con chuột cống tung ra chạy, một con bị anh thợ đập chết tại chỗ, còn con kia chạy thoát. Anh giấu việc mấy chú thợ trẻ đã nướng con chuột để nhậu lúc nghỉ trưa.
–  Thế à… 
Ông Minh lẩm bẩm: “ Thật tội nghiệp…”, nhưng tiếng ông nhỏ đến nỗi con trai ông đứng bên cạnh cũng không nghe được ông nói gì* 

* NAM THI
 

Ô cửa rêu xanh

Ô cửa sổ trên tầng hai lúc nào cũng để mở. Cửa rộng, nên những sớm mai có nắng, ông già thích ngồi ở chiếc bàn gỗ đặt sát dưới cửa và nhìn nắng nhẹ tênh len qua từng song gỗ màu luyn rồi lặng lẽ chảy tràn vào nhà. Cây lộc vừng trước sân có tán rất rộng, lúc nào cũng rộn rã tiếng chim. Từ hồi bà già bắt đầu đem gạo đặt trên bệ cửa, buổi sáng thức dậy, chỉ cần thấy ông già mở cửa là bọn chúng liền sà xuống, lích rích nhặt gạo, có khi chẳng kịp đợi ông dời gót đi khỏi. Dường như chúng không còn sợ ông già như ngày trước.

Nhà đông con đông cháu, cuối cùng cũng chỉ có hai thân già nương tựa nhau. Ông già than vãn khi nghe tiếng dép bà già hướng về phía mình. Ngoài trời đang mưa rỉ rả, nên lũ chim sớm nay cũng vắng bóng. Ông già ngóng ra ngoài cánh cổng sắt. Chẳng có ai ở đó. Cổng nhà sơn màu xanh tươi rói, mà lâu nay cứ đóng im ỉm suốt. Ổ khóa ở đó, chắc đã gỉ sét vì ít khi được mở. Con cái đều sống cùng thành phố, nhưng hiếm khi chúng mới ghé đến. Ôi chao, con cháu có cuộc sống của con cháu, không lẽ ông muốn chúng nó cứ ru rú bên cạnh chúng ta mới chịu. Bà già nói khi đưa ông già mấy viên thuốc cùng ly nước ấm. Bà nói cứng vậy thôi, chứ mỗi lần nhìn quanh căn nhà vắng hoe, bà cũng buồn.

Âm thanh rộn rã ấy thường vọng lên từ khoảng sân nhỏ xíu của nhà bên cạnh vào mỗi sớm hoặc khi chiều muộn. Tiếng trẻ con nô đùa, tiếng người lớn xì xầm nói chuyện, chỉ là những chuyện tủn mủn trong nhà, như hôm qua vừa đổi loại gạo mới, ăn vừa khô vừa cứng, dạo này mưa nhiều nên rau đắt hẳn, nhưng bù lại có nhiều loại cá sông rất ngon. Hôm trước mua được mớ cá cấn, cá mại về kho với lá ném ngon thật. Buổi sáng nấu nồi cháo trắng to mà cả nhà ăn sạch. Mùa này cá mương cũng béo lắm, giá mà lát nữa ra chợ gặp được, mua về chiên giòn thì ngon nhức răng. Tiếng nói cười rổn rảng đó, vậy mà khiến ông bà già vui lây.

Sân nhà ông bà già rất rộng, và đầy hoa lá. Hiên nhà có chiếc bàn trà đặt bên dưới gốc lộc vừng. Mùa lộc vừng trổ bông, hoa giăng từng chùm đỏ ối, hương lộc vừng ngọt lịm hòa trong gió trời chạy khắp sân nhà. Ngồi ở đây uống trà vào sớm mai rất thích khi nắng mai xuyên qua tán lá xanh mướt rồi phủ trên bàn màu vàng ươm như ai vừa đánh rơi bình mật. Cả tiếng chim lích chích trên đầu cũng khiến buổi sáng trở nên rộn ràng hẳn. Nhưng ông bà già chỉ thích ngồi ở ô cửa sổ tầng hai. Ở đó tầm nhìn rộng, đủ để nhìn thấy mấy đứa nhỏ hàng xóm chạy chơi bên dưới, trong khi cha mẹ chúng ngồi uống cà phê cùng bà nội và rỉ rả kể về một ngày đã qua và bàn về những ngày sắp đến. Từ ô cửa sổ này, ông bà già cũng có thể thấy ngay bóng dáng con trai, con gái hay mấy đứa cháu khi tụi nó ghé về, đứng trước cửa gọi vào: “Ba ơi, mở cửa”, “Ông ơi, mở cửa”. Tiếng gọi thân thương mà ông bà già muốn được nghe mỗi ngày, nhưng hiếm khi được nghe.

Mình cũng có con cháu đủ cả, mà cũng như không. Ông già lại than vãn câu nói cũ mèm. Thằng Hùng lâu rồi không thấy ghé bà nhỉ? Cả vợ nó nữa. Mấy đứa con cũng bận gì mà thấy vắng hẳn? Vợ chồng con Hoài ở nước ngoài thì không nói, nhưng vợ chồng con Chi, vợ chồng thằng út nữa. Hồi xưa tôi cũng đi làm, cũng đâu có bận tuốt luột như tụi nó. Làm ông này, bà nọ thì được ích gì chứ. Giọng ông già khàn khàn, buồn hiu, tựa như cơn gió vừa vắt ngang ô cửa. Hồi xưa mình khác ông ơi. Giờ tụi nó khác. Mấy đứa cháu không đi làm thì đi học. Tụi nó học đủ thứ. Mà nếu rảnh, tụi nó cũng xách ba lô đi du lịch khắp nơi, mở mang kiến thức, có ở thành phố đâu. Bà già nói khi đang phơi mấy bộ quần áo ra ngoài ban công. Bà không thích có người lạ trong nhà, nên chỉ thuê giúp việc theo giờ đến dọn nhà, chăm sóc cây. Người già ngủ ít, nên ngày như dài ra thêm. Cũng may có chút việc để loay hoay, cũng đỡ buồn tay buồn chân.

Có tiếng gọi cửa í ới. Ông già đặt cuốn sách xuống bàn rồi ngoái đầu nhìn qua ô cửa sổ. Là người giao hàng. Hôm trước con gái gọi điện hỏi thăm. Ông than mệt. Dạo này trời lạnh, cứ ba giờ sáng là ông bắt đầu tỉnh giấc, rồi ho liên miên, mệt không thở nổi. Bà già kéo tay ông ra dấu, bảo đừng than vãn về sức khỏe mà tụi nó lo. Ờ, nếu tụi nó lo, thì ghé về ông nhìn mặt chút xíu cũng được. Chứ suốt ngày nhìn nhau qua màn hình điện thoại lạnh tanh, sao mà thỏa lòng. Nên tiếng gọi cửa trưa nay khiến ông hồ hởi lắm. Lẽ ra, giờ này ông chẳng bao giờ ngồi bên cửa sổ. Chỉ vì ông muốn nhìn thấy con gái, con trai, hay một đứa cháu nào đó của mình ngay khi tụi nó vừa dừng ô tô trước cổng.

Cháu đến giao hàng. Người thanh niên đứng trước cánh cửa sắt màu xanh, đưa cho bà già mấy túi đồ, bên trong đủ loại thuốc bổ, hộp to, hộp nhỏ. Bà già đem vào nhà, nhưng bước chân chậm hẳn, chẳng nhanh nhẹn, vội vàng như lúc bước ra. Con gái gửi thuốc cho ông. Tôi biết tụi nó bận lắm mà. Để bữa nào ngơi việc, tụi nó về thăm. Bà già an ủi ông già, mà cũng là an ủi chính mình. Những cuộc điện thoại vội vã, bà chưa kịp kể chuyện nhà là con cái đã tắt máy vì bận việc. Ông già nhìn đống thuốc bổ chất đầy trên kệ tủ, có loại đặt ở đó đã lâu, chắc đã hết hạn sử dụng, có loại mới mua, còn nguyên nhãn mác. Tôi có cần những thứ này đâu. Tụi nó vục mặt kiếm tiền làm gì. Ông già nhăn nhó. Ơ hay, tụi nó kiếm tiền cho chúng nó xài, con cái chúng ăn học, chứ đâu phải chỉ để mua mỗi thứ này. Mà bao nhiêu người còn phải dựa vào tụi nó để sống nữa đấy. Như thằng Hùng, công ty nó biết bao nhiêu công nhân, còn phải đợi nó chạy đôn chạy đáo kiếm hợp đồng về, mọi người mới có cơm ăn. Mình già rồi, tự tìm niềm vui thôi, ông cứ ngóng tụi nó mãi làm gì cho mệt thân. Bà già nói một tràng với ông già, tựa như thấy hơi mệt nên cũng bỏ về phòng nằm. Bữa cơm trưa vậy là gác đến chiều mới ăn.

Bà già không nói cho ông già biết, mình cũng ngóng các con ghé đến, khi nghe mấy đứa con bảo sẽ tranh thủ ghé về, lúc ông già than mệt. Sáng nay, bà ra chợ gặp được mớ cá sông. Loại cá lụn vụn như cá bầu, cá cấn, cá mại. Vậy là lủi khắp chợ thêm mấy vòng mới mua được nắm lá ném thơm lừng. Mấy đứa con của bà, dù ăn cơm Âu, cơm Á đủ cả, nhưng vẫn ghiền cái thứ cá lụn vụn đó. Bà ngồi suốt buổi sáng, làm sạch mớ cá, kho một nồi thật to. Cứ nghĩ đứa nào ghé về, bà sẽ kêu tụi nó mang về nhà ăn đã ghiền.

Cá kho khô, chắc bà cho hơi nhiều ớt, nên chiều nay, lúc ăn cơm, bà thấy cay xè, nước mắt chỉ muốn ứa ra. Già rồi, đến sức ăn cay cũng giảm. Bà lấy khăn chặm giọt nước mắt vừa ứa ra, nghe gió ngoài trời thổi ràn rạt qua ô cửa. Mấy nay mưa nhiều, ô cửa đã bắt đầu phủ một lớp rêu xanh. Đám rêu xanh mướt, lú nhú, mềm mướt. Lúc sáng, khi ngồi bên ô cửa, bà già thấy mấy cụm rêu mềm mềm, mượt mượt. Lẽ ra, bà đã đưa tay gạt đám rêu ấy đi, nhưng rồi bà vẫn để chúng nằm đấy. Chỉ sợ mấy ngày tới có nắng, đám rêu ấy chắc là héo rũ mất. Bà già nghĩ ngợi khi thấy mấy con chim đậu lên ô cửa. Đôi mắt tròn xoe nhìn bà chờ đợi. Bà vội vã xuống bếp, lấy nắm gạo đặt trên ô cửa có những vết rêu xanh.

LÊ HÀ

Rong rêu – Trung Học Chợ Lách




 


 
 

Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

Nhạc - Thơ - Văn Cá Bống dừa

Cá Bống Dừa - Nhạc Dân Ca Quê Hương

Ký ức miền quê | Cá bống dừa sông quê 

Thương cho kiếp bống,
Thương thay số kiếp bống dừa,
Ly hương xa tổ gió mưa cuộc đời...
Sóng đưa trôi dạt khắp nơi,
Có thương có nhớ thế thôi... không về !
Suốt đời sống kiếp xa quê,
Đành quên sông cũ, buông lơi cội nguồn?!
Con về khơi mạch sầu tuôn,
Vẫn thương nhớ mẹ, vẫn thương thân mình !
Thương thay một kiếp phù sinh,
Xa nhà trôi nổi linh đinh kiếp người !!
NM

 Cá bống dừa quê.

Tôi ngồi trên cây cầu cây de ra bến nước, lòng bồi hồi nhớ mẹ. Dáng mẹ gầy và khô đét, che bởi tấm áo vải thô vá đùm, vá đụp; tóc mẹ sợi đau sợi cực, đầu đội nón lá chằm đã tưa rách, phai màu. Mẹ đeo cái giỏ đụt bên hông, chưn bước dò từng bước, lách qua những khe buội dừa nước mọc sum suê trên những dải đất bùn ven sông. Mẹ nhẫn nại thò tay vô từng bộng dừa, mò bắt từng con cá bống... Đã mười năm rồi, chớ ít ỏi gì! Mười năm tôi xa nhà, mười năm mẹ lóng ngóng chờ tin, đợi gặp mặt con.

Đêm đồng bằng châu thổ miền Tây chằng chịt sông rạch, hàng hàng lớp lớp những tàu lá dừa nước bảo vệ và che chắn cái chết cho những đứa con ra đi vì đất nước. Thuở đó, lứa tuổi như tôi thừa ngây thơ và lắm ước mơ. Mỗi lần thương nhớ mẹ, tôi không thể nào không thương nhớ cá bống dừa quê. Và, cũng không thể nào quên câu hò của người em gái nhà bên, khi đi cùng tôi câu cá bống dừa vào những đêm con nước lớn:

‘’Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

Bậu ra, bậu lấy ông câu

Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu

Kho tiêu, kho mỡ, kho hành

Kho ba lạng thịt (bậu) để dành, bậu ăn!’’ (ca dao)

Tiếng hò của em vang xa tràn khắp mặt nước sông đêm

Ở quê tôi, mùa nào cũng có cá bống. Và, chẳng phải một mình cá bống dừa, có rất nhiều loại cá bống khác, như: bống sao, bống trứng, bống xệ, bống mật, bống cát, bống mú, bống bọt... Nhưng, không có bống nào thịt ngon bằng bống dừa; không có bống nào yêu thương con và thủy chung với cội nguồn hơn nó. Khi tiết trời cuối hạ đầu thu, bống dừa cái vào mùa chịu đực. Nó nhả ra mùi dục tình lan theo dòng nước và từng bầy bống dừa đực bơi ngược theo làn nước đó, tìm gặp và giao phối.

Một bụi dừa nước có nhiều bập dừa, mỗi bập dừa có lõm kẹt dừa, lõm kẹt dừa là khoảng cách giữa bập và bắp dừa, tạo thành cái vũng nước, khi nước ròng cạn nước mé sông. Đây chính là tổ ái ân, nơi đẻ trứng, nở con trong cuộc tồn sinh nòi giống. Mùa trứng nở rộ, cá bống dừa con nhỏ li ti, cơ man nào đếm xuể, nó đeo bám từng bẹ bập dừa đen hị chẳng khác chi đám bù mắc bu cắn ngứa ngái, nổi mận đỏ sần mình!

Mùa trăng trung thu chuyển về đêm 21. Nghĩa là, đêm 21 vào nửa đêm trăng mới mọc, thì bầy cá bống con trưởng thành, nó xa mẹ, xa quê... nó bơi vào cõi tự do, đất rộng sông dài, đến xứ người lập nghiệp. Nó không phải đi ‘’tha phương cầu thực’’ mà nó đi dựng giang sơn mới. Nói nghe thì dễ như vậy, chớ thiệt ra cũng lắm đoạn trường và chết chóc. Kẻ thù trực tiếp của nó là, bọn cá lóc. Kẻ thù tiềm tàng và lâu dài là, lũ cá trê. Cá lóc táp, thường săn mồi trên mặt nước. Cá trê gậm nhấm, săn mồi dưới đáy nước. Cá lóc đi ăn vào ban mai, đầu hôm. Cá trê đi ăn vào lúc hoàng hôn, chạng vạng tối. Hình như bống dừa nắm vững quy luật, đặc tính kẻ thù; nó có thói quen đi ăn giữa trưa và xế bóng! Nó bơi lưng chừng dòng nước, nghêu ngao nơi ‘’góc chết’’ giữa đôi bờ sinh tử. Kẻ thù dù ngó thấy, cũng chẳng thể mần được gì. Bởi, cá lóc bắt con mồi bằng động tác ‘’táp’’ trong trạng thái ‘’động’’của con mồi; cá trê bắt mồi bằng động tác ‘’gậm’’ trong trạng thái ‘’tĩnh’’ của con mồi. Cá bống dừa không có sức mạnh, nanh vuốt để ngăn chặn hay đánh trả kẻ thù. Nó, khôn cũng không; dại cũng chẳng có. Chỉ là, nó ‘’biết’’ để giữ bổn mạng và bảo tồn nòi giống.

Thương những con bống dừa rời quê mẹ đến đất khách, lập nghiệp không thành. Nó không có tập quán quay lại cố hương dù rằng, tận đáy tâm hồn nó không quên cố thổ. Nó chấp nhận cuộc sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’ ở nang tàu mo cau mục, miếng ván bể, miểng gáo dừa khô hoặc chà cây nơi ngọn rạch, hốc vàm...làm chốn dung thân. Sống trong môi trường mới, buộc nó phải thích nghi và vì thích nghi, lần hồi nó thay đổi chất bống dừa: thịt không còn dẻo và ngọt; dáng dấp, màu sắc không còn lưng đen đũi, lườn trăng trắng, mùa thụ thai bụng mang trứng ốc nốc như thời bống đương sống rừng dừa nước. Nhiều khi, nó xa lạ với chính nó, đau khổ biết chừng nào!

Đời mẹ tôi chưa hề có được cục đất chọi chim, nói chi đến ruộng công ruộng mẫu. Vì, không có đất nên mẹ phải làm nghề hạ bạc để sinh nhai; dẫu rằng cái nghề nầy người ta không coi trọng.

Mình mẩy, áo quần, chài lưới còn lấm bùn đất, còn ướt chèm nhẹp thì còn tiền; khô ráo, sạch sẽ thì, tiền sạch trơn. Mẹ mong có dịp đổi nghề nhưng làm gì có dịp để mẹ tôi đổi nghề trong cái xã hội kim tiền đầy rẫy bất công ‘’kẻ ăn không hết, người lần không ra!’’. Ngày đó, tôi non nớt lắm, thiệt thà hỏi mẹ:

     - Sao mẹ muốn bỏ nghề bám sông nước chài lưới?

Mẹ nói, từ ngày ba con bỏ đi, một mình mẹ không cam nổi tay lưới, mái chèo. Vả lại, hồi ông ngoại còn sống, ông ngoại thường dặn:

   - Mần cái nghề hạ bạc, bắt cá sống bán cá chết, nghèo mạt lút đầu. Giàu một đời chẳng có, nói chi giàu đến ba đời.

Sau nầy, tôi sống sông hồ thời loạn, nhiều đêm ăn bụi ngủ bờ, tôi hiểu ra điều mẹ nói và hiểu thêm vì sao người đời bảo: ‘’Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá!’’ Tôi mỗi ngày một lớn, mẹ mỗi ngày một già. Khi tôi lên mười, sức mẹ yếu dần, buông nghề chài lưới và chuyển sang bắt cá bống dừa bằng tay hoặc bằng đặt lọp. Tôi ngây ngô, hỏi mẹ:

   - Mẹ! Có bao giờ mẹ thấy hà bá không, mẹ?

   - Hà bá, hà bạ...gì con! Mấy tay có chữ, tự xưng ‘’nho sĩ, sĩ phu’’ chi chi đó, lấy điển tích Tàu bày vẽ hù dọa dân nghèo dốt chữ cúng bái, thờ phượng. Có thiệt đâu mà thấy! Chẳng qua là tích Phùng Di, một tay có tài trị thủy. Bởi sinh nghề tử nghiệp, ông ta chết chìm dưới sông khi thuyền lật úp. Trời thương, phong chức Hà Bá giữ sông.

Tôi ngây thơ hỏi:

   - Vậy Phùng Di là thần sông hả mẹ?

Mẹ gật đầu cười, nét cười của mẹ tôi ngày ấy trông thật bình yên

Cá bống dừa ngửi mùi thúi bỏ đi, ngửi mùi tanh thì, nửa đi nửa ở. Cái mùi tanh tanh nó như vừa muốn xua đuổi, vừa muốn níu kéo. Và rồi, mùi tanh đó quyến rũ con cá bống dừa bất kể chết sống cũng chui vô. Biết vậy, nước ròng mẹ chặn ngách kẹt bập dừa, thò tay bắt cá bống. Nước lớn, mẹ gài lọp ven mé dừa nước để bắt bống dừa.

Chẻ thân cây sống lá dừa nước phơi một nắng, cắt thành từng khúc dài độ 3 đến 4 tấc, dùng dây lạt dừa bền tròn đường kính khoảng 1 tấc đến 1 tấc 2, sao cho vừa nửa cái gáo dừa khô, khoét lỗ tròn lớn bằng ngón chưn cái hoặc nhỉnh hơn một chút, ngay giữa mặt gáo. Hai đầu lọp, đặt hom phía trong, phía ngoài cài ngược 2 đầu gáo dừa mần nắp đậy lợp. Bống chui vô lọt tót, chạy ra kẹt hom.

Mẹ tách đôi cua đồng dùng làm mồi, treo bên trong giữa thân lọp. Mùi tanh là mùi quyến rủ bống dừa. Từng con thong thả chui vô lọp, sóng nước miên man êm ả, vỗ về!

Cuối đời mẹ sống nhờ bống kèo. Tôi vô tích sự, mãi miết chạy theo mộng, bỏ thực của đạo làm con. Ngày tôi về, mẹ tôi đã ra người thiên cổ!

Chiều nay, một buổi chiều buồn cạn nước sông quê. Tôi ngột ngạt như bống dừa kẹt hom lọp. Mười năm vật đổi sao dời, rừng dừa nước ngày xưa từng là: ‘’Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù’’, nay bị chặt rụng đầu chết sạch bởi, lòng tham vô tận của con người: lấn sông, lấp rạch mần dự án ‘’phân lô, bán nền’’! Rừng dừa nước biến mất, cá bống dừa bị hủy diệt. Giờ thì, bống dừa nhân tạo thay bống dừa thiên nhiên. Và, biết đâu bống dừa nhân tạo chính là mầm chết thuộc về con người được báo trước qua căn bịnh ung thư, cũng có thể lắm chớ!

Tôi sợ tôi biến chất như bống dừa sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’. Tôi run sợ, tôi mất gốc, ngay trên gốc của mình. Một con bống dừa không có tập quán quay lại cố hương

Tôi ngồi trên cây cầu cây de ra bến nước. Buổi chiều trôi chầm chậm, kéo lê từng sợi nắng trải dài bên kia sông. Bỗng dưng chạnh lòng nhớ mẹ, tôi bật khóc sụt sùi.

Tôi khóc mẹ tôi. Tôi khóc tôi hay, tôi khóc cho tàn kiếp bống dừa quê!?

Trần Bảo Định

Cá bống đen, tôm đồng

 

Ngày tôi còn nhỏ sống ở quê, sau vụ chiêm, người nông dân mở cống cho nước mang phù sa vào bồi bổ cho đất đồng cùng với nước từ những trận mưa rào sầm sập sấm chớp ùng oàng của mùa hè châu thổ. Những cánh đồng ngập nước mênh mông và… ở đấy có bao nhiêu điều thú vị theo ta mãi trên những dặm đường đời…

Trên cánh đồng ngập nước, vô số những loài thủy sinh cùng chim chóc như cò, vạc, le le, vịt trời quần tụ… Thế là đám trẻ chăn trâu mê mải những thú vui đánh bắt. Ngày nào cũng vậy, ra khỏi nhà với quần áo cộc, trên tay dụng cụ đánh bắt được làm kỳ công bằng tre nứa; lúc về là giỏ đầy cá tôm, quần áo lấm đất bùn và mái tóc đỏ hoe khét mùi nắng gió. Tôm cá mùa này sẵn lắm, nhà ăn không hết còn mang bán để lấy tiền mua sách vở chuẩn bị bước vào năm học mới. Trên chiếc bè kết bằng cây chuối chống đẩy bằng sào tre lao vun vút đi bỏ lờ cua cá, đó tép; ở các vũng nhỏ thì khom lưng hì hục tát nước bằng chậu, rồi đánh dậm, mò bũng… Không khí thoáng đãng, đất trời mênh mang không bị che chắn, luôn thôi thúc đám “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò” đang kỳ nghỉ hè, đầu trần dãi nắng trên cánh đồng lồng lộng gió nồm nam, đầy ăm ắp nước.

Cá bống đen, tôm đồng rất thích trú ngụ, tìm ăn trong đám rơm rạ đang mục dần; ở đó có nhiều con ốc vặn, tép riu, trùng nước… là món khoái khẩu của cá bống đen và tôm. Cá bống đen, mình đen trũi, bóng nhẫy, bụng màu vàng nhạt luôn phè ra hai bên vì phải mang bao trứng to kềnh trong bụng, nhìn những trứng là trứng. Cá bống đen chỉ to bằng ngón tay cái, béo mũm mĩm lại ngắn tũn nên được gọi bằng cái tên thân mật là cá bống mít; chúng thuộc diện “mỏng mày, may hạt”, ai cũng thích mê. Tôm đồng, con cái to bằng ngón tay, mình rắn đanh, trên đầu mang trứng non, dưới bụng ôm ấp bọc trứng màu xanh xám. Con đực to hơn với hai chiếc càng dài giáo mác dũng mãnh. Con tôm đực chúng tôi gọi là tôm chà. Với tôi, tôm trứng và cá bống đen là một cặp bài trùng. Nói đến bống đen là nghĩ ngay đến tôm đồng và nói đến tôm đồng là hình dung ra mấy chú bống đen phồng hai mang nằm bên cạnh. Vì vậy trong niêu rang, hay kho cá bống đen thế nào cũng có cả tôm trứng màu đỏ như son, cái lưng cong cong.

Cá bống đen tinh ranh lắm, thấy động nước là ngúc ngoắc đuôi, xòe hai vây rộng như hai chiếc quạt, lẩn trốn; loài cá này câu không thèm cắn, bỏ lờ, bỏ đó không chui vào, muốn bắt chỉ có mò tay cùng chiếc bũng to, miệng rộng, lòng sâu hỗ trợ mò mẫm, dồn đuổi chúng vào bụng bũng, nhưng mỗi lần cất lên cũng chỉ được một vài con, còn lại chúng lẩn nhanh như trạch. Sau trận mưa rào nước mát lạnh, chúng thường thích thú nhào lộn xung quanh đám bèo hay đụn rơm rạ mục. Tôm, ngoài việc đánh bắt bằng bũng người ta còn dùng vó tôm, chỉ cần có mồi cám rang thơm dẫn dụ là loại háu đói này vào ăn ngay. Nhẹ nhàng cất vó lên, hắt chúng vào chiếc rổ có đặt ít lá tre để chúng không búng bật ra ngoài.

Đặc sản của vùng chiêm trũng có lẽ phải kể đứng hàng đầu là cá bống đen và tôm trứng. Cá bống đen thịt dày rất thơm, nhỏ xương. Tôm trứng giòn, dai ngọt sâu, đậm đà, rất bùi vì có trứng ở đầu và bụng. Có rất nhiều cách chế biến 2 thứ này thành món ngon ăn với cơm. Món ăn quen thuộc và dân dã là cá bống đen kho tương cùng tôm trứng. Cá bống đen vảy nhỏ nên không cần phải đánh vảy, rửa sạch để ráo nước rồi xóc muối cho cứng con cá; con tôm cắt râu và mỏm đầu, nặn bỏ ruột. Khi kho mặn cho thêm nước tương hoặc nước mắm cho dậy mùi. Niêu kho tôm cá sôi kỹ, cạn nước, đậy nắp thật kín mang ủ vùi trong tro trấu đang cháy âm ỉ; khi bắc niêu kho ra, đáy niêu cạn khô, thơm phưng phức. Cá bống đen kho niêu đất và phải ủ trong tro trấu mới ngon, mình con cá rắn đanh lại; cắn một miếng thấy lan tỏa trong miệng vị béo bùi, ngọt đậm và thơm lựng, sự cộng hưởng vị ngọt của cá, bùi béo hai bọc trứng với vị ngọt nước tương cô đặc tạo lên cái ngon đặc biệt. Trong sự kết hợp mùi vị ấy, còn có sự tham gia của mùi khói trấu làm tăng độ hấp dẫn đến lạ lùng của cá bống đen kho niêu đất. Mở vung ra, chỉ mùi tôm cá kho thôi cũng khiến ta tứa nước miếng. Ăn cơm gạo hom với cá bống và tôm kho mặn ngon lắm lắm. Gạo hom hạt ngắn, mập nấu lên cơm dẻo như gạo nếp hương và có mùi thơm gạo tám. Cơm này ăn với cá bống đen kho mặn, các giác quan của ta cứ như được đánh thức, vô cùng thích thú.

Đĩa cá bống đen màu hổ phách, tôm trứng đỏ tươi rắn chắc đặt trong mâm cơm phối cảnh cùng rau muống luộc, quả cà muối giòn… quả thật hình ảnh ấy sao mà in sâu trong tâm trí những đứa con của đồng bằng châu thổ…

Chung Tiến Lực

Triều lên săn cá bống dừa

Tôi vẫn còn nhớ như in cảm giác trưa nắng oi ả, bên bờ sông Tiền mênh mang sóng nước, một mình ngồi đợi phà ở cù lao Tam Hiệp để sang bên Chợ Gạo. Cảm giác hiu quạnh vắng vẻ miệt cù lao đã được rộn lên bởi tiếng cười trong trẻo của mấy đứa trẻ đi bắt cá bống dừa.

Được coi là đặc sản vùng sông nước Cửu Long, cá bống dừa không to nhưng thịt chắc, thơm và có vị rất khác với các loài bống thường. Tuy nhiên, để bắt được chúng cũng khá khó khăn, phải lựa theo từng con nước lên xuống bởi môi trường sống ưa thích của cá bống dừa chính là những rặng dừa nước ven sông ngòi kênh rạch.

Theo đó, cứ khi con triều lên, thợ săn bống dừa sẽ dải bẫy làm bằng lưới đan mắt nhỏ dọc theo triền sông. Khi nước rút, cá bống dừa đang tìm thức ăn là lá mục, thủy sinh vật, trái chín rụng ở ven bờ sẽ theo dòng triều đi ra, bị mắc lưới. Nói thì vậy nhưng để săn được loài cá tinh khôn này, những cái bẫy bằng lưới phải được đan và đặt khá cầu kỳ.

Khác với nhiều loài cá, để bắt được bống dừa, ở vùng hạ lưu sông Tiền quanh cù lao Tam Hiệp người ta phải đi săn chứ không câu vì chúng rất tinh khôn. Cụ thể, với chế độ bán nhật triều, mỗi ngày con nước lên xuống tới 2 lần, mỗi lần chừng hơn một giờ đồng hồ. Đó cũng là thời gian để thợ săn cá bống dừa vào cuộc.

Bên cù lao Tam Hiệp ở mé sông Tiền, bọn trẻ - những thợ săn "nhí" trong buổi chiều đi giăng cá bống dừa kể, khi nước rút, rất nhiều chú cá bống dừa mải kiếm ăn không theo kịp, bị giữ lại giữa những vùng bùn nhỏ, những bọng dừa nước… và đó chính là những chú cá to như trái đậu bắp, béo nùng nục nằm gọn trong chiếc giỏ đan bằng tre cật kia. Có lẽ, chiều nay những đứa trẻ nghèo này sẽ có một bữa ăn ngon, với món cá bống dừa kho quẹt, cùng lấm lem bùn đất tuổi thơ miền sông nước.

Nhưng đó không phải là lần duy nhất cá bống dừa làm tôi nhớ mãi bởi sau này, trong một lần rong ruổi dưới tán rừng sác ở bán đảo Cần Giờ rộng lớn, tôi cũng bắt gặp những thợ săn cá bống dừa. Khác với mấy đứa trẻ ở cù lao kia, anh Lậm, thợ săn bống dừa vùng Lý Nhơn, Cần Thạnh coi đây là một sinh kế chính của gia đình. Ngồi trên chiếc ghe gỗ mỏng mảnh, người đàn ông nhìn đen đúa nhưng lương thiện nói cười đôn hậu: “Hơn mười năm qua, ngày nào cũng hai bận, tôi dải hơn trăm mét lưới dọc các cửa sông, rồi ngồi đợi triều xuống đi nhấc lưới. Trong đó, cá bống dừa là thành quả chính. Trước bống dừa nhiều thì giá lại rẻ. Bây giờ, giá cao hơn chút thì cá lại ít đi, có ngày đi hai bận mà chưa được ký cá.

Gặp người săn cá bống dừa thì nhiều nhưng chỉ duy nhất một lần tôi được ăn loài cá này. Đó là một chiều oi ả tình cờ khi nghỉ lại bên Gò Công Đông, tạt vào một quán cơm ven đường để ăn chút gì sau một ngày rong ruổi. Chủ quán, một bà lão áng chừng hơn 60 nhưng còn minh mẫn, khá mập mạp cười bảo, quán còn mỗi cá và thịt kho, ăn con nhé. Tôi ậm ừ gật đầu mà không nghĩ rằng, đó là một trong những bữa ăn ven đường đặc biệt nhất mà mình từng thưởng thức. Một dĩa cá bống với thịt kho.

Những miếng thịt ba rọi thái “ngô nghê” to hơn nhiều ở những quán ăn trên Sài Gòn cùng với mấy con cá bống kho tiêu. Thịt cá thơm, cộng thêm vị ngọt béo của thịt đã tạo thành món ăn giản đơn mà đậm đà. Và, như để cho bữa ăn thêm gia vị là một tô thật nhiều những rau, bông đủ màu xanh, tím, vàng, trắng… ăn kèm với món bống kho tiêu ba rọi kia. Rất lâu sau này, tôi vẫn còn nhớ bữa cơm tình cờ ấy nhưng thật buồn, rất lâu rồi mình không có dịp quay trở lại con đường ven biển Gò Công Đông ấy để táp vô cái quán có mấy chậu bong trước cửa cùng những tán dừa khô lợp sơ sài…

Hiện nay, cá bống dừa có ở nhiều nơi bởi nghe đâu, người ta còn nuôi nhân tạo được loài cá này. Bất giác tôi nhớ đến những đứa trẻ nghèo của buổi trưa cù lao và tiếng thở dài của người đàn ông lương thiện bên vùng báo đảo. Dường như, cái sinh kế nhỏ nhoi của họ cũng đang ngày một bị đe dọa và không biết chừng, đã không còn là cứu cánh để nương nhờ cuộc đời mình vào đó cùng những chú bống dừa tinh khôn nữa

 Hình, bài Đoàn Xá

Đong đưa bống dừa...

Với tôi, thịt bống thân quen như hơi thở. Thuở còn bú mớm đã nghe tiếng hát ru: “… Bậu  gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Bậu ra bậu lấy ông câu. Bậu câu cá bống, chặt đầu kho tiêu. Kho tiêu, kho ớt, kho hành. Kho ba lượng thịt để dành mà ăn”...

Hồi mới tập ăn dặm, đã sớm làm quen với những muỗng cơm nhai nhuyễn thịt bống dừa hay bống cát. Tuổi nhỏ chuyên mê chơi, ưa trốn ngủ trưa, đầu trần dang nắng, để nửa đêm nóng sốt mê man. Chớm khỏi bệnh, vẫn là những muỗng cháo lềnh thịt bống, đong đầy tình mẹ!

Nhớ bống cố hương

“Trọng trọng” một chút, 12 - 15 tuổi, tôi đã háo hức cùng đám bạn cùng xóm nghèo, ven biển Đám Lá Tối Trời (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), lội bộ mấy cây số đặt lọp, thục hang, câu cá bống dừa, bống trứng… phụ lo bữa cơm chiều.

Thời đó, khoảng 30 năm trước, sông rạch Soài Rạp dư giả cá tôm. Mỗi đứa chúng tôi, lặn lội khoảng vài ba tiếng đã nghe nằng nặng giỏ, từ nửa ký đến 1kg cá, dư ăn cả nhà

Nếu muốn xúc hoặc thụt cá bống trong hang, phải đợi  những ngày con nước kém, canh lúc con nước ròng sát. Men theo những ngọn rạch ngoằn ngoèo, um tùm những tán cây giá, mắm, dừa nước… de ra giao ngọn.

Có vũng rộng cỡ cái mâm, ngầu đục, sâu hơn tấc nước, quần tụ ba - bốn “trự” bống dừa đen bóng, có con gần bằng ngón chân cái người lớn. Người bắt chỉ cần khom lưng, khéo léo dùng hai tay nắm chặt miệng rổ, xoay tròn, tạo một lực hút xoáy đủ mạnh để cá bị cuốn vào lòng rổ (còn gọi chao). Cách bắt này, thường đơn lẻ hoặc sánh đôi hai người đi cặp một mương, không vui bằng câu.

Đi câu, thường theo nhóm năm, sáu người, chuyện trò rôm rả hơn. Mồi bén của lũ bống thường là thịt tép (bạc hoặc đất nhỏ) hay mồi trùn. Với mồi tôm, cá ăn nhạy hơn nhưng rất hao mồi. Khi thấy cục phao câu (bằng nhựa hoặc cờ bắp khô) chìm xuống, chạy xa gần một tấc, người câu chỉ cần gặt ngang- mạnh vừa phải, rồi nhanh tay kéo lên. 

Nay, lượng cá bống cố hương đã thưa thớt dần. Mặc dù vậy, vẫn còn những người bắt cá bống mưu sinh.

Giai tầng nhà bống

Trước nay “phẩm hạnh” con bống lọ lem luôn được xếp chiếu dưới so với  bống cát - thịt luôn chắc, ngọt hơn. Phần do “cơ địa” bống đàn anh ưa vùng vẫy nơi tầng đáy, phần thích khoét hang sâu ở vùng cửa sông, thường có nước xoáy để phục con mồi (cá, tép, cua con…). Kiểu như, con bống thệ, ưa sống nơi hợp lưu Hương Giang vậy.

Bù lại, hợp tấu món ngon, món mới bống dừa cứ thi nhau nẩy nở trong dân gian. Và để tránh đơn điệu, buộc những thím Ba, chú Bảy phải vắt óc suy nghĩ món mới thật hấp dẫn.

Còn anh lớn bống cát, thường quanh quẩn với các món kho tiêu, nấu cháo, hấp. Cần nói thêm, con bống đen sống được cả nước ngọt và lợ. Ở  những vùng nước lợ như Trà Vinh, Cần Giờ (TP.HCM), Gò Công Đông (Tiền Giang), thịt cá thường dẻo chắc và ngọt “bạo” hơn miệt nước ngọt: Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ… 

Nói nào ngay, thịt đám bống lọ lem kia vẫn có độ bở nhất định, do chúng thường an phận ở những vùng nước cạn, dòng chảy lờ đờ. Tuy vậy, gặp đầu bếp khéo tay, hiểu rõ ngọn ngành con bống vẫn có những bữa ăn thần tiên.

Mộc mạc tình quê

Hãy bắt đầu với món mộc, già cỗi vẫn chưa lỗi thời: nướng lá chuối. Ướp với ít muối ớt giã cùng tí bột ngọt, tiêu và rất ít nước mỡ heo hoặc dầu ăn. Gói lá chuối, nướng lửa than. Hoa mỹ hơn, còn gọi món “bống dừa spa”.

Nhớ đợi cá thấm gia vị khoảng 15 phút. Gói hai lớp lá chuối. Chọn lá chuối sứ (xiêm) hoặc chuối hột sẽ dễ gói hơn chuối già, do có độ dẻo nhất định. Lớp trong là lá chuối non tơ. Lớp kế, chọn lá dày dày (không già, không non). Muốn lá chuối mềm dẻo như ý, chỉ cần bạn hong nhanh hai mặt lá qua lửa than hoặc bếp ga. Riêng lớp ngoài cùng là giấy bạc.

Nướng đều hai mặt, 18-20 phút thì cá chín. Cẩn thận giở lớp giấy bạc ra. Chịu khó hong lại lửa than từ nóng vừa xuống còn âm ấm.Vẫn trở đều hai mặt, để tinh dầu lá chuối và nước ngọt cá rút ngược trở lại, ám chặt vào thịt da cá.

Nướng điệu nghệ, những sớ thịt cá trắng tươi, mỏng manh sẽ co rút lại, thêm săn chắc.

Ấn tượng nhất là mùi thơm lan tỏa, dìu dịu gợi nhớ đồng quê đến nao lòng, lúc mới giở lá ra. Tinh dầu lá chuối tươi sục sôi cuộn trào với chất béo ngọt của mỡ heo và mỡ cá (chủ yếu từ gan bé tẹo), rồi ám khói than đước rực hồng, hòa quyện thành một làn hương vừa nồng nồng vừa ngai ngái mùi khói đốt đồng trộn lẫn mùi khói rơm cơm chiều nồng cay. Sướng thấu trời, rượu mềm môi mà chẳng thấy say! Nhưng vẫn chưa là gì so với “bống dừa túy quyền”.

Nửa tỉnh nửa say…

Cái thần của món nằm này ở chỗ, đạt đến sự phối kết uyển chuyển giữa men rượu nhẹ (nước cơm rượu hoặc bia) với nhựa trái chuối chát và con bống cong đuôi. Có hai cách để đúc ra dạng bống giả thệ kia. 

Cá sau khi làm sạch, để ráo, ướp lạt với muối ớt, cỡ 15 -17 phút. Vớt ra, phơi độ 3 - 6 giờ, tùy nắng. Hễ bóp nhẹ vào mình cá nghe cứng tay là được. 

Cách thứ hai, lấy cá đã ướp sơ đem hong trên lửa than, nếu gặp ngày mưa bão

Phần nước xúp chủ đạo, cỡ một chén nước dừa dâu lửa hoặc dừa xiêm. Thêm 2/3 ly bia, 4-5 trái chuối sứ chát cỡ gần bằng ngón chân cái người lớn + rau răm + lá quế xắt ba sồn + sả bằm, vài củ hành tím + 1 chén nhỏ mè rang giã nhuyễn + 1 muỗng canh dầu ăn/mỡ heo. Lượng: 500g bống dừa. Với ít nước tương ngon, muối, bột ngọt, ớt chim/hiểm. Nêm nếm tùy khẩu vị. Chuối, gọt sọc dưa, bỏ bớt vỏ xanh. Xắt dọc, cắt khúc vừa gắp. Xả mủ bằng nước cốt chanh pha nước muối loãng. 

Đốt cách thủy tại bàn, đựng bằng “chiếc xuồng” inox (lập là). Ban đầu, tắm nóng cá bằng bia trước. Năm phút sau, rưới nửa chén nước dừa vào, thả luôn chuối xanh. Bảy phút sau, đã nghe thơm liêu xiêu. Ban đầu là hơi men la đà. Nối đuôi, chuỗi hậu vị hăng đắng, nồng nồng cũng rồng rắn bay theo. Cho mè vào, sôi bùng, nêm nếm lại. Buông rau răm + lá quế sau cùng. Nhớ canh lượng nước tổng thể vừa xâm xấp mình cá. Lửa riu riu... Một khi nhựa chuối, men bia cùng thịt cá… trao gửi hết cho nhau, mùi béo thơm thanh mảnh trỗi dậy tưng bừng!

Thịt cá, ngoài chất ngọt bùi nguyên sơ, còn được bọc lót dư vị đăng đắng nhè nhẹ của bia. Mặt khác, một khi nhựa chuối “hùn hạp” với men bia, kỳ cọ, tẩy trần, da thịt con bống chân quê bỗng vọt lên lên hàng mỹ thực. Cũng có người muốn phá cách, chêm vào vài muỗng tương hột (loại mặn) giã ba sồn. Còn muốn lai hơi hướng bống thệ chen “cơm” dừa cứng cạy (rám) lấn thịt ba rọi kiểu quý tộc Huế, cũng chẳng ai cấm! 

Kho chỉ - ngon thần thánh!

Vẫn cốt liệu bống dừa phơi dốt dốt, chọn cỡ đầu ngón tay út đến ngón trỏ người lớn, sẽ dễ uốn nắn và mau thấm gia vị hơn. Cơm dừa rám, thịt ba rọi, rau răm thì không thiếu ở miệt vườn châu thổ.

Cái khó là kiếm được cỡ nửa chén nước cơm gạo lứt, gặp gạo nàng hương càng tuyệt cú mèo. Nêm rỉ rả lượng nước đó vào nồi cá kho, lúc sôi dạo nhì.

Thành quả sau cùng là, nồi bống kho “chỉ” óng ánh màu hổ phách. Dùng đầu đũa tre chấm xuống đáy nồi, kéo lên thong thả - bạn sẽ bắt gặp một lằn chỉ nhỏ vàng nâu, toòng teng đánh đu theo.  Từng giọt nước cá thơm bùi, sóng sánh tựa những tinh thể mật ong ruồi thiên nhiên. Thử quẹt với dĩa gỏi cây chuối non xắt nhuyễn + đọt me non + rau muống bào + đọt keo… hoặc luộc cả rổ đọt thập cẩm vun ngọn: chùm bao (nhãn lồng/lạc tiên), khoai lang, rau muống, đậu bắp (bắp tây) lún phún lông tơ… Gặp mưa lất phất hay tiết trời se lạnh, kể như tê tái cõi lòng!

Lãng du cũng khá, nếm trải sơn hào hải vị không ít, thế mà thằng tôi vẫn chưa thỏa. Chợt một ngày, cái đuôi con bống dừa tần tảo quẫy khẽ trong vòm miệng như nhắc khéo: muốn ngon phải thuần tự nhiên.

Nếu quả vậy, ông bà ta thuở xưa ăn uống khôn ngoan hơn đám hậu sinh đến mấy bậc!

 Bài Tạ Tri, ảnh Tấn Tới