Thứ Bảy, 4 tháng 12, 2021

NTV - Nguồn gốc địa danh Sa Đéc và những danh lam nổi tiếng (P2)

Đây dấu tích xưa,
Dấu tích ngàn xưa chẳng nhạt phai,
Người đi như thể cánh chim bay....
Để bao thương nhớ cho người ở,
Chốn cũ giờ đây ai khóc vay ?
Ngàn hoa tô điểm thêm hương sắc,
Một thuở tình yêu thuở đắm say...
Giờ chỉ dư âm lưu phố cổ,
Người tình xưa ấy cũng chia tay !!
NM

Nguồn gốc địa danh Sa Đéc

(Nguồn: “Tìm hiểu nguồn gốc Địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả thuyết” của Nguyễn Hữu Hiếu)
Sa Đéc ngày nay là một trong hai thị xã của tỉnh Đồng Tháp
Hai tiếng Sa Đéc có lẽ xuất phát từ âm của tiếng Phsa ădek của người Khmer hạ, một vị thủy thần gốc Khmer. Trong sách Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, phần Tự quán (trang 38-39), có chép:
Chùa Tô Sơn ở địa phận thôn Hưng Nhượng, huyện Hà Dương (tỉnh An Giang), phía tây núi có viên đá hình con rùa. Người xưa truyền rằng: gặp khi trời hạn thì đến đấy cầu đảo ắt có được mưa, thổ nhơn bèn lập đền ở chân núi để thờ, gọi là Sa Đéc (tức là Thủy thần)”.
Trong khi đó trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện sau:
Ngày xưa ở đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu), có một tên chúa đất họ Thạch, vừa giàu có, vừa hung ác. Đất đai cò bay thẳng cánh, con thỏ, con nai ở trong rừng; con cá, con tôm ở dưới sông, con chim ở trên trời… tất cả đều là của họ Thạch. Ai hái, bắt thứ gì mà không nộp một nửa hoa lợi thì đừng hòng thoát khỏi tay y. Đám thuộc hạ của y làm tai mắt ở khắp nơi.
Chúa đất họ Thạch giàu có như vậy mà chỉ có mỗi một mụn con gái. Tên nàng là Phsa-dek, xinh đẹp, tính tình nhân hậu hoàn toàn khác cha. Một hôm, nàng dùng ghe lườn cùng nàng hầu rong chơi trên sông Tiền, chẳng may gặp mưa to gió lớn, ghe bị chìm. Trong lúc chủ tớ đang loai ngoai chờ chết, bỗng đâu có một thanh niên lao xuống cứu được cả hai.
Chàng trai nọ đưa hai người về chòi của mình chăm sóc. Khi tỉnh lại, hai người trò chuyện mỗi lúc mỗi thân mật, gắn bó. Nàng hỏi:
- Chàng đang ở trên đất của ai, chàng biết không?
- Biết chớ, toàn vùng này đều là đất của chúa đất họ Thạch ai mà không biết.
- Chàng không sợ ông ta à?
- Có gì mà phải sợ. Tôi từ phương xa tới đây, đất đai, sông nước là của trời sinh, chỗ nào thích là tôi ở. Ông Thạch đâu có sinh ra đất này hoặc khai khẩn gì đâu mà nói là của ổng.
Phsa-dek không cho chàng biết mình là con gái của chúa đất. Từ đó hai người thường lén lút gặp nhau. Bọn thuộc hạ cho tên chúa đất biết chuyện này. Lập tức hắn nhốt nàng lại và lệnh cho tìm bắt chàng trai nọ cho kỳ được. Bọn thủ hạ truy lùng chàng trai, chàng nhanh chân thoát được, nhưng trúng phải tên độc. Tưởng chàng đã chết, chúng bỏ đi. Nhưng may mắn, chàng được một người đi rừng tình cờ cứu sống. Chàng giữ lại mũi tên có khắc chữ Thạch để mưu tính chuyện trả thù.
Ngày nọ, chàng đột nhập vào dinh cơ tên chúa đất, đốt phá cho đã, rồi bắt hắn mang đi. Bỗng Phsa-dek thấy được, tri hô lên. Đám thuộc hạ ùa tới giải vây cho chủ. Chàng trai quá đỗi sững sờ, ngạc nhiên khi thấy nàng ở đây. Lợi dụng giây phút đó, đám thuộc hạ bắt được chàng và tra tấn rất dã man. Nghĩ rằng tại mình nên người yêu cũng là ân nhân mới gặp nạn, nàng đau đớn ngất lịm đi.
Khi được tin chàng trai bị cột chặt vào bè, rồi phóng hỏa đốt thả trôi sông, nàng Phsa-dek vùng dậy chạy theo nhảy xuống bè để cùng chết chung với chàng, nhưng bị thuộc hạ của chúa đất phóng theo bắt lại.
Phsa-dek bỏ nhà đi tu. Vài năm sau, tên chúa đất họ Thạch qua đời. Nàng trở thành người thừa kế một sản nghiệp đồ sộ của dòng họ Thạch. Một phần tài sản được nàng chia cho dân nghèo, phần còn lại dùng vào việc đắp đường, bồi lộ, dựng cầu và xây một nhà lồng chợ để cho người mua, kẻ bán có chỗ che nắng trú mưa.
Ngôi chợ đó được gọi là chợ Phsa-dek, lâu ngày nói trại thành Sa Đéc đến ngày nay. Còn nàng thì được nhân dân kính cẩn tôn lên hàng nữ thần. Tương truyền nàng rất linh thiêng, nhân dân cầu xin điều gì cũng đều được linh ứng.
Đền thờ thủy thần Sa Đéc trên núi Cô Tô với chuyện này không biết có liên hệ gì với nhau không?, song cả hai đều liên quan đến tên gọi Sa Đéc.
Trong Gia Định thành thông chí (tập hạ) của Trịnh Hoài Đức mô tả chợ Sa Đéc như sau:
Chợ ở đông huyện Vĩnh An. Phố chợ dọc theo bờ sông, nhà hai bên liên tiếp 5 dặm, dưới sông có những nhà bè, gác làm phòng ốc, đậu sát nhau, hoặc bán hàng lụa, khí dụng ở Nam Bắc chở đến, hoặc bán dầu rái, than, mây tre… Trên bờ và dưới sông hàng hóa tốt đẹp, trông khá vui vẻ, thật là nơi thắng địa phồn hoa vậy”.
Như vậy, Sa Đéc quả thật là một chợ nổi, nổi tiếng trên sông nước. Phải chăng chính vì vậy mà người Khmer gọi là Phsa ădek (có nghĩa là chợ nổi) và người Việt phát âm thành Sa Đéc?

(Nguyễn Hữu Hiếu)

https://kenh14cdn.com/k:thumb_w/600/BTbXlm8EkGSICUZ2NYiccccccccccc/Image/2014/01/IMG_7856-07731/dep-tuyet-voi-lang-hoa-sa-dec-noi-tieng-mien-tay-nam-bo.jpg

Phố Hoa bên dòng Sa Giang

Psardek, duyên dáng hương xuân
 Dương Thủy
Thị xã nổi tiếng này đã gây ấn tượng mạnh với tôi bắt nguồn từ tên của một nghệ sĩ cải lương nổi danh một thời là “bà Năm Sa Đéc” với vai diễn bà mẹ chồng ác nghiệt trong vở “Lá sầu riêng” từng lấy bao nước mắt của khán giả. Vùng đất này còn nổi tiếng với câu chuyện tình lãng mạn của một nữ văn sĩ người Pháp vào thời Đông Dương, và là quê hương của món hủ tiếu ngon nức tiếng cùng làng hoa Tân Quy Đông duyên dáng bên sông.
Huyền sử Sa Đéc
Từ Sài Gòn, sau 2 giờ chạy xe tới Cai Lậy, qua Cái Bè đến Cổ Cò rồi vượt cầu Mỹ Thuận, xuống chân cầu có hai nhánh rẽ: quẹo trái là vào đất Vĩnh Long để đi tiếp đến Cần Thơ - Sóc Trăng - Bạc Liêu và Cà Mau là điểm dừng cuối cùng của đất nước; quẹo về tay mặt để vào Sa Đéc. Tuấn Dương - anh chàng “thổ địa” của đoàn giới thiệu sơ về đất này: Xưa kia, đây là xứ Chân Lạp và miệt này có tên là Psardek (có nghĩa là Sắt). Tương truyền, ngày xưa có nàng Psardek, con gái chúa đất họ Thạc, đã phải lòng một chàng trai nghèo. Phản đối mối tình này, cha nàng đã sai người trói chàng trai lại và thả trôi sông. Nàng Psardek buồn tình bỏ đi tu. Về sau, khi cha mất, nàng đã dùng tài sản của gia đình làm từ thiện, tu bổ đường xá, xây cất chợ búa giúp đỡ người dân quanh vùng có một điểm tụ họp buôn bán trao đổi hàng hóa ổn định. Cảm ơn công đức của nàng từ đó người ta gọi chợ và vùng này là Psardek. Về sau, nhà Nguyễn cai trị đã đặt tên cho nơi đây là phủ lị phủ Kiến Đăng, tỉnh Định Tường. Tên Psardek khó phát âm với người Việt, nên lâu ngày từ Psardek người ta đọc trại thành Sa Đéc như hiện nay.
Đến Sa Đéc ăn hủ tiếu và xem nhà cổ
nha-co-huynh-thuy-le
Trong bữa trưa của chúng tôi tại thị xã, Tuấn Dương giới thiệu với cả đoàn món hủ tiếu Sa Đéc khá nổi danh, vừa hướng dẫn mọi người phân biệt sự khác nhau giữa hủ tiếu Nam Vang, Mỹ Tho và Sa Đéc. So với mọi vùng làm ra sợi hủ tiếu thì Sa Đéc được xem là nơi chế biến “số dách”, vì vậy người sành ăn miền Tây đều “chuộng” hủ tiếu Sa Đéc do sợi được làm từ loại gạo dẻo thơm ngon, lúc ngâm phải “vút gạo“ thật kỹ nên khi ra lò và khi ăn thì hủ tiếu có đặc điểm mềm, dai và không bị chua. Về cách nấu, Sa Đéc có hai loại hủ tiếu tiêu biểu là: món hủ tiếu thịt heo và hủ tiếu bò viên. Hủ tiếu bò viên chỉ có một món bò viên nên nước dùng phải có xương bò cùng xương heo ninh chung thì mới đậm vị, riêng về hủ tiếu heo thì trong nồi nước dùng cơ bản phải có thật nhiều xương heo được ướp theo một bí quyết riêng rồi mới được ninh nhừ cho ngọt nước. Người Sa Đéc khoái ăn theo kiểu : “một tiếu một xí quách”. Du lịch vùng này, bạn chỉ cần chỉ cần gọi như vậy là một lát sau cô bán hàng bưng ra một tô hủ tiếu đầy đủ thịt băm, tim gan còn một tô kia đầy những xương ống heo ninh nhừ. Lúc này, khách chỉ việc ăn hủ tiếu rồi nhẩn nha những cục xí quách mềm rục.
Sau bữa cơm ngon lành, chúng tôi đến ngôi nhà cổ còn khá nguyên vẹn của đại điền chủ Huỳnh Thủy Lê – người từng vang danh trong tiểu thuyết nổi tiếng ”Người Tình” của nữ văn sĩ Pháp Marguerite Duras. Ngôi nhà này nằm ngó ngay ra mặt sông Sa Đéc hiền hòa với phong cách kiến trúc Đông – Tây hội ngộ khá hoàn mỹ. Có thể nói, kiến trúc sư đã khéo léo phối hợp chất Nam bộ trong tổng thể cùng nét bài trí đậm hơi hướng Trung Hoa, riêng các vật trưng bày được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Cuối năm 2010, ngôi nhà này vừa kỷ niệm tròn 115 năm tuổi. Hồi đầu thế kỷ XX, năm 1917 nhà đã được trùng tu và xây lại với nguyên liệu là vôi vữa cùng bột ô dước, riêng nếp nhà cũ nguyên bản làm bằng gỗ đã bị đập bỏ hoàn toàn. Tuấn Dương cho biết: năm 1972, ngôi nhà này bị bỏ hoang vì chủ nhân đã đưa cả gia đình ra nước ngoài sinh sống; sau 1975 một đơn vị quân đội đã tiếp nhận và đặt trụ sở trong thời gian khá dài. Đầu năm 2007 ngôi nhà này mới chính thức được chuyển thành địa chỉ du lịch.
Theo thống kê, Sa Đéc tồn tại 79 căn nhà cổ, trong đó có 17 ngôi nhà được xây cất vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đa số đều mang dấu ấn của kiến trúc Pháp. Hiện nay, trừ ngôi nhà Huỳnh Thuỷ Lê được chăm chút cẩn thận, những ngôi nhà khác đang xuống cấp trầm trọng, cần phải có một kế hoạch duy tu bảo tồn kịp thời. Đến Sa Đéc, ngoài nhà cổ Huỳnh Thủy Lê, du khách Pháp đều không quên thăm trường tiểu học Trưng Vương (nơi mẹ của nữ văn sĩ Marguerite Duras từng là hiệu trưởng), trải qua cả thế kỷ nhưng ngôi trường vẫn còn khá nguyên vẹn với nét kiến trúc đậm chất Pháp cùng dáng vẻ bán hiện đại. Tôi đã đọc tác phẩm nổi tiếng này và cũng đã thưởng thức bộ phim qua diễn xuất tuyệt vời của tài tử Lương Gia Huy cùng Jane March. Nhưng khi viếng nhà cổ, trường xưa, một cảm xúc chợt dâng đầy trong lòng lúc nhìn ngắm các vật dụng gợi nhớ quá khứ, tất cả làm tôi thấy dường như hồn xưa đang chầm chậm quay về.
Du ngoạn làng hoa bên sông
  Rời nhà cổ, chúng tôi chạy xe tiếp tục đến thăm làng hoa Tân Quy Đông cách đó chừng 10km… Bên kia sông là một chuỗi các lò gạch tỏa từng cụm ngọn khói đen nghi ngút rồi nhạt dần trong bầu trời xanh. Điểm độc đáo của làng hoa này là nằm ngay sát bên đường lộ, rất thuận tiện trong việc buôn bán hay tham quan. Vào mỗi dịp tết, đây là nơi thu hút rất đông du khách. Thăm làng hoa, tôi như lạc vào không gian mang màu sắc của hoa cảnh, thấp thoáng vang vọng tiếng trả giá, lời chào hỏi, tiếng nhạc cải lương trên chiếc đài be bé mà một người trồng hoa đem theo ra tận các liếp hoa để giải cơn “nghiền”.
Dưới sông, các chuyến ghe tấp nập người vác kiểng hoa xếp đầy trong khoang theo từng loại có hàng có lối. Lẩn mẩn tôi đếm: Hồng Túc Cầu, Mãn đình hồng, Cúc đại đóa, Cúc mâm xôi, Cúc vàng cùng hoa Mai 5 cánh cho đến Mai 48 cánh … Riêng hoa hồng có hơn 20 loại (sau này được biết tại Sa Đéc có vườn hồng trồng tới hơn 50 giống). Trên một thuyền khác tôi thấy chuyên các loại ớt kiểng với hình dáng “là lạ” từ tròn, dài, bát giác với đủ màu sắc từ trắng, xanh, tím đỏ hồng vàng nhìn thật thích mắt. Xa xa những chiếc ghe bầu có tải trọng lớn lại chuyên các chậu tắc kiểng, thiên tuế mướt xanh được uốn nắn rất công phu.

Qua một đêm ngủ thật ngon tại một khách sạn nhỏ bên dòng sông Sa Đéc hiền hòa êm ả, chúng tôi vội chạy ra làng hoa để tranh thủ chụp hình những nụ hoa còn đọng giọt sương mai trong nắng sớm. Tạm biệt Sa Đéc, tôi vẫy tay chào những nghệ nhân trồng hoa mới gặp mà tưởng như rất thân quen qua lời chào hỏi dân dã và nụ cười hiền hòa, thân thiện.  Mọi người đều mong Xuân đến sẽ mang cho ta nhiều hi vọng về một tương lai tốt đẹp, và chính những nụ cười chân chất ấy làm ta ấm lòng và thêm yêu mảnh đất dịu dàng với cái tên mộc mạc Sa Đéc.
Sưu Tầm

Về miền Tây, săn ảnh đẹp lò gạch Sa Đéc

Miền Tây Nam bộ không xa lạ đối với những ai có niềm đam mê du lịch sông nước. Song vẫn còn có tour "độc" gây ngạc nhiên và hứng khởi không ít cho những tay săn ảnh đẹp và thích du lịch bằng "ngựa sắt".
Hãy thử một lần rong ruổi xe máy về lò gạch Sa Đéc để săn những bức ảnh độc đáo của một miền sông nước thanh bình.
Hình ảnh có liên quan

Tour hiếm săn ảnh nghệ thuật
Du ký miền Tây săn ảnh nghệ thuật là một loại tour hiếm. Tìm kiếm trên Google, có đến 805.000 kết quả với từ khóa "tour chụp ảnh miền Tây" chỉ trong vòng 0,21 giây, nhưng không có kết quả nào về tour du lịch chụp hình nghệ thuật ở miền Tây sông nước. Đặc biệt là tour về Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp) sáng tác ảnh nghệ thuật ở lò gạch ven sông lại càng hiếm. Và có lẽ chỉ có dân phượt với niềm đam mê săn ảnh đẹp và xê dịch bằng xe gắn máy mới đủ sức đeo bám photo tour ròng rã ngồi trên xe máy dưới thời tiết nắng gắt mưa dầm luân phiên trên nẻo đường miền Tây.
Khởi hành từ TP.HCM, buổi chiều muộn đoàn nhiếp ảnh gia cưỡi xe máy đã dừng chân ở thị xã Sa Đéc. Để rồi sau một đêm thao thức mơ về ngôi lò gạch đỏ mơ màng ven sông, những tay máy thiện nghệ trong đoàn phượt đã thỏa ước nguyện săn những bức ảnh "độc" nhất. Buổi sáng rực nắng và mây bồng bềnh, gợi niềm hứng khởi cho đoàn nhiếp ảnh gia hăng hái qua sông bằng một chuyến phà nhỏ, sang lò gạch Đức Thành bên kia sông. Một ngày nắng đẹp hứa hẹn cho hàng ngàn cú bấm máy đẹp lung linh.
Trên chuyến phà gỗ nổ máy qua sông, nhiều tay máy trong đoàn không bỏ lỡ cơ hội sáng tác ảnh đẹp từ góc nhìn trên phà. Một vùng trời nước mênh mang mở ra những nẻo đường xuôi ngược sông nước miền Tây. Mái chèo của bà mẹ quê khua rộn ràng sóng nước. Những chuyến sà lan hối hả chở cát trên sông. Và những con thuyền đang rộn ràng ăn những mẻ gạch đỏ tươi mới ra lò. Sát bên mé sông, lô xô những vòm lò gạch in lên nền trời mây trắng từng nét cong mềm mại duyên dáng. Những nét duyên ngầm của miền sông nước đã được thu gọn trong những cú bấm máy thiện nghệ của đoàn khách qua sông
Theo người dân địa phương đi phà qua sông vào lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc
Tranh thủ sáng tác những bức ảnh về miền Tây sông nước trên chuyến phà qua sông vào lò gạch -

Cảnh nhộn nhịp trên bến dưới thuyền bên ngoài lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc
Săn tìm ảnh "độc" nơi lò gạch
Đây rồi, lối vào lò gạch nho nhỏ với bờ tường gạch đỏ nhuốm màu rêu phong rực lên dưới ánh nắng vàng tươi. Một bà mẹ quê đội nón lá đi ngang ngõ nhỏ. Một giàn mướp vàng tươi nở trên nền gạch cam rực rỡ. Cô gái thị thành diện áo hoa dạo bước ngõ vào lò gạch. Chỉ đơn sơ thế thôi cũng đủ gợi cảm hứng rạo rực cho các tay máy đốt cháy bao nhiêu thẻ nhớ máy ảnh.
Cái nóng như thiêu trong lò gạch cũng không ngăn được các tay máy lăn xả vào gần những chiếc lò nung gạch đang cháy phừng phừng vỏ trấu, những chồng gạch ống, gạch lát sàn còn đang ướt rượt xếp cao nghệu để tìm góc sáng tác ảnh "độc". Ngắm nhìn mải mê qua ống kính máy ảnh những người thợ lò gạch cần mẫn như những con ong cái kiến, xếp gạch còn ướt vào máy xén để định hình khuôn gạch, vài cô gái trẻ hăm hở xông vào "học việc" thợ gạch.
Được ngày nắng to, công nhân lũ lượt xếp gạch ướt ra sân phơi cho được nắng. Sau lưng những người công nhân đang nhịp nhàng trải gạch trên sân, từng dãy ụ lò gạch đỏ sẫm in lên nền trời xanh mây trắng, khiến cả lò gạch trông như một tổ ong lớn với hàng trăm ong thợ làm việc hăng say. Và rồi những tiếng bấm máy lạch xạch lại vang lên không ngớt.
Một tay máy nữ trong đoàn sáng tác ảnh đang sáng tác tại ngõ nhỏ vào lò gạch Sa Đéc với nhịp sống đời thường trong dáng hình bà mẹ quê mộc mạc nón lá
Cảnh phơi gạch trong ngày đẹp nắng ở lò gạch Sa Đéc gợi cảm hứng mạnh mẽ cho các tay máy phượt săn ảnh đẹp
Cô gái trẻ trong đoàn (đội mũ lưỡi trai) vừa săn ảnh nghệ thuật, vừa lăn xả vào "học việc" làm gạch với công nhân lò gạch Sa Đéc -
Ngoài những lò gạch đang đỏ lửa nung gạch, có cả những lò gạch trình diễn công đoạn nung gạch cho khách tham quan tạo dáng chụp ảnh. Luồng ánh sáng rọi vào lòng lò gạch qua ống khói trên nóc vòm lò đã tạo nên nguồn sáng cực "độc" trên mặt người mẫu. Màu tường kết bằng gạch nung trong lòng lò gạch đỏ nồng nàn sau bao đợt lửa nung trở thành phông nền độc đáo không đâu có. Và cả cửa vòm mộc mạc lối vào mỗi cửa lò gạch mang đậm dấu ấn khói lửa nung và màu thời gian bàng bạc, tạo nên dấu ấn nghệ thuật rất riêng cho các bức ảnh thêm nét độc đáo.
Tất cả những nét đẹp lạ của lò nung gạch khiến các tay săn ảnh mê mải bấm máy rào rào. Người thì leo lên đống gạch nung xếp cao ngất, người lại nằm ngửa dưới đất bấm chếch máy lên cao. Mọi góc máy sáng tạo đều được tận dụng tối đa trong lò gạch để cạnh tranh nhau góc máy lạ nhất.
Trong vài giờ ngắn ngủi săn ảnh đẹp ở lò gạch Sa Đéc, đoàn săn ảnh đẹp đến từ phố thị Sài Gòn đã vỡ ra thêm nhiều điều về đời thợ lò gạch, về cả cách sáng tác ảnh nghệ thuật với hoạt động sản xuất gạch, cách làm chủ ánh sáng trong lò gạch để có ảnh. Để rồi trên đường về lại Sài Gòn, đã nghe lòng da diết nhung nhớ sắc đỏ thắm lò gạch ven sông thị xã Sa Đéc…
Bất kể cái nóng thiêu đốt trong lò gạch, các tay máy xông xáo săn ảnh đẹp từ hoạt động sản xuất của công nhân lò gạch
Lò gạch trình diễn quy trình sản xuất gạch cho khách du lịch tham quan và chụp ảnh
wnrVttyO.jpg
Công nhân đang dỡ gạch vừa chín tới trong lò nung ở lò gạch Đức Thành, thị xã Sa Đéc 
Bài, ảnh: KHÁNH NGỌC 
 
Gánh Sadec Amis của Thầy Thân

Sự ra đời của Sadec Amis
Ông Đinh Công Thanh (78 tuổi), Hội Khoa học lịch sử Sa Đéc (Đồng Tháp), đang dành tâm lực viết các gương nổi tiếng đờn ca tài tử của Sa Đéc xưa cho biết André Thận tức Nguyễn Văn Thận (có sách ghi là Lê Văn Thận) là một công tử xuất thân từ gia đình giàu có ở Sa Đéc (nay là TP.Sa Đéc, Đồng Tháp). Nhưng theo ông Thanh, vì tư liệu về cuộc đời thầy Thận tản mát, con cháu thầy Thận là ai cũng không rõ, còn lớp người biết nhiều về thầy Thận thì cũng nhắm mắt xuôi tay nên để chứng minh lời khẩu truyền thầy Thận là “phá gia chi tử” dẫn đến đói nghèo đúng hay sai còn tốn nhiều công sức.
Nguyễn Văn Thận lớn lên trong gia đình giàu có tại Sa Đéc, thầy tốt nghiệp trung học Chasseloup Laubat ở Sài Gòn, từng đi làm “cò Tàu” cho hãng tàu Tây Messageries Fluviales chạy tuyến Hậu Giang - Nam Vang. Vì yêu thích đờn ca tài tử nên thầy đã hợp tác cùng ban Bảy Đồng và đích thân đứng ra xin phép tắc để hợp thức hóa mọi hoạt động văn nghệ. Từ đây, nhóm đờn ca tài tử hoạt động có giấy phép hẳn hoi với cái tên mới Sadec Amis mà sau đó có người ghép lại đọc sai thành Sadecamis.
Năm 1916 - 1917, thầy Thận xem đoàn xiếc của Mỹ sang Sài Gòn và lưu diễn tại các tỉnh miền Nam đã nảy ra ý hay đem áp dụng cho Sadec Amis. Thầy Thận đã đệm màn phụ diễn như xiếc chen vào màn ca ra bộ nên gánh thầy luôn lôi kéo khán giả. Sau đó thầy trương bảng: Gánh hát thầy Thận Cirque jeune Annam - Ca ra bộ - Sadec Amis.
Trong gánh thầy Thận có nhiều “kỳ nhân” như “người rắn không có xương sống” xếp được hai chân chui được vào ống cống đường kính chừng 5 tấc rồi lộn ra như con rắn; có lực sĩ nằm để xe hơi cán ngang bụng; có nữ nghệ sĩ Mai Hảo với tài đi dây, nhào lộn trên đu chẳng kém các nghệ sĩ xiếc của Tây; lại có nghệ sĩ Tám Danh giỏi võ với biệt tài phóng dao, đánh kiếm... Thời kỳ đó gánh thầy Thận lên Sài Gòn che rạp trước chợ Bến Thành được khán giả chen nhau mua vé. 
Dấu ấn 2 chữ “cải lương”
Nhắc về Sa Đéc, ông Thanh tự hào cho biết: “Gánh thầy Thận có công đầu trong buổi ban mai hình thành sân khấu cải lương. Còn chữ cải lương cũng xuất phát tại Sa Đéc trên gánh Tân Thinh với câu chữ treo trên bảng hiệu: Cải cách hát ca theo tiến bộ/Lương truyền tuồng tích sánh văn minh. Chủ gánh là ông Trương Văn Thông, là người Sa Đéc, dựng gánh hát từ năm 1922. Tại Sa Đéc còn ngôi biệt thự xây dựng theo lối cổ của Pháp mà người địa phương quen gọi là biệt thự “Tân Thinh”. Đây là tài sản của gánh Tân Thinh xưa”.
Thầy Thận có ý định bỏ gánh hát để dựng lên một sân khấu cải lương hoàn toàn. Thế nhưng, lực bất tòng tâm nên thầy đã sang gánh hát lại cho bạn là thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Phần đời sau này của thầy Thận ra sao, sống chết sang hèn thế nào hiếm thấy đề cập đến.
Ông Thanh nói thêm, tuy là tài tử nhưng chắc chắn thầy Thận phải có uy tín mới “dời” được hai nhân sĩ từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Đặng Thúc Liêng và Trương Duy Toản giúp đỡ. Cụ Toản vì tham gia cứu quốc nên bị Pháp câu lưu ở Cần Thơ theo dõi. Cụ Toản đã lập ra ban nhạc tài tử Ái Nghĩa để ca các bài đơn ca do chính cụ soạn hát chơi trong các thôn xóm. Nghe danh, nhóm Sadec Amis đã mời cụ tới Sa Đéc nhập gánh và cụ Toản nhận lời, cụ đã soạn các bài đơn ca thành liên ca như Bùi Kiệm thi rớt trở về, Kim Kiều hạnh ngộ... phổ theo điệu Tứ đại oán. Gánh thầy Thận rất nổi tiếng, lưu diễn ở các nơi và rất ăn khách ở Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho mà trong đó Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều ăn khách nhất.
Gánh Sadec Amis được vang danh nhờ những bài như Tứ đại oán gồm 5 lớp, trích đoạn lớp nhứt do cụ Toản soạn như sau:Khi từ khi Kiệm thi rớt trở về/Bùi Ông mắng nhiếc nhún trề/Trách quở mắng chàng ham bề vui chơi/Kiệm thưa tài bất thắng thời/Có lẽ nào con không lo bề công danh/Tuổi con hãy còn xuân xanh... Lúc ấy do biểu diễn cách tân nên đông khán giả lắm. Với phương châm người ta nghe đờn ca sướng tai chưa đủ mà phải làm sao coi cho khoái mắt nữa mới hay. Nhóm thầy Thận với chỉ dẫn của cụ Toản đã mạnh dạn tách rời ca sĩ ra khỏi dàn đờn để bắt họ đứng lên, đối diện với nhau và vừa ca vừa ra bộ, làm màu, theo sát tình cảm của từng câu, đoạn ca gọi là ca ra bộ. Sau đó ca ra bộ lớn dần với những bước nghệ thuật kế tiếp là hát chập là hình thức liên ca, ra điệu bộ, được lồng trong các cốt truyện có tình tiết nội dung. Buổi bình minh của sân khấu cải lương khởi điểm từ đây. Trong bài viết Hát bội hay hát bộ học giả Vương Hồng Sển cũng đề cập: “Trở lại tìm hiểu hậu tổ cải - lương là ai, xin cho tôi nhấn mạnh và ghi công cho ông André Thận và ông Mạnh Tự Trương Duy Toản”.
Thanh Dũng 















         









Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

NTV - Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc và Phim Người Tình (P1)


"Sa Đéc quê em"

Sa Đéc ngày xưa trước năm 1975

Vàng Son Một Thuở Yêu Em - Nguyệt Anh

Thân tặng Vân, một chủ đề về quê hương Sa đec
Vàng son một thuở
Dấu tích vàng son vẫn còn đây,
Mối tình xưa cũ dẫu theo mây....
Bay đi, để lại ngàn thương tiếc,
Để nhớ muôn đời chẳng nhạt phai..!
 NM
SA ĐÉC VÀNG SON MỘT THUỞ
Tôi đến Sa Đéc khi trời đã ngả chiều. Những tia nắng yếu ớt và buồn thiu vắt qua các ngọn cây cao chót vót như cố níu lấy chút ánh sáng để giữ cho ngày dài thêm một vài khoảnh khắc trước khi bóng tối trùm lên. Trong không gian chập choạng ấy, lại thêm một bên bờ sông Tiền dập dờn sóng, cứ gợi lên một điều gì đó không rõ rệt là vui hay buồn.
Cũng giống như những đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long, Sa Đéc mang trong lòng cái phóng túng, hào sảng của vùng đất mới, đồng thời không hề giấu diếm vẻ mộc mạc, quê kiểng qua cách ứng xử và cả trên gương mặt phố phường. Chính vì thế mà tôi luôn dành một tình cảm đặc biệt cho phương Nam nắng gió này. Một tình cảm lạ lùng và hết sức tự nhiên, tựa như trên đường phố bắt gặp một đôi mắt đẹp, một tà áo dài bay bay lòng bỗng ngẩn ra, bồi hồi... Ví von vậy cũng không hẳn là đúng nhưng thực lòng, khi đứng nhìn sông Sa Đéc tấp nập ghe thuyền và những con đường nho nhỏ, chạy quanh co giữa một thị xã êm đềm, tôi thấy như đang đứng ở quê nhà mình. Một cảm giác trìu mến, ấm áp cứ lan tỏa một cách nhẹ nhàng và thầm lặng, không cưỡng được.
Chiều đã hết. Bóng hoàng hôn chậm chạp phủ lên bầu trời thị xã một màu xám trong man mác. Không phải do ánh đèn đường mà từ bóng sáng trên trời cao rọi xuống gợi lên trong lòng người xa xứ nỗi nhớ quê, nhớ người. Tôi chợt nghĩ, nhà thơ Hồ Dzếnh, khi viết bài  Chiều chắc cũng trong tâm trạng như thế này. Cái màu chiều khó mà thể hiện được trên bức tranh sơn dầu, thậm chí tranh thủy mặc. Nó chỉ có thể cảm nhận bằng những giác quan và cuối cùng là nhìn khói thuốc bay lên cây, vờn quanh cái thời khắc chiều chậm đưa chân ngày để mà thành thơ.
Tôi đứng giữa buổi chiều Sa Đéc với bổi hổi bồi hồi như vậy.
oOo
Sa Đéc có số phận thăng trầm theo diễn biến lịch sử ở vùng đất phương Nam  và của cả đất nước này. Địa danh Sa Đéc theo nhiều nhà nghiên cứu thì bắt nguồn từ chữ Phsar Dek, theo tiếng Khmer, có nghĩa là Chợ Sắt. Một số người khác lại cho rằng Phsar Dek là tên một vị thần nước của dân tộc Khmer. Trước kia, đây là đất của Thủy Chân Lạp, được Chúa Nguyễn khai phá, mở mang bờ cõi. Sau khi ổn định được vùng đất mới này, Chúa Nguyễn cho thành lập 5 đạo và Sa Đéc thuộc Đông Khẩu Đạo. Năm 1832, vua Minh Mạng thay đổi hệ thống hành chính, chia Nam bộ thành lục tỉnh và Sa Đéc thuộc phủ Tân Thành, tình An Giang. Năm 1867, sau khi xâm chiếm nước ta, Pháp lại thay đổi, chia Nam kỳ thành nhiều địa hạt và tỉnh An Giang được chia thành 3 địa hạt là Châu Đốc, Sa Đéc và Ba Xuyên. Một thời gian dài, Sa Đéc là một thị tứ, nơi tập trung buôn bán phồn thịnh bậc nhất của đất Nam Kỳ.
Chưa được bao lâu thì đến năm 1889, Pháp lại thành lập tỉnh Sa Đéc, gồm có các quận: Châu Thành (tức thị xã Sa Đéc, một phần Châu Thành và một số vùng phụ cận ngày nay), quận Cao Lãnh và quận Lai Vung. Trong vòng 5 năm, Sa Đéc phải chịu sự thay đổi 3 lần từ 3 chế độ chính trị. Năm 1951, nhà cầm quyền thời kỳ này nhập Sa Đéc vào tỉnh Long Châu Tiền thành tỉnh Long Châu Sa. Cho đến năm 1954, tỉnh Long Châu Sa lại được chia thành 3 tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Đến năm 1956, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ lại hủy bỏ tình Sa Đéc, chia phần đất phía bờ bắc sông Tiền nhập vào tỉnh Kiến Phong; bờ nam sông Tiền nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Nhưng đến năm 1966, tỉnh Sa Đéc được tái lập và thị xã Sa Đéc trở thành tỉnh lỵ. Mười năm sau, tháng 2 năm 1976, tỉnh Sa Đéc nhập với tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Đồng Tháp và thị xã Sa Đéc vẫn được giữ làm tỉnh lỵ. Đến năm 1994, tỉnh lỵ Đồng Tháp được chuyển về Cao Lãnh và Sa Đéc lại trở thành một thị xã với nét vẻ riêng của mình: tấp nập, đông đúc nơi chợ búa, bến thuyền... và thâm trầm trên các mái ngói cũ xưa. 
oOo
Ngày trước, tức cách đây chừng vài chục năm, nhắc tới Sa Đéc, người dân Việt ở miền Nam thường nhớ tới một người và một sản vật. Đó là bà Năm Sa Đéc, một nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng và bánh phồng tôm Sa Giang khét tiếng.
Bà Năm Sa Đéc nổi tiếng với các tuồng hát bội, cải lương và cả lĩnh vực phim ảnh nữa. Lứa tuổi trung niên trở lên, nhiều người còn nhớ vai Lữ Bố trong tuồng Phụng Nghi Đình hay vai Mạnh thị trong tuồng Mạnh Lệ Quân do bà thủ vai. Hoặc, trong các vở cải lương Đời cô Lựu, Đoạn tuyệt, bà Năm đóng vai mẹ chồng cô Diệu, mẹ chồng cô Loan (đều là mẹ chồng) đã để lại dấu ấn sâu đậm cho khán giả. Đặc biệt, khi về sống với công tử tài hoa và sau này thành học giả Vương Hồng Sển, và “kỳ án” bánh bao Cả Cần đã khiến khán giả mộ điệu không thể quên được hình ảnh bà Năm Sa Đéc vừa chanh chua, đanh đá trong vai mẹ chồng, vừa uy dũng trong vai võ tướng vừa hiền lành, chất phác và đảm đang, tận tụy giữa cuộc đời thật của mình.
Còn bánh phồng tôm Sa Giang bây giờ không còn như trước nữa. Không biết có phải do có quá nhiều nhãn hiệu bánh phồng tôm hay do khoa học phát triển, công nghệ chế biến tinh vi đã làm hương vị bánh hiện nay trở nên nhàn nhạt thế nào.
Tuy nhiên, lần này ở Sa Đéc, tôi được thưởng thức một món ngon mà tôi tin rằng, không ở đâu sánh bằng, kể cả Mỹ Tho. Đó là hủ tiếu Sa Đéc. Người phụ nữ phụ trách món hủ tiếu này ở khách sạn Bông Hồng nhiệt thành giới thiệu những hương vị đặc biệt làm nên tô hủ tiếu danh bất hư truyền. Tôi cẩn trọng như một nhà...  khảo cổ học, nếm từng chút một và cuối cùng phải gật đầu công nhận hương vị tô hủ tiếu khô Sa Đéc ở đây ngon không thể tả được. Người phụ nữ chỉ vào tô đựng nước tương có màu nâu đậm đà, tiết lộ: Chính chất này làm nên cái riêng của hủ tiếu Sa Đéc mà ngay ở Cao Lãnh cũng không có được. Cũng sợi hủ tiếu dai dai, cũng những con tôm đỏ au, những cục thịt băm, miếng tim (đặc biệt là không có gan), cũng  khoảnh sườn heo như những tô hủ tiếu nơi khác nhưng rõ ràng hủ tiếu khô Sa Đéc có một hương vị rất lạ và rất riêng. Tiếc một điều là không thể ăn thêm một tô nữa để xác nhận vị giác của mình.
oOo
Nhưng, mục đích chuyến đi Sa Đéc lần này không phải... khám phá hủ tiếu hay món ngon Sa Đéc mà chính là tìm lại một Sa Đéc vàng son một thuở. Không hiểu sao, khi đứng trên cầu bắc qua sông Sa Đéc, nhìn những con thuyền ngược xuôi và đưa tầm mắt chạy dọc theo đường Nguyễn Huệ, nơi có ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi tiếng tôi chợt nhớ đến câu hát của Vũ Thành An: “Ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...”. Sa Đéc ngày nay đã có những con đường rộng lớn nhưng vẫn còn đó những con đường hẹp, chạy quanh co trong phố, giống như Hội An hay khu phố cổ Hà Nội. Chính những con đường này trở thành chứng nhân cho những thăng trầm của Sa Đéc (hay của một đời người?).
Tôi ghé vào ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê. Ngôi nhà vẫn còn giữ được những nét xưa cũ nhưng cảm giác chật chội đến một cách tự nhiên. Anh chàng hướng dẫn viên đẹp như con gái, thú nhận: “Một phần do con cháu bán đất lấy tiền sinh sống, phần bị người khác lấn chiếm nên không gian nhà cổ trở nên chật chội hẳn đi”. Thực ra, căn nhà cổ (được ông Huỳnh Thuận, cha của ông Huỳnh Thủy Lê xây dựng năm 1895 bằng gỗ và được sửa lại theo kiến trúc hiện nay từ năm 1917) này thiết kế mang phong cách Trung Hoa như thường thấy ở Hội An (Quảng Nam) hay ở Chợ Lớn (Sài Gòn), không có gì đặc biệt hơn. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được nhiều người, trong và ngoài nước, tìm đến là do mối tình của ông Huỳnh Thủy Lê với nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras. Mối tình đó được bà đưa vào tác phẩm L’ Amant nổi tiếng khắp thế giới, được dịch sang nhiều thứ tiếng và được chuyển thể thành phim cùng tên, năm 1991. Bộ phim này từng gây xôn xao Sài Gòn một thời và những nhà kinh doanh nắm bắt cơ hội tung ra thị trường kiểu mũ “Người tình”, dựa theo kiểu mũ nhân vật chính trong phim.
Trước dấu tích xưa cũ còn sót lại (bị tàn phá khá nhiều) của ngôi nhà cổ này, cứ gợi lên một không khí ảm đạm, buồn thương về những gì đã qua. Nhà đẹp nhưng không vui, những căn phòng theo kiến trúc cũ chật chội nhưng lạnh lẽo cứ buộc liên tưởng đến những cô phòng trong cung cấm ngày xưa. Tôi men theo lối đi, cố gắng tìm một cái gì đó, khả dĩ chứng minh cho những ngày hạnh phúc của chủ nhân ngôi nhà này bên người tình mắt xanh. Nhưng, hoàn toàn tuyệt vọng, dù đã biết trước là không thể có. Tình yêu của họ hẳn cũng mong manh và chính vì thế mà đẹp đẽ nên thu hút được nhiều người tìm đến đây.
Khi rời Sa Đéc, tôi lại nghĩ đến lẽ hưng phế của cuộc đời. Sa Đéc từng là tỉnh lỵ đông vui và bây giờ cố gắng chứng tỏ mình. Song, làm sao biết được gì sẽ xảy ra! Cũng như tô hủ tiếu Sa Đéc kia đang oằn lưng chống đỡ những món ăn xa lạ được bày ra mỗi ngày trên bàn tiệc để giữ hương hoa vàng son một thuở không bị tàn phai ngõ hầu dành tặng cho những người qua đây một ký ức đẹp.  
LƯU VỸ BỬU 
 
Cảnh trong phim "Người tình"
"Người tình" trong nhà cổ Sa Đéc 
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi bật như một điểm đến cho du khách khi về với miền sông nước Cửu Long là nhờ chủ nhân của nó liên quan đến tác phẩm “Người tình” lừng danh! 
Nếu nói về kiểu dáng mỹ thuật và mức độ hoành tráng, thì nhà cổ Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc (Đồng Tháp) không thể so sánh với nhà cổ Huỳnh Kỳ ở Cầu Kè (Trà Vinh) và nhà cổ Huỳnh Phủ ở Thạnh Phú (Bến Tre). Thế nhưng, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê nổi bật như một điểm đến cho du khách khi về với miền sông nước Cửu Long là nhờ chủ nhân của nó liên quan đến tác phẩm “Người tình” lừng danh
Thực tế, cái tên gọi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê cũng là cách lả lơi theo tác phẩm “Người tình”, vì ngay chính điện ngôi nhà có ghi danh chủ nhân “Huỳnh Cẩm Thuận” bằng tiếng Hoa. Nói một cách rõ ràng hơn, nhân vật Huỳnh Thủy Lê chỉ thừa kế từ cha mình - thương gia Huỳnh Cẩm Thuận, và có một thời gian không ngắn cư ngụ tại đây.
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Cẩm Thuận bỏ công bỏ của xây dựng từ năm 1895 với chất liệu gỗ mang phong cách cố hương Quảng Châu (Trung Quốc). Đến năm 1917, khi văn hóa Pháp bao trùm cả Đông Dương, thì ngôi nhà gỗ được bọc thêm kiểu dáng phương Tây bên ngoài. Chính sự kết hợp này mang lại cho biệt thự một nét riêng khá độc đáo!
Nếu không có tác phẩm “Người tình” thì có lẽ giờ đây nhà cổ Huỳnh Thủy Lê chỉ là một nhà cổ bình thường, và thiên hạ chắc chắn gọi đúng tên của nó là nhà cổ Huỳnh Cẩm Thuận. Thế nhưng, ở đời có những cơ duyên kỳ lạ, bất kỳ thứ gì dù đơn sơ đến đâu mà được khoác lên huyền thoại thì đều có sức thu hút đặc biệt.
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê 
Năm 1984, khi nữ sĩ Marguerite Duras đặt dấu chấm hết cho dòng cuối cùng của “Người tình” ở ngoại ô Paris, chính bà cũng không thể ngờ đó là cuốn sách rực rỡ nhất trong số hơn 40 tiểu thuyết của mình. Và nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ngờ cuốn sách hé lộ giai đoạn bí mật nhất trong cuộc đời của mình, đã làm phục sinh một ngôi biệt thự cổ nằm lặng lẽ bên một nhánh sông Tiền yên ả.
Ban đầu “Người tình” được xếp vào thể loại hư cấu, nhưng câu chuyện của “Người tình” và không gian của “Người tình” khiến độc giả tin rằng yếu tố sự thật lấn lướt hoàn toàn yếu tố tưởng tượng. Sau khi “Người tình” được trao giải thưởng Gouncourt uy tín và được dịch ra gần 50 ngôn ngữ trên thế giới, nữ sĩ Marguerite Duras lên tiếng thừa nhận đó là tự truyện về thời thiếu nữ của bà ở Việt Nam.
Nữ sĩ Marguerite Duras sinh năm 1914 tại Sài Gòn. Thân phụ của bà là một doanh nhân Pháp sang Việt Nam làm ăn, không may bị bạo bệnh qua đời khi bà mới 4 tuổi. Thân mẫu của bà không thể tiếp tục sự nghiệp làm ăn ở đô thị, đã đưa cả gia đình bốn người về sống tại Sa Đéc ngày ấy chỉ là một thị trấn nhỏ.
Mẹ dạy học tại Trường tiểu học Sa Đéc (nay là Trường Tiểu học Trưng Vương), còn Marguerite Duras vẫn phải lên Sài Gòn học nội trú. Cuộc sống của Marguerite Duras trôi qua trĩu nặng với người mẹ đã khô cạn khát vọng, người anh nghiện ngập và người em trai yếu đuối. Sự tẻ nhạt và túng quẫn ấy đã thay đổi khi Marguerite Duras gặp gã đàn ông người Hoa giàu có trên chuyến phà Sa Đéc - Vĩnh Long trong một lần về thăm nhà và quay lại Sài Gòn đi học!
Tất nhiên, gã đàn ông ấy không được viết rõ ràng danh tính trong tác phẩm “Người tình”, nhưng những chi tiết và những tình huống đã được soi chiếu vào thực tế và độc giả dễ dàng nhận ra là Huỳnh Thủy Lê!
Trong tiểu thuyết, Marguerite Duras hé lộ lần gặp gỡ định mệnh đầu tiên diễn ra vào lúc bà “mười lăm tuổi rưỡi” còn Huỳnh Thủy Lê đã 32 tuổi. Cái cột mốc “mười lăm tuổi rưỡi” được Marguerite Duras nhắc đi nhắc lại nhiều lần, như một khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Mối tình say đắm nhưng đầy trái ngang giữa Marguerite Duras và Huỳnh Thủy Lê rơi vào bẽ bàng. Hai trái tim lãng mạn không thể gắn kết với nhau vì Huỳnh Thủy Lê phải cưới vợ theo sự sắp xếp môn đăng hộ đối của người cha, còn Marguerite Duras trở về Pháp năm 18 tuổi!
Đúng như Marguerite Duras viết trong “Người tình”, Huỳnh Thủy Lê dẫu lịch lãm trên chiếc xe Limousine sang trọng và hào phóng chi tiêu, nhưng “anh sẽ không có gì cả, nếu làm trái ý cha mình”. Sự chân thành của Huỳnh Thủy Lê lẫn sự rồ dại của Marguerite Duras cũng không cứu vớt được mối tình nghiệt ngã trước những định kiến phũ phàng.
 
Du khách tham quan nhà cổ Huỳnh Thủy Lê
Bộ phim “Người tình” do hai diễn viên Lương Gia Huy (Hồng Kong) và Jane March (Anh) đóng vai chính. Khán giả theo chân “Người tình” đã đến Sa Đéc để thăm viếng ngôi nhà mà nhân vật nam ngoài đời từng sinh sống. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê định danh và thu hút du khách nhờ có bóng dáng “Người tình”.
Mỗi năm nhà cổ Huỳnh Thủy Lê mang lại cho ngành du lịch Đồng Tháp một khoản doanh thu tương đối lớn. 
Sau khi cưới vợ, Huỳnh Thủy Lê được thừa kế gia sản và có 5 người con. Huỳnh Thủy Lê sống chủ yếu ở Sài Gòn nhưng vẫn giữ biệt thự ở Sa Đéc như một kỷ niệm. Năm 1972, Huỳnh Thủy Lê qua đời, 5 người con của ông cũng ra nước ngoài lập nghiệp. Ngôi nhà ở Sa Đéc được Nhà nước quản lý từ năm 1975.
Từ sức hấp dẫn của tiểu thuyết “Người tình”, đạo diễn Annaud quyết định đưa tiểu thuyết này lên màn ảnh vào năm 1990. Khoảng 90% cảnh quay bộ phim “Người tình” được thực hiện tại Việt Nam, trừ những cảnh mặn nồng của nam nữ vai chính được quay bí mật tại Pháp.
Khi được mời cố vấn về văn hóa cho bộ phim “Người tình”, nhà văn Sơn Nam nói với đạo diễn Annaud: “Hãy cố gắng để 50 năm sau hoặc 100 năm sau, khi hậu thế muốn biết về mảnh đất Nam Bộ giữa 2 cuộc chiến tranh, người ta sẽ tìm xem phim của ông”.
Quả nhiên, đạo diễn Annaud đã làm một “Người tình” với những hình ảnh quá quyến rũ, từ cảnh mộc mạc miền Tây đến cảnh chộn rộn Chợ Lớn cuối thập niên 30 của thế kỷ 20. Trước khi mất (năm 1996) nữ sĩ Marguerite Duras cũng không ít lần ca ngợi thành công của bộ phim “Người tình”!
Đến nay, “Người tình” vẫn là bộ phim nước ngoài đầu tư lớn nhất để quay tại Việt Nam. Nếu tính theo thời giá quy ra… vàng, thì kinh phí làm phim “Người tình” của đạo diễn Annaud gấp đôi kinh phí làm phim “Người Mỹ trầm lặng” của đạo diễn Phillip Noyce.
Thế nhưng, dù kinh phí không hạn chế, thì đạo diễn Annaud cũng không thể dàn dựng bến phà đúng không khí Marguerite Duras miêu tả dạo nào trên dòng sông Tiền mênh mông. Bến phà mà Huỳnh Thủy Lê và Marguerite Duras gặp gỡ trong phim “Người tình” được quay tại… Cát Lái - TP. HCM.
Một sự thay thế bối cảnh nữa trong phim “Người tình”, đó là ngôi nhà cổ. Cảnh quay không nhiều, chỉ có một trường đoạn Huỳnh Thủy Lê về thưa chuyện với cha mình để thương lượng ý định tiến xa hơn với cô gái da trắng, chứ không đám cưới theo hôn nhân định trước. Đạo diễn Annaud đến Sa Đéc và chứng kiến ngôi nhà cổ năm xưa đã bị bủa vây và xâm lấn bởi các hộ dân chen chúc xô bồ, nên cho rằng hơi nhỏ và không bắt mắt. 
Đạo diễn Annaud lấy hình ảnh nhà cổ Sa Đéc và lấy hình ảnh nhà cổ Dương Chấn Kỷ ở quận Bình Thủy - Cần Thơ để tạo tác tư gia họ Huỳnh trong phim “Người tình”. Khán giả khi xem “Người tình” phải rất tinh ý mới nhận ra cảnh nào của nhà cổ Sa Đéc và cảnh nào của nhà cổ Cần Thơ. Thế nhưng, sòng phẳng mà nhận xét, hình ảnh nhà cổ Cần Thơ lấn lướt hình ảnh nhà cổ Sa Đéc trong trường đoạn hiện ra trên phim “Người tình”

LÊ THIẾU NHƠN
Nhà cổ Huỳnh Thuỷ Lê ở Sa Đéc,
Ngoài trời vẫn còn mưa rả rích do áp thấp nhiệt đới, thôi thì tiếp tục post lại những hình ảnh mà mình đã đi thăm viếng để chúng ta cùng nhìn lại cho vui đồng thời tách ra từng địa điểm cho đỡ lộn xộn
Hôm nay có khách ngoại quốc đến viếng thật đông cho nên hai cô cháu phải đợi phái đoàn tham quan xong xuôi mới vào, thường thì Ti vào trong chụp hình mình có bổn phận đứng ngoài coi xe  
Nhìn trong ảnh thấy chiếc TV cổ lại nhớ cái TV hiệu Denon của nhà cũ, ba mua lúc mới có truyền hình và lúc đó phát hình bằng máy bay, thật là vui, mỗi đêm bà con láng giềng kéo đến xem ké đứng đầy ngoài sân, thời chiến tranh nhưng sao vui vẻ thanh bình quá, giờ nhớ lại tưởng tượng sao mà thương các anh lính chiến thời đó cực khổ, thương cả nhóm truyền hình trên cao như thương những đóm hoả châu chiếu sáng hằng đêm mà mình luôn nhìn thấy ngoài cửa sổ kế bên bàn học ! Đúng là "người già" hay hồi tưởng kỷ niệm cũ nhìn thấy vật gì liên quan đến ngày xưa đều xúc động !!
Một ngôi nhả cổ vừa đủ cho người ta trân trọng vì kiến trúc cổ và cũng vì câu chuyện tình hi hữu giữa đôi nam nữ thanh niên hãy còn quá trẻ xảy ra trong khoảng thời gian hãy còn được xem là rất phong kiến 
!Ngôi nhà đã "quyến rũ" biết bao du khách ngoại quốc đên nơi đây để ghi lại một chuyện tình vượt không gian và thời gian, và đặc biệt hơn nữa nhân vật nữ trong câu chuyện tình hi hữu nầy lại là một nữ văn sĩ ...Chính bà là nữ văn sĩ đã ghi lại thực tế câu chuyện tình của chính mình
Nơi đây ghi lại chuyện tình,
Một thời tuổi trẻ ba sinh biết gì ....?
Ngỡ rằng khi bước chân đi,
Tình kia sẽ hết xuân thì cũng qua !!
Nào ngờ tình cũng thiết tha,
Lưu danh kim cổ tình xa hóa gần.
Không duyên kiếp, chẳng nợ nần,
Thôi đành lưu lại một vầng trăng xưa !!
NM PTND
 

Về miền Tây, theo dấu 'Người tình'

Chuyến khám phá miệt vườn Tây Nam bộ của Sài Gòn Tourist đưa tôi qua những cù lao xanh mướt bên sông Tiền, chợ nổi Cái Răng, rừng tràm Trà Sư, và dừng chân trước một ngôi nhà cổ kỳ lạ ở thị xã Sa Đéc- Đồng Tháp, nơi diễn ra một thiên diễm tình Việt- Pháp đã đi vào tiểu thuyết “Người tình” nổi tiếng toàn thế giới...

Ngôi nhà kỳ lạ ở miệt vườn
Trong cái nắng chói chang ban trưa Đồng Tháp, nhà cổ Huỳnh Thủy Lê hiện ra sừng sừng bên sông. Ngôi nhà được xây cất từ năm 1895 này cho đến bây giờ vẫn nổi bật không thể trộn lẫn giữa thị xã đã mọc lên rất nhiều những cao ốc hiện đại.
Ngôi nhà có lối kiến trúc độc đáo kết hợp giữa Đông và Tây với nét cao thoáng, xây bằng gạch rất dày nhưng hình dáng lại theo truyền thống người Việt, mái lợp ngói âm dương, hai bên đầu hồi cong vút hình thuyền như những mái đình Bắc Bộ.
Bước vào nhà ba gian, tôi bắt gặp cách trang trí nội thất theo phong thủy người Hoa. Các bao lơn, thành vọng sơn son thếp vàng, chính giữa có chạm đôi loan phụng thể hiện loan phụng hòa mình, sắc cầm thỏa hiệp có ý nghĩa là hạnh phúc trường tồn. Giữa bàn thờ có bức hình Quan Công với bộ râu dài cuộn như nước chảy. Gian trong vẫn còn chiếc phản khảm xà cừ với những đường nét cực kỳ tinh xảo.
Hai phòng ngủ bằng gỗ quý, chăn đệm trắng tinh và mành rèm khép hờ gợi vẻ êm đềm trướng rủ màn che... Nền nhà lát bằng gạch bông được đặt hàng và chở từ Pháp sang. Nền gạch hơi trũng ở giữa gian chính của ngôi nhà.
Mới đầu, người ta cứ tưởng do bị lún, nhưng sau này mới biết đó là một nét phong thuỷ theo ý tưởng “nước chảy chỗ trũng” để cầu tiền tài vào nhà. Hơn một thế kỷ đầy biến động trôi qua, ngôi nhà cổ Huỳnh Thuỷ Lê vẫn nguyên vẹn những giá trị kiến trúc độc đáo, nhưng điều khiến hàng vạn du khách trong và ngoài nước đổ về đây lại là để được tận thấy nơi diễn ra câu chuyện “Người tình”.
Chủ nhân của ngôi nhà - ông Huỳnh Thuận không khởi nghiệp làm giàu bằng ruộng lúa như những đại điền chủ khác ở miển Tây Nam bộ, mà bằng kinh doanh lúa gạo.
Ông có chành gạo lớn nhất Sa Đéc, nơi tập trung lúa gạo để chuyển đi bán ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như đưa về cảng Nhà Rồng để xuất khẩu. Phất lên với nghề xuất khẩu gạo, ông Huỳnh Thuận xây dựng nên những dãy phố sầm uất ở thị xã Sa Đéc để cho thuê.
Ba phần tư bất động sản ở Sa Đéc là của ông Huỳnh Thuận. Ngoài ra, ông còn có nhiều bất động sản ở Sài Gòn - Chợ Lớn để cho thuê. Cậu con trai út Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Thuận chọn nối nghiệp trao cho toàn bộ gia sản. Vì vậy mà ông Thủy Lê thường xuyên đi lại giữa Sa Đéc và Sài Gòn để quán xuyến chuyện làm ăn của gia đình bằng chiếc xe Limousine.
Hồi ấy khắp xứ Nam Kỳ lục tỉnh, chỉ có hai chiếc Limousine, một của công tử Bạc Liêu ăn chơi khét tiếng và một của Huỳnh Thủy Lê.
Tuy giàu có nhưng Huỳnh Thủy Lê không chơi bời theo kiểu “đốt tiền luộc trứng” như công tử Bạc Liêu. Gia đình họ Huỳnh ở xứ Sa Đéc được người dân biết ơn vì đã bỏ nhiều tiền ra để xây chùa và trường học.
Công tử gốc Hoa - cô gái Pháp và tiểu thuyết “Người tình”
Hôm ấy chiếc Limousine chở Huỳnh Thủy Lê từ Sa Đéc lên Sài Gòn dừng lại trên bến phà Mỹ Thuận.
Công tử Huỳnh Thuỷ Lê lúc còn trẻ.
“Tôi 15 tuổi, trên chuyến phà qua sông Cửu Long” - Nữ văn sỹ M. Duras đã viết như vậy trong phần mở đầu của tiếu thuyết “L. Amante” (Người tình).
Trên chuyến phà ấy, ngồi trong chiếc ôtô đen sang trọng, công tử Thủy Lê bắt gặp một thiếu nữ da trắng, tóc nâu, đang đứng cạnh lan can phà nhìn dòng nước chảy xuôi. Nàng đội mũ rộng vành, mặc chiếc váy đầm màu sáng – cô gái Pháp toát lên một vẻ đẹp rất Á Đông khiến công tử Thủy Lê như bị thôi miên.
Chàng lặng lẽ mở cửa xe đến bên nàng. Chỉ qua vài lời bắt chuyện của Thủy Lê, họ bỗng thấy như thân quen từ thuở nào, nhất là khi nhận ra cả hai cùng ở Sa Đéc, sống gần nhau “hai nhà cuối phố”. Chàng mời nàng cùng lên xe về Sài Gòn và nàng đã gật đầu…
Về Sài Gòn, họ gặp nhau mỗi ngày và yêu nhau như một điều tất yếu. Họ yêu nhau trong những cơn cuồng say của thể xác và tinh thần nhưng không thể công khai quan hệ của mình bởi những ngáng trở về sắc tộc, giai cấp, giàu nghèo.
M.Duras - lúc ấy là một thiếu nữ da trắng “mẫu quốc” trong gia đình mà bốn người (người anh cả nghiện ngập) phải sống nhờ vào đồng lương của người mẹ làm hiệu trưởng trường nữ sinh Sa Đéc bấy giờ. Còn Huỳnh Thủy Lê lại là một công tử giàu có, được thừa hưởng cơ nghiệp gia đình và lại là dân thuộc địa.
Chính vì thế, cuộc tình của diễn ra trong “bóng tối”, không dám thừa nhận với bất cứ ai. Nhưng ai đó đã nói trên đời có hai điều khó giấu nhất: say rượu và đang yêu. Sau hai năm, gia đình của Huỳnh Thủy Lê đã biết việc con trai mình yêu một thiếu nữ “mẫu quốc”.
Cha của Thủy Lê nhất quyết bắt con từ bỏ tình yêu “ngang trái” này, 10 năm trước ông đã hứa hôn cho chàng một thiếu nữ Tiền Giang.
Dù rất yêu Duras, nhưng truyền thống Nho giáo đã ăn sâu vào huyết quản của người Hoa, Thủy Lê không dám cưỡng lời cha mà đành chấp nhận cuộc hôn nhân sắp đặt. 
Còn Duras cùng gia đình về Pháp trong một cuộc chia ly khắc khoải, đầy nước mắt. Hôm ra bến tàu, M.Duras ngóng mãi hình bóng của người tình, mong được nhìn thấy Thủy Lê lần cuối.
Tàu vừa nhổ neo, Duras đứng tựa vào lan can như những lần trên phà Mỹ Thuận vô vọng nhìn vào bờ. Trong khoảnh khắc, cô nhìn thấy Thủy Lê đang đứng nép bên ôtô màu đen quen thuộc. Họ chỉ kịp vẫy tay chào...
Dù đã kể lại câu chuyện tình này biết bao lần, nhưng Thanh Tuyền, nữ thuyết minh của nhà cổ Huỳnh Thủy Lê vẫn đầy cảm xúc khi nói về đoạn kết của cuộc tình này.
“Sau khi cưới vợ, Huỳnh Thủy Lê trở về với công việc kinh doanh. Ông và bà Mỹ có với nhau 5 đứa con 3 trai 2 gái, hiện nay đều đinh cư ở nước ngoài và rất thành đạt. Cô con gái Huỳnh Thủy Anh về làm con dâu Trần Văn Hương, nguyên Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ. Huỳnh Thủy Tiên hiện nay đang là GS.TS Giám đốc bệnh viện ở bang Califonia (Mỹ). Huỳnh Thủy Hà, giảng viên Đại học Sorbone (Pháp)...
Khi đã ở tuổi thất thập ông Thủy Lê có sang Pháp tìm gặp người tình thuở nào. Một ngày nọ, chuông điện thoại reo, bà M.Duras cầm máy và lặng người đi khi nghe giọng một người đàn ông.
Dù gần 50 năm đã trôi qua, bà vẫn nhận ra giọng Thủy Lê. Thủy Lê đang ở Paris và tha thiết mong gặp bà. Bà đã từ chối gặp mà nước mắt rơi ràn rụa. Và bà nghe thấy giọng của Thủy Lê đang run lên: “M.Duras, anh yêu em và yêu em suốt đời”.
Một năm sau, Huỳnh Thủy Lê qua đời tại Sa Đéc ở tuổi 70. Những cảm xúc về người tình trỗi dậy, M.Duras đã viết cuốn tiểu thuyết “L’Amant, Nhà xuất bản Les Éditions de Minuit năm 1984”. Cuốn sách nhanh chóng trở thành best- seller với 2,4 triệu bản, đoạt giải Goncourt danh giá của Pháp và dịch ra 43 thứ tiếng.
Và tiểu thuyết đã được dựng thành phim nhựa “Người tình” cũng gây xôn xao dư luận. Trước đó đã viết nhiều sách đều chìm vào quên lãng, nhưng với tiểu thuyết “Người tình” M.Duras đã đi vào lịch sử văn chương nước Pháp. Cuộc sống riêng không hạnh phúc, M.Duras qua đời năm 1996 ở Paris”.
 Cảnh trong phim "Người tình".
Trưa ấy, tôi thấy nhiều du khách nước ngoài đến tham quan ngôi nhà cổ Huỳnh Thủy Lê trong đó có nhiều người Pháp. Sau khi ông Huỳnh Thủy Lê mất, các con đều định cư ở nước ngoài, ngôi nhà này trở thành trụ sở của công an.
Nhưng người ta thấy có rất nhiều khách du lịch cứ lấp ló trước trụ sở. Hỏi ra mới biết họ muốn vào xem... trụ sở công an, nhưng vì nguyên tắc của ngành nên không thể. Sau này, thấy lượng khách nước ngoài kéo đến và đứng ngoài ngày một đông, Sở Du lịch Đồng Tháp đã kiến nghị biến nơi đây thành một điểm du lịch.
Nhà cổ Huỳnh Thuỷ Lê cũng được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Ngôi nhà có sức hút lớn đến mức, có hẳn một tour du lịch mang tên “Theo dấu người tình”, mỗi ngày trung bình khoảng 100 khách du lịch nước ngoài tới đây để trải nghiệm cho riêng mình. 
 Ngôi nhà cổ miệt vườn- được trùm lên thiên diễm tình của công tử người Hoa và cô gái Pháp - đã vượt qua những giới hạn của thời gian và không gian, trở thành điểm đến hấp dẫn của những ai từng thổn thức với “Người tình"
  Phùng Nguyên