Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024








Vàng hoa trên sông Hậu
Sang nắm tay con, trước dòng sông, mà nói:
- Này là sông Hậu chảy qua đất quê mình. Dẫu có đi trăm phương ngàn hướng rồi sông cũng dẫn mọi người tìm về đất quê…
Mỗi lần đứng trước sông, Sang đều nói với con như vậy, từ khi bé còn rất nhỏ. Nên hễ thấy trời đất vào xuân, những cánh chim vội vã bay về phương nam đón nắng ấm là con gái Sang lại nhắc mẹ "Về Cần Thơ ăn Tết". Đôi mắt bé phản chiếu những vệt nắng vàng rọi xiên xuống mặt nước. Sóng dang cánh đón nắng trở nên bạc đầu, rực rỡ như trăm ngàn bông hoa.
***
Sang nhớ đau đáu những mùa Tết xa xưa. Ký ức đong đầy trên dòng sông, để mỗi dịp Sang quay về, lại ghép thành mảnh nhớ thân thương. Sang đứng trước sông Hậu hít một hơi thật sâu, để gió sông ùa vào căng đầy lồng ngực. Thoải mái. An yên. Cái cảm giác mà Sang chỉ tìm thấy khi về với sông, với Tây Đô yêu dấu.
Nhà Sang ở Phong Điền. Sau nhà có mảnh đất rộng, ba Sang cuốc đất, mẹ gieo hạt. Bông vạn thọ, cúc đồng tiền, hướng dương… cao bằng gang tay thì ba trồng vào trong chậu, ngày tưới hai bận sáng chiều, chăm sóc, bón phân. Mẹ trông kịp trổ bông vào những ngày sắp Tết. Buổi sáng, ba chất đầy chậu bông xuống ghe, ràng dây cẩn thận. Mẹ với Sang ngồi trong mui ghe, ba ở sau lái. Chiếc ghe xuôi sông Hậu, sóng nước đưa gia đình Sang đi muôn phương. Hễ chỗ nào đông đúc là ba tấp ghe vào, mẹ ngồi trước mũi xởi lởi mời người đi chợ mua chậu vạn thọ, cặp cúc đồng tiền về chưng ba ngày Tết.
Ba với mẹ đã sống bằng nghề trồng và bán bông Tết bao nhiêu năm nay. Sang cũng thích cảm giác được chu du trên sông đón gió xuân lồng lộng. Sang thường không ở yên trong mui, mà ra mũi ghe, ngồi cạnh chậu vạn thọ. Nhìn màu bông là thấy ngay màu Tết. Sang thích thú ngắm nhìn những vạt nắng lơ lửng trên sóng, những chiếc ghe xuôi ngược trên sông Hậu chở đặc sản miền Tây, trái cây lục tỉnh, ghe nào cũng đặt vài chậu bông trước mũi cho có không khí Tết.
***
Chiều Ba mươi. Trên sông, những chiếc ghe khác đã trở về đoàn tụ với gia đình cho kịp đón Giao thừa. Đón Giao thừa trên ghe thì cũng vui, nhưng không hiểu sao Sang thấy lòng mình chông chênh như sóng. Bởi ghe nhà Sang đã rời bến lạ quá trễ, lo lắng đường xa và phải đi ghe giữa trời tối mịt, ba Sang quyết định neo lại bên bờ sông, cạnh một xóm nhỏ để chờ Giao thừa. Nhưng lòng Sang thì ngùi ngùi hướng về xóm mình. Nhà Sang nằm cuối con rạch nhỏ ở Phong Điền. Xóm Sang hiền hòa, vườn tược bao phủ. Con rạch bắt nước từ sông lớn rẽ sâu vào đất liền tạo thành xóm, thành quê hương Sang. Mẹ nói:
- Cực chẳng đã mới ăn Tết trên ghe. Thôi ráng năm sau mình về sớm cho kịp Giao thừa cho ấm nhà ấm cửa.
Sang ngồi trước mũi nhìn mớ bông còn lại trên ghe. Trên bờ cũng còn hơn hai mươi chậu chưa bán hết. Tính ra thì năm nay ba mẹ chỉ bán được hai phần ba số bông đương độ nở rộ. Sang thoáng buồn. Ba trấn an mẹ:
- Năm sau còn hay hết gì thì mình cũng về. Mấy năm ăn Tết trên ghe rồi còn gì.
Mẹ cười hiền để ba yên tâm. Mà lòng mẹ cũng bời bời nỗi lo bông ế. Trồng bông bán Tết cực lắm. Đôi chân ba có lúc nào được khô? Mỗi chậu bông chỉ bán được hơn hai mươi ngàn, có khi còn bị chê đắt đỏ. Sang buồn nhất là những khi thấy mẹ năn nỉ khách lạ mua bông, mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt của mẹ, còn khách cứ sấn tới mà lựa, so sánh chậu này với chậu kia chậu nào bông ít, chậu nào bông nhiều. Lựa được chậu ưng ý thì nằng nặc đòi mẹ Sang hạ giá. Họ không sống bằng nghề phiêu dạt bán bông nên không hiểu hết nỗi khổ của người bán bông. Có năm bán ế, ba Sang phải bỏ lại mấy chục chậu trên bờ rồi nuốt nước mắt giật máy dong ghe về...
Ngồi nhìn các ghe rời bến sông, Sang nôn nao trong lòng. Định mở miệng nói với ba hay là mình về nhà đón Tết, ba mươi rồi cũng chẳng ai mua. Nhưng Sang không nói. Sang trộm nhìn vào đôi mắt của ba. Ba đang nhìn ra sông, cả mẹ cũng thế. Dòng sông Hậu một hướng về nhà, một hướng đổ về phía biển. Hướng về nhà gợi trong Sang một nỗi niềm thương nhớ.
Một người phụ nữ dẫn con đi chợ muộn đứng trên bờ nhìn xuống ghe, hỏi mua hoa. Chọn lựa xong, người đó nói:
- Tết nhứt tới nơi rồi, về nhà đi anh chị Hai ơi. Làm ăn cực cả năm rồi, ngày Tết phải về sum họp cho vui nhà cửa.
Mẹ đưa chậu bông đẹp và nở đều cho người phụ nữ, đáp lại:
- Ngặt nỗi chưa bán hết bông, bỏ lại thì tiếc, mình trồng mấy tháng cực dữ lắm. Cũng vì hoàn cảnh cả thôi chị à!
Người phụ nữ trả tiền. Mẹ nói ngày cuối cùng của năm nên mẹ hạ giá, người phụ nữ lắc đầu và trả đúng giá, kèm lời chúc:
- Chúc cả nhà bán đắt để còn về sớm. Chúc một năm an lành!
Rồi chị đi. Bóng chị khuất dần trong sương chiều cuối năm bảng lảng.
Tự dưng Sang thấy người quê sao hiền lành và dễ thương quá. Dường như phù sa sông Hậu đã ngấm vào tâm hồn họ, để rồi họ mộc mạc như đất, chan chứa yêu thương như sông. Mẹ nhìn ba, ba nhìn Sang, Sang nhìn hoàng hôn buông trên sông Hậu. Hoàng hôn cuối cùng của năm cũ đẹp nao lòng. Chợt ba nói kiên quyết:
- Hai mẹ con dọn bông xuống ghe, mình về thôi! Bán không hết thì mình mang về cho hàng xóm mỗi nhà vài chậu chưng chơi.
Chiếc ghe rời khỏi bến sông lạ, rẽ sóng về Phong Điền yêu dấu.
***
Trong căn nhà nhỏ cuối rạch rộn rã, tiếng dao chặt thịt của mẹ đều đặn lên ván thớt. Còn chút ít nữa thôi là Giao thừa đến, thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới là thiêng liêng. Xóm Sang bao giờ cũng thức đón Giao thừa, cúng kiến, người nọ sang nhà người kia chúc tụng những lời chúc tốt đẹp.
Ngoài thềm nhà, mấy chậu bông vạn thọ đang hé nở hứng sương đêm. Hương vạn thọ phảng phất trong không gian. Sang ngồi bên mẹ, cảm xúc hân hoan cứ chạy dọc sống lưng. Mẹ nói với Sang rằng:
- Mai mốt lớn lên, dù đi đâu con cũng phải nhớ về quê nhà, cũng hướng về nơi chôn nhau cắt rốn trong thời điểm thiêng liêng nhất của một năm.
Lời mẹ dặn Sang khắc cốt ghi tâm. Quê hương bao giờ cũng chiếm một vị trí không đổi trong tâm trí Sang. Ngoài sông sóng chảy rào rạt. Đất quê nặng tình. Tất cả đã cưu mang, chở che cho Sang từ thuở lọt lòng, qua từng chặng đường đời thăng trầm, sướng khổ…
***
Sang nói với con gái như mẹ nói với Sang ngày trước. Ba mẹ Sang bây giờ không còn sống bằng nghề bán bông nữa. Thời gian lấy đi sức vóc khỏe khoắn của ba lẫn mẹ. Thời gian cũng cho Sang trưởng thành, đủ bản lĩnh đối mặt với sóng gió cuộc đời. Sang lấy chồng, có con. Bao năm ăn Tết ở quê chồng, Sang thấy lòng mình thiếu một chút gì đó. Hình như là mùa xuân quê hương trên sông Hậu ở đất Tây Đô hiền lành. Sang muốn về. Sang sẽ về. Và giờ thì Sang đang đứng cùng con gái bên bờ sông Hậu, ngắm nhìn những vạt nắng xuân rơi trên sông.
Những chiếc ghe bán bông rực rỡ và đủ loại trái cây sung túc cứ dập dìu qua lại. Sáng xuân đầy nắng. Sang lại kể câu chuyện tuổi thơ đón Tết yên bình cho con gái nghe. Những câu chuyện Sang kể hoài chẳng chán. Mà con gái Sang cũng chẳng chán khi nghe hoài, rằng: "Hồi đó… Sắc hoa vàng rực rỡ bến sông xưa…".
Hoàng Khánh Duy

Thứ Bảy, 16 tháng 9, 2023

NTV - Mưa nơi này, Nhớ mưa bên kia


Kim Chi đã cố tìm kiếm trong bộn bề thư cũ cách đây 10 năm chỉ có hai bài viết ngắn này của anh, thôi thì đành vậy, hai bài viết nầy đối với KC thật là quý vì nó tương trưng cho một kỷ niệm đẹp khó quên !! Vì những lý do bất khả kháng KC không liên lạc liên tục với các anh và chị bên đó nhưng vẫn luôn nghĩ và nhớ....KC có mail xin thêm anh một bài nữa cho đủ bộ ba nhưng anh nói lâu rồi anh không viết giao website cho chị Bạch Liên, KC có viết cho chị nhưng không nhận được trả lời...Đành thôi vậy, mong rằng anh sẽ đọc chủ đề nầy KC định đặt tên là Truyện ngắn của Tiểu Vũ nhưng thôi tuỳ duyên, có bao nhiêu thì chia sẻ bấy nhiêu vậy ...

Thân kính

 Kim Chi (NM PTND)

Mưa nhớ nhung
Nhìn mưa chợt thấy chạnh lòng
Nhớ ngày xưa ấy mặn nồng yêu thương
Người đi cách biệt đôi đường
Mình ta đơn lẽ đêm trường nhớ nhung
Tiểu Vũ
 

Mưa Nơi Này, Nhớ Mưa Bên Kia
Chỉ mới vào Thu chưa được tròn tháng mà giông bão đã kéo về. Những làn chớp xé toang màn đêm lóe sáng trên bầu trời tiếp theo nhng tiếng n kinh hồn khiến tôi giật mình.
Tôi tắt cái ordi, bước qua canapé bởi những ánh chớp làm tôi cảm thấy e dè không muốn ngồi kề bên cửa sổ.
Nhìn những giọt mưa nặng hạt qua khung cửa kính mà tôi liên tưởng đến những đêm mưa gió đầy trời ở Saigon xưa, khi mà tiếng mưa rơi đập vào cửa sổ phòng ngũ rầm rập khiến cho chúng tôi chợt thức để rồi lại dìu nhau vào giấc ngũ say nồng sau cơn ân ái.
Cũng tiếng mưa rơi mà sao mưa ở nơi này tôi lại cảm thấy trống trải, thiếu vắng buồn bã đến không tài nào ngũ được ...
Tôi nhớ nàng rất thích nhìn mưa rơi, cứ mỗi khi trời mưa, nàng hay đứng tựa balcon phòng ngũ mà vui vẻ nhìn mưa, thích thú ngước mặt lên để hứng những hạt mưa nh li ti bị gió thổi hắt vào, đôi khi nàng vừa cười vừa chạy lùi nhanh vào phòng để tránh một cơn gió mạnh vì sợ bị mưa tạt trúng người. Biết như vậy nên mỗi khi trời mưa, nếu có thể, là tôi hay về nhà để chơi vui với nàng.
Những khi trời mưa to, con đường Lê Lai bên hông đường rầy xe lửa Phạm Ngũ Lão thường bị ngập nước, nàng hay cười khi nhìn mấy chiếc xe gắn máy lội nước chạy ì ạch hay xe bị tắt máy phải đẩy bộ, còn trẻ con thì nằm sấp giữa đường vung vẫy chân tay bơi lội hay chạy đuổi đùa giỡn dưới cơn mưa, vì thiên hạ không núp mưa thì cũng đã chạy tránh sang những con đường khác.
Nói về những con đường ngập nước vì mưa to nước không thoát kịp thì phải nói đến con đường Trần Quang Khải ngang chỗ bãi rác là "thê thảm" cho mấy cô bé áo trắng của trường Văn Lang, Huỳnh Thị Ngà ... vào giờ tan học. Nước lẫn rác trôi nỗi bâp bềnh ngập đến gần đầu gối, các cô tay ôm cặp vỡ ngang ngực, chân bì bõm lội nước với hai tà áo dài buộc lại hay bị ướt đẫm nước mưa, dán sát, bám xoắn vướng vào đôi chân.
Ngày xưa thì vậy, còn bây giờ thì nghe nói không cứ gì trời mưa to mà vào những ngày nước thủy triều lên xuống trong tháng nhiều đường cũng bị ngập. Thật là khổ cho người dân lành.
Tôi không biết đã bị nàng "cảm hóa" từ khi nào mà bây giờ tôi cũng mê thích nhìn những hạt mưa bay ngang bay dọc như bị đùa giỡn bởi làn gió, có lẽ để cảm nhận cái buồn, cái nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương gia-giết nằm sâu kín trong tâm khảm, nhất là khi trời mưa tuyết. Ôi ! thật là một bức tranh tuyệt vời mà thiên nhiên đã cho chúng ta chiêm ngưỡng.
Mưa bên này không dai dẳng kéo dài như ở miền Nam Việt Nam, mưa chỉ ào rớt xuống độ năm mười phút rồi ngưng như một cơn mưa mây của chúng ta.
Nói đến mưa bóng mây, tôi nhớ đến trận mưa mà tôi đã gặp trong đời, chỉ một lần duy nhất. Khi xe tôi vừa băng qua đường Thống Nhất định chạy qua nhà thờ Đức Bà để đổ xuống Tự Do thì tôi phải dừng lại vì ngang tượng Đức Mẹ cách đầu xe tôi độ một thước trời đang mưa, nghĩa là từ bức tượng Đức Mẹ qua đường Nguyễn Du, Tự Do, Saigon thì mưa, chỉ cách một bước chân mà bên này thì lại khô ráo. Chúng tôi đành chờ đến dứt cơn mưa .
Mưa bóng mây qua rất nhanh và không như mưa luồng, Khi gặp cơn mưa luồng thì chỉ có nước cắm đầu mà chạy marathon với mưa, đôi khi còn không kịp nhảy vào hiên nhà để tránh thì mưa đã ào tới như có lần chúng tôi đi câu cá ở Bình Điền, trời về chiều nên chẳng thấy trời đất thay đổi gì hết, chợt nhìn từ xa, một đám mưa đang "chạy" tới, chúng tôi vội thu dọn đồ đạc, vậy mà chưa ra đến xe đứa nào cũng đã bị ướt như chuột, chỉ còn nước ôm nhau mà cười vui vẻ.
Bốn mùa ở xứ người cho chúng ta những cảm nhận khác nhau, mùa nào theo mùa ấy nhưng chung quy cũng chỉ là nỗi buồn, nỗi nhớ.
Nỗi nhớ âm thầm, sâu lắng chỉ chờ dịp là bộc phát đưa ta vào nỗi sầu của người bị bắt buộc phải tha hương xa xứ để mưu cầu cuộc sống Tự Do.
Mưa mùa thu không ru nỗi nhớ
Chỉ nỗi sầu, nỗi khổ tha hương
Nghe mưa rỉ rả đêm trường
.............
.......chưa xong !
(Kim Chi đọc xem, nếu được cứ sửa giùm tv, hìhì !
merci)
Mưa mùa thu không ru nỗi nhớ
Chỉ nỗi sầu, nỗi khổ tha hương
Nghe mưa rỉ rả đêm trường,
Nhớ về quê cũ càng vương vương buồn 
Giọt mưa như giọt sầu tuông,
Thương thân viễn xứ đêm trường cô đơn !!
( KC mạo muội viết thêm vài câu )
datu-tieuvuparis
tháng mười 201 

Nhờ Kim Chi đọc giùm bài này xem sao nha !
TiểuVũ chưa giám cho ai đọc hết, đừng cười nha cô giáo.
Cám ơn Kim Chi


Chiếc Lá Mong Manh !
Mong manh chi một kiếp đời
Vui cười thoáng chốc đã chơi vơi buồn
Trầm luân trong cõi vô thường
An nhiên tự tại tìm đường thoát mê
U minh một cõi đi về
Chi bằng cội phúc Bồ Đề thanh tâm
TV
 
Chiếc lá lìa cành
Tôi vui vẻ cố vươn tấm thân bé xíu chen lấn với anh chị để nhìn ngắm ông mặt trời từ từ ló dạng. Ôi ! sao mà ông đáng yêu đến vậy !
Thu đã vào mùa nên những cơn gió thu buổi sớm hay tối đều làm tôi run rẩy, se mình co ro vì lạnh nhưng hai hôm nay, ông mặt trời lại rực rỡ hiện diện, toét miệng nhìn thế gian trông thật dễ thương, ông mang đến cho chúng tôi cái ánh nắng mùa thu nhẹ nhàng nồng ấm, không phải là cái nắng gắt gay cháy bỏng khô hóc người của mùa hè nữa.
Thương ông mặt trời ở trên cao
Ông toe toét miệng cười chào thế gian
Ông buông sợi nắng dịu dàng
Ấm nồng những kẻ cơ hàn mong manh !
Tôi, sống đời mỏng manh thân lá, sinh ra vào một ngày đầu xuân nắng ấm trong một khung cảnh hiền hòa. Quây quần bên tôi là ông bà, cha mẹ, anh chị em và hàng xóm láng giềng. Chị Mai với màu áo vàng kiêu kỳ rực rỡ, chị Đào thì áo hồng phơn phớt dễ thương, chị Cúc thì ôi thôi không cần nói, đủ sắc đủ màu nhưng tôi vẫn thích nhất khi nhìn chị khoác chiếc áo trắng hiền lành thơ trinh, còn chị Hồng thì thật kiêu sa đỏm đáng đủ màu trắng đỏ tím vàng ..., Dì Thược Dược lại càng sang trọng, tôi nghe nói ngày xưa giòng họ Dì được sinh sống trong gia đình vọng tộc nên bây giờ Dì mới có cái phong thái vương giả đó....
Trở lại với tôi, tôi sinh ra và lớn lên từng ngày trong tình yêu thương của tất cả mọi người, đôi lúc tôi cũng đau yếu bịnh hoạn vào những khi trái gió trở trời....
Người dung dưỡng chúng tôi là một đôi vợ chồng già họ sống đầm ấm, rất mực yêu thương nhau và để tâm chăm sóc chúng tôi. Ngày ngày, vào những lúc rảnh rỗi, họ ra vườn chuyện trò thăm nom, thêm chất bổ dưỡng vào đất để nuôi chúng tôi khỏe mạnh xanh tốt. Trong khi bà chăm sóc chị Hồng, Dì Thược Dược, vườn rau thì ông cũng săm soi, xem xét chúng tôi, cho thuốc nếu có ai đó đau yếu bịnh hoạn.
Theo ngày tháng tôi lớn dần lên. Những trận mưa xuân cho chúng tôi được tắm mát chơi đùa vui vẻ rồi hong khô mình bằng những tia nắng ấm áp khi anh mây xám nhường chổ cho chị mây xanh xuất hiện kéo theo ông mặt trời vui vẻ. Rồi... mùa xuân cũng cất bước ra đi cho mùa hè tìm tới, thân thể tôi cũng bắt đầu cứng cáp để có thể chịu đựng cái nóng ngột ngạt của những buổi trưa hè gay gắt, mà hai ông bà thì lại thích ngồi chơi hóng nắng dưới giàn nho đang đong đưa những chùm nho tím mọng, để nhìn ngắm đàn cá đang bơi lội dưới hồ hay thìch thú nhìn khu vưòn rau cải với những cây cà, salade, giàn mướp, giàn su...
Con Tạo vần xoay, mùa hè lại tất tả ra đi, mùa thu vàng đẹp mang bệnh hoạn đã về làm cho chúng tôi sợ hãi. Trước tiên, là ông bà rồi đến cha mẹ tôi, từ từ úa vàng rụng rơi theo cơn gió heo may. Khu vườn giờ tiêu điều xơ xác, các chị hoa đều gục ngã chết dần, chị Hồng thì còn cầm cự lưa thưa vài chị trên cái cành trơ lá, chỉ còn chúng tôi, những sinh mệnh non trẻ của cây érabe lá xanh cố chịu đựng, bám víu vào các cành vững chắc ngã nghiêng theo chiều gió. Cho đến một hôm, sau đêm mưa bão, tôi cũng cảm thấy mệt mỏi, không muốn bám víu vào cành nữa, từ từ buông tay cho thân thể chơi vơi chao đảo cuốn xoay theo con gió.
Thương thay chiếc lá còn xanh,
Một ngày giông bão lìa cành xa quê
Chơi vơi chẳng biết nẻo về....
Đành xoay theo gió mãi mê dặm dài !!
datu-tieuvuparis
tháng chín 2013
 

 
 

Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2023

NTV - Rau khúc ở chân trời

 

 

Rau khúc xưa'
Thương thương rau khúc xưa,
Giờ thì dần mai một...
Quay quắt tìm bao chốn
Đâu nào bóng dáng rau ?!

Món quà quê "quê cũ",
Tìm khắp bốn phương trời...
Gánh xôi quê chốn cũ,
Khóm rau trót xa vời !!

Tìm trong dấu tích ngày xưa ấy,
Một vạt rau quê đẫm nhớ thương...
Đã trót rời xa bao giờ gặp ?
Một chút hồn quê bao nhớ thương ...
NM

Rau khúc ở chân trời

Xem đi xem lại hàng trăm tấm hình rau khúc tìm được trên Internet, tôi chắc chắn đã từng thấy hoa này, lá này, cây này ở ngay trong vườn nhà mình. Cách đây nhiều năm.

Thuở mơ màng chưa có khái niệm gì về rau cỏ vườn tược. Cũng chẳng bận tâm rằng có một thứ rau khúc trên đời.

Hồi nhỏ ăn xôi khúc của “bà Bắc kỳ” ở xóm bên, tôi đinh ninh xôi khúc nghĩa là xôi lấy ra từng khúc, mỗi khúc có một “cục nhưn”. Tôi không chứng kiến tận mắt cách bà nấu xôi, nhưng đứa con gái bà trạc tuổi tôi thường ngày phải giã một cối hành lá cho mẹ làm bánh. Mùi hành lá quyện với mùi tiêu, đậu xanh, mỡ heo bùi béo chỉ bốc lên khi cắn vào “cục nhưn” bên trong lớp xôi trắng dẻo thơm ngon đặc trưng mà tôi đinh ninh là mùi xôi khúc.

Mãi sau này tôi mới biết “cục nhưn” đậu xanh xào thịt mỡ trộn tiêu hành lẽ ra được bọc bằng một lớp bột nếp trộn rau khúc giã nhuyễn. Chính rau khúc này mới làm nên mùi thơm đặc trưng và cái tên xôi khúc.

Vậy là mấy chục năm trời tôi cứ tưởng mùi lá hành là mùi lá khúc. Tôi phải ít nhất một lần ăn cho được miếng bánh khúc thứ thiệt để cải chính, hay để minh danh cho xôi khúc. Tôi cũng hiểu là khí hậu miền Nam không phù hợp với rau khúc, một thứ rau ôn đới chỉ mọc vào mùa đông đến đầu mùa xuân phương Bắc và rụi tàn khi trời ấm lên.

Cho nên ở Sài Gòn chỉ có thể ăn xôi khúc cải biên với lá hành, lá cải, lá khoai hay lá tần ô. Tôi đợi dịp ra Hà Nội, đặc biệt vào mùa xuân, hi vọng thưởng thức miếng bánh khúc trong cái lạnh se da miền Bắc.

Tôi đã đi lơ ngơ trong cái chợ to gần Cầu Đông (vì chỗ ở trọ trên đường này) hỏi người ta có bán rau khúc không. Người bạn Hà Nội đi cùng bảo: “Chị hỏi cái lá diêu bông có thể người ta còn biết đấy là ông Hoàng Cầm bịa ra, chứ cái lá rau khúc thì người ta không biết đâu mà lần”. Tôi leo lên cả đường đê nhìn ra bờ bãi sông Hồng để tìm. Nhưng làm sao tìm cái mình chưa từng biết hình dạng?

Bạn tôi thú thật là chị cũng chưa từng thấy rau khúc ra làm sao, và chị không chắc cái bánh khúc bán quanh năm trong ngõ nhà chị làm bằng cái thứ lá gì. Rau khúc cũng như những thứ của thời thôn dã xa xưa đã trở thành nỗi niềm hoài cổ trong đô thị ngày nay, có hay không thật ra chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống hiện đại đang phát triển.

Tôi không hoài niệm rau khúc (đâu có ký ức gì về nó!). Tôi đi tìm rau khúc vì lý do thực tế hơn.

Chúng ta đang sống ở thời thông tin Internet. Tôi tra Google “rau khúc” ra cái tên khoa học Gnaphalium affine D. Don. Tôi lần theo cái tên khoa học thì gặp vô số website chữ Hoa, chữ Nhật, chữ Hàn, chữ Anh. Thì ra nó rất phổ biến ở các nước Đông Á. Ở Nhật người ta có tục ăn cháo bảy thứ rau trong đó có rau khúc vào ngày bảy tháng giêng để có sức khỏe trong năm mới.

Ở Đài Loan có món bánh ngon làm bằng rau khúc mọc trên vùng núi Alisan gần gần giống bánh khúc ở Việt Nam: lá khúc giã nhuyễn trộn bột nếp bọc nhưn rồi hấp chín, chỉ khác là không có xôi bọc quanh bánh. Ở các nước Đông Á rau khúc còn hiện diện trong bữa ăn như rau luộc, và dùng trong ngành y dược dân tộc như một cây thuốc phổ thông trị cảm mạo ho trướng mụn nhọt thông thường. Nói chung rau khúc vẫn sống hồn nhiên ở đâu đó chứ không đến nỗi tuyệt chủng để mà thương tiếc nhớ nhung.

Thật ra rau khúc mọc... khắp nơi trên thế giới, ngay cả ở Mỹ. Mà ở Mỹ thì rau khúc bị coi là cỏ, có tên là cudweed. Hồi mười năm trước, thuở mới theo chồng về ở xứ Bellingham này, mùa xuân nhìn từ cửa sổ nhà bếp ra góc vườn thấy một giề xanh xanh vàng vàng, chồng bảo đó là cudweed, một thứ cỏ dại mọc lan rất nhanh và rất khó diệt. Nên tôi đã tận lực nhổ bỏ. Mấy năm sau chúng mọc lại thưa thớt, tôi cũng nhổ sạch bách. Bây giờ thì trong vườn chẳng còn cọng cudweed nào nữa.

Thấy tôi buồn, ông chồng hứa xuân sang sẽ chở tôi ra đồng, tha hồ hái hoặc bứng về trồng lại trong vườn. A phải rồi! Dù là cỏ dại hay rau tự mọc hoang ngoài đồng mình vẫn có thể trồng được.

Thậm chí trồng còn tốt hơn. Nhớ rau càng cua, rau đắng đất, rau dền dại, rau cải trời... những thứ ngày xưa là rau dại mọc hoang trong vườn nhà ngoại tôi, chẳng ai trồng cũng chẳng ai bán mua gì chúng. Rồi bỗng dưng Sài Gòn thịnh mốt ăn gỏi rau càng cua, cháo cá rau đắng đất... những món được liệt vào hàng đặc sản trong thực đơn nhà hàng cao cấp.

Vậy là các chợ Sài Gòn, cả siêu thị, hè nhau bày bán rau càng cua, rau đắng... Hái hết rau dại thì người ta trồng, có cầu thì có cung. Xuân này tôi sẽ bứng cudweed về trồng, xuân sau tôi sẽ hái một mớ đem về xóm cũ làm quà cho cháu ngoại “bà Bắc kỳ” bán xôi khúc ngày xưa...

Lý Lan 

Hương tầm khúc
Bàn tay mẹ khéo léo,
Làm nên bánh khúc xưa....
Nhớ cánh đồng rau khúc,
Thương biết mấy cho vừa ?

Lui cui bên bếp lửa,
Củi chẻ đun liu riu...
Thương mẹ bóng xế chiều,
Thương mẹ thân cô liêu...

Hun hút phố dài đêm thinh lặng
Bổng trầm hương khúc thoảng đâu đây
Tôi khóc nhớ ngày thơ ngây ấy,
Mùi hương tầm khúc thoang thoảng bay?!!
NM
 

‘Tôi khóc những cánh đồng rau khúc’*

“Không có gì cho tôi khóc sớm nay ngoài cánh đồng rau khúc Sương dâng hương chõ xôi cuối của bà tôi...”

Đó là câu mở đầu bài thơ của bạn tôi viết mười lăm năm trước. Mười lăm năm cảnh báo về sự mòn xói, tiêu biến một giá trị văn hóa thuần Việt, được hình thành theo bao số phận người nông dân từ núi qua trung châu tới đồng bằng sông Hồng.

Giờ ngẫm càng thấm, vì tôi cũng có cánh đồng tầm khúc của riêng mình, có bánh khúc mẹ làm mỗi độ mùa sang. Ăn bánh khúc hái rau tầm khúc. Ngọn rau đồng chiếc bánh quê, những thức thân thuộc đến mức trơ lỳ rồi thành xa lạ; tới một ngày ta theo thói quen với tay ới gọi, thì mới bần thần ngơ ngác nhận ra xung quanh chỉ là khoảng trống của đêm đen.

Mỗi sớm mai se sẽ hơi may hay đêm khuya xa lạnh nhức tiếng rao của người bán dạo ấm áp, đơn độc đủ xuyên qua những bức tường rêu những cánh cửa khép chặt mà các chủ nhà hay gia nhân đang thiu ngủ bỗng choàng tỉnh.

“Khúc đơ…ơ ơ ơ. Bánh khúc lóng đơ …ơ ơ ơ”

Những chiếc bánh khúc nóng hổi của người bán dạo kéo tôi về một thời tuổi thơ nơi cố hương. Ảnh minh họa: Internet.

Thoáng nghe thực khách đã biết cần phải ra đón hay là chờ một tiếng rao khác. Bởi nó là thứ âm thanh chứng nhận xuất xứ của bánh khúc.

Ai người Hà Nội ai người phố thị dọc mấy triền sông xứ Bắc đã mấy quên hình ảnh gã nông phu từ quần dải rút dép lốp đến quần bộ đội vá mông vá gối, giày vải lòi ngón chân út, so vai rụt cổ lầm lũi đội đầu chiếc thúng đại đan cật tre xông khói rơm. Gã chuyển động bền bỉ tự tin như trên luống cày, hai tay bơi gió lạnh, chiếc thúng đu đưa theo nhịp bước.

Tiếng kẹt cửa mơ hồ hay âm tiết cuối rơi tõm sau lưng. Chỉ bằng trực giác, gã bánh khúc cũng phân biệt được đâu là âm thanh níu giữ. Xoay người như nghệ sỹ xiếc, thoắt, gã đã đứng trước mặt ta, nhún thân, hạ người nửa quỳ nửa ngồi đỡ chiếc thúng trên gối.

Câm lặng và âm u, chỉ đôi bàn tay thô nhám như cành khô bỗng uyển chuyển, gợi đến miền thành kính. Gã trịnh trọng mở năm tầng bảy lớp lá chuối khô, đậy vài lượt vải buồm lá cói khui ra và nâng niu chiếc bánh khúc sáng mờ khói ấm. Cùng lúc mùi ngon bồn chồn dâng lên. Bởi mùi bánh khúc nóng là cái mùi đa sắc của mấy loại sản vật tươi mới kết hợp với nhau nhuần dịu được gieo trồng nâng đỡ trên cùng một cánh đồng. Một mùi thơm ngậm ngùi liên tưởng đến bao nhiêu vùng miền…

Hấp tấp hai lòng tay chao chuyền chiếc bánh rau tầm khúc nóng giãy, vừa đợi nhận lại tiền lẻ, ta vừa tìm cách cắn ngay một miếng cho bõ thèm. Giời ạ, một cái rùng mình vì nóng và…vì vị ngon hư thực bâng khuâng. Miếng tiếp theo, hay tiếp theo nữa, miếng nào cũng hấp tấp như là miếng đầu tiên của chiếc bánh đầu tiên. Dù có đang khuya lạnh, khoan khoái ta bỗng thấy cả cánh đồng xanh, cả cơn mưa Giêng Hai tắm lộc, và bóng hình cô bé hàng xóm bê rổ ngang lưng bước nghiêng nghiêng đi kiếm hái rau tầm…

Gã bánh khúc chờ ta nuốt xong miếng bánh mỉm cười viên mãn.

Mùa bánh khúc của năm bắt đầu khi cữ gặt tháng Mười. Ấy là lúc hạt rau tầm âm thầm bật mầm dưới gốc lúa chân ruộng cao hay cánh bãi trồng màu khô ẩm. Ngô lúa vào bồ, lẫm chưa ấm chỗ thì nơi chân rạ gốc ngô, giữa vạt rau má lá tròn, lá gai và rau xương cá xanh mướt là những lan man tầm khúc nếp phủ dày lông tơ sáng mịn xôm xốp đeo long lanh những hạt cườm sương mới nơi chấm hoa li li vàng màu cúc.

Một mùi thơm hắc ngọt, trầm dịu la đà khi có khi không trước cảm giác kéo lơ lửng qua suốt thì Tết tới Giêng Hai. Mùa rau tầm khúc.

Háo hức những bàn chân trần tấy đỏ, ướt lạnh tung bước xua châu chấu cào cào xập xè trong chuỗi cười giòn như chuông pha lê. Ấy là mỗi sớm mai lũ trẻ làng đi kiếm rau tầm…

Sương giăng loang, mỗi khi giẫm lên mùn chuột đào hang, tôi rùng mình vì cái cảm giác lạnh nhột nơi gan bàn chân, nhưng không bớt đi sự hung hăng chạy lên phía trước xí phần những khoảng mặt ruộng sáng trắng. Chỗ nào càng sáng thì rau tầm khúc mọc càng nhiều.

Và tôi, học đến lớp năm mà vẫn phải để cho “con bé lớp ba” giảng thế nào là tầm khúc nếp, tầm khúc tẻ. Bài học ấy đận nào tôi cũng lẩm nhẩm nhập tâm, vậy mà thứ tôi kiếm về bao giờ mẹ cũng lựa bỏ hơn nửa là tầm khúc tẻ. Tiu nghỉu bỏ đi, tôi vẫn còn kịp nghe “con bé lớp ba “ trong lúc phụ giúp nhặt thóc, lựa sạn ngâm gạo xôi, phân bua với mẹ rằng cháu đã bảo anh í là khúc nếp lá nhỏ, phiến dày, đốt ngắn cành mau và thơm nưng nức í.

Đã thành lệ mấy chục năm cứ đầu mùa rau tầm nhà tôi làm hai chõ bánh khúc tân, biếu mấy người bạn thâm giao của ông nội thuở học trường Bưởi và để cả nhà thưởng thức. Lệ biếu bánh khúc, được mẹ giữ nếp ngay cả khi ông nội mất.

Cho đến bây giờ tôi vẫn cảm được sự tất bật lo lắng và cả thành kính khi mẹ xoay xỏa cho đủ những thức ưng ý giữa thời gạo hẩm mắm khem. Mẹ nhờ người này, nói khó người kia mua cho kỳ được gạo nếp cái hoa vàng Hưng Yên, gạo tẻ Thượng Bằng La - Nghĩa Lộ, mật mía de Tuyên Quang, đỗ xanh, vừng, lạc nhân Nghệ An, cùi dừa tươi Thanh Hóa, thịt ba chỉ lợn ỉ Hòa Bình, hành hoa trồng đất cát. Cối đá xanh Ninh Vân và chày gỗ nhãn…

Gương mặt mẹ rạng rỡ sắm nắm thứ này, nhấc đặt thức kia. Mẹ dạy rằng, bánh khúc là thứ bánh bình dân, ai cũng làm được, ai ăn cũng hợp nhưng để nó trở thành quý phái, sang trọng, ngoài tay nghề tinh tế thì nguyên liệu tươi ngon giữ vị đứng đầu. Và nữa…mẹ thì thào, mình phải thương yêu những chiếc bánh khúc mình làm con ạ.

Chọn gạo nếp cái hoa vàng Hưng Yên vì nó được trồng ở nơi hồ ao nuôi cá một vụ, cây lúa chỉ dùng màu mỡ tự nhiên. Gạo tẻ của giống lúa gié Nghĩa Lộ sinh trưởng dài ngày ở miền núi, bột xay mát mịn, khi kết hợp với bột gạo nếp sẽ được phần thịt bánh dẻo mềm đàn hồi.

Mía de Tuyên Quang thơm thanh ngọt dịu nhờ chất đất đá vôi. Dừa, lạc nhân, vừng miền Trung bùi đậm có hậu là do ở nơi thời tiết hai miền khắc nghiệt giao tranh. Lợn ỉ vốn là giống lợn nhiều mỡ, nên thịt ba chỉ làm nhân không ngấy mà còn thơm chẳng kém bơ Pháp. Hành hoa đất cát thì xanh giòn, ít hăng cay. Cối Ninh Vân lỳ mặt giã nhiều không bị thôi bột đá, chày gỗ nhãn dai bền không tiết chất độc,…

Bánh khúc bây giờ tuy nhìn đẹp mắt nhưng không còn giữ được vị thơm ngon như ngày xưa. Ảnh minh họa: Internet.

A, còn điều quan trọng: dụng cụ hấp bánh. Chõ đồ nếu có “hông” làm bằng gỗ dái khỉ, một thứ cây thuộc họ sung của người Mường Hòa Bình thì hợp nhất. Lựa chọn thứ hai được chấm cho chõ gốm Hương Canh. Nhưng chõ gốm phải luộc kỹ trong nước chè xanh đậm đặc vài lần, ngâm suốt tuần. Nồi chưng hơi nước dùng đồ gang mới tránh được vị tanh kim loại.

Tôi không thể nào rời mắt mỗi khi mẹ làm bánh khúc. Hình như mẹ đang tiến hành những thao tác của một nghi lễ trang trọng. Mẹ mặc chiếc áo phin nõn nâu non mới, tóc quấn cao sau gáy thơm mùi bồ kết, gian bếp gạch bát đỏ son sáng rỡ. Chiếc nia cật tre ngả màu cánh gián óng ả. Bột rau tầm lọc xơ tỏa khói, bột nếp khô trắng ngời ngợi, đỗ xanh đồ vàng mơ, nào làm nhân mặn, nào dành nhân ngọt, thịt lợn ba chỉ thái hạt lựu, xào cháy cạnh, hành hoa, hạt tiêu đen,…

Cũng là bột ấy, cũng là rau tầm đồ lọc xơ ấy dưới tay mẹ nhồi mươi phút đã là thứ bột xanh ngọc lóng lánh thơm ngẩn tưởng có thể ăn vụng. Mỗi lẫn miết nhón vào khối bột vẩy cổ tay nghiêng xuống mặt nia mẹ đã lẩy ra được một phôi bánh. Những phôi bánh xếp hàng trông như bầy ốc bươu ăn mỡ, mười chiếc bằng nhau cả mười.

Chỉ bằng uớc lượng và cảm giác, mẹ kết hợp các nguyên liệu hỗn độn cho đến khi xếp bánh là vừa khít trong chõ đồ. Không thừa không thiếu đến một cọng hành, mảnh lạc, hạt vừng…

Vạn vật được hun đúc bởi ngũ hành nên nghệ thuật dùng lửa sao cho bánh không hấy, không nồng, gạo nếp bao se bóng, mặt bánh căng, nền bánh giữ được màu xanh nguyên thủy của rau tầm. Khi cắn miếng bánh nhỏ nhẹ nhai và ngẫm nghĩ thì ngay cả với người không mấy sành vẫn nhận ra mùi vị của từng thức, dù đó là nhân mặn hay nhân ngọt.

Đầu vị mùi rau tầm ẩn tàng trong mùi nếp cái hoa vàng, tiếp là đậu xanh…nữa là…thôi tôi không dám nữa, kể thêm chỉ những nặng lòng.

Xưa ăn miếng bánh khúc tôi nào nhận ra có bao nhiêu sự kỳ công của mẹ. Khép cửa tránh gió tạt, mẹ ngồi lui cui bên hỏa lò, củi chẻ đun liu riu, ngọn lửa bùng loang vừa kín đáy nồi. Mồ hôi cũng loang trên trán, thi thoảng mẹ âu yếm đặt tay lên nắp vung lót lá chuối tươi, như lắng nghe tiếng nói của những chiếc bánh. Mẹ ru rín và cưng nựng chúng như là sắp sửa hát cho chúng nghe. Cữ mười lăm phút lại rút củi, dập lửa hai phút. Trầm ngâm.

Một tiếng sau cánh của bếp mở, mẹ ngân nga gọi tôi lấy chiếc hộp sơn mài cốt tre màu đỏ tịm, chiếc làn tre hình giỏ ấm lót bông gòn trong ngăn bên phải tủ chè.

Bốn chiếc bánh đầu tiên xếp trong hộp sơn mài, mẹ bưng lên nhà trên mời ông nội. Hai chục chiếc trong làn giỏ ấm gửi tàu thủy rời bến Trung Hà giữa chiều sẽ cập bến Phà Đen lúc tám giờ tối. Ở đó người ta đã biết chuyển món quà nóng hổi đến con phố nào.

Ông nội mất, nhưng bạn đồng niên của ông một hai người còn ở lại. Mẹ vẫn giữ lệ gửi quà bánh khúc xuôi Hà Nội, cho đến một ngày không còn lý do để làm việc ấy nữa. Chiếc làn giỏ gửi đi lại nhận về nguyên dấu…

Mẹ thắp hương cho ông nội.

Chiếc làn giỏ ấm được mẹ treo trên xà gỗ xoan trước hiên nhà.

Tôi lớn lên qua những mùa bánh khúc mặc nhiên thụ hưởng mà không hay đằng sau mỗi miếng bánh là cả một thế giới ngậm ngùi.

Đi lính, rời xa mẹ biết nhiều hơn và tôi buồn cũng nhiều hơn, dù Đông hay Đoài, hễ nơi nào sông qua, suối chảy, đất phù sa lắm mùn ẩm mà khô thoáng là có rau tầm khúc mọc mỗi định mùa.

Đâu đó những ngôi làng ven phố thị tôi gặp những mẹ những em bước qua đã tần ngần thơm mùi bánh khúc ngang chiều. Bánh khúc Yên Bái, Hưng Yên, Vĩnh Yên, Hà Tây, Kinh Bắc, Phú Thọ; và những chiếc bánh khúc bon chen lênh đênh ngõ đêm Hà Nội đều cho tôi hồi nhớ về tuổi thơ trên cố hương.

Những cánh đồng rau khúc giờ chỉ còn là kỷ niệm của một thời tuổi thơ êm đẹp gắn với hình ảnh của mẹ và …“người ta”. Ảnh minh họa: Internet

Sương khói, tôi nhớ dáng mẹ nhồi bột khô với rau tầm đầu vụ, nhớ đôi mắt “con bé lớp ba” một ngày thành thiếu nữ. Chẳng có chiếc bánh khúc nào ngon bằng chiếc bánh mẹ làm. Chẳng có chiếc bánh khúc nào thơm bằng chiếc bánh khúc tôi nhận được từ cô gái cố hương bên khóm chuối ba hương đêm rằm tháng Giêng.

Thi thoảng tôi trở về đằm mình trong ký ức.

Thiếu nữ, học ngành cơ khí, rồi bỏ việc ở công trường thủy điện về làm bánh khúc giao buôn. Mỗi mùa rau tầm mới, mẹ lại phàn nàn sao giống khúc nếp mỗi ngày mỗi vắng, khúc tẻ không cần thì lại mọc ê hề. Mà tầm khúc nếp hình như giờ cũng đổi hương thay vị. Hương gắt nồng và vị đắng nhiều hơn.

Che tay ngang mày, mẹ lo âu nhìn hàng rào khu công nghiệp đang tịnh tiến gần lại lũy tre làng với những cái lưỡi khói như vòi bạch tuộc phả ra mùi nồng khét.

Mẹ giục tôi nếu ưng “người ta” nên nhanh tay cưới hỏi, nếu không muốn sau này ân hận. Ậm ừ không thể rõ ràng vì xét trong tôi không rõ mình cảm mến “người ta” đến đâu. Tôi chỉ biết rằng, “người ta” với cánh đồng hái tầm khúc mỗi buổi mai thơ dại, chiếc bánh khúc mới đêm rằm tháng Giêng cũng như mẹ đã là một phần máu thịt kết trong tâm hồn lẫn thịt xương tôi.

Tôi không thể ngỏ lời, nhưng tôi cũng không muốn một ai mang “người ta” đi mất khỏi làng. Nhưng rồi một ngày kia, nàng theo người con trai bán bánh khúc dạo bằng xe máy có chiếc loa kim gắn đằng trước. Mẹ thở dài than, đời thủa nào ai lại rao bánh khúc eo éo như mèo bị giẫm phải đuôi bao giờ. Hay tin tôi đã trào nước mắt.

Bà nội và cha mẹ của nhà thơ làm những bài thơ than khóc cho những cánh đồng tàn lụi mười mấy năm về trước, những người đã làm cho nhà thơ chiếc bánh khúc đầu tiên giờ cũng đã yên nghỉ giữa một cánh đồng bên con đường sắp trải nhựa. Chẳng biết mùa này nơi đó rau tầm khúc có mọc hay chỉ còn những lùm dứa dại.

Và Tôi lại nhớ đến những câu thơ của bạn.

Tôi khóc những mùa rau khúc thiêng liêng phủ đầy mưa xuân như phủ đầy cám nếp.

Mẹ mắt mờ chân chậm không thể ra đồng. Vả lại mẹ cũng không thể băng qua những bức tường bê tông có kẽm gai, nếu có lối ra đồng thì chắc gì kiếm được rau tầm khúc.

Hun hút ngõ phố dài đêm thinh lặng.

Cung bổng cung trầm bánh khúc rao biết đang vang lên ở đâu.

Vợ chồng “người ta” đã có nhà xây mặt phố. Bánh khúc bán quanh năm. Chõ i-nốc đồ bánh sáng choang. Máy xay chạy điện thay cho cối đá Ninh Vân. Ở quê đồn rằng nhà ấy “tuyền” bán thứ bánh khúc su hào, rau diếp và lấy vị bằng rau tầm khúc tẻ phơi khô.

Biết vậy nhưng chưa bao giờ tôi có gan tìm đến. Phải chăng tôi cũng là người có lỗi. Tự an ủi, tôi thầm đọc những câu thơ của bạn trùng khít thời gian Kim - Kiều ly biệt:

Tôi khóc những mùa rau khúc, tôi đã thiếp đi trên miếng bánh của mình.

Tôi khóc em của tôi mười mấy năm vẫn còn ngơ ngác

Trước câu hỏi vì sao tôi ra đi ngày rau khúc chưa tàn…**

Và trong hương thơm của mùa rau khúc tháng Giêng Hai, trong tiếng rao đêm ngai ngái như ở tận chân trời, tôi bỗng rùng mình nhớ về những người thân yêu và những điều thiêng liêng đã làm nên ý nghĩa duy nhất của đời sống chúng ta đang lần lượt ra đi không có ngày trở lại...

Ăn bánh khúc hái rau tầm khúc. 

Nguyễn Tham Thiện Kế

Tháng 8 - 2007

Rau khúc năm này còn mọc triền sông?

Không hiểu sao thứ gì “nếp” cũng hiếm hơn, đặc biệt hơn, ngon lành hơn thứ “tẻ”, như gạo nếp – gạo tẻ, ngô nếp – ngô tẻ, rau cải cúc nếp – cúc tẻ, sung nếp – sung tẻ…, mà rau khúc thì ngược lại. Làm bánh khúc thì phải là khúc tẻ mới thơm, mới ngon.

​Nhưng vườn nhà tôi chỉ mọc đầy khúc nếp.Mơn mởn xanh. Sớm mùa đông sương còn mờ đục, hơi nước đọng mờ những búp lá non tơ, sự tươi tắn rỡ ràng ấy khiến ta thấy mình nở bừng một niềm phấn chấn.

​Bánh khúc lười nhác của thời hiện đại mà tôi làm chiều nay ở một nơi rau khúc chỉ là thứ rau dành cho… lợn ăn: Bột nếp xay sẵn đóng gói bán ở siêu thị; rau khúc nếp xay nhuyễn bằng máy xay sinh tố. Và trong khi ăn thứ bánh tàm tạm có hơi hướng bánh khúc ấy, tôi tự cho phép mình nhớ nhung đồng bãi sông Hồng.

​Bây giờ thì bói không ra một cây khúc tẻ nơi bãi sông Hồng trước cửa nhà tôi. Thảng lắm thì gặp đôi cây khúc nếp. Sông Hồng nhiều năm rồi không còn lũ về bồi đắp phù sa cho bờ bãi. Mùa tháng sáu tháng bảy mà nước sông cứ trong veo vẻo màu vàng nhờ nhợ, vắng những hạt phù sa vẩn đặc quánh đến đỏ sậm cả dòng nước. Rác thì nhiều vô biên dạt vào hai bờ. Lau sậy được đà lấn ra tận mép nước. Không còn nơi cho cải trời, cho rau muối, rau khúc và cơ man cây cỏ đua nhau đâm mầm, nở những bông hoa vàng hoa đỏ hoa trắng nên thơ mỗi mùa mưa phùn rây bụi.

​Những năm xa Hà Nội, mẹ tôi hay nhớ về bánh khúc. Mẹ kể nhiều đến nỗi tôi tưởng như những hình ảnh đó thuộc về ký ức của mình: những đêm mùa đông gió bấc vi vút lùa qua phố vắng, một người bánh rong cất tiếng rao khuya “Khúc ơ…”. Ủ chiếc bánh nóng hôi hổi giữa đôi tay lạnh cóng, hít hà mùi thơm ngon lành tỏa nhẹ trong gió buốt…

​Khi lần đầu mua một chiếc bánh khúc ở Hà Nội, tôi ngỡ ngàng tự hỏi có phải mẹ nhớ nhầm về món bánh khúc hay không? Bởi rất nhiều xôi phủ quanh chiếc bánh nhỏ xíu. Và tôi tự mặc định rằng nên gọi đó là xôi khúc nhỉ! Rồi tôi lại thắc mắc: Rau khúc chỉ mọc mùa xuân, sao Hà Nội bán bánh khúc quanh năm? Người ta giải thích rằng rau khúc được phơi khô để dành. Tôi tin thế, và chăm chỉ mua bánh khúc – xôi khúc. Người Hà Nội chọn được những hạt nếp no tròn, đồ ra những hạt xôi bóng như hạt ngọc, rất ngon mắt, và ngon miệng. Đó là một món quà sáng, quà chiều quá ư tiện, rẻ, và ngon lành. Những hạt xôi ngon một cách thực lòng. Nhưng tôi không thể tìm thấy mùi hương đặc biệt trong món bánh khúc của mẹ ở đó. Và tôi nghĩ những thúng bánh khúc trong đêm mùa đông của mẹ đã được nhân độ luyến nhớ lên nhiều lần trong ký ức của người xa xứ.

​Nhưng hóa ra tôi đã nhầm.

​Hóa ra có món bánh khúc thật sự là bánh.

​Tôi sẽ không biết điều đó nếu không có một cái tết rét đến tê tái. Chúng tôi lên đò ngang sông, ra bãi giữa sông Hồng để thưởng thức cái rét. Và lạc vào một vạt rau khúc nhiều đến mênh mông.Nơi con lạch trũng xuống giữa bãi sông, nước lũ rút đi, qua mùa đông, mọc lên một triền cỏ thấp xanh rì. Nổi trên nền xanh của cỏ là những cây rau khúc tẻ mảnh dẻ phủ đầy thân lá lớp lông tơ xám bạc đang nở những bông hoa vàng nhỏ nhắn. Một niềm vui trẻ thơ tràn đến, như khi ta nhặt được đồng xu ai đánh rơi, và nghĩ ngay tới một thanh kẹo kéo ngọt ngào đang chờ đợi.

Hái rau khúc tẻ thật là công việc cần đến sự kiên nhẫn. Vì những cây khúc tẻ thân gầy guộc đâm ra những cái lá nhỏ xíu. Chẳng bù cho bọn khúc nếp, cây nào ra cây ấy, to đùng, mỡ màng, non mềm.
Làm bánh khúc cũng là công việc cần đến sự kiên nhẫn. Nhặt bỏ phần gốc già. Rồi luộc. Rồi vắt kiệt nước, cho rau vào cối giã. Cũng lạ. Thứ rau ấy càng giã càng dẻo, quánh lại thành một khối.Tỉ mẩn nhặt những mẩu xương cây già bỏ đi.Càng lạ. Khi luộc thì rau khúc tỏa ra mùi ngai ngái như mùi… rau nấu cho lợn! Nhưng khi trộn nắm rau đã giã dẻo vào bột nếp, nhào nhuyễn, thì khối bột xanh sậm bắt đầu tỏa hương thơm dìu dịu.Đậu xanh và thịt lợn làm nhân, với nhiều nhiều hạt tiêu để mùi nhân dậy lên. Bắt những chiếc bánh nho nhỏ, lăn qua gạo nếp đã ngâm mềm để gạo bao một lớp ngoài vỏ bánh. Rắc thêm một lớp gạo nếp mỏng giữa những lớp bánh để bánh không dính vào nhau. Bắc chõ lên bếp.

Và chờ.

Chờ đến khi những hạt mùi hương bánh khúc bay theo làn hơi nước qua kẽ vung.

Lần đầu tiên tôi được hít hà mùi thơm của bánh khúc. Nhẹ nhàng lẩn vào mùi gạo nếp và mùi thịt, mùi hạt tiêu là một mùi hương khó gọi thành tên, dịu dàng, thanh, hơi ngòn ngọt như mùi cỏ khô nơi đồng bãi.

Và món ăn đó được gọi là bánh khúc, bởi nó đúng là chiếc bánh. Bánh khúc. Chứ không phải xôi khúc. Bánh là phần chính chứ không phải xôi là phần chính. Thớ bánh dẻo, dai, bởi muôn vàn sợi rau từ lá, từ vỏ thân, từ những bông hoa kết dính với bột nếp. Buổi tết ấy, khi nhón chiếc bánh khúc được làm từ những cây rau khúc hái trên bãi giữa sông Hồng, tôi không còn nghi ngờ ký ức của mẹ, và cũng thôi băn khoăn về những chiếc bánh khúc – xôi khúc vẫn bán quanh năm ngoài phố.

Sau này, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn lên thuyền qua sông, mong tìm được vạt rau khúc tẻ như năm xưa. Nhưng rau khúc trên bãi sông đã thành ký ức. Lạc đâu đó còn vài bụi khúc tẻ nhỏ nhoi màu xám bạc, chỉ đủ để gợi nhớ về mùi hương ngọt ngào của dĩ vãng mới đây thôi mà như đã xa xăm quá. Một lần, lạc trong những chân ruộng cạn tận miền núi Mường Khương (Lào Cai), tôi bần thần ngắm những cây rau khúc mảnh dẻ thân thương của mình. Cái màu bạc không thể lẫn, cứ nổi bật lên khi xung quanh toàn là cỏ xanh. Nhưng ở đó người ta không hái rau khúc để làm bánh. Những cây rau khúc mọc lên, nở hoa, rồi lụi tàn, chờ đợi mùa xuân sau.

Tôi chưa từng thấy bánh khúc ở đâu, ngoài Hà Nội. Miền Nam có xôi cúc. Ngày xưa, khi nghe niềm nhớ nhung bánh khúc của mẹ, tôi từng nghĩ đó là món xôi cúc, bởi cũng chiếc bánh bằng bột nếp bao lấy nhân đậu xanh và thịt, ủ giữa những hạt xôi. Biết đâu từng có những người cũng như mẹ tôi, nhớ nhung chiếc bánh khúc nóng hổi ủ giữa ngày đông Hà Nội, mà làm nên món xôi cúc ấy. Xôi cúc, biết đâu là tiếng gọi trại của xôi khúc.Vì rau khúc, tôi biết có nơi gọi là rau cúc. Tôi đã nhiều lần mua cho mẹ món xôi cúc ấy, ăn như ăn một niềm nhớ, dù có đôi chút thất vọng về vị giác, bù lại, mẹ tôi được thêm một lần thức dậy trí nhớ của mình. Niềm luyến nhớ của những người xa xứ hình như cũng tạo nên một trường năng lượng tốt lành, không chỉ bồi đắp cho tâm hồn người đó mà cho cả những người xung quanh.

Tôi khoe chiếc bánh khúc “công nghiệp” của mình với người Hà Nội. Chị bật cười khi nghe đoạn tôi cho rau khúc vào máy xay sinh tố. Rau khúc mà không giã thì làm sao còn được những sợi xơ? Nhưng vẫn còn niềm an ủi rằng thì rau khúc nếp dù sao cũng vẫn là rau khúc chứ không phải lá cải bắp già! Rau khúc nếp mà xay nhuyễn thì cũng đỡ tệ hơn lá cải bắp già xay nhuyễn! Khi không có nhiều lựa chọn, thì đành phải chọn cái điều ít tệ hơn vậy.

Tôi nhớ bánh khúc. Cháu gái tôi cũng nhớ bánh khúc. Nó bảo: Lâu quá rồi...

Thành ra bây giờ vạt rau khúc xám bạc nở những bông hoa vàng nhỏ nhắn trên bãi sông rét mướt lại trở thành ký ức, thành niềm luyến nhớ êm dịu của tôi.

Phượng